HT. Thích Thiện Hoa
Những
lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích Ca thì tùy theo căn cơ
của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền thiệt hay là Hiển
giáo.
Kinh
chép: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương", nghĩa
là: nếu ai ba nghiệp chướng thanh tịnh thì được về Tây phương đồng ở với
Phật.
Trì
chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú vãng sanh sẽ nhổ sạch hết gốc rễ
của nghiệp chướng và được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng
căn bản, đắc sanh Tịnh độ Ðà la ni); trì chú Lăng nghiêm sẽ được tiêu
trừ các oan gia nghiêp chướng và tình ái dục nặng nề từ nhiều kiếp
trước, như ông A Nan và bà Ma Ðăng Già (xin quý vị xem quyển Ðại cương
Lăng nghiêm về đoạn nói lợi ích trì chú Lăng nghiêm); trì chú Phổ am sẽ
tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch;
trì Ngũ bộ chú hay Ðại bi thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm
hành giả cầu như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.
I. Duyên Khởi Lập Tôn
Tôn
này thuộc về Ðại thừa, thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai (Tì Lô Giá Na) làm giáo
chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh, kế thừa pháp
mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật
Tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).
Ngài
Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài Long Thọ truyền cho Ngài
Long Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô Úy Tam tạng và Ngài
Kim Cang Trí Tam tạng.
Vào đầu đời Ðường, hai Ngài Vô Úy và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn.
Ngài
Vô Úy truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh Thiền sư sớ
thích kinh Ðại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ rệt ở Trung
Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không Tam
tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ Quả
truyền cho Ngài Không Hải là một Ðại sư người Nhật. Ngài Không Hải về
sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.
Mật tôn có nhiều phái:
a) Mật tôn ở Trung Hoa;
b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Ðông mật;
c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng Mật.
Kinh
điển của Mật tôn. Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh
Đại Nhật và kinh Kim Cang Ðảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du
ký và Yếu lược niêm tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.
Ðức
Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở
đoạn đầu, Tôn này thờ Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo
chủ và Ngài Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Ðỏa) bằng phương
pháp quán đảnh đã nhận lãnh pháp mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai để
truyền thừa Tôn này.
Nhưng Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào?
Như chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1.
Pháp Thân, hay từ tánh thân là pháp giới chơn tịnh của các đức Như Lai,
làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp Thân tức là thể tánh
thân tịnh có đầy đủ công đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các pháp.
2. Bảo Thân, hay thọ dụng thân, là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành trải qua ba đại kiếp mà được.
3.
Ứng Thân, hay biến hóa thân, là thân chư Phật do trí thành sở tác mà
biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa
độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng thân của Phật trong cõi Ta bà này. Vậy
đại Nhựt Như Lai (hay Tỳ Lô Giá Na), không phải là đức Phật Thích Ca như
một số người lầm tưởng, mà chính là pháp thân Phật.
Theo
các tôn phái khác thì pháp thân không có hình tướng, không thuyết pháp
chỉ báo thân và ứng thân, như đức Phật Thích Ca mới có hình tướng và nói
pháp.
Theo Mật tôn thì có chia ra làm hai loại giáo pháp; Hiển giáo và Mật giáo.
Những
lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích Ca thì tùy theo căn cơ
của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền thiệt hay là Hiển
giáo.
Còn
Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà chỉ những vị đại Bồ
tát, nhờ trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, họ lãnh được của pháp thân
Phật, như Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp
mầu nhiệm của Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na).
Tóm
lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị Giáo chủ bí mật là Ðức Ðại Nhựt Như
Lai, (hay pháp thân Phật). Còn vị sơ tổ của tôn này là Ngài Bồ tát Kim
Cang Tát Đỏa là vị Bồ tát đã chép lại kinh Ðại Nhựt và kinh Kim Cang
Ðảnh.
II. Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản.
1.
Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật thể của vũ trụ. Lục
đại là: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại.
Lục đại là bản nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu
xuất ra).
Trong
lục đại thì năm đại trước thuộc về vật, đại cuối cùng (thức đại) thuộc
về tâm. Sau đại này mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại, thâu nhiếp
lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.
Lục đại bao hàm 3 phương diện :
Thể đại, tức là bản thể chung cùng của vũ trụ;
Tướng đại, tức là hình tướng của sự vật và chúng sanh
Dụng đại, tức là ngôn ngữ, động tác, công dụng của mỗi sự vật.
Vũ trụ vạn hữu không có cái gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại.
Thể,
tướng, dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẽ ra như thế để dễ quán
sát; chứ thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại
riêng rẽ được. Ngoài thể đại, thì tướng đại và dụng đại cũng không thể
có được; ngoài tướng đại thì thể đại và dụng đại cũng không thể có được.
Vì vậy xét một phương diện thì rõ được cả ba.
Như
chúng ta đã thấy ở đoạn trên: sáu đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau,
và ba phương diện: thể, tướng, dụng cũng không thể rời nhau, nên vũ trụ
vạn hữu, mặc dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có lý dung
thông vô ngại, châu biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn
như. Lý tánh hay chơn như là nồng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự
tướng, thì chơn như hay lý tánh cũng không thể biểu dương được. Lý tánh
và sự tướng là hai khía cạnh tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có
lý tức có sự, có sự tức có lý. Lý tánh của vũ trụ vạn hữu cũng tức là
Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có trong mọi chúng sanh, trong mọi
hình thức.
Muốn
chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như, trước tiên phải quan sát
sự tướng, sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây tức là bốn Mạn trà
la.
2.
Bốn Mạn trà la: Mạn trà la nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn không
lường. Bốn pháp Mạn trà la, hay gọi tứ Mạn tưởng đại, là bốn tướng rộng
lớn, đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn trà la
là:
Đại
Mạn trà la, nghĩa rộng là thân của các loài hữu tình trong mười pháp
giới, là sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, các sắc tướng của môn pháp
trong vũ trụ, y theo lục đại mà hiện.
Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật, Bồ tát được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ,v.v...
Tam
muội gia Mạn trà la, nghĩa rộng là hết thải các cơ khí trong vũ trụ,
những vật dụng thường ngày của chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc
tánh riêng biệt của mỗi pháp, núi, sông, cây cỏ,...nghĩa hẹp là chỉ
những vật mà Phật và Bồ tát thường cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành
dương liễu để tiêu biểu cho lời thề nguyện hay cái đặc tánh thù thắng
riêng của quý Ngài trong việc cứu độ chúng sanh.
Pháp
Mạn trà la, nghĩa rộng là hết thảy âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên
gọi, ký hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn
ngôn của các đức Phật hay Bồ tát. Chủng tử ở đây tức là chữ cái. Chữ
tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Ðại Nhựt
Như Lai (đọc là A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc là Hùm). Còn
chơn ngôn tức là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn
nghĩa trong các kinh điển.
Yết
ma Mạn trà la: Yết ma là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của
Yết ma Mạn trà la là chỉ cho hết thảy động tác của chúng sanh và môn
vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ
tát để làm các sự nghiệp độ sinh.
Bốn
Mạn trà la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn trà la, tức phải có ba
Mạn trà la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ tát và chúng sanh đều có. Bốn mạn
của Phật không lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng sanh không
lìa bốn mạn của Phật. Vì thế, kinh thường gọi là bốn mạn không lìa nhau.
III. Phương Pháp Tu hành
Cũng
như các tôn phái khác trong Phật Giáo, sự tu hành của Phật tôn có hai
pyương diện: Sự và Lý, hay nói theo danh từ của Mật tôn là Giáo tướng và
Sự tướng.
Sự
tướng là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập
đàn,...Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định,
chứ không thể dùng ý riêng mà làm càn được.
''Giáo tướng'' là tất cả những ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự tướng để dạy chúng ta.
Người
tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương diện ấy,không được
thiên bỏ bên nào. Không học giáo tướng thời không lãnh hội được ý nghĩa
của sự tướng để làm cho đúng. Không học sự tướng thì hết thảy đều là nói
suông. Giáo tướng thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự
tướng thì phải có các bậc A Xà Lê, tức các vị truyền đạo của Mật tôn,
truyền cho mới biết được.
Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tôn là Tam mật.
Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân, ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mật) và ý mật.
Như
trên đã nói, chúng sanh và đức Như Lai đều có sáu đại làm thể, bốn pháp
Mạn trà la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng sanh thì thể
tướng mật. Như đức Ðại Nhựt Như Lai đều có tam pháp giới là thân mật,
hết thảy tiếng tăm là ngữ mật, cái thức lớn bao khắp tất cả là ý mật.
Còn chúng sanh, thì tay bắt ấn là thân mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ
mật, tâm chuyên vào tam ma địa (thiền định) là ý mật.
Nhưng
Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnh và nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và
ràng buộc. Vậy muốn được như Phật, phải tu hành theo phép tam mật. Nhờ
tay bắt ấn mà tịnh được thân nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được
khẩu nghiệp, trí quán tưởng đức Ðại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng,
ý nghiệp được thanh tinh. Sự tu hành tam mật có thể chia làm hai giai
đoạn lớn.
Giai
đoạn đầu gọi là tam mật gia trì. Trong giai đoạn này, sau khi hành giả
đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thì tâm thủy (tâm vắng lặng như nước
đứng yên) cả mình được ánh sáng mầu nhiệm của Ðịa Nhựt Như Lai chói rọi
vào, tức là "Gia"; Và tâm thùy minh cùng cảm chịu, thu nhận được ánh
sáng mầu nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên thì "Trì",
hai bên thừa tiếp nhau nên gọi là Tam mật gia trì.
Giai
đoạn thứ hai gọi là Tam mật du già. Khi giai đoạn Tam mật gia trì đã
thuần thục, thì ánh sáng của đưc Ðại Nhựt Như Lai là ánh sáng trong tâm
thủy của hành giả hiệp nhau (du già) không sai không khác, thì gọi là
"Tam mật du già". Ðến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã
thành tựu.
IV. Quả Vị Tu Chứng
Hành
giả sau khi đã thành tựu Tam mật hữu tướng, thông suốt được ý nghĩa mầu
nhiệm của bốn mạn Trà La, thì nhất cử, nhất động đều rập khuôn đúng
theo oai nghi của Phật, làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có
làm tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Ðó tức là vô tướng tam
mật.
Ðến
độ vô tướng tam mật thì mọi hành vi cử động đều toàn là ấn cả, hết thảy
lời nói đều là chú và chơn ngôn, hết thảy ý nghĩ đều là diệu quán cả.
Do đó mà trong kinh có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã chứng
được vô tướng tam mật: "mở miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; dơ tay
động chân, đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành".
Ðó cũng là ý nghĩa của bốn chữ "tức thân thành Phật"; nghĩa là hiện đời thành Phật.
V. Kết Luận
Sự
lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng tột cũng đồng một mục đích
như các pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thân ngồi trì chú,
tay bắt ấn, nên thân không làm các việc tội ác, vì thế mà thân nghiệp
được thân tịnh (thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói các
điều tội lỗi, vì thế mà khẩu nghiệp được thanh tịnh (ngữ mật). Tâm tưởng
chú hoặc quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng những
điều tội lỗi, vì thế nên ý nghiệp được thanh tịnh (ý mật). Kinh chép:
"Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương", nghĩa là: nếu
ai ba nghiệp chướng thanh tịnh thì được về Tây phương đồng ở với Phật.
Trì
chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú vãng sanh sẽ nhổ sạch hết gốc rễ
của nghiệp chướng và được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng
căn bản, đắc sanh Tịnh độ Ðà la ni); trì chú Lăng nghiêm sẽ được tiêu
trừ các oan gia nghiêp chướng và tình ái dục nặng nề từ nhiều kiếp
trước, như ông A Nan và bà Ma Ðăng Già (xin quý vị xem quyển Ðại cương
Lăng nghiêm về đoạn nói lợi ích trì chú Lăng nghiêm); trì chú Phổ am sẽ
tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch;
trì Ngũ bộ chú hay Ðại bi thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm
hành giả cầu như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.
(Trích Phật Học Phổ Thông)
0 Kommentare:
Post a Comment