Pages

25 December 2015

CÁC PHÁP BA LA MẬT



http://www.phathoc.net/UserImages/2010/02/07/1/bothi_5454.jpgCũng thế, ngài không bố thí kinh thành của mình cho những người có dã tâm tổn hại, làm đau khổ và gây xung đột cho cuộc đời, trái lại ngài sẽ cho đến những người sáng suốt lương thiện hộ quốc an dân bằng chánh pháp.



Một góc nhìn từ văn học Pali
Thích Thanh Hương


Luận tạng Pali (Pali atthakatha) là một bộ phận rộng lớn của văn học Pali Phật giáo. Chữ Atthakatha có nghĩa là “giải thích ý nghĩa” hay “lời chú thích, lời dẫn giải” và nó có thể được đề cập đến như các luận thư có tính cách dẫn giải về các kinh điển thuộc Tam tạng Pali. Chủ đề chính của nó, do vậy, là giải thích những thuật ngữ khó và các khái niệm trừu tượng của giáo lý xuất hiện trong các kinh điển đồng thời cho thêm những thông tin chú giải khi cần thiết.[1] Với lý do đó, Atthakatha thường được coi là bộ Bách khoa Phật học vĩ đại. Chúng ta có thể tìm thấy từ kho tàng quý báu này mọi giải thích về các thuật ngữ Phật học, các khái niệm có tính triết lý về Tam Tạng giáo điển; bởi mỗi bộ kinh trong tam tạng đều có các bộ chú giải của riêng nó.

Khái niệm Ba-la-mật không chỉ nổi tiếng đối với Phật giáo đại thừa trong mục đích hoàn thành giác ngộ mà còn được lý giải và thực hành bằng hầu như cùng một cách trong Phật Giáo Thượng Tọa Bộ đặc biệt nó liên hệ tới nền văn học Pali. Về mặt lịch sử, trong quá trình phát triển, có nhiều điểm tranh cãi và không đồng tình với nhau giữa hai truyền thống này đặc biệt khi Đại Thừa phát triển nhiều khái niệm mới như khái niệm và con đường của Bồ-tát đạo với rất nhiều phương tiện quyền xảo (upayakasalya), cái mà trông có vẻ như đi quá xa với giáo lý chánh thống của đức Phật theo trường phái Thượng Tọa bộ. Tuy vậy, người ta bảo rằng trong chính các luận thư Pali, có sự đồng tình về giáo lý giữa hai truyền thống. Do vậy, việc tìm hiểu các luận thư Pali là rất quan trọng để có thể tìm thấy những giáo nghĩa đích thực của Phật giáo giữa những sự đồng tình chung. Để hiểu thêm về luận điểm này, chúng ta hãy tìm hiểu khái niệm ba-la-mật được đề cập đến trong văn học Pali. Trong đây chúng ta sẽ dựa trên tác phẩm danh tiếng “Thanh Tịnh Đạo Luận” của ngài Phật Âm (Buddhaghosa) và cuốn “Luận Giải Về Ba-la-mật” của Bikkhu Bodhi để làm sáng lên ý nghĩa này.

2. định nghĩa Ba-la-mật trong các luận thư


Trong tiếng Pali, chữ Pāramitā có nghĩa là sự toàn vẹn, sự hoàn hảo, trạng thái cao nhất. Đó là các pháp được coi như là sự hoàn mãn hướng tới Phật quả và được mô tả trong nhiều câu chuyện Bản Sinh (Jatakas). Các câu chuyện tiền thân này nói về việc làm thế nào một vị Bồ-tát thực hành và phát triển các Ba-la-mật để hoàn thành các phẩm hạnh của ngài trong các kiếp sống quá khứ hướng đến đạo quả vô thượng bồ đề (sammasambodhi). Các Ba-la-mật, do đó, được coi là điều kiện tiên quyết cho những ai muốn trở thành một đức Phật. Trong nền văn học Pali về sau, các Ba-la-mật này đã được phân nhóm lại và được biết đến một cách phổ quát như là mười sự hoàn mãn, những pháp môn thực hành viên mãn về mười phẩm chất của một vị Bồ-tát (bodhisatta), những chúng sinh (satta) hướng tới đạo quả bồ đề (bodhi). Theo đó, vô thượng chánh đẳng chánh giác hay sự khám phá lý Tứ đế không phải một điều được thực hiện duy nhất bởi một người hay là sự kiện không thể lặp lại trong thế gian. [2] Mà nó là một sự đạt chứng mở ra đối với tất cả mọi người, những ai háo hức nỗ lực hướng đến sự thanh tịnh tuyệt đối, trí tuệ siêu việt nhất, với một ý chí không mỏi mệt đối với sự thực hành các Ba-la-mật.

Các Ba-la-mật này là : Bố Thí (Dàna), Trì Giới (Sìla), Xuất Ly (Nekkhamma), Trí Tuệ (Pannà), Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Ðịnh (Adhìtthàna), Tâm Từ (Mettà), và Tâm Xả (Upekkhà).

Các Ba-la-mật này được diễn tả chi tiết và được thực hành một cách riêng biệt bởi một vị Bồ-tát, vốn được chỉ cho chính đức Phật Cồ Đàm (Gotama) ở trong các kiếp quá khứ của mình, và chúng thường được hoàn thiện từng cái một. Mỗi câu chuyện tiền thân sẽ diễn tả về một sự thực hành đến trọn vẹn một Ba-la-mật. Tuy nhiên, trong các luận thư, từ Bồ-tát được dùng cho tất cả những hành giả và để cho rõ ràng dễ hiểu hơn, các Ba-la-mật được giải thích một cách triết lý và lô-gic hơn với nhiều góc nhìn thú vị. Đây là một đặc điểm của các luận thư trong Phật học. Ba-la-mật được hệ thống hóa với các chú thích và hướng dẫn để thực hành, nhờ đó người đọc biết được rằng bằng cách nào các Ba-la-mật được hoàn thiện và các điều kiện trợ duyên của nó. Vậy phương cách thực hành và trợ duyên của chúng như thế nào?

3. Các Ba-la-mật và Phạm Hạnh (Brahmaviharas)


Trong luận tạng, Ba-la-mật thường được gắn kết với sự thực hành các phẩm chất siêu việt (Brahmaviharas) được biết đến như là bốn tâm Vô Lượng (Sanskrit: apramana). Thanh Tịnh Đạo Luận mô tả rằng thông qua việc tu tập bốn tâm vô lượng – từ (metta), bi (karuna), hỷ (mudita) và xả (uppekkha) – người ta có thể đạt đến mười sự hoàn thiện này[3]. Luận nói, một Bồ-tát, khi quan tâm đến sự phúc lạc của các chúng sinh thì không thể chịu nổi các nỗi khổ của chúng sinh; mong muốn kéo dài các thành công mà chúng sinh đã có và không thiên vị đối với chúng sinh, ngài (1) bố thí (dāna) cho chúng sinh không với sự phân biệt so đo nào, để họ có được an vui; để tránh làm hại các chúng sinh (tesam upaghātam parivajjayantā) các ngài (2) giữ gìn giới luật (sila); (3) thực hành sự xả ly (nekkhamma) để đưa giới đến sự toàn hảo (silaparipuranattham); (4) thanh tịnh hóa trí tuệ của mình (paññampariyodapenti) với mục đích là hiểu rõ những gì có lợi lạc và bất hại đối với chúng sinh; (5) thường xuyên dấy khởi sự tinh tấn (viriyam arabhati) vì hạnh phúc và an vui của chúng sinh (sattanam hitasukhatthaya); (6) dù có trở thành các anh hùng thượng tôn của mọi người thông qua sự nỗ lực lớn, tâm ngài vẫn đầy sự nhẫn nại và khiêm cung (khanti) đối với mọi tội lỗi của chúng sinh (nanappakkaram aparadham khamanti); (7) một khi thệ nguyện bố thí hoặc làm một điều gì ngài không hề lừa dối (sacca); (8) vì hạnh phúc và an vui của chúng sinh mà làm việc với sự quyết tâm kiên định (aviccaladhitthana); (9) bằng từ tâm không lay chuyển (metta) ngài cứu giúp chúng sinh và; (10) bằng sự bình đẳng tuyệt đối (upekkha) ngài không mong chờ bất cứ sự đền đáp nào (paccupakaram nasimsanti).

Tứ phạm hạnh được giải thích riêng biệt trong mỗi một chương riêng trong Thanh Tịnh Đạo Luận với phương pháp tu tập từ từ, từng bước một, cho đến khi chúng đạt đến sự Vô lượng. Chúng thường được thực hành lần lượt mỗi một phạm hạnh và áp dụng trước hết đối với chính người đó, ước muốn chính mình được sống an lành, và rồi đối với những người xung quanh, vân vân, cho đến với tất cả mọi người trên thế gian, và đối với mọi chúng sinh trong khắp vũ trụ. Trong khi đó, ở trường hợp này, sự thực hành tứ phạm hạnh, lại được mô tả ở vào giai đoạn cuối cùng; đó là quan tâm tới an vui và hạnh phúc của tất cả chúng sinh với những hành động thực tế. Do đó ta có thể thấy rằng động lực thúc giục bên trong của trái tim thương yêu (karuna) được coi là cốt tủy của các Ba-la-mật và chính tự thân các Ba-la-mật là các hành động được thể hiện qua thân của Karuna. Song nếu các Ba-la-mật được coi như là các hành động thực tế thì chúng phải có một số các điều kiện để hoạt dụng mà chúng ta bàn tới dưới đây.


4. Niềm khát vọng (nguyện lực - abhinihara)


Điều kiện tiên quyết cho các pháp Ba-la-mật, trước hết là nguyện lực lớn hay niềm khao khát vô biên (abhinihara), đó có nghĩa là kiên quyết thành tựu Phật quả và có tám điều kiện trợ duyên phải hoàn thành (Buddhavamsa.p.59)[4]. Điều kiện này tương tự như khái niệm Bồ đề tâm trong Đại thừa Phật giáo khi nó chính là trái tim của lý tưởng Bồ-tát đạo. Bồ đề tâm (bodhicitta) một mặt được biết đến như là khao khát lớn đạt đến Phật quả và mặt khác là tình thương yêu rộng lớn cứu độ mọi loài chúng sinh khỏi nỗi khổ trong vòng sinh tử. Nguyện lực này, như được mô tả trong Cariya-atthakatha, được hỗ trợ bởi tám phẩm tính[5], và nó được diễn tả như sau: “Vượt qua tôi đã vượt qua, giải thoát tôi đã thành tựu, thuần thục tôi đã thuần thục, an tịnh tôi đã an tịnh, nhu nhuyến tôi đã thành tựu, niết bàn tôi sẽ thành tựu niết bàn, người đã thành tựu thanh tịnh tôi sẽ thành tựu thanh tịnh, người đã giác ngộ tôi sẽ thành tựu giác ngộ!” Đây là trợ duyên cho tất cả các Ba-la-mật mà không có ngoại lệ nào.
Cũng giống như nguyện lực, tâm đại bi (mahakaruna) và phương tiện thiện xảo (upayakosalla) cũng là các điều kiện cho sự thực hành các Ba-la-mật. Một lần nữa, các luận thư của Cariyapitaka đã có một giải thích dài và đầy tính phương pháp luận về các Ba-la-mật. Theo đó, các Ba-la-mật là những phẩm tính được tu tập cùng với đức từ bi như là phương tiện để đạt đến sự thành thục. Khi các phẩm chất này hoàn mãn và được nắm giữ bởi các Bồ-tát, chúng được xem như là sự siêu việt (parama). Do đó các Ba-la-mật có thể được miêu tả như các phẩm tính được tu tập cùng với lòng từ bi hướng tới tất cả các chúng sinh mà không bị chi phối bởi các động cơ vị kỷ đồng thời không bị vẩn đục bởi các niềm tin sai quấy của các độc tố tham lam (tanha), ngã mạn (mana) và tà kiến (ditthi) v.v. Vị Bồ-tát đang thực hành các pháp Ba-la-mật này xuyên suốt những chuỗi dài vô số đời sống nỗ lực đoạn trừ khổ đau, tôn kính ngay cả đối với những người khốn khổ và những người thấp hèn, để giúp đỡ người cần cứu độ bằng mọi cách có thể với phương tiện thiện xảo. Trái tim của ngài đầy tình thương và ngài không bị thúc giục bởi một sự tham đắm vào quyền lực hay các sở hữu thế tục. Danh dự hay sự hủy báng không còn là những đối tượng có thể làm lay động tâm tư của ngài nữa bởi chúng chỉ là huyễn tướng không hơn không kém.

Bởi chỉ thuần một nguyện ước hướng đến giác ngộ, hành giả thực hành pháp Ba-la-mật tu tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v., bằng cả sự nhiệt tâm của mình. Chẳng hạn như sự thực hành bố thí Ba-la-mật, Cariyapitaka đã ghi chép một cách đầy lý thú về cách mà vị Bồ-tát thực hành nó với một niệm duy nhất là hướng về quả vị bồ đề: Bằng sự bố thí thức ăn ngài ước muốn cung cấp cho người nhận sự trường thọ (āyu), sắc đẹp (vanna), hạnh phúc (sukha), sức khỏe (bala) và trí tuệ (pañña). Ngài cho người khát thức uống (pāna) để họ chấm dứt cơn khát của dục vọng; bố thí quần áo để họ đạt tới hổ thẹn, sợ hãi đối với tội nghiệp; bố thí phương tiện đi lại để họ tu tập các sức mạnh nội tâm; bố thí các hương thơm để họ thành tựu hương thơm của giới (sila); bố thí tràng hoa và mỹ phẩm v.v., để họ đạt đến sự huy hoàng sáng chói của các phẩm tính của Phật; bố thí chỗ ngồi để có được chỗ ngồi của đấng giác ngộ; bố thí chỗ ở với các tiện nghi để chúng sinh đạt đến một nơi nương tựa của thế gian; bố thì đèn sáng để đạt tới năm loại mắt[6]; bố thí sắc thân để có được sắc tướng của đức Phật; bố thí âm thanh để tu tập giọng nói thanh thoát của phạm thiên; bố thí mùi vị để thể hiện sự tôn quý của mình đối với thế gian; và bố thí các vật chất để thành tựu sự đoan nghiêm thân Phật. Ngài bố thí thuốc men nhờ đó về sau có thể đạt đến sự không già không chết của Niết Bàn. Vị Bồ-tát bố thí cho các nô lệ món quà tự do nhờ thế về sau giải thoát chúng sinh khỏi sự nô lệ cho phiền não, sự áp chế của dục vọng; từ bỏ con cái để phát triển tình thương của cha mẹ đối với tất cả chúng sinh; từ bỏ thê thiếp để trở thành bậc thầy của thế gian; từ bỏ cung vua để đạt đến kinh thành của giác ngộ. Ngài bố thí các quà phẩm như vàng bạc, ngọc trai, san hô, v.v., để đạt đến các hảo tướng của một Đại nhân (32 hảo tướng và 80 vẻ đẹp của thân Phật).

Để hoàn thiện các phẩm chất siêu việt này, tất cả các Bồ-tát khi thực hành bố thí Ba-la-mật quán chiếu trên ba phương diện, đó là, không có người bố thí, không ai nhận của bố thí và không có vật được đem ra bố thí. Nhờ đó họ có thể thực hành năm sự từ bỏ lớn (mahā-pariccāya) về bố thí vợ, con, kinh thành, đời sống và sinh mạng[7], những thứ được yêu cầu cho. Nếu có một đối tượng có giá trị mà có thể được cho đi và một người muốn xin, không một khoảnh khắc do dự, ngài liền mạnh dạn trao cho, kính trọng người xin cứ như thể mình là một người không có tiếng tăm gì. Tuy nhiên, vị Bồ-tát sẽ không bố thí vợ, con cái, các nô lệ, người làm, người giúp việc của mình trong trường hợp họ chưa sẵn sàng muốn đi mà đau buồn khổ sở. Ngài sẽ không bố thí các đối tượng này đến với những ai xin để cho yêu tinh ăn thịt, các loài quỷ, ma quái hay người có tâm địa ác độc. Cũng thế, ngài không bố thí kinh thành của mình cho những người có dã tâm tổn hại, làm đau khổ và gây xung đột cho cuộc đời, trái lại ngài sẽ cho đến những người sáng suốt lương thiện hộ quốc an dân bằng chánh pháp.

5. thứ tự các Ba-la-mật

Trong luận giải của Cariyapitaka một vấn đề được đặt ra là thứ tự các Ba-la-mật như thế nào để làm sáng tỏ lý do tại sao chúng phải nên theo thứ tự đó mà không phải theo thứ tự khác. Thứ tự các Ba-la-mật được miêu tả ở trong luận thư Thượng Tọa Bộ gần như trùng hợp với Đại Thừa.[8] Luận thư này nói, “thứ tự của nó xuất hiện với một trật tự mà trong đó các Ba-la-mật bắt đầu được thực hành, các pháp Ba-la-mật đến lượt lại bắt nguồn theo một trật tự mà trong đó chúng được quán sát. Phẩm chất được quán sát và thực hành đó đã được chỉ dẫn ngay từ khi mới khởi đầu. Theo đó, bố thí được đặt ở trước tiên, bởi vì bố thí dễ dàng thực tập và có công năng hỗ trợ (việc phát triển) trì giới. Bố thí được hỗ trợ bởi giới rất có hiệu quả và lợi lạc, vì thế trì giới được đặt ngay sau bố thí. Trì giới được hỗ trợ bởi sự xả ly… xả ly được hỗ trợ bởi trí tuệ … trí tuệ bởi tinh tấn, tinh tấn bởi nhẫn nhục, nhẫn nhục bởi chân thật, chân thật bởi quyết định, quyết định bởi từ bi và từ bi được hỗ trợ bởi sự bình đẳng. Như thế bình đẳng được đặt ngay sau từ bi. Bình đẳng được hỗ trợ bởi từ bi và từ bi bởi bình đẳng.”[9]
Giáo sư T. Endo trong cuốn sách của mình[10] cho rằng số lượng các Ba-la-mật khác nhau theo các nguồn và chúng có khi là bốn hoặc năm hoặc sáu hoặc mười.  Về cơ bản, các Ba-la-mật được cho là 10 về số lượng trong truyền thống Theravada. Tuy nhiên, Luận sư Pháp Hộ (Dhammapāla) nói rằng sáu Ba-la-mật thường được đề cập đến trong Đại thừa tương đương với danh số mười pháp trên, và mười pháp này có thể được giản lược thành sáu như danh số của đại thừa. Khi Dhamapala nói: “Hệt như mười Ba-la-mật trở thành ba mươi thông qua việc phân tích, thì chúng trở thành sáu pháp thông qua tính chất đặc thù của chúng: như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.” Ngài còn nói thêm, “khi cách này được chấp nhận, Xả Ly Ba-la-mật, như là sự từ bỏ để sống đời sống không gia đình, được gồm thâu trong Trì giới Ba-la-mật; hay sự xả bỏ các chướng ngại trong thiền định Ba-la-mật; và như một phẩm chất tốt đẹp phổ quát, trong tất cả sáu Ba-la-mật.”[11] Theo đó trong danh sách của Pali thì có sự buông xả (nekkham) thay cho thiền định (dhyāna) trong khi đó Phương tiện thiện xảo (ūpaya), Lực (bala) và Trí (jñāna) được thay thế bằng sự Chân thật (sacca), Bi (metta) và Bình đẳng (upekkhā).
Dù các Ba-la-mật căn bản có số lượng là mười, các luận thư vẫn chấp nhận cách giải thích thành ba mươi về số lượng. Đó là : mười Ba-la-mật (paramī), mười Ba-la-mật cao hơn (upāparamī), và mười Ba-la-mật tối hậu (paramatthapārami). Bảng liệt kê này là một con số đặc thù của văn học Pali với nhiều cách giải thích khác nhau. Một số cho rằng chúng tương ứng với bản chất của các phẩm chất của chúng như theo thứ tự sự tối tăm (kanhadhamma), sự sáng sủa (sukkhadhamma) và không phải tối cũng không phải sáng. Số khác lại cho rằng ba cấp độ các Ba-la-mật được hoàn thiện bởi vị Bồ-tát ở trong ba thời kỳ khác nhau, đó là, giai đoạn sơ khởi, giai đoạn trung gian và giai đoạn cuối cùng, v.v. Trong khi Cariyapitaka Atthakathā cho rằng chúng (apare) thật ra chính là giai đoạn khởi đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn kết thúc của một Ba-la-mật để tương thích với các giai đoạn của sự xác quyết, thực hành và hoàn mãn.[12]

6. Ba dạng Ba-la-mật


Các Ba-la-mật thông thường được biết đến như sự thực hành của một hành giả hướng đến Phật quả mà thôi. Tuy nhiên các pháp này vẫn có thể được thực hành bởi bất cứ ai đang dấn thân vào một cấp độ nhất định hướng đến sự giác ngộ tùy theo nguyện ước của họ. Trong một bài báo khác[13], Giáo sư Endo tìm thấy trong Dhammapada-atthakatha rằng yếu tố quan trọng trong giáo lý về các Ba-la-mật của luận tạng là chính bộ luận này đặc biệt ám chỉ tới sự thành tựu các Ba-la-mật của các đệ tử đức Phật cả xuất gia cũng như tại gia như hai đai đệ tử Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên (Moggallāna) etc., rồi thân mẫu của Phật cũng được cho là đã thành tựu các Ba-la-mật trong khoảng thời gian một trăm ngàn kiếp (kappa) cũng như trong trường hợp của các thánh đệ tử như Ananda, Patācārā, v.v.. Điều này giả định rằng sự thành tựu các Ba-la-mật không nhất thiết là điều kiện duy nhất cho những người hướng tới Phật quả mà thôi. Vì lý do đó mà luận thư phân tích có ba hạng Bồ-tát (bodhisatta); đó là mahābhodhisatta, paccekabodhisatta và sāvakabodhisatta được nêu ra trong Theragathā-atthakatha (ThagA I 9-12) có liên hệ tới sự hoàn thành các Ba-la-mật với các hạng Ba-la-mật tương ứng là paramitas hoặc pāramī, upapāramī và paramatthapāramī như được nêu trên. Đây là một phát hiện thú vị khi các loại Ba-la-mật trên có liên hệ tới ba dạng giác ngộ, đó là, savakasambodhi, pratyekasambodhi, và sammasambodhi tương ứng. Đây chính là điểm đặc biệt của các luận thư Theravada khi sự thực hành các Ba-la-mật tương thích với các mức độ giác ngộ khác nhau. 

Trong truyền thống đại thừa, các Ba-la-mật chỉ được thực hành bởi các vị Bồ-tát những người hướng tới Phật quả mà thôi,[14] điều này có nghĩa là các quả vị khác là không rốt ráo và nó đi đến một sự dung hợp rằng có ba dạng giác ngộ nhưng chỉ có Phật thừa (Buddhayāna /ekayāna) mới thật sự được nhấn mạnh nhất như đề cập trong kinh Pháp Hoa (Saddharmapundarika sutra). Tuy nhiên chừng nào các Ba-la-mật được thực hành bởi mọi người, chừng đó không có sự phân biệt giữa các cấp bậc tu tập hay nói cách khác chỉ có một con đường duy nhất hướng đến giác ngộ viên mãn, đó là sự thực hành các pháp Ba-la-mật. Văn học Pali cũng đi đến cái nhìn này vậy.

7. kết luận


Qua những trình bày trên chúng ta có thể đi đến một số kết luận. (1) Pháp môn thực hành các Ba-la-mật trong luận tạng là một pháp môn thù đặc khá khác biệt với sự giải thích trong các chuyện bổn sinh (Jataka) hay các kinh điển Pali khác. (2) Thuật ngữ Bodhisatta dùng trong luận tạng không riêng chỉ cho bất cứ một người đặc biệt nào mà được dùng để chỉ cho mọi người, những ai tu tập các Ba-la-mật. (3) Các luận thư do đó giải thích và phát triển cách thực hành các Ba-la-mật một cách chi tiết cho những ai có ước nguyện thành tựu Phật quả.
Theo đó, thuật ngữ paramita được hiểu một cách đặc trưng bằng ba dạng tương ứng với ước nguyện thành tựu của các hành giả thấp, trung bình hay cao hơn hướng tới các cấp bậc giác ngộ tương ứng với các hạng chúng sinh phát tâm cầu đạo Bồ-đề. Tuy nhiên một điểm cần chú ý là chính đức tính Từ (karuna) và Bi (metta) đối với các chúng sinh đau khổ cùng với nguyện ước hướng đến giác ngộ vô thượng được chú trọng cho sự hoàn thành các Ba-la-mật cũng chính là tinh thần của Đại Thừa nhấn mạnh và kết tinh sự thực hành Ba-la-mật trong lý tưởng Bồ-tát đạo. Từ đó chúng ta có thể kết luận rằng khái niệm về Ba-la-mật trong Thượng tọa bộ có một sự tương đồng với văn học Đại Thừa. Hay nói cách khác, giác ngộ vô thượng của Phật đạo là đích đến cuối cùng của tất cả các hành giả không kể người đó là ai.


Chú thích:
[1] Lal Hazra, Kanai, Pali Language and Literature, D.K.PRINTWORLD (P) Ltd, India 1998, p. 479
[2] Đây là ý kiến trước đây của Tiểu Thừa cho rằng các thanh văn đệ tử Phật thì không thể thành Phật. W.G. Weeraratne, Encyclopedia of Buddhism, Vol. VII, Published by Government of Sri Lanka 2003, p. 312
[3] Ñānmoli, The Path of Purification, Chapter IX, Description Of Concentration – the Divine Abiding (brahmavihāra-niddesa), p. 352-353
[4] Encyclopedia of Buddhism, vol. III, Published by Government of Sri Lanka 1971, p. 228
[5] (1) Được làm người (manussatta) (2) Làm người nam (Iingasampatti) (3) Nhân (hetu) (4) Có tướng làm Thầy (sattharadassana) (5) Tinh tấn (pabbajja) (6) Thành tựu các thánh pháp (gunasampatti) (7) Thiền định thâm sâu (adhikara) (8) Ước nguyện dõng mãnh (chandata).
[6] Nhục nhãn - mamsa cakkhu, Tuệ nhãn - nana cakkhu, Thiên nhãn - dibba cakkhu, Phật nhãn - Buddha cakkhu và con mắt của Nhất thiết trí - samata cakkhu
[7] Bodhisattva, Encyclopedia of Buddhism, p. 228
[8] Kinh Pháp Hoa (Saddharmapundarika) liệt kê sáu ba-la-mật: Bố Thí (Dāna paramita), Trì Giới (Śīla paramita), Nhẫn Nhục (Kānti (kshanti) paramita); Tinh Tấn (Vīrya paramita); Thiền Định (Dhyāna paramita); Trí Tuệ (Prajñā paramita). Kinh Thập Địa (Dasabhumika Sutra) liệt kê thêm bốn Pháp ba-la-mật nữa : Phương tiện (Upāya paramita), Nguyện (Praidhāna (pranidhana) paramita), Lực (Bala paramita) và Trí (Jñāna paramita).
[10] Endo, Buddha in Theravada Buddhism: A Study of the concept of buddha in the Pali Commentaries, Dehiwala, Sri Lanka, 1997, p. 269
[12] Endo Toshiichi, Buddha in Theravada Buddhism: A Study of the Concept of Buddha in the Pali Commentaries, Dehiwala, Sri Lanka, 1997, pp. 272, 273
[13] Dammapala’s Contribution to Theravāda Buddhism: With Special Reference to the Concept of Buddha
[14] Cụm thuật ngữ Phật Học Hán Việt “修諦緣度” Tu Đế Duyên Độ nhằm phân biệt các Pháp tu của ba thừa : Thanh Văn với pháp môn Tứ đế, Duyên giác với pháp môn Thập nhị nhân duyên và Bồ Tát với pháp môn đặc thù Lục Độ hay Lục Ba-la-mật.

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites