“Ăn những thứ mà người khác không ăn,
mặc những thứ mà người khác không [muốn] mặc, làm những gì mà người khác
không làm, sau này thì ông mới biết”...
Bác sĩ Quách Huệ Trân
Trích từ:
http://www.buddhanet.com.tw/dawjam/dm015.htm
Lời giới thiệu.
Bác sĩ Quách Huệ Trân là một bác sĩ
chuyên khoa ung thư, bà rất nhiệt thành và tận tâm trong công việc.
Lòng từ bi và thuần thành của bà không những đã đem lại sự khích lệ to
lớn cho bịnh nhân mà còn cảnh giác những người khỏe mạnh, làm cho nhiều
người phát tâm học Phật và niệm Phật. Sau đây là bài nói chuyện với các
bạn học ở Huệ Trí Phật Học Xã của Ðại học Trung Nguyên, nội dung rất
phong phú cảm động. Tuy là đang bị bịnh ung thư trầm trọng, bác sĩ Trân
vẫn ráng chịu đau và dùng lòng tín nguyện niệm Phật vô cùng kiên cố của
mình lên giảng đài thuyết pháp; khi tuyên bố bị bịnh bà nói: ‘Bây giờ
vừa đúng lúc để tôi nhất tâm niệm Phật và chuẩn bị vãng sanh’ (Sau lần
nói chuyện này bác sĩ Trân từ chức và lên núi đi xuất gia).
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này,
chúng ta không chịu buông xả và tham luyến tất cả những gì ‘của mình’;
ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời, đến phút cuối cùng nhìn
lại [chỉ là một con số không to lớn] rồi âu sầu than thở. Thưa quý vị,
quý vị muốn cuộc đời của mình như thế nào? Làm sao để vượt ra khỏi sự
trói buộc của luân hồi sanh tử? Chúng tôi hy vọng bài này sẽ đem nhiều
tư duy và chất liệu có thể giúp quý vị tìm ra phương hướng [về quê
hương] của mình!
Kính thưa quý thầy cô, kính thưa quý
bạn:
Khi lên giảng đài này, tôi cảm thấy rất
bối rối và xấu hổ khi nhìn thấy phía dưới phần đông đều là những người
trong hàng tiền bối, bậc thầy cô của mình. Trước hết xin giải thích
tại sao một người mạt học dở ẹt như tôi cũng lên giảng đài nói
chuyện với quý vị? Ðây là do ảnh hưởng của một bịnh nhân cho nên tôi
thường kể lại câu chuyện của bịnh nhân này và nói lên lý do người này đã
giúp cho tôi hiểu được nhiều vấn đề. Chúng ta thường phải trả một giá
rất đắt mới có thể hiểu được một câu nói trong kinh, nhiều khi chỉ một
câu kinh thật đơn giản. Cô này mới có ba mươi mấy tuổi thì bị ung thư
ruột già. Khi cô đến bịnh viện cứ khóc hoài không thôi. Lúc đó tôi mới
làm bác sĩ tập sự thuộc khoa ung thư, xem bịnh lý mới biết cô đã mổ qua
hai lần nhưng ung thư vẫn tái phát trở lại, đúng là vô phương cứu chữa.
Cô khóc hoài nên nói không ra tiếng nữa, thiệt là không biết làm sao,
muốn tìm bác sĩ để hỏi rõ bịnh trạng của mình. Hôm đó tôi hết ca trực
liền đến phòng bịnh để thăm cô và cũng nhân tiện giới thiệu sơ lược một
ít Phật pháp cho cô biết. Không ngờ cô nghe xong, xúc động, mở mắt thật
to, nói: “Tại sao bấy lâu nay không có ai nói cho tôi biết về những
chuyện này? Tại sao tôi đã sống ba mươi mấy năm đầy phiền não và đến
lúc sắp lìa đời tôi mới được nghe Phật pháp?”. Tuy là chỉ có mấy câu
nói thật ngắn nhưng hình như đã xoi thủng tim tôi. Sau đó cô bật khóc
và làm tôi cũng khóc theo, khóc một cách rất bức rức. Lúc bấy giờ Tuyết
Công lão ân sư (lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam) còn tại thế và giảng kinh vào
ngày thứ tư mỗi tuần. Mỗi ngày khi làm xong việc tôi thường ở lại bịnh
viện để nói chuyện và an ủi bịnh nhân, ngoại trừ ngày thứ tư vì phải đi
nghe Tuyết Công giảng kinh. Cô thấy mỗi thứ tư tôi đều rất vui chuẩn bị
đi nghe giảng nên nói: “Tôi cũng hy vọng có thể đi theo (nghe giảng)
nhưng rất tiếc không có cơ hội”. Tôi đáp: “Trong tương lai cô cũng sẽ
có dịp đi được”. Cuối cùng cô cũng đã được đi nghe kinh, lúc đến giảng
đường Hoa Nghiêm ở thư viện Từ Quang tôi thấy cô ngồi ở vài hàng ghế
phía trước. Nhưng đến nửa buổi giảng cô vừa ôm bụng vừa khóc và đi về,
bịnh tình của cô biến chứng nặng nên cô đau quá không thể tiếp tục nghe
kinh. Lúc đó tôi chợt hiểu được một câu trong bài khai kinh kệ:
‘Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa’.
Vì ảnh hưởng của cô nên từ hôm đó trở đi
tôi không ngại sự hiểu biết còn thô thiển của mình, luôn luôn cố gắng,
tích cực hơn, và muốn mau mau giới thiệu cho mọi người những điều trọng
yếu trong Phật pháp [mà mình hiểu được], nói cho đại chúng biết những sự
hạnh phúc mà Phật pháp có thể đem lại cho mọi người. Hạnh phúc này tiền
tài mua không được, kẻ ăn trộm cũng không thể lấy mất. Trong bất cứ
trường hợp và cảnh giới nào và không kể người ta dùng quan niệm ‘phước’
hay ‘họa’ trong thế gian để đo lường những cảm nhận hạnh phúc này, trong
nội tâm của chúng ta đều luôn luôn đầy đủ sự an tịnh, hạnh phúc, và tươi
sáng.
Tôi hỏi các vị đạo hữu ở Phật học xã
nghiên cứu đề mục hay kinh điển gì trong khóa học này, bác Hứa trả lời
là đang thảo luận ‘Kinh Bát Ðại Nhân Giác’. Chắc ai cũng đã xem qua
kinh này và có thể đã học thuộc lòng rồi. Ðiều giác ngộ thứ nhất là:
‘Thế gian vô thường, quốc độ mong
manh, tứ đại khổ không, năm ấm vô ngã, sanh diệt đổi dời, hư ngụy không
chủ…’.
Tuy là biết thuộc lòng nhưng phần đông
chúng ta không tin như vậy. Tuy Phật nói thế gian là khổ, là vô thường,
nhưng bạn lại cảm thấy nhân gian rất vui sướng! Mỗi sáng thức dậy ăn
bánh uống cà phê, …, ngước mắt nhìn lên, ôi chao trời trong mây trắng,
đời sao mà sung sướng thế! Nếu được vậy thì cũng thường thôi, nhưng
những lúc như vậy trôi qua rất nhanh. Giả sử một lúc nào đó, chuyện khó
khăn thử thách thình lình xảy ra, khi đó bạn sẽ không thấy trời trong
mây trắng, không thấy trăm hoa đua nở, trong lòng của bạn sẽ không còn
cảm thấy vui sướng nữa. Ở đây tôi xin kể một vài câu chuyện thật mà tôi
đã gặp khi làm việc ở bịnh viện. Trong những câu chuyện này, mỗi bịnh
nhân đều là giáo sư của tôi, mỗi người đều kể cho tôi một đạo lý mà đức
Phật đã nói trong kinh điển, họ ấn chứng (chứng minh) những điều Phật
dạy, họ làm cho tôi hết lòng tin tưởng lời Phật nói và tin đức Phật là
‘người nói lời chân thật, không bao giờ nói dối’.
Có nhiều bịnh nhân hỏi tôi: “Bác sĩ năm
nay bao nhiêu tuổi?”.
Tôi trả lời: “Ba mươi hai tuổi”.
Lại hỏi: “Bác sĩ lập gia đình chưa? Tôi
làm mai cho”.
Tôi liền hỏi họ: “Cuộc sống của bà rất
sung sướng phải không?”
Thật kỳ lạ không có một người nào đáp là
‘phải’ hết! Cho đến một hôm tôi gặp một bịnh nhân bị ung thư cổ tử
cung, mỗi lần đến khám bịnh đều trang điểm thiệt là đẹp, thoa môi son
thiệt đỏ, móng tay chân đều có sơn màu rất đẹp. Khám bịnh xong bà muốn
làm mai cho tôi. Bà nói:
“Cháu tôi làm việc ở bịnh viện Quốc
Thái, người rất lịch sự đàng hoàng”.
Tôi hỏi bà: “Bà thiệt là rất sung sướng
phải không?”
Bà nói: “Phải, chồng tôi đối xử rất tốt;
con cái rất có hiếu, nhà cửa rất sung túc”.
Như vậy thật là sung sướng, xin chúc
mừng cho bà. Bà là người duy nhất nói mình có hạnh phúc, thiệt là mừng
giùm bà. Tại vì khi bịnh nhân bước chân vào bịnh viện thì thường khóc
và than:
“Bác sĩ không biết đâu, tôi phải mượn
tiền của người ta để lại đây khám bịnh, con cái không vui chút nào”;
Hoặc là: “Ôi chao lúc về nhà không ai
đếm xỉa tới; mang bịnh lâu quá rồi người ta không chịu chăm sóc nữa”.
Cũng không ai thăm hỏi: “Thưa ba ăn cơm
chưa?”.
Hoặc là: “Từ lúc tôi mắc bịnh này, chồng
tôi bỏ đi luôn”.
Phần lớn là thuộc vào loại này, tình
tiết không giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn tương tợ; chỉ có bà này
thiệt là may mắn có được hạnh phúc. Nhưng qua một thời gian ngắn sau
đó, y tá coi báo ngạc nhiên nói bà đó đã tự tử. Cô y tá nói: “Trong báo
đăng tin bà được vớt lên từ bờ sông ở ….Bà bỏ nhà ra đi hết năm ngày,
sau đó thì tự tử”.
Tôi hỏi: “Bà đó rất sung sướng, rất
hạnh phúc, sao lại tự tử?”.
Thưa quý vị, chúng ta thử nghĩ xem tại
sao lúc đó niềm thương yêu của chồng không thay đổi được tâm niệm muốn
tự tử của bà? Tại sao sự hiếu thảo của con cái cũng không kéo bà lại
được? Tại sao tiền bạc không mua được sự an ổn của tinh thần? Chồng
thương yêu cho mấy và con cái hiếu thảo đến đâu cũng không thay thế được
sự đau đớn trên thân thể của bà. Một người đàn bà xinh đẹp như thế tại
sao lại phải trốn khỏi nhà đi lang thang rồi cuối cùng phải nhảy vào
dòng nước đen tối? Có lẽ vì trước đó bà cảm thấy cuộc đời quá xinh đẹp,
chưa nếm qua mùi vị của sự khổ, bà chưa biết qua: ‘thế gian vô thường,
quốc độ mong manh’, cho nên trong tâm không có chuẩn bị tâm lý, gặp
chuyện thử thách trong đời chịu không nổi, không có ‘chích ngừa’ để
phòng bị, không có khả năng đề kháng, chịu đựng khổ không được nên mới
tự tử. Tôi rất hối hận trước đó không giới thiệu Phật pháp để cho bà
thay đổi quan niệm và hướng về quang minh, hướng về Di Ðà. Những sự khổ
này có lẽ mọi người sẽ nghĩ: ‘Ðó chỉ là thiểu số, người tự tử rất ít’.
Thiệt ra người tự tử rất nhiều, tôi làm việc trong khoa ung thư, nếu có
ngày nào không gặp bịnh nhân muốn tự tử thì ngày đó phải được kể là ngày
rất tốt, rất hiếm! Thiệt đó, mỗi ngày tôi thường nghe câu: ‘Tôi nên
chết sớm thì tốt hơn’. Khi người ta cầu mong khỏe mạnh và sự quan tâm
chăm sóc mà không được toại nguyện thì thường thường sẽ tự sát. Ban đêm
trong bịnh viện tôi thường phải đi giải quyết những chuyện tự tử này.
Không phải là họ cố ý không muốn sống nhưng bị bịnh đau khổ quá nên
không biết cách nào để chịu đựng nữa.
Ngoài ra còn có người cầu sanh không
được cầu chết cũng không xong, nằm trên giường bệnh rên siết. Có một
người bịnh nguyên phần phía dưới bụng bị ung thư lở loét ra hết, bác sĩ
phải mổ và làm một cái hậu môn tạm trên bụng, nhưng không cách nào trị
lành được. Chất bài tiết trong ruột rỉ thẳng ra. Phòng của người này ở
lầu ba, từ lầu hai đã nghe mùi hôi bay đến. Không phải người này có gì
đặc biệt nhưng bất cứ ai trong chúng ta khi gặp phải trường hợp này đều
như vậy. Khi con bà săn sóc cho mẹ bất đắc dĩ phải dùng một miếng vải
để bịt miệng và mũi lại. Mỗi ngày bà đều muốn tự tử nhưng chưa gặp cơ
hội. Một hôm nhân dịp con bà đi ra chợ mua đồ ăn sáng, bà rán hết sức
mình ngồi dậy, leo qua cửa sổ từ lầu ba của bịnh viện nhảy xuống. Vừa
đúng lúc đó người con về đến, nhìn thấy mau mau chạy tới để đỡ bà. Kết
cục bà nhảy xuống không chết mà còn bị thương. Vốn là đã quá đau khổ
bây giờ còn bị thương thêm, mỗi ngày đau đớn không thể nào diễn tả được,
cầu sanh không được, cầu tử cũng không xong; mạng chưa hết tự tử cũng
không chết. Cho dù tự tử chết đi rồi, vĩnh viễn trầm luân trong lục đạo
luân hồi, sự khổ não vô tận lại tái diễn trở lại!
Nhà thơ Rabindranath Tagore có nói:
‘Sanh thời lệ tợ hạ hoa, tử thời mỹ
như thu nguyệt’
(Lúc sống đẹp như hoa mùa hạ, lúc
chết đẹp như trăng mùa thu).
Bạn muốn sống đẹp như hoa mùa hạ có lẽ
cũng không khó lắm; nhưng muốn chết đẹp như trăng mùa thu thì phải ra
sức chuẩn bị công phu mới được! Lắm lúc có nhiều người phê bình những
người học theo Phật và nói: “Ôi chao, sao quý vị ưa nói chuyện ‘chết’,
ưa nói chuyện ‘lâm chung’ quá, hình như đã xem thường cả cuộc đời.
Trong cuộc sống có rất nhiều chuyện phải làm, đặc biệt là những người tu
theo Tịnh độ như quý vị, ngày ngày cứ niệm ‘A Di Ðà Phật’, chuẩn bị để
vãng sanh Tây phương, thật là quá tiêu cực”. Thật ra cuộc sống chúng ta
giống như quá trình vẽ một con rồng, mỗi nét vẽ mỗi màu sắc đều rất quan
trọng. Lúc lâm chung cũng như nét vẽ cuối cùng vào mắt rồng. Lúc sanh
lúc tử đều rất quan trọng, không có nét vẽ nào có thể cẩu thả được.
Niệm Phật là tâm niệm tối thiện nhất, tích cực làm cho lúc sống và lúc
chết đều là chí thiện chí mỹ (tốt đẹp nhất).
Nói chuyện từ nãy đến giờ nhưng chưa nói
vào đề tài chính hôm nay: ‘Lắng nghe bài ca bên sông Hằng’. Mấy năm
trước tôi có dịp đi qua Ấn độ và ngồi thuyền đi dọc theo bờ sông Hằng.
Lúc đó trong lòng tôi rất an tịnh; âm thanh trên sông cứ cuồn cuộn nổi
dậy làm tôi có cảm giác như là đang đi trong dòng nước ‘sanh tử’…. Khi
lắng tai nghe những âm thanh này tôi nghe thấy trong đó có âm thanh của
trẻ con, của người lớn, có tiếng khóc, có tiếng cười vui. …Tất cả những
âm thanh này trộn lẫn vào nhau biến thành một câu vạn đức hồng danh: ‘A
Di Ðà Phật’. Bạn hãy nhìn hình ảnh của sông Hằng, của từng làn sóng
nhấp nhô, hình bóng của chính bạn, của người thân, bạn bè, mặt trời lặn,
con chim và làn mây đang bay lơ lửng ở cuối chân trời, tất cả những hình
bóng này hòa hợp lẫn nhau làm thành con sông ‘sanh mạng’. Chúng ta hãy
cùng nhau xem những hình ảnh và lắng nghe bài ca bên sông Hằng này, từ
bài ca ‘luân hồi sanh tử của sông Hằng’ cho đến bài ca ‘đức Phật giác
ngộ’. Ðối với chúng ta sông Hằng là một con sông rất quen thuộc vì
trong kinh đức Phật thường dùng danh từ ‘cát sông Hằng’ để hình dung ý
nghĩa ‘vô lượng vô biên’. Trong con ‘sông Hằng’ sanh mạng này chúng ta
đều là những người bơi lội qua sông….
Con thuyền cứ tiếp tục tiến tới và đi
ngang một chỗ dùng để hỏa táng ở bờ sông. Phong tục mai táng người chết
của Ấn độ rất đơn giản, họ không cần quan tài chỉ dùng vải bao bọc thi
thể lại rồi đem thiêu ở bờ sông, cho đến bà Gandhi cũng không ngoại lệ
(bà được dùng lá quốc kỳ để bao). Người giàu thì có đủ củi lửa nên có
thể thiêu thành tro rồi đem bỏ xuống sông. Người nghèo thì thiêu qua
loa một chút rồi đem thi thể bỏ xuống sông. Lúc tôi ngồi thuyền đi
ngang một chỗ thiêu người chết này, dưới đống tro tàn còn thấy được một
cái chân đen kịt thiêu chưa thành tro. Chúng ta thử hỏi cái chân thiêu
nửa chừng này là của ai? Không lâu trước đó nó cũng có làn da rất mềm
mại và được ôm ấp trong lòng mẹ. Có lúc nào đó cái chân này đang rảo
bước trên bải cỏ xanh mướt, cũng có thể là có rất nhiều thanh niên muốn
thân cận nó. Rồi theo thời gian trôi qua nó bắt đầu chai cứng và khô
khốc khi người chủ của nó già đi. Rốt cục rồi nó biến thành một cái
chân thiêu nửa chừng, đen kịt, nằm dưới đống tro tàn. Sau một thời gian
nữa thì nó sẽ biến thành một đống cát trong sông Hằng. Thêm một lần nữa
chúng ta hãy nhìn kỹ hình ảnh và lắng nghe bài ca bên sông Hằng. Những
hình ảnh này của người Ấn độ mà cũng có thể là của chúng ta nữa!
Có một ông thường ngày rất thích ăn
trầu, hút thuốc, uống rượu rồi sau này bị ung thư trong miệng. Khi đến
bịnh viện khám thì chỗ bị ung thư đã lan rộng ra, lở loét đến quai hàm
và gò má lủng lỗ. Chỗ lở cứ chảy nước vàng ra hoài, khi ông ăn uống thì
thức ăn đều lọt ra ngoài. Cho dù ông uống rượu ngon trước đó ông thích
nhất cũng rất đau, khi ăn trầu vào cũng đau như ‘nuốt viên sắt nóng’.
Thân thể cường tráng của ông dần dần tiều tụy vì ăn uống không được;
chúng tôi phải đút một ống dẫn đồ ăn từ mũi vô đến bao tử. Vợ ông rất
hối hận và nói lúc trước hai vợ chồng họ cứ cãi lộn hoài. Bà kể lại:
“Ðược rồi, ông chửi tôi ông sẽ bị ung thư miệng, tôi trù cho ông bị ung
thư miệng. Ai ngờ rằng ổng bị ung thư miệng thật, người khổ nhất lại là
tôi; ngoài việc phải chăm sóc vết thương cho ổng, đi khắp nơi kiếm bác
sĩ trị cho ổng, còn phải lo kiếm tiền để trang trải…thiệt là khổ không
cách nào diễn tả được”. Nếu bà biết trước được cảnh khổ bây giờ thì sẽ
trân trọng những lúc còn khỏe mạnh và còn nói: “Lúc ổng chửi tôi, tôi
thà đi lạy Phật một trăm lạy chúc phúc cho ổng, mời ổng ăn đồ ngon, tôi
cũng không dùng lời ác độc để trù ổng”.
Hai người cùng nhau niệm Phật trong ánh
sáng từ bi trí tuệ của đức Phật thì không tốt hơn là cãi lộn hay sao?
Rất tiếc là chúng ta thường chọn lấy những phương thức đối xử để gây đau
khổ lẫn nhau; lúc chưa bịnh thì mặc sức hành hạ thân thể này, đến lúc
mang bịnh rồi thì lại than trời than đất. Hy vọng là chúng ta trong
những nhân duyên tương ngộ rất ngắn ngủi này, hãy dùng tâm từ bi chân
thành đối đãi với nhau; sự giận tức oán hờn chỉ giúp tạo ra con đường
đầy chông gai đau khổ ở phía trước. Ông rất thích đi câu cá; lúc tay
mang trầu, rượu, và cần câu đi ra bờ sông thì ông cảm thấy rất thích
thú. Nhưng đến khi bị ung thư loét hết miệng thì mới giựt mình sực
tỉnh, mới biết được cảm giác của con cá khi bị lưỡi câu đâm thủng
miệng. Vì miệng lở loét nên ông nói chuyện rất khó khăn, lúc tôi săn
sóc vết thương cho ông, ông rán chịu đau và nói ra những lời hối hận
này, cảm nhận được khi trước vì một chút khoái lạc nhất thời mà gây đau
khổ cho những con cá; sự đau khổ đó bây giờ quay ngược lại đến với ông,
cũng là đau khổ khi miệng bị lủng lỗ; khi miệng nuốt đồ ăn giống như
cuống họng đang bị thiêu đốt, đang bị đâm bằng dao, đau quá cũng muốn
giằng co giãy giụa như con cá cắn câu rán hết sức mình để thoát khỏi
lưỡi câu. Ông dạy cho tôi một bài học nhớ hoài không quên, đúng là
‘nhân quả tơ hào chẳng sai!’. Có bài thơ như sau:
Mạc đạo quần sanh tánh mạng vi
(Mạng vật yếu ớt đừng khinh
Nhất ban cốt nhục nhất ban
bì Thịt, da, xương xẩu như mình khác chi!
Khuyên quân mạc đả chi đầu điểu
Chớ bắn chim trên cành kia
Tử tại sào trung vọng mẫu
quy. Chim non trong tổ đang mong mẹ về)
Có một bác bị ung thư miệng và cũng phải
mổ để cắt bỏ tế bào ung thư ở gò má. Cuộc giải phẫu này rất phức tạp,
phải chia ra mấy lần mới xong, phải cắt da ngực để đắp lại vết mổ ở gò
má, và đòi hỏi rất nhiều sức chịu đựng. Ban đêm khi tôi đi tuần phòng
bịnh nhân, tôi thấy đôi mắt của bác mở thao láo nhìn lên trần nhà, đêm
đã khuya rồi mà bác ngủ không được; ngoài trời đêm tối lạnh, nước mắt
của bác cũng rất lạnh lẽo thê lương; chúng ta phải làm sao để an ủi
những bịnh nhân này? Bác đang đợi để mổ lần thứ nhì nhưng không sống
được đến lần mổ cuối cùng. Có lẽ chúng ta thường chờ đợi để làm một
công việc gì đó nhưng chưa chắc có thể sống đến lúc đó, cho nên chuyện
tốt mau mau làm, niệm Phật phải niệm ngay bây giờ !
Lúc chăm sóc những người bị ung thư
miệng, tôi thường nghĩ đôi lúc mình bị mụt nước lở trong miệng thì rất
đau, nhất là khi ăn những thức ăn chua cay vào thì rất rát, huống chi
vết thương lở loét cả hàm của những người này, khi uống nước lạnh cũng
phải đau đến run. Khi chúng ta mở miệng nói lời không tao nhã chỉ dùng
năm sáu giây để nói một câu mà câu nói đó làm cho người nghe đau lòng cả
đời, và khi quả báo hiện ra thì cũng đau đớn như những người bị ung thư
hàm này! Trầu và rượu có thể đem lại cho người ta một chút khoái lạc
nhất thời nhưng cũng đem đến những sự đau khổ không thể nào giảm nhẹ khi
mang bịnh vào thân. Chúng ta phải nên cẩn thận, một giây phút vui
sướng ngắn ngủi đi qua rất nhanh, thời gian chịu đau trên giường bịnh
một ngày dài như một trăm năm!
Phòng khám bịnh số 1 và số 2 của bịnh
viện nối liền nhau bằng một cánh cửa tự động. Một hôm tôi thấy có một
bà khoảng năm mươi mấy tuổi nằm ở phòng 1. Bà bị ung thư vú và cần một
loại thuốc nhưng bảo hiểm lao động chưa chịu trả cho thuốc này nên ngoài
việc đau bịnh bà phải lo kiếm tiền trang trải chi phí thuốc men; bà
thường khóc thầm vì chịu đựng không nổi áp lực quá lớn. Lúc đó bên
phòng 2 có một cô mới ba mươi mấy tuổi và cũng bị ung thư vú, nghe được
chuyện của bà bên phòng 1 nên lấy hết tiền trong túi rồi nói với tôi:
“Nhờ bác sĩ trao cho bà ở phòng kế bên”. Cô vừa khóc vừa nói: “Chúng
tôi đều chịu chung cái khổ này”. Tôi rất cảm động và khen ngợi tinh
thần Bồ Tát vị tha của cô, tôi hiểu rõ hoàn cảnh của cô còn thiếu thốn
hơn bà kia rất nhiều. Con của cô còn nhỏ nên phải gởi người ta nuôi
giùm, tiền lương của chồng cô rất thấp, lại không có bảo hiểm, tiền dành
dụm đã xài hết để trả tiền bịnh viện và mổ xẻ. Khi cô được giới thiệu
đến bịnh viện để trị liệu phóng xạ, cô tính bỏ mặc vận mạng đẩy đưa và
không trị bịnh nữa vì không có tiền; nhưng khi cô nhìn thấy dòng chữ
trên tường: ‘Cho dù ngày mai là ngày tận thế, tối nay tôi cũng phải
trồng đầy hoa sen trong vườn’ nên mới nghĩ lại, đi về nhà má mượn
tiền, tiếp tục trị bịnh và duy trì mạng sống. Cô nói: “Sanh mạng thiệt
là vô thường và có nhiều thử thách đầy đau khổ, tuy tôi không có khả
năng lớn lao gì nhưng tôi có một chút tâm nguyện là hy vọng làm hết sức
mình, giúp đỡ cho những người đồng cảnh ngộ cho họ sớm lìa khổ được
vui”. Tôi rất cảm động; hai người này đều bị bịnh ung thư nhưng một
người thì âu sầu khổ não; còn một người thì vượt thoát sự bi ai của
mình, giúp đỡ, an ủi, và lau nước mắt cho người khác, phát huy tiềm năng
của mình; khi còn sống thì mỗi ngày trồng một hoa sen, dần dần có nguyên
hồ sen thơm phức. Thử nghĩ trị bịnh nan y đòi hỏi bao nhiêu sức chịu
đựng và bao nhiêu sự giày vò; nếu đem sự giày vò này đổi lấy mạng sống
âu sầu khổ não có phải là rất đáng tiếc không? Tại sao không ‘trồng hoa
sen thanh khiết’ trong tâm khảm của mình, cho dù chỉ nở một nụ cười thì
cũng là bố thí, có thể làm cho mình và người khác đều được vui! Có câu
là: ‘Chỉ cần một niệm từ bi phát khởi, tật bịnh cùng khốn đều không
ngại !’
Có một bé trai mới sáu tuổi đã bị ung
thư tuyến lâm ba (lymphatic cancer), mới có bây lớn đã phải trải qua rất
nhiều đau khổ. Mỗi khi lượng bạch huyết cầu của em lên cao thì bác sĩ
phải chích một loại thuốc có tác dụng phụ là ói mửa. Việc làm cho em
vui nhất là khi lượng bạch huyết cầu giảm xuống quá thấp, thấp đến độ
không thể làm trị liệu hóa học được, bác sĩ sợ độ bạch huyết cầu quá
thấp thì dễ bị nhiễm trùng có thể nguy hiểm đến tánh mạng; đối với em
mỗi lần như vậy thì em vui sướng như ở tù được thả ra, tạm thời có thể
‘miễn bị hành hình’! Em nói với tôi: “Mỗi ngày ngoại trừ xem TV thì
cũng là xem TV”. Nhà em cũng khá giả nên em được ở một phòng bịnh
riêng. Em nói: “Cô em gần lập gia đình rồi; cô mời em làm ‘em bé cầm
bông’ trong hôn lễ của cô. Phải chi em có thể trưởng thành thì tốt biết
mấy, nhưng không biết có thể lớn nổi không?” Ðây là lời nói của một em
bé mới sáu tuổi, thiệt là làm cho người nghe được không khỏi ngậm ngùi.
Có lúc em ngồi ở phòng đợi để chờ chích thuốc, trước đó em rất vui khi
mang đồ chơi đến đó, nhưng đến cửa phòng thì nhớ lại ‘đau khổ gần đến,
gần bắt đầu rồi’ cho nên cụt hứng ngay. Ðôi khi em cắn chặt răng đưa
tay tự mình tìm ra một mạch máu rồi nói: “Lấy chỗ này đi”. Ðôi lúc em
cũng buồn hiu không chịu đi vô, em không khóc ra tiếng, chỉ khóc khe
khẽ, lệ ướt đẫm mi. Lần đầu tiên đến để rút máu từ vành tai em đã khóc
hết hai giờ đồng hồ. Cho đến nay đã chịu khổ quá nhiều lần rồi, em thừa
hiểu khóc hoặc là nhõng nhẽo thì cũng không giúp ích được gì nên em rất
dũng cảm để chịu đựng. Thiệt là một em bé quá đáng thương. Trong
đời sống chúng ta không muốn già nua thì phải đoản mạng (chết yểu), nếu
không muốn chết yểu thì phải già nua!
Có một người mới ba mươi mấy tuổi đã bị
ung thư mũi vào thời kỳ chót. Thường thường nếu ba mươi mấy tuổi đã
chết thì có lẽ bạn nói rất đoản mạng. Nhưng cô này chỉ mới ba mươi mấy
tuổi đã làm cho người nhà của cô cảm thấy không thể chịu đựng nổi nữa.
Chồng cô phải vừa lo cho con vừa lo cho cô nên phải xin nghỉ hoài, và
cũng vì vậy nên đã mất chỗ làm. Cả nhà lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn và
phải đến hội Từ Tế xin giúp đỡ. Hội Từ Tế đồng ý cho cô một số tiền to
lớn để trợ giúp cô trả tiền nhà thương. Má cô đợi lâu quá nên than:
“Tại sao lâu quá còn chưa đem tiền lại. Lâu quá!”. Tôi nói: “Người ta
không phải thiếu tiền bà đâu. Tiền này là do hội viên dành dụm, ăn xài
tiện tặn, từ bi đem đi giúp người. Họ không nhẫn tâm thấy bà chịu khổ
chứ không phải người nào cũng giàu có gì đâu”. Bà thở dài ra! Không
phải lo tiền bạc nữa! Nhưng không khí trong gia đình còn quá ngột
ngạt. Bịnh nhân cũng không an tâm tiếp tục sống, má cô lo cho cô đã quá
mệt mỏi nên nói: “Mày sao không mau chết cho rồi, làm hại tụi tao phải
chịu khổ theo!”. Chồng cô khổ quá thường lại hỏi tôi: “Cổ còn ‘kéo
dài’ được bao lâu nữa?”. Tôi nói: “Xin đừng dùng chữ ‘kéo dài’ được
không? Sống được một ngày trong cuộc đời này thiệt là rất quý, tương
ngộ một ngày thiệt là hiếm có”. Nếu chỉ chú trọng vào sự khổ và để ý
đến chỗ tối tăm trong đời sống của mình, cho dù không có bịnh thì cũng
là ‘kéo dài’ mạng sống. Nếu tích cực nghĩ về những chuyện tốt, cho dù
đời sống rất khó khăn thì cũng đáng sống. Nếu trân trọng đời sống, ba
mươi tuổi so với mười lăm tuổi cũng là trường thọ gấp đôi, so với người
sáu tuổi thì cũng trường thọ hơn gấp năm lần.
Tâm địa có thể cải tạo vận mạng.
Tôi có người bạn mới ba mươi mấy tuổi thì bị ung thư xương, trước sau
tổng cộng đã phải giải phẫu hai mươi lần. Sau một lần động mạch ra máu
không ngừng nên phải cưa đứt một chân. Ðời sống của cô còn khó khăn hơn
người kể ở trên nhưng nhờ biết áp dụng Phật pháp, lấy tâm biết ơn đối
đãi với nhau, cả nhà sinh sống còn vui hơn lúc chưa bị bịnh.
Cô nói với tôi: “Tôi rất may mắn, tôi
mất đi một chân mà có thể nghe được Phật pháp. Nếu không nghe được thì
không biết phải tạo ra bao nhiêu nghiệp tội, phải chịu bao nhiêu khổ
đau”.
Chồng cô ở bên ngoài phòng mổ đợi qua
hai mươi lần giải phẫu, quý vị biết được tâm trạng của ông chồng này
không? Ông nâng đỡ chăm sóc cô như một vị Bồ Tát, không hề than thở
chút nào. Sau khi biết Phật pháp, cô chống nạng cùng chồng nấu đồ ăn
đem cho những người cùng bị bịnh và khuyên họ niệm Phật. Tôi hẹn với
cô: “Cô học thuộc lòng kinh A Di Ðà rồi chúng ta cùng nhau đi lên núi
vừa đi vừa lạy để hồi hướng cho những người bị bịnh ung thư”. Do đó cả
nhà cùng với cô học kinh, con cô mới học đến tiểu học nói với cô: “Má
học thuộc lòng kinh A Di Ðà một chữ không sai thì con cho má năm trăm
đồng tiền thưởng”; Cô ở nhà vừa làm đồ thủ công vừa học kinh hoặc niệm
Phật, đến tối thì trả bài cho mọi người nghe. Ðến ngày cô học thuộc hết
quyển kinh, cô nói: “Cả nhà tôi từ trước đến giờ chưa khi nào vui mừng
giống như hôm đó”. Kể cả tiền thưởng của con và tiền công kiếm được
trong thời gian học kinh cô có được bốn ngàn đồng, cô đem toàn bộ đi
cúng dường Tam Bảo. Vì muốn đi lên núi mỗi đêm khi cả nhà đã ngủ yên
giấc, cô phải tập luyện lạy Phật. Nếu bạn thấy cô dùng một chân để lạy
Phật bạn sẽ cảm động đến rơi lệ. Chồng cô tìm cách quyên tiền để làm
cho cô một cái chân giả. Cô nói: “Nếu ông có thể quyên được mười vạn
đồng thì xin đưa tiền này cho tôi để tôi bố thí; tại vì một cái chân
cũng đủ dùng rồi”. Cô chỉ hai cây nạng rồi nói: “Tôi không phải là
thiếu một chân mà ngược lại tôi dư một chân”. Khi cô nói câu này là lúc
tế bào ung thư đã lan đến phổi nên phải mổ và trị liệu hóa học thêm một
lần nữa. Nét mặt cô hồng hồng và thường có nụ cười thật tươi, nhiều khi
còn tươi hơn những người không bịnh nữa. Cô nói: “Nhà tôi tuy là không
giàu có gì nhưng bây giờ còn vui hơn lúc trước khi chưa cưa chân nữa”.
Người niệm Phật ngay đời này đã có thể sống trong Tịnh độ, trong không
khí vui vẻ hòa thuận của cuộc sống hàng ngày. Như phần đông người bịnh
ung thư khác, cô cũng không tránh khỏi tình trạng kinh tế thiếu thốn; có
người mời cô mở tiệm làm trò chơi điện tử cho trẻ em có thể kiếm rất
nhiều tiền. Cô nói: “Tôi muốn thử chồng nên cố ý đem việc này hỏi ý
kiến của chồng”. Cô rất vui khi ông nói: “Chúng ta là người niệm Phật,
sợ con mình bị trò chơi điện tử mê hoặc thì làm sao có thể làm hại con
cái của người khác!”. Tôi rất khâm phục hai vợ chồng này, tuy là trong
hoàn cảnh khó khăn mà họ vẫn có những hành động rất cao thượng. Có
nhiều gia đình cũng vì kinh tế khó khăn nên phải sa vào hoàn cảnh đen
tối, ngược lại gia đình của cô nhờ bị bịnh mà có thể hướng về đức Phật,
đem những chướng ngại khó khăn của mình biến thành những đóa hoa sen
thơm ngát, rất xứng đáng làm gương cho người khác.
Có một người bị ung thư hàm miệng phải
giải phẫu để cắt bỏ tế bào ung thư và phải cắt bỏ luôn xương hàm dưới.
Bác sĩ phải cắt da trên ngực để đắp chỗ mổ và bất đắc dĩ ông trở thành
người không có môi. Ông không thể ăn cơm, chỉ có thể uống súp hoặc thức
ăn lỏng. Ông không thể ngồi ăn như người thường, phải nằm xuống để ăn,
nếu không thì thức ăn sẽ đổ ra. Vì không có môi cho nên đối với ông
không có chuyện ‘ngậm miệng lại’. Bạn hãy nhìn những người này làm thế
nào rán hết sức mình để chịu đựng và chống chỏi với bệnh tật; có nhiều
lúc tôi tự hỏi tại sao mình lại được may mắn hơn họ? Trong lúc chịu khổ
đau như vậy ai nỗ lực thì cũng có thể vượt qua; tuy họ có hoàn cảnh và
tâm trạng không giống nhau và có cái nhìn đời sống khác biệt nhau, nhưng
tất cả đều tin sâu những gì Phật nói. Lúc tôi giải thích những điều
Phật dạy cho người trẻ tuổi, nhiều khi phải nói đến khô cuống họng luôn
mà họ cũng không tin; nhưng đối với những người đang chịu đau khổ trong
bịnh viện, không cần nói gì hết, chỉ hỏi: “Khó chịu, đau khổ không?”.
Họ đáp: “Rất khó chịu, rất đau khổ”.
Tôi nói: “Phật nói thế gian là biển
khổ, hãy niệm A Di Ðà Phật, đem tâm niệm hướng về phía quang minh, lìa
khổ được vui”.
Họ không nói thêm câu nào nữa lập tức
bắt đầu niệm A Di Ðà Phật. Hèn chi mới có câu: ‘Thập phương ba đời
chư Phật đều lấy tám thứ khổ làm thầy’. Khổ là vị thầy tốt nhất,
nhưng chúng ta phải đợi cho đến lúc này sao?
Lại thêm một người bị ung thư hàm miệng,
ông đã bị mù, tế bào ung thư đã phát triển đến cổ. Nước vàng không
ngừng từ gò má chảy xuống. Con dâu của ông nói: “Ở nhà tôi xịt không
biết bao nhiêu dầu thơm cũng không làm những mùi hôi này bay mất”. Tôi
nghe rồi mới nói riêng với cô: “Tôi thấy cô thường dẫn ba chồng của cô
đi khám bịnh, cô rất có hiếu thảo; chăm sóc cho người bịnh ung thư rất
khổ, nhưng Phật có nói: ‘Trong tám phước điền, chăm sóc cho người
bịnh là phước điền hạng nhất’. Nếu cô tận tâm chăm sóc cho ông, làm
cho ông già được hoan hỷ, tự nhiên phước báo sẽ vô lượng. Một ngày nào
đó chúng ta cũng sẽ già đi, sẽ sanh bịnh, chúng ta đối xử với người già
như thế nào, con cái của ta cũng sẽ bắt chước theo để đối xử với chúng
ta. Chúng ta phải để ý, cho dù một hành động lời nói rất nhỏ nào cũng
vậy, cũng phải thương xót và tội nghiệp cho người bịnh. Người bịnh
không muốn có những mùi hôi như vậy. Ngày nay một trong ba bốn người sẽ
có một người bị ung thư, nếu người đó là mình thì cũng không thể nào
không có mùi hôi; họ bất đắc dĩ phải như vậy mà, nếu cô có thể bao dung
một chút thì cô sẽ có thêm phước báo.”
Vì ông bị mù nên thường hỏi bác sĩ bệnh
trạng rất kỹ: “Bịnh của tôi thật sự ra sao? Bác sĩ nói thiệt cho tôi
biết đi, không hề gì đâu. Ðiều tôi lo nhất bây giờ là con tôi còn một
đứa chưa lấy vợ!”. Ôi chao, người ta đúng là có vô biên phiền não, một
mình bịnh nặng mà không lo, lại lo cho ‘đứa con chưa cưới vợ’!
Khi một người không có năng lực lo cho
mình thì thiệt ra không có khả năng và biện pháp gì để lo cho người
khác. Nếu không vượt qua biển khổ của mình thì không thể nào độ người
khác và giúp họ vượt qua biển khổ được.
Có một bịnh nhân ở trước ngực có xâm
hình rồng và cọp, chắc trước kia là người trong băng đảng gì đó. Từ
ngày bị ung thư hóc miệng trở đi ông bắt đầu chân thành sám hối. Ông
nói: “Tôi thiệt đáng đời”, không một lời trách móc, chân thành ăn năn,
giúp đỡ bịnh nhân khác, tận lực tu thiện. Trải qua rất nhiều hoàn cảnh
khổ nạn cuối cùng ông cũng đã vượt qua…
Tôi thường nghe bịnh nhân than thở: “Cả
đời tôi đâu có làm ác, đâu có làm hại ai đâu, đúng là ông trời không có
mắt; tại sao để cho tôi bị bịnh khổ như vầy?”. Lời này làm tôi suy
nghĩ có thiệt như vậy không? Có thiệt là chưa làm việc ác không? Nếu
đúng như vậy thì chúng ta đều là thánh nhân hết. Xem lời Phật dạy,
chúng ta từ nhỏ đến lớn khi gặp chuyện không vừa ý thì nổi giận, mở
miệng thì chửi mắng. Vì dục vọng khi ăn uống không đoái hoài gì đến gà
con mất mẹ, không màng gì đến heo con một nhà sanh ly tử biệt. Không
nói lời thành thật, làm việc không tích cực, thường cãi lời cha mẹ, vân
vân. Tất cả không có thứ nào không bị tham, sân, si chi phối. Người có
trồng cải rồi đều biết hột cải tuy nhỏ nhưng lúc mọc ra cây cải thì
không nhỏ. Lúc quả báo chưa hiện ra chúng ta còn dám nói xấu người
khác, hoặc là trong lúc giận dữ nói lời xúc phạm đến người khác, dám mời
khách ăn hải sản sống. Khi quả báo hiện ra mới biết khổ không chịu đựng
nổi, đến lúc bị khổ nạn mới cầu nguyện để tiêu nghiệp chướng.
Lão hòa thượng Quảng Khâm có nói:
“Phải từ thân, khẩu, ý mà tiêu trừ
căn bản của nghiệp chướng”.
Nói một cách khác khi tham ăn, nghĩ đến
con cá chép, con cá trê này cũng là một chúng sanh mà mười phương chư
Phật thương xót; nói như vậy thì đó cũng là huynh đệ của mình, chư Phật
đang thương xót, má nó đang trông đợi nó; khi gặp chuyện muốn nổi giận
nhưng vì hiểu đó đều là mộng huyễn cho nên không sanh tâm sân hận nữa.
Nhịn không được muốn chửi người, nghĩ đến họ cũng là chúng sanh mà đức
Phật A Di Ðà ngày đêm trông mong để cứu độ và tiếp dẫn; họ cũng bị
nghiệp lực trói buộc và có sự khổ não, cho nên mới chuyển tâm niệm để
nghĩ đến Phật và niệm Phật.
Nếu có thể sửa đổi mình một cách tích
cực, không bị ngôn ngữ, hành động, ý niệm của thói quen làm chướng ngại,
nghiệp chướng sẽ bị tiêu trừ, sự khổ của bịnh tật cũng nhờ tâm niệm từ
bi nhu nhuyễn hóa giải và giảm dần đi.
Tôi gặp một giáo sư trung học, ông là
một bịnh nhân rất phi thường. Mỗi lần đi ngang giường bịnh tôi đều dùng
tâm niệm tìm tòi học hỏi để quan sát họ. Khi ông vào bịnh viện thì ung
thư đã lan đến tuỷ xương sống, đè đến dây thần kinh cho nên hai chân
không thể cử động được nữa. Trải qua một thời gian dùng phóng xạ trị
liệu thì miễn cưỡng có thể chống nạng đi được; nhà cầu ở ngay kế bên
giường đối với ông là một khoảng cách rất xa. Ông thường phải phấn đấu
rất khó khăn mới có thể ngồi dậy và đi vào nhà cầu; mặc dù thân thể của
ông rất yếu nhưng hai mắt ông rất có tinh thần. Ông nói chuyện rất khó
khăn vì thần kinh trong não cũng bị ung thư. Lúc ngủ hai mắt nhắm không
được, rồi sau đó xương chân bị gãy luôn. Trong lúc bị bịnh nặng như vậy
mà ông nói: “Rất tiếc là bây giờ tôi không thể dạy học được nữa!” (ông
đã là một giáo sư rất nhiệt tâm dạy học trò). Ông nói: “Từng trải qua
cơn bịnh quá đau khổ này làm cho tôi hiểu thêm về cuộc đời, hiểu rõ được
sự khổ đau của mọi người, tôi sẽ càng thương yêu chăm sóc học sinh của
tôi; rất tiếc là tôi không còn cơ hội nữa!”. Tôi nói: “Ông là một giáo
sư rất đáng kính trọng, chỉ xem nguyện vọng của ông khi bị bịnh như vậy
thì biết được”. Ông từ trên giường phấn đấu để ngồi dậy nhưng chỉ có
thể ngước đầu lên ba tấc. Chúng ta lúc ngồi dậy thì lập tức ngồi dậy.
Ông phấn đấu đến cả người đổ mồ hôi ướt đẫm áo cũng chỉ ‘gần’ ngồi dậy
được; nhưng ông rất vui và nói: “Tôi hôm nay có thể nhích được khoảng
cách như thế này”. Ðối với tôi, khi ông ngồi dậy được khoảng 30 đến 40
độ còn đáng nể phục hơn lực sĩ nhảy xa ở Thế Vận Hội. Ngoài sự phấn đấu
về thể lực ra ông còn có tâm nguyện muốn tiếp tục dạy học và tiếp tục
chăm sóc cho học sinh. Người thường chúng ta mỗi ngày khoẻ mạnh đầy đủ
tinh thần nhưng thường tính toán chuyện nhỏ nhặt để đem phiền não đến
cho mình; chúng ta thường than trách công việc trong chỗ làm, có sức lực
khả năng mà không làm chuyện tốt. Ông là một bịnh nhân nằm chịu đau trên
giường nhưng lại có nguyện vọng đi dạy học trở lại để chăm sóc dạy dỗ
thêm cho học sinh. Tuy là ông không thể làm vậy được, nhưng tâm nguyện
rộng lớn chân thành của ông đã đem ông lên giảng đài vĩnh viễn và trở
nên giáo sư của hàng vạn người.
Có một người bị ung thư lưỡi đang trong
thời kỳ cuối cùng. Tế bào ung thư đã từ lưỡi lan rộng đến cả hàm dưới.
Lúc đầu còn khoẻ thì có thể tự mình đi đứng được, sau đó phải có hai
người vịn ở hai bên mới đi được, rồi phải ngồi xe lăn, rồi cuối cùng thì
không cử động được nữa. Nước vàng từ những chỗ bị ung thư rỉ ra hoài;
mỗi khi tôi đến thay thuốc ông thường hỏi: “Tại sao càng ngày càng lớn
vậy?”. Ông nói chuyện không rõ ràng; khi tôi rửa vết thương thay thuốc
cho ông, ánh mắt của ông nhìn tôi hình như là đang hỏi: “Không biết bịnh
của tôi có thể lành được không? Tôi gần chết rồi phải không?” Cái tâm
trạng sợ hãi đó chính là tấm ảnh của ‘sanh tử trên sông Hằng’.
Khi chúng sanh đối đầu với sanh tử, ai
cũng cảm thấy rất cô độc, sợ hãi, khủng bố. Cho dù là một bà mẹ tám
mươi mấy tuổi cũng co ro vào lòng tôi khóc nức nở như một đứa bé … Một
hôm tôi đi nghe giảng kinh và đi ngang qua đường T. H. Trời lúc đó rất
lạnh, quán bán thịt nai bên đường vừa mới khai trương. Tôi lái xe mô tô
đi ngang nhìn thấy có ba con nai đang đứng khép nép trong lồng. Ánh mắt
của con nai đó rất quen thuộc, rất giống ánh mắt của những bịnh nhân
đang nằm trong bịnh viện, hình như họ đang nói: “Tôi sắp chết phải
không? Mau mau cứu tôi với; không kể dùng thuốc gì, dùng phương pháp gì
…” Tội nghiệp ba con nai. Hãy thả chúng ra! Thả cho chúng về rừng
đi! Một khi hô hấp của chúng ngừng lại thì không có cách gì có thể làm
cho nó chạy nữa, mau mau kiếm người chủ van xin đừng giết chúng nó! Khi
quay trở lại tôi ghé ngang và mua mấy con nai đi phóng sanh. Khi người
chủ nghe chúng tôi muốn đem nai đi phóng sanh, cảm động mà nói: “Tôi là
người nuôi nai, rất thương yêu chúng, không bao giờ giết hại chúng.
Nhưng vì kinh tế khó khăn, bất đắc dĩ hôm nay phải bán chúng làm thịt,
tôi cũng rất đau lòng!”. Nghe xong tôi rất xúc động, chúng sanh tạo
nghiệp thọ báo đều có những sự khổ não bất đắc dĩ như vậy. Thật ra mỗi
người đều có Phật tánh; đây cũng là lý do mà đức Phật A Di Ðà luôn luôn
khoan dung, thương xót, chờ đợi đến lúc chúng ta có một niệm quay đầu
trở về với quang minh. Chúng tôi mua nai xong đem chúng đi quy y Tam
Bảo rồi thả vào rừng, hy vọng là chúng sẽ không bị bắt trở lại, và cũng
nguyện cho những người đi săn có thể phát Bồ đề tâm, gặp nhân duyên
thiện có thể đổi nghề nghiệp, chấm dứt nghiệp sát để khỏi chịu khổ báo
nữa.
Bịnh nhân thường để một con cá
trê hay cá chép trong nồi hay thau nước ở dưới giường hoặc trên bàn để
ăn cho bổ. Khi tôi đến thăm bịnh thì thấy hình như những con cá này
đang vùng vẫy. Có một hôm tôi đến giường bịnh của một cô bị bịnh ung
thư vú. Cô là một tín đồ Cơ Ðốc giáo rất trẻ, mới hai mươi bảy tuổi đã
bị bịnh này; bạn có thể tưởng tượng được khổ tâm của cô không? Hai tay
cô lúc nào cũng lạnh. Ở dưới giường cô có để một con cá; tôi nói với
cô:
“Có người đang kêu cứu ở dưới giường
cô”. Cô mở mắt thật lớn và tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Tôi hỏi cô:
“Lúc cô biết được cô mắc phải bịnh này
thì cô rất hy vọng sẽ có người cứu cô hết bịnh phải không?”. Cô gật
đầu, tôi nói tiếp:
“Con cá dưới giường biết là nó sắp sửa
vô chảo nóng, cảm tưởng của nó cũng giống cảm tưởng của cô bây giờ. Cô
chịu làm Chúa Giê Su đi cứu con cá này không? Con cá đang cầu cứu cô
đó. Cô hãy xem”.
Mắt của cô đỏ lên (muốn khóc). Tôi mới
nói thêm:
“Cô phát tâm cứu chúng nó, lúc cô bị
chuyện khó khăn hay tai nạn, tự nhiên sẽ có người lại cứu cô”. Cô vui
mừng chịu đem cá đi phóng sanh. Sau đó một vị đạo hữu ở trường đại học
Chuyên Khoa Ðài Trung giúp cô đem cá đi phóng sanh…
Nhiều khi tôi nói với bịnh nhân: “Bán
cho tôi nồi cá sống này được không?”.
Bịnh nhân thường nói: “Nếu bác sĩ thích
ăn thì tôi tặng cho bác sĩ”.
Tôi trả lời: “Tôi ăn chay, không ăn cá,
tôi muốn mua những con cá này đi phóng sanh, đem công đức phóng sanh này
hồi hướng cho bạn, hy vọng là bạn cũng giống như con cá này cũng được
giải thoát, khôi phục lại sức khoẻ, sớm lành bịnh về nhà đoàn viên với
gia đình.”
Thông thường những bịnh nhân đã chịu quá
nhiều đau khổ hoặc có kinh nghiệm đi gần đến cánh cửa sanh tử đều hiểu
rõ ‘tình cảnh của mình cũng giống như của con cá’. Họ thường phát tâm
từ bi đem cá đi phóng sanh. Tâm niệm đem cá phóng sanh thường có thể
làm cho họ có cảm giác vui vẻ, cổ võ sự yêu đời của họ, và làm tươi
nhuận đời sống họ nhiều hơn là ăn cá.
Có một người trẻ tuổi khi đi
trên phố nửa đêm bị kẻ bất lương đâm vào bụng bị thương nằm ngã quỵ ở
bên đường. Sau đó được người ta chở vào nhà thương, vết thương quá lớn
nên lòi ruột ra, gan và mật cũng bị thương. Chúng tôi nửa đêm phải giúp
anh giải phẫu và khi đó anh không có người nhà đi theo nên chúng tôi
phải chụp hình vết thương trước khi giải phẫu để ngừa trường hợp giải
phẫu có trục trặc gì phải có bằng chứng bị thương trước… (Trong xã hội
hiện nay chúng ta cứu người cũng không phải là chuyện dễ dàng!). Anh
này mới đính hôn không bao lâu, bạn có thể tưởng tượng được sự bối rối,
lo lắng của người vợ sắp cưới khi nghe tin anh bị thương không? Những
thứ trong bụng chúng ta thật không phải là vật gì tốt đẹp, đức Phật nói
với chúng ta về ‘quán bất tịnh’, chúng ta có thể quán tưởng thử xem.
Nếu lúc đính hôn mà lấy một tấm hình vết thương bụng máu me tùm lum đem
cho người ta xem, chắc rất ít người sẽ chịu đính hôn với bạn!
Có một bịnh nhân nọ vào bịnh viện để trị
bịnh xương, phía trên chân có gắn một cây bằng kim loại xuyên qua xương
và qua luôn cả bắp thịt phía bên kia. Phía dưới chân cũng xỏ thêm một
cây như vậy. Bạn có thể tưởng tượng khuôn mặt và tiếng hét kêu đau của
người này lúc đút cây vào xương. Nếu người đó là bạn thì bạn có thể mỉm
cười được không? Chúng ta thử đoán xem? Bạn thấy những chỗ bán chim
nướng ở chợ đêm không? Có cả năm mười con chim xỏ chung vô một xâu treo
lủng lẳng trước quày hàng. Sự đau khổ gì gây ra cho những chúng sanh
khác một ngày nào đó cũng có thể xảy ra đến thân thể chúng ta. Khi
chuyện đó xảy ra thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn, một chút xíu
cũng không dễ chịu. Nhưng chúng ta thường đem sự đau khổ này gây ra cho
chúng sanh khác một cách vô tình và xem như không có gì xảy ra. Hãy
nghĩ đến sự khổ của chúng sanh, và cũng nên nghĩ đến hạnh phúc lâu dài,
xin tất cả mọi người đừng làm vậy nữa, để khỏi ‘hý tiếu sát tha mạng, bi
khốc nhập địa ngục’ (cười vui khi giết mạng sống của con vật, rồi khóc
than lúc vào địa ngục).
Có một người bị ung thư tử cung mỗi lần
gặp tôi đều khóc. Bà đã ly dị và một mình nuôi mấy đứa con rất cực khổ;
đứa nhỏ mới học tiểu học thì bà bị bịnh này. Mỗi ngày âu sầu phiền muộn
qua ngày… Thật ra trước đó bà đã trị bịnh gần hết rồi; nếu bà có được
chút ít trí tuệ trong đời sống… thì cũng có thể sinh sống vui vẻ. Người
ta có thể trị hết bịnh ung thư, nhưng sự đau khổ trong tâm nếu không
dùng trí huệ và nghe Phật pháp thì trừ không hết. Bà đã được trị liệu
bằng phóng xạ, bằng giải phẫu, chỉ thiếu một chuyện là không thỉnh đức
Phật mổ cho tâm bà. Sự giải phẫu có hiệu quả nhất là phải giải phẫu
trong tâm, bứng tận gốc rễ của phiền não, để bà đừng ôm cứng cây cổ thụ
phiền não mỗi ngày mà cứ tưởng là cây phiền não quấn chặt lấy bà.
Có một bà lão lúc vào bịnh viện băng kín
vải trên mắt. Lúc tôi mở băng ra trong tâm cảm thấy đau nhói! Bà lão
này có gương mặt rất hiền hậu, tròng mắt bà đã bị móc ra vì bị ung thư
nên phải làm như vậy. Chúng ta có khi nào nghĩ đến lúc dùng đũa để gắp
tròng mắt của con cá trên bàn ăn? Chúng ta thử nghĩ đến Helen Keller,
một vĩ nhân bị điếc, câm, và mù đã viết như vầy: ‘Nếu mắt tôi có thể
sáng lại được chỉ ba ngày thôi, chỉ ba ngày thôi…’. Chúng ta có thể
trong một trường hợp nào đó sẽ bị mất đi đôi mắt, vậy mà lúc còn đôi mắt
thì lại nhìn đông, nhìn tây và tự mình sanh ra phiền muộn? Tại sao
chúng ta không nhìn ánh mắt từ bi của đức Phật? Tại sao không nhìn về
phía có vô lượng hào quang? Chúng ta thường dùng cặp mắt quý báu để
nhìn rác rến ở chung quanh; đem rác rến của người khác bỏ vào tâm khảm
của mình. Ðể lâu rồi thì cả nội tâm giống như một cái thùng rác hôi
thúi nên phải xa cách với chúng Bồ Tát trong thanh tịnh đại hải. Xin
hãy mở rộng con mắt của nội tâm, nhân lúc còn nhìn thấy được, hãy nhìn
cái tốt đẹp của người khác, học tập ưu điểm của người khác; hãy cảm nhận
thêm một chút, hãy nhìn thêm ‘cám mục trừng thanh tứ đại hải’ của đức
Phật A Di Ðà, hãy nhìn phong cảnh cực kỳ xinh đẹp của thế giới Cực Lạc,
và tấm lòng rộng lớn như biển của chư Bồ Tát.
Có một người bị ung thư ở thực quản, hô
hấp bị khó khăn, phải đút một ống từ mũi vào phổi để giúp sự hô hấp và
một ống để đút đồ ăn vào bao tử; có khi bà phải rán sức để ho, mỗi lần
ho thì đau như xé ruột gan, toàn thân run rẩy vì đau đớn. Chồng bà nhìn
thấy cảnh tượng đau lòng như vậy chịu không nổi nên chạy ra hành lang mà
khóc. Ðôi lúc tôi đi chợ nhìn thấy những con gà bị treo trên quày thịt
cũng tội nghiệp như vậy. Trên cổ của con gà nào cũng có khoét một lỗ để
treo, rất ít người thương hại sự đau đớn của chúng nó; nhưng đến khi
người đút ống thở vào mũi là vợ, là con, hoặc là mẹ của bạn thì bạn cũng
sẽ đau nhót ruột mỗi khi họ ho và thở mạnh.
Có một người làm nghề bán thịt heo, ông
bị ung thư phổi được một thời gian thì qua đời. Tôi nghe vợ và con ông
kể lại khi ông về nhà mấy ngày hôn mê không tỉnh nhưng miệng cứ la hét
và nói:
“Mau mau đem những gan heo treo trên
tường đi chỗ khác”. Hoặc là:
“Mau đem đầu heo đi chỗ khác”.
Ông cứ kêu la như vậy suốt mấy ngày đêm,
mọi người trong nhà sợ đến lông tóc dựng đứng nhưng không hiểu ông nói
cái gì. Cảnh tượng lúc ông chết rất là dễ sợ, ông chịu rất nhiều đau
khổ. Từ đó người nhà của ông mới biết nhân quả báo ứng của sự sát sanh;
khi ông nằm bịnh viện tôi đã khuyên người nhà ông niệm Phật, nhưng họ
nói trong lúc buồn khổ như thế thì làm sao niệm được? Tuy đức Phật A Di
Ðà có lòng đại từ bi tiếp dẫn người niệm được mười danh hiệu Phật lúc
lâm chung vãng sanh về cõi Cực Lạc, nhưng lúc còn khỏe mạnh người ta rất
khó niệm được vì bị mê hoặc bởi tình ái của thế gian, huống chi là lúc
gần chết bị sự bịnh khổ giày vò hành hạ thì làm sao có thể niệm được!
Nguyện cho sự thị hiện thuyết pháp của người bịnh này làm cho người khác
nghe thấy được và rút tỉa kinh nghiệm để tránh khỏi sự đau khổ tương
tợ. Và cũng nguyện công đức cảnh giác chúng sanh của ông có thể giúp
ông lìa cảnh khổ và được Phật tiếp dẫn. Và cũng nguyện cho những chúng
sanh bị ông giết hại nương vào nước cam lồ của Phật pháp, cởi mở gút mắt
trong lòng, đồng niệm Di Ðà, đồng sanh tây phương, đồng thành Phật đạo.
Người khỏe mạnh thường than ngủ không
đủ. Trong bịnh viện có quá nhiều nước mắt, sự đau khổ kéo dài lây lất!
Người chưa tới số, nằm nướng trên giường và nói đồng hồ reo báo thức quá
ồn. Người tới số, suốt đêm chiến đấu và dằng co với sanh tử. Có một
người bị ung thư ở hàm dưới và lan đến cuống họng. Ông không thể nuốt
được, hô hấp cũng khó khăn, cho nên bác sĩ mới khoét một lỗ ở bụng để
đút ống dẫn thức ăn vào dạ dày, và khoét một lỗ ở cổ để giúp sự hô hấp.
Chúng ta có thể ăn uống không cần khoét lỗ để đút đồ ăn và hô hấp không
cần khoét lỗ đút ống thì thiệt rất quý, rất đáng biết ơn! Vài ngày
trước khi ông mất, có thể nói là mỗi ngày đều chảy máu một chút, cách
hai ba ngày lại chảy máu nhiều; máu từ miệng và mũi chảy ra, từ chỗ đút
ống thở chảy ra. Những người y tá và bác sĩ trực rất muốn cứu ông nhưng
chỉ có thể đứng một bên cầm cái thau để hứng máu từ thân ông chảy ra,
rồi phải truyền máu cho ông tại vì máu trong mình ông chảy ra từ những
chỗ không thể cầm được. Có một lúc máu của ông chảy ra dính vào cả
người tôi. Ðôi mắt của ông đỏ ngầu và sưng lớn lên trông rất dễ sợ. Cả
đêm chúng tôi ở bên cạnh chăm sóc và hứng máu cho ông. Sáng ngày hôm
sau còn phải tiếp tục khám bịnh nên tôi mới nhờ một người bạn đem áo lại
cho tôi thay. Áo tôi có thể thay còn áo của ông thì không thể thay
được! Bạn biết không, mỗi lần ông cử động mạnh một chút là máu chảy ra
nhiều thêm nữa. Chúng tôi phải không ngừng tiếp máu vào cho ông nhưng
cũng không nhanh bằng máu từ người ông tuôn ra; thuốc men gì cũng hết
công hiệu; thân thể ông cứ chảy máu như vậy và hành hạ ông cả ngày, cả
đêm. Người ta muốn nhắm mắt một cách êm đềm thiệt không phải là một
việc đơn giản!
Từ hôm đó tôi hiểu thêm một chút về vấn
đề sanh tử, cái hình bóng phản chiếu trên sông Hằng rất có thể cũng là
hình bóng của chính mình!
Có một em trai 16 tuổi là một học sinh
hạng nhất trong lớp; em bị bịnh ung thư não. Em đã phải mổ não bốn lần
mà ba lần mổ được tiến hành trong cùng một năm. Em vào bịnh viện lần này
để trị liệu phóng xạ, xương não của em bị cắt đi một khoảng cho nên cái
đầu bị lõm vô một bên. May mà tánh mạng còn duy trì và có cơ hội nghe
được Phật pháp. Một hôm tôi nhận được một bức thiệp cám ơn của ba em
gởi. Trong đó ông nói là em nhờ ông viết và hy vọng nếu thuận tiện thì
xin gởi cho em một tượng Phật để em lễ lạy. Ông rất khách sáo sợ làm
phiền tôi, và làm như là bất đắc dĩ lắm mới xin tượng Phật. Tôi cảm
động đến chảy nước mắt nên lập tức đi thỉnh một tượng Phật A Di Ðà cho
em. Ông ở Phong Nguyên, tôi quá bận nên phải nhờ một cô y tá đem cho
ông. Cô y tá này kể lại khi cô vừa đến thì em từ trên giường ngồi bật
dậy, vì nửa thân người gần như cử động không được nên đi cà nhắc nhưng
rất hăng hái và có tinh thần để đi lạy Phật. Nhìn cảnh tượng như vậy
nên cô cảm động và nói: “Tứ chi tôi còn khỏe mạnh nhưng từ trước đến nay
không bao giờ có ý muốn lạy Phật, nhìn thấy em chí thành như vậy, phấn
đấu hết sức lực yếu ớt của mình để lạy Phật, tôi rất xấu hổ”. Khi người
ta còn khoẻ mạnh đi đứng cử động được, thì cứ nghĩ đó là tự nhiên, ít
khi nào quý trọng. Thời gian thân thể khỏe mạnh không thể kéo dài hoài
được, những đoạn trước có kể người ta có thể mất đi miệng, mất cuống
họng, thậm chí đến mất bộ não. Ngày nay chúng ta còn có miệng chúng ta
nên học những lời nói ôn hòa tốt đẹp, cùng nhau khuyên nhủ giúp đỡ, cùng
nhau niệm câu vạn đức hồng danh ‘A Di Ðà Phật’. Chúng ta không biết khi
nào có thể mất đi bộ não, ngày hôm nay nên dùng nó để nghĩ đến hào quang
và lòng từ bi của đức Phật.
A Di Ðà Phật. A Di Ðà Phật.
Khi tôi làm bác sĩ nội trú vào năm thứ
nhất, có một đêm trực ở phòng cấp cứu. Nửa đêm có một người bị nghẽn
động mạch cơ tim, đã ngừng hô hấp và hôn mê không tỉnh. Mặt và lưỡi đã
biến thành màu tím ngắt. Máy đo tim và kết quả thử máu cho biết là tim
đã bị hư hoại trầm trọng; theo kinh nghiệm của bác sĩ chủ nhiệm thì bịnh
trạng nhẹ hơn người này cũng không cứu được nữa huống chi là tình trạng
nặng như người này nên nói cho người nhà phải ‘chuẩn bị tinh thần’. Tôi
cứ theo lệ thường vừa niệm Phật vừa lo cấp cứu bịnh nhân. Dùng hết
nhiều thứ thuốc rồi nhưng huyết áp của ông không thế nào đo được, ông
vẫn còn hôn mê và không thể tự mình hô hấp. Vợ của ông đau lòng nói
với tôi:
“Người ta nói ông trời thương và giúp đỡ
người hiền lương, nhưng tại sao ông trời không thương tôi?”. “Xin bác
sĩ tìm mọi cách để cứu ông, cho dù ông biến thành ‘người thực vật’ thì
tôi cũng chịu chăm sóc cho ông”.
Tôi cảm thấy là bà rất đôn hậu và thật
thà nên mới khuyên bà:
“Lúc người gặp tai nạn lớn, phải phát
đại nguyện niệm Phật thì hy vọng có thể vượt qua”.
Bà nói: “Làm sao phát đại nguyện?”.
Tôi nói: “Dùng tâm chí thành của mình mà
phát đại nguyện”.
Bà liền nói: “Từ nay trở đi hai vợ chồng
chúng tôi sẽ ăn chay trường và niệm Phật; ông ta là thầy giáo, khi hết
bịnh có thể hoằng dương Phật pháp”.
Tôi đưa bà và mấy người con mỗi người
một xâu chuỗi và nói: “Ðêm nay quý vị nóng lòng chờ đợi trong phòng cứu
cấp thì cũng không ích lợi gì, không bằng đem tâm bồn chồn này lắng
xuống để niệm một vạn danh hiệu Phật A Di Ðà, cầu Phật gia bị, Phật lực
không thể nghĩ bàn. Chúng tôi rán hết sức để cứu ông, quý vị vì ông mà
niệm Phật, nếu thọ mạng của ông hết thì ông cũng có thể vãng sanh Cực
Lạc”. Ðêm đó ba người bác sĩ chúng tôi cứ nhìn các điện đồ đo tim và đo
máu, điều chỉnh lượng thuốc từ 7 giờ chiều đến 3 giờ khuya. Một trong
ba bác sĩ than là: “Chúng ta ba người trực cả đêm để lo cho một người mà
không đo áp suất máu được!” (Nghĩa là người này nếu không có gắn máy
thì không thể tự mình hô hấp được). Ðiều kỳ lạ là đến khoảng bốn năm
giờ sáng thì áp suất máu của ông từ từ tăng lên, ông cũng từ từ tỉnh
lại. Tôi lập tức đi thông báo cho người nhà của ông. Tôi rất cảm động
khi mở cửa nhìn thấy cả nhà ngồi xếp thành một hàng đang niệm Phật một
cách rất chí thành. Con của ông viết trên một trang giấy: “Thưa ba, con
rất muốn ba mở đôi mắt hiền từ ra”.
Có một thanh niên đến thăm ông và khóc
sướt mướt làm tôi cứ tưởng là con của ông. Người thanh niên đó nói:
“Ổng là thầy tôi, lúc trước ổng ở trong một chái nhà lụp sụp, dùng hết
tiền lương để cung cấp lo cho đám học sinh chúng tôi. Nếu không có thầy
thì hôm nay không có tôi, xin bác sĩ nhất định phải cứu sống ổng”. Lời
nói chưa dứt thì lại khóc tiếp; sau đó tôi mới biết ông đã được chọn là
một trong ‘mười vị thầy có lòng thương lớn nhất đối với học sinh’. Sau
khi ông tỉnh lại phải tiếp tục dùng máy để trợ giúp hô hấp thêm ba ngày
nữa. Lúc đó ông bắt đầu niệm Phật; ngoài bịnh bị nghẽn động mạch cơ
tim ông còn bị bịnh phổi nữa. Cuối cùng ông cũng lành bịnh và tự mình
bước đi ra khỏi bịnh viện. Sau đó ông trở lại bịnh viện kiếm tôi để hợp
tác in kinh. Những bác sĩ xem qua tâm điện đồ và kết quả thử máu và
thấy sức khoẻ ông từ từ bình phục đều cảm thấy không thể tưởng tượng
nổi.
Có một cô gái rất đẹp lúc trước từng là
hoa khôi trong trường. Trên mặt bị bịnh ung thư sưng lớn lên khoảng gần
bằng ba cái đầu chụm lại. Lúc tôi mới gặp và nhìn thấy cô thì có cảm
tưởng như là có đứa bé đang ngồi trên đầu. Tuy cô phải chịu đựng sự đau
khổ to lớn này nhưng nghĩ lại cũng còn may. Trong thời gian đau khổ này
cô biết đến Phật pháp, cô than là: “Rất tiếc tôi nghe được quá trễ!”.
Nhưng nếu kịp thời phát tâm thì cũng không trễ. Trong trường hợp đau
khổ như vậy nếu người khác thì đã kêu trời kêu đất rồi, ngược lại cô còn
có thể niệm Phật. Cô đem sự đau khổ biến thành nước cam lồ của lòng từ
bi, đổi sự áo não buồn rầu thành ánh sáng thanh lương, tâm cô đã nương
dựa vào đức Phật A Di Ðà. Cô đem tất cả tài sản của cô ra để cúng dường
cho mọi người và dặn dò chuyện lâm chung đại sự. Rất nhiều pháp sư và
liên hữu cũng cảm động và từ bi niệm Phật tiếp cô. Một hôm cô đưa năm
trăm đồng nhờ tôi mua hột giống hoa đem gieo trong chùa hoặc là phía
trước của Tịnh Nghiệp Tinh Xá Niệm Phật Ðường; cô nói là để khi nào hoa
nở có thể cúng Phật, có hoa nở ra hoài để cúng Phật. Chúng ta là người
khoẻ mạnh nhưng không ai có tâm niệm đẹp như cô. Có lẽ bạn sẽ nói mặt
của cô rất xấu xí, diện mạo không còn đẹp như xưa nữa, nhưng nghĩ lại
chúng ta có tâm niệm đẹp như cô không? Cô đưa tôi sợi dây chuyền quý
nhất mà má cô tặng cho cô lúc trước và nói: “Nhờ bác sĩ bán sợi dây
chuyền này xong rồi đem tiền đi in kinh, cúng dường Tam Bảo… tuỳ tiện
làm thế nào cũng được, miễn là có thể làm lợi ích cho chúng sanh”. Thật
là hiếm có, trong lúc cô chịu đựng muôn vàn đau khổ mà lại có được tâm
niệm đẹp như vậy, bạn đã thể hội được sức lực của Phật pháp hay không?
Rất nhiều người vào thăm cô, cô nói: “Tôi bị bịnh này là do nghiệp báo
[của những chuyện ác mà tôi làm lúc trước], quý vị thăm tôi rồi sau này
phải đừng làm việc ác, nên làm việc lành, luôn luôn nhớ như vậy, phải
biết dự trữ đồ ăn phòng khi đói kém. Mau sớm niệm Phật thì mới không
uổng chuyến đi thăm tôi lần này”.
Có một ông già tám mươi tuổi bị ung thư
phổi từ viện dưỡng lão đến. Ông nói: “Lúc ông năm tuổi thì cha ông mất,
tám tuổi thì mẹ mất, một người sống cô đơn đến nay đã 80 năm”. Có thể
nói là ông đã nếm đủ hết mùi vui, buồn, ly, hiệp trong đời. Ðến nay đã
già lại mắc phải bịnh nặng, suốt ngày phải nằm trên giường. Có một đêm
ông ngồi dậy ôm gối tự nói chuyện với mình : “Tôi muốn đi về, tôi muốn
đi về”; giọng nói rất là thê lương, nhưng lúc đứng dậy thì đứng không
vững và lại té bị thương. Răng trong miệng đã bám đầy bựa, mỗi ngày y
tá phí bao nhiêu sức lực để kêu ông chà răng, ông nhất định không chịu
chà và nói: “Người muốn chết rồi, chà răng để làm gì nữa!”. Ðã gần hai
tháng ông không chịu ăn gì hết nên gần kiệt lực vì đói. Rất khó khăn
lắm tôi mới để thuốc và thức ăn vào miệng ông, nhưng ông nhất định không
chịu nuốt và quyết tâm muốn chết. Sau đó đại và tiểu tiện cũng không
khống chế và điều kiển được; đi đại tiểu tiện ngay trên giường bịnh.
Ông không có gia đình, người làm trong bịnh viện không đủ, không có
người túc trực ở kế bên để thay vải trải giường và thay quần áo. Sau đó
cả quần áo cũng không còn sức để mặc mà cũng không chịu mặc, chỉ còn trơ
da bọc xương như vậy nằm trên giường. Vì ông không chịu ăn cơm cho nên
chỉ có thể chích thuốc. Tay ông bấy hết vì kim đâm để chích thuốc hoặc
lấy máu. Ðây là cái khổ của sự già nua. Khuyên ông niệm Phật nhưng
ông cũng rất khó niệm được, mỗi lần nhìn ông thì không có bút mực nào
diễn tả hết những sự đau lòng khổ não này. Ông cũng đã từng khoẻ mạnh
như chúng ta, đã từng bước đi thoăn thoắt trèo non vượt suối, cũng đã
từng giống như chúng ta, khi đói thì kiếm ăn, cười tươi như hoa nở.
Nhưng những đợt sóng sanh tử của sông Hằng một giây phút, một tích tắc
cũng không chịu ngừng lại… Thân thể chúng ta cũng như căn nhà có thể bị
hư hoại và bị sụp đổ; sống trong căn nhà cũ bị hư, bị dột mưa thì rất
khổ, rất khó khăn. Nếu lúc đó chúng ta niệm Phật, đem tâm an trú tại
cõi Tây phương tự do tự tại, kiên cố thanh tịnh, bất cứ lúc nào cũng có
thể dọn nhà đi thì rất trang nghiêm tốt đẹp. Nếu buồn rầu áo não theo
căn nhà cũ nát, sợ là tương lai bạn cũng sẽ dọn đến căn nhà còn hư dột
và cũ hơn hiện tại nữa, đời đời chịu khổ!
Có một bịnh nhân đã già, có người nói
ông đã 80 tuổi, có người nói ông đã 90 tuổi. Hình như trước kia ông là
giáo sư trường đại học Bắc Kinh, diện mạo của ông rất giống người trí
thức. Ông không phải là bịnh nhân thuộc chuyên khoa chữa trị của tôi.
Từ lúc đầu tiên khi tôi gặp ông thì ông đã hôn mê bất tỉnh. Mỗi lần đi
vào phòng bịnh tôi chỉ có thể niệm ‘A Di Ðà Phật, A Di Ðà Phật’ vào tai
ông. Cứ như vậy cả hai tháng ông chưa khi nào có một chút phản ứng gì
hết. Sau cùng ông tỉnh lại, có chút phản ứng và nhìn tôi, ra hết sức
hình như muốn niệm ‘A Di Ðà Phật’, nhưng không có sức để niệm ra tiếng.
Tay ông cử động hình như muốn chắp tay, chắp tay lại đối với người khoẻ
mạnh là một chuyện rất là dễ dàng, nhưng đối với ông thì lại vô cùng khó
khăn. Không phải là lúc còn trẻ da ông cũng rất hồng hào mềm mại hay
sao? Nhưng thế gian vô thường, hồng hào mập mạp trẻ trung sẽ từ từ
biến thành già nua lụm cụm!
Hình như tôi đã đem hình tượng của những
người lớn tuổi kéo xuống tận đáy thẳm vực sâu, như thế có phải quá tàn
nhẫn hay không? Nhưng nếu không diễn tả rõ ràng thì mọi người không
hiểu rõ những chuyện trong thế gian, không buông xả được, như vậy thì
không thể đạt được hạnh phúc tự tại. Nếu không kịp lúc hồi đầu niệm
Phật e rằng sẽ hối hận vĩnh kiếp về sau!
Phần đông khi người ta sắp chết thì hô
hấp rất khó khăn. Nếu đang ở trong bịnh viện thì bác sĩ sẽ đút một ống
vào miệng hoặc vào mũi vô khí quản đến phổi để duy trì sự hô hấp. Ðến
lúc nguy cấp thì đẩy vào phòng có y tá túc trực thường xuyên để theo dõi
bịnh nhân. Có khi dùng duỡng khí chụp vào mũi để giúp cho bịnh nhân
thở. Khắp nơi trên thân thể chỗ nào có thể đút ống vào thì cũng đều đút
ống, thí dụ đường tiểu thì đút ống vào để thông tiểu, miệng thì đút ống
vào để dẫn thức ăn vào bao tử, hoặc mũi thì đút ống vào phổi, chỉ thiếu
một thứ là không có một ống gì để dẫn ánh sáng của đức Phật A Di Ðà vào
tâm khảm của người ta. Một phòng bịnh có y tá túc trực (intensive care)
thì cũng giống như một địa ngục ở trần gian. Có lẽ những thiết bị tối
tân này đã cứu sống rất nhiều người, nhưng thiệt ra đối với bịnh nhân,
không kể là chữa lành bịnh hay không đều là địa ngục rất dễ sợ, không
người nào thích bị đưa vào thêm một lần nữa! Lúc trước khi đọc kinh Ðịa
Tạng tôi thường nghĩ là chư Phật Bồ Tát sợ chúng sanh làm chuyện ác, cố
ý nói ra để dọa người, đâu có chỗ nào là địa ngục thiêu đốt, địa ngục
cắt lưỡi, … cái khổ gì cũng có, rất là dễ sợ, hình như đều là dọa người
ta. Ðến khi tôi vô bịnh viện thì mới biết đức Phật nói câu nào cũng đều
là sự thật, và cũng hiểu được tại sao đức Phật ở trong kinh đã nhiều
phen dặn dò và phó chúc Ðịa Tạng Bồ Tát là: “Ðừng để chúng sanh đọa
vào ác đạo [cho dù chỉ là] một ngày một đêm”. Nhất định phải nói
rõ cho chúng sanh biết những sự khổ trong nhân quả báo ứng này, đừng để
cho chúng sanh đọa vào ác đạo chịu khổ một ngày một đêm.” Nhưng
lúc bình thường chúng ta có để ý và hiểu tâm từ bi này của Phật không?
Khi bịnh nhân kêu tôi nửa đêm, lúc tôi
rất mệt và buồn ngủ nhưng phải tỉnh dậy để đi thăm họ, săn sóc, cho
thuốc hoặc là trị liệu, lúc đó thấy chúng sanh đang chịu đựng bên bờ
sanh tử, những câu trong kinh Bát Ðại Nhân Giác liền hiện ra trong tâm:
“Sanh tử thiêu đốt, khổ não vô lượng, phát đại thừa tâm, phổ tế tất
cả, nguyện chịu thay vô lượng khổ cho chúng sanh, làm cho chúng sanh đến
được sự sung sướng viên mãn”. Nhưng khi nhìn thấy cảnh tượng quá
khổ này kêu bạn đi chịu khổ thay cho chúng sanh bạn có thể làm được
không? Thử hỏi những sự khổ đã kể ở đoạn trước, bạn có thể thay thế cho
họ một đêm không? Tôi không nói chuyện ‘thay thế’ này quá khó, chỉ là ở
một bên để săn sóc an ủi người bịnh liên tục mấy đêm liền không ngủ, cả
ngày lẫn đêm thì đã quá khó rồi (thường thì bạn sẽ cảm thấy đầu nặng,
tim đập mạnh hơn lúc trước…). Tu hành trong nhà Phật trừ tâm từ bi ra,
còn cần có lòng tin vững chắc, nguyện lực rộng lớn, niệm Phật chuyên cần
thì mới có khả năng thoát ra khỏi lục đạo sanh tử luân hồi khổ não.
Thiệt ra không nói là thay thế chịu khổ, chỉ ‘nghe’ thôi, cả ngày ngồi ở
đó từ sáng đến tối nghe người ta than thở: “Tôi khổ như thế nào”, “nhà
tôi có sự khổ vô cùng”, để cho bạn nghe một ngày 24 giờ, liên tục mấy
ngày liền thì bạn sẽ hiểu. Sau khi tôi ‘nghe’ một thời gian, có một hôm
khi tôi đang niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì nghe có tiếng người khác cũng
đang niệm “Nam mô Ðại từ Ðại bi Quán Thế Âm Bồ Tát”, nghe xong câu này
tôi liền có một niềm xúc động vô hạn, chảy nước mắt lúc nào không hay.
Thật đúng như vậy, đừng nói để bạn thay thế chúng sanh chịu vô lượng
khổ, chỉ để bạn ‘nghe’ sự khổ thì liền biết lòng từ bi vô biên của Bồ
Tát. Ngài đã phát nguyện “lắng nghe chuyện khổ nạn trong thế gian”, chỗ
nào có người chịu khổ liền lập tức đến để cứu họ. Chúng ta lắng tâm để
niệm Bồ Tát, từ danh hiệu của một vị Bồ Tát thì biết được lòng từ bi vô
cùng tận của chư Bồ Tát, tâm địa rộng lớn không thể nghĩ bàn của quý
ngài.
Khi đôi mắt tôi nhìn thấy sự buồn rầu,
lo sợ, khủng bố của những người sắp chết, đôi tai nghe vô số tiếng khóc
lúc sanh ly tử biệt, quay lại niệm ‘vô lượng quang minh và vô lượng thọ’
của đức Phật A Di Ðà, tự nhiên lại tràn đầy nước mắt và cảm nhận được sự
từ bi thông cảm vô cùng thân thiết chứa đựng trong danh hiệu đức Phật A
Di Ðà. Thì ra đức Phật A Di Ðà từ xưa đã biết được những sự đau buồn
đen tối và sự lo sợ trong vòng sanh tử của phàm phu chúng ta, nên ngài
phóng vô lượng quang đến khắp mọi nơi để cứu độ, không nhàm chán mà an
ủi chúng sanh. Ngài không nghỉ ngơi, không ‘lấy vacation!’, ngày cũng
như đêm, chí nguyện vĩnh viễn không bao giờ ngừng nghỉ mà cứu giúp chúng
sanh trong biển khổ sanh tử, đem sự thanh lương ở cõi Cực Lạc ban bố cho
chúng sanh. Bạn có để ý những khi mưa suốt mấy ngày liền nhưng mặt trời
vẫn không mất đi. Vô Lượng Quang Thọ là một nguồn từ bi vĩnh hằng,
chiếu rọi vô tận, không bị bất an vì mất đi quang minh, không có sự đau
khổ của sanh ly tử biệt.
Có khi đêm đã khuya, thuốc ngủ và thuốc
chống đau đều không còn hiệu lực nữa, tôi thường ở bên giường bịnh nhân
giúp họ niệm Phật (thật ra phải nói là ‘Bồ Tát bịnh nhân’ giúp tôi niệm
Phật, vì nếu không có họ ở một bên, tôi không siêng đến nỗi nửa đêm
không ngủ, thức dậy niệm Phật). Hòa hợp vào nhịp thở và tiếng niệm
Phật của bịnh nhân, vừa niệm vừa nghe từng câu từng tiếng một cách an
tịnh. Khi thuốc men không còn công hiệu nữa, hết sức thành khẩn cầu cứu
đức Phật A Di Ðà có công hiệu mạnh nhất, có thể an ủi thân tâm đau khổ
của bịnh nhân; lắng nghe được một tiếng thì ngay khi đó liền được giải
thoát, nếu an tịnh mà nghe rõ ràng từng chữ từng chữ thì sự đau khổ
trong mỗi phút này biến mất cũng như sương tan khi mặt trời mọc. Phật A
Di Ðà giống như một công ty cung cấp điện lực miễn phí, chỉ cần bạn đừng
rút đồ cắm điện ra thì sẽ thâu nhận được nguồn năng lượng vĩnh viễn
không bao giờ chấm dứt này.
Có một người bị ung thư ở mũi, ở đây
giới thiệu về người này là có ý nghĩa đặc biệt. Ung thư của cô đã lan
rộng đến lúc khó thở thì cô mới đến bịnh viện, lúc đó vô cùng đau đớn.
Một thời gian không lâu trước khi mất, cô phát tâm ăn chay; cô kéo tay
tôi và nói: “Bác sĩ à, nếu bịnh tôi không có hy vọng chữa hết thì xin
cầu cho tôi được mau mau về nước của đức Phật A Di Ðà”. Cô từ bịnh viện
khác đến bịnh viện chúng tôi để trị liệu phóng xạ. Bịnh ung thư mũi vốn
là bịnh có hiệu quả trị lành bịnh rất cao, chỉ cần phát hiện sớm và trị
liệu sớm thì đều hết bịnh, nhưng cô phát hiện bịnh quá trễ. Vì nửa đêm
cô bị hô hấp khó khăn nên người ta mới chở cô đến bịnh viện chúng tôi
cấp cứu, nhưng cứu không được. Ðêm đó tôi không có trực tại bịnh viện,
cho đến sáng hôm sau lúc tôi đến thì cô đã ngừng thở hết một thời gian
và được xem là đã chết rồi, người nhà đang sửa soạn để xuất viện. Không
biết tại sao y tá ở phòng cấp cứu kêu tôi bằng hệ thống truyền thanh của
bịnh viện. Khi tôi đến nhìn thấy cô thì cảm thấy rất buồn; tôi kề bên
tai cô và nói:
“Trong đời sống ngắn ngủi của cô đã
chịu đựng quá nhiều đau khổ, con cô tuy còn nhỏ nhưng còn chồng cô lo
cho nó, những chuyện này cô muốn lo cũng lo không được rồi. Bây giờ cô
nhất định phải buông xả hết tất cả mọi việc, cô hãy cùng tôi niệm ‘A Di
Ðà Phật’ rồi đi theo ngài về tây phương Cực Lạc Thế Giới”.
Tôi ở bên cạnh cô niệm Phật và cầu đức
Phật từ bi nhiếp thọ; lúc đó trong lòng tôi cảm thấy rất rõ ràng mỗi một
câu niệm Phật đều từ đáy lòng phát ra. Một điều kỳ lạ là nước mắt của
cô cứ chảy ra hoài. Sau đó tôi mời những cô y tá trong phòng cấp cứu
lại xem và nói:
“Trên mặt y khoa chúng ta nói là cô
ta đã chết, hơi thở đã đoạn dứt rồi, không còn nhịp tim đập, không còn
áp suất của máu, tất cả đều không còn nữa. Nhưng nhà Phật nói tại vì
người chết có chấp trước, thần thức của họ chưa hoàn toàn rời khỏi thân
thể, bình quân phải đợi đến 8 giờ sau mới lìa khỏi thân thể, do đó chúng
ta phải lo cho người gần lâm chung hoặc là mới chết một cách đàng hoàng”.
Nhưng người hiện nay nếu tắt thở trong
bịnh viện, phần đông là không cho chúng ta để yên không động thi thể của
họ, điều này thật đáng tiếc.
Là người học Phật chúng ta phải đặc biệt
chú ý, lúc lâm chung vô cùng quan trọng, vì lúc người ta gần tắt thở tứ
đại phân ly rất là đau đớn, thần thức gần thoát ly ra khỏi thân thể đau
giống như gió rét cắt thịt hoặc như kéo mu rùa rời khỏi thân rùa.
Lúc bấy giờ tuyệt đối đừng đụng chạm đến thân thể của người mất, phải
nhắc nhở và giúp họ niệm Phật, giúp họ khởi lên chánh niệm muốn vãng
sanh cõi Cực Lạc. Nếu không vãng sanh thì phải tùy theo nghiệp báo
đi đầu thai, đời đời kiếp kiếp luân lạc trong sáu nẻo luân hồi, sự khổ
đau của sanh lão bịnh tử cứ diễn đi diễn lại mãi mãi. Cho dù bạn là ông
vua hay tổng thống cũng không tránh khỏi, thông minh không đối chọi được
với nghiệp lực, giàu sang cũng không miễn được luân hồi!
Một lần nữa xin nhắc nhở quý vị, nếu
sau này gặp những trường hợp như vậy thì phải chú ý: lúc lâm chung và 8
giờ đồng hồ sau khi tắt thở, đều phải nhất tâm niệm Phật, nếu tín nguyện
được chân thành thiết tha, đức Phật nhất định từ bi nhiếp thọ. Trong
lúc này (trong vòng tám giờ ) không được di chuyển và động chạm đến thi
thể của người mất, không được làm bất cứ chuyện gì động chạm đến họ (kể
cả di chuyển giường họ đang nằm)
.
Nếu bạn đã bị bịnh nặng thì biết trong
lúc thân thể vô cùng yếu đuối và đau đớn, cho dù chỉ là nhích một tí để
xoay mình lại, hoặc là thay áo thì cũng làm cho người bịnh rất đau, thân
tâm rất khó an lạc. Phần đông người ta cho rằng niệm Phật là để tiễn
đưa người mất, thật ra đức Phật A Di Ðà có vô lượng quang và vô lượng
thọ, niệm Phật cho người bịnh nặng là đem tâm đang đau khổ rối loạn của
người bịnh khế hợp ( nối liền ) với vô lượng hào quang của Phật (cũng là
để khôi phục lại vô lượng quang thọ trong tự tánh của mỗi người.). Nếu
mạng chưa hết niệm Phật nhờ vào Phật lực gia trì có thể tiêu tai diên
thọ; có nhiều bịnh nhân buông xả hết vạn duyên nhất tâm niệm Phật, vốn
là bịnh rất nặng nhưng cũng lành bịnh. Nếu thọ mạng đã hết khi niệm
Phật thì được đức Phật tiếp dẫn về cõi Cực Lạc đi ‘du học’, được tự tại
an lạc. Trong bịnh viện tôi từng thấy rất nhiều bịnh nhân được đưa vào
phòng cấp cứu nhưng cứu không được, bác sĩ tuyên bố đã chết rồi. Vài
giờ sau người nhà từ phương xa đến, người mất tự nhiên ra máu mũi hoặc
chảy nước mắt. Những chuyện này làm cho tôi càng tin tưởng lời dạy của
người xưa ‘không được đụng chạm và di động người mất trong vòng tám
giờ sau khi tắt thở, hết lòng niệm Phật để trợ niệm cho người mất’.
Ở đây xin quý vị để ý đừng nên xem thường chuyện này mà tạo nên những sơ
sót không thể nào hàn gắn lại được.
Có một bịnh nhân vốn là một người bán
thịt heo, thường ngày đối xử với mọi người rất tử tế; nghề mổ heo là do
cha mẹ truyền lại, ông nói: “Chúng tôi không thể đổi nghề và cũng không
biết là nên đổi nghề khác”. Thuở nhỏ có người dạy ông niệm A Di Ðà
Phật, nên mỗi lần ông nhìn thấy tượng Phật thì đều chắp tay niệm ba
tiếng ‘A Di Ðà Phật’. Ðiều đáng quý là ông nói ông không cầu nguyện gì
cho mình cả mà hy vọng đức Phật phò hộ cho tất cả chúng sanh; ông nói:
“Ðức Phật làm sao chỉ phò hộ cho một mình tôi được chứ”. Quan niệm này
thật rất đúng. Tuy đã làm nghề này lâu rồi nhưng tâm địa của ông rất
hiền lương; ông không biết giết heo là làm hại chúng sanh thì phải chịu
quả báo không tốt. Ông bị ung thư hàm dưới, qua một thời gian sau
nguyên cả cuống họng cũng bị ung thư lan đến, tuy có chữa trị nhưng cũng
tái phát trở lại. Mỗi đêm ông nằm trên giường rên rỉ, hít thở rất khó
khăn và phát ra âm thanh như kéo cưa vậy. Trong miệng có đàm không thể
khạc ra và không thể nuốt xuống, cuống họng như bị xiết cứng lại nên mỗi
lần thở mạnh thì rất đau. Ông nói lúc đó ông mới biết được sự đau khổ
của con heo vừa bị làm thịt; ông thật tâm sám hối. Ông ăn không được
nên phải đút ống (vào miệng để dẫn thức ăn lỏng). Trên quan niệm thì
ông đã hiểu rõ và phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ; sắc mặt của ông
khác hẳn với những bịnh nhân khác, ông không thường âu sầu. Ông nói:
“Nhờ bác sĩ xem thân thể tôi có bộ phận nào còn dùng được, đôi mắt của
tôi có thể quyên cho người khác không? Tim tôi còn tốt không? Có thể
quyên cho người không? Nếu quyên được thì xin quyên, tại vì hy sinh một
mình tôi không quan trọng lắm, nếu có thể làm cho người khác sung sướng
thì rất quý”. Tôi nói: “Tâm của ông thiệt rất giống tâm địa của Bồ
Tát. Ðời của mỗi người có thể làm gương cho người khác, đôi mắt của ông
chỉ có thể cho một người duy nhất. Người đó có đôi mắt này sẽ nhìn thấy
mọi sự vật, nhưng sau khi nhìn thấy không biết người đó sẽ ‘vui’ hay
‘giận’. Nếu dùng đôi mắt này để nhìn những thứ làm cho người đó phẫn nộ
thì rất đáng tiếc. Một người tiếp nhận đôi mắt thịt này chưa chắc sẽ
sung sướng. Nếu không biết dùng thì giải phẫu thay tim cũng không thể
làm cho người hạnh phúc, nếu người đó không hiểu rõ được đạo lý chân
chánh”. Ý tôi không phải phản đối không cho người giải phẫu thay bộ
phận trên thân thể. Nhưng người có thể chịu đau trong lúc mổ xẻ mà
không sanh tâm sân giận hay hối hận cần phải có ‘đạo lực’ rất lớn; hơn
nữa, tuy là người bị bịnh ung thư có lòng tốt và quyên tặng bộ phận trên
thân thể khi họ còn sống, nhưng người tiếp nhận có ngại sau khi nhận bộ
phận này sẽ bị ung thư không? Ông có lòng tốt như vậy rất đáng quý, tôi
không thể ngăn cản ông được, chỉ nói với ông là: “Bây giờ ông nên niệm
Phật gấp rút để vãng sanh đến tây phương Cực Lạc thế giới và sau đó theo
nguyện vọng trở lại độ chúng sanh; chỉ cần lúc này ông nỗ lực niệm Phật
để đến phút cuối có thể bước chân lên đài sen, ông sẽ làm gương tốt cho
rất nhiều người, và làm cho họ hiểu được sự thù thắng của cõi Cực
Lạc”. Ông nói suốt đời ông làm nghề này, lúc ban đầu vì tình trạng
kinh tế trong gia đình bắt buộc, nếu không làm (giết heo) thì không có
tiền sinh sống. Sau này tính lại số tiền ông kiếm được làm nghề này
không đủ để ông trả tiền nằm nhà thương mà trái lại còn thiếu nợ nữa,
làm cho đời sống càng khó khăn thêm. Người ta thường viện cớ ‘không làm
như vậy không được’, tuy biết là làm như vậy không đúng với Phật pháp mà
cũng tiếp tục làm. Ðợi đến một ngày nào đó phát hiện ra ‘không được
nữa’ quay đầu nhìn lại mới biết làm như vậy kiếm không được bao nhiêu
nhưng cuối cùng phải mang bịnh và đau khổ, phải trả bằng một giá quá
đắt, thiệt không đáng chút nào. Lúc ông nằm bịnh viện có một số liên
hữu lại giới thiệu Phật pháp và giúp ông niệm Phật. Sau khi về nhà và
mấy ngày trước khi ông mất, ông nhờ người nhà kiếm họ tiếp tục trợ
niệm. Vài người ở Y Vương Học Xã và bà chủ nhà trọ của tôi đều đến trợ
niệm cho ông. Nghe nói ông mỉm cười và niệm Phật mà đi. Họ càng niệm
Phật thì ông càng cười tươi hơn. Xong rồi họ nói với tôi: “Chúng tôi
trợ niệm cho ông, ông mỉm cười nhìn chúng tôi. Sau tám giờ đồng hồ ông
cũng vẫn còn mỉm cười nhìn chúng tôi”.
Có câu thơ như vầy:
‘Tự thị bất quy, quy tiện đắc
Cố hương phong nguyệt hữu thuỳ tranh’
(Không chịu quay về, về được ngay,
Gió trăng quê cũ kẻ nào tranh?)
Nụ cười của ông khi ‘quay về cố hương’
thật là sự an ủi và khích lệ cho những người đang vùng vẫy bàng hoàng
bên bờ sanh tử. Nụ cười cuối cùng của ông là nụ cười vô cùng hiếm hoi
và trân quý.
Những câu chuyện kể trên đều là hình ảnh
của sông Hằng. Tất cả các hình ảnh của dòng sông ‘sanh tử’ này đã làm
cho đức Phật Thích Ca cảm thấy rất nhức đầu. Ngài đã nhìn thấy những
hình ảnh của sanh, lão, bịnh, tử và suy nghĩ để tìm cách cứu giúp chúng
sanh xa lìa biển khổ sanh tử. Trải qua một quá trình tu trì gian khổ
dưới bóng cây Bồ đề, ngài đã giác ngộ được tất cả đạo lý của nhân sanh
vũ trụ. Bắt đầu chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển, thuyết pháp Tứ Ðế
(Khổ, Tập, Diệt, Ðạo) cho nhóm năm tỳ kheo đầu tiên (nhóm ông Kiều Trần
Như). Ngài nói cho họ biết ‘nhân sanh’ có các thứ khổ như thế nào,
nguyên nhân của khổ là gì, phương pháp thoát khổ là gì, và sau khi thoát
khổ thì sẽ ra sao. Tôi nghĩ đây là cuộc diễn giảng về y học hoàn hảo
nhất trong lịch sử nhân loại. Ðức Phật là một người thầy thuốc vĩ đại
nhất, ngài đã giảng cho chúng ta phương pháp vĩnh viễn miễn trừ những sự
đau khổ này! Như tia sáng lóe ra từ trong đêm dài đen tối, giác ngộ là
một con đường vô cùng xinh đẹp, con đường đi về cố hương, đi trở về với
Phật tánh thanh tịnh vốn sẵn có của mỗi người. Ðức Phật Thích Ca mỗi
ngày đều kêu gọi chúng ta mau mau lên đường đi về quê hương. Ngài muốn
chúng ta tháo mở những phiền não đang trói buộc chúng ta để đi đến sự an
lạc viên mãn.
Quý vị muốn nối gót đức Phật lên đường
về quê hương không? Có nhiều người đi theo đức Phật và đã giác ngộ
rồi. Xin quý vị xem hình của lão hòa thượng Hư Vân, chỉ cần nhìn thần
sắc của ngài, chỉ cần nhìn phong độ phi phàm của ngài mà không cần xem
truyện ký, chúng ta cũng cảm nhận được tấm lòng của ngài rộng lớn như
thế nào mới có thần sắc như vậy? Tôi đã nghe một pháp sư kể lại vào năm
thầy của pháp sư 36 tuổi, lão hòa thượng lúc bấy giờ đã 106 tuổi, hai
người đi qua một con sông, cây cầu bắt ngang sông làm bằng hai cây trúc
hợp lại. Vị thầy trẻ tuổi này không dám đi qua, lão hòa thượng nắm lấy
cổ áo của ông nâng lên như thế rồi khiêng ông đi qua sông. Hai chân của
ông còn đá tới đá lui sợ hết hồn, lão hòa thượng một nháy mắt cũng không
chớp thì đã khiêng ông đi qua cầu. Nguyên câu chuyện này quý vị có thể
đọc được trong niên phổ truyện ký, ở đây chúng ta chỉ nhắc đến một chút,
mọi người có thể từ đó mà suy nghĩ. Hãy nhìn xem những người nối gót
theo chân đức Phật, họ làm thế nào mà ‘sanh thời lệ tợ hạ hoa, tử thời
mỹ như thu nguyệt’? Lúc sống đẹp như hoa mùa hạ, lúc chết đẹp như trăng
tròn mùa thu chiếu sáng khắp nơi.
Thêm một vị đại đức gần đây nhất là lão
hòa thượng Quảng Khâm, mọi người đều xưng tán ngài là ‘bảo vật’ trong
Phật giáo. Ðây là di ảnh chụp lúc ngài 95 tuổi, hai ngày trước khi vãng
sanh, đôi mắt sáng và vô cùng sắc sảo. Năm lão hòa thượng 92 tuổi, tôi
có dịp theo ngài đi lên núi; ngài đi ở phía trước từng bước rất vững
vàng và nhanh chóng. Tôi đi theo phía sau thiệt rất mệt mới theo kịp.
Lúc đó chùa Thừa Thiên còn đang xây cất chưa xong, khi đi qua một đoạn
đường có nhiều vật chướng ngại, xém chút xíu tôi bị té, ngài quay đầu
lại nói: “Con phải đi cẩn thận nghen!”, giọng nói của ngài khàn khàn
nhưng có oai lực, ánh mắt nghiêm nghị nhưng chứa đựng lòng từ bi vô
hạn. Tôi rất hổ thẹn; bây giờ trên đường đời đã vấp ngã bao lần, đã gặp
phải nhiều chướng ngại, nhớ lại lời ngài nói thì tự nhiên lệ đẫm ướt mi
lúc nào không biết.
Có người tưởng ngài rất là huyền bí nên
muốn đi ‘điều tra’ cặn kẽ. Ðến khi nghe ngài nói chuyện hết nửa ngày
chỉ nghe toàn là những từ ngữ như: ‘niệm Phật’, ‘đừng ăn thịt’
nên trong bụng thầm nghĩ: ‘tôi cũng biết nói như vậy, cần gì phải hỏi
lão hòa thượng!’. Thật không sai, ai cũng biết nói như vậy, nhưng chúng
ta không ai đã từng trải qua sự tu hành khổ hạnh, công phu thứ thiệt như
ngài, lại không có đủ đức hạnh để cảm hóa người khác. Cho dù có nhiệt
tâm để khuyên người, người ta còn chê mình là ‘nhiều chuyện’ nữa. Ngài
đã hàng phục được mình, đã hạ thủ công phu rất sâu trong sự tu niệm nên
tự nhiên cảm hóa được hàng vạn người. Lúc ngài còn trẻ tu hành ở trong
hang trên núi, khi lương thực đem theo đã hết thì chỉ nhờ vào khoai rừng
và rễ cây để duy trì mạng sống. Ba chiếc áo vá đi vá lại đến khi chỉ
còn một chiếc, suốt sáu mươi năm chỉ ngồi không nằm, đối với vật chất
yêu cầu rất thấp. Lúc còn trẻ ở chùa Thừa Thiên thầy của ngài là Chuyển
Trần lão hòa thượng có dạy ngài như vầy:
“Ăn những thứ mà người khác không ăn,
mặc những thứ mà người khác không [muốn] mặc, làm những gì mà người khác
không làm, sau này thì ông mới biết”.
Thầy của ngài chỉ dạy ngài tu khổ hạnh
và chuyên niệm Phật. Ngài làm theo những lời dạy này một cách rất thật
thà, hạ thủ công phu trên tâm địa mình, rốt cục ngài trở thành một vị
rất là phi phàm; rất nhiều người vừa mới gặp liền cảm động, mến phục, và
rất kính trọng ngài.
Những lời ngài khai thị thường thường
chỉ là một vài câu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng; nếu chúng ta tin
theo được thì nhất quyết sẽ không lãng phí đời này. Như phía trước có
nói: ‘niệm Phật’ và ‘đừng ăn thịt’. Nếu chúng ta trong
mỗi niệm đều niệm Phật, làm cho đại quang minh, trí huệ, từ bi, và giác
ngộ của chư Phật bất kỳ lúc nào cũng tràn đầy trong tâm khảm của mình;
như vậy không phải là lúc nào cũng kiết tường hay sao? Không còn sự đau
khổ của ‘nhân, ngã, thị, phi’, không chịu sự hành hạ của tham, sân, và
si nữa. Nếu giảm bớt sự ham thích ăn uống và làm theo lời dạy của
ngài: ‘đừng ăn thịt’ thì từ từ sẽ thể hội được đạo lý: ‘cùng một gốc rễ’
(cùng bản thể), sẽ thưởng thức được sự hỷ duyệt (vui sướng ) của lòng từ
bi; mỗi ngày trong lòng đều điềm đạm, bình thản, mộc mạc, tin sâu,
nguyện thiết và niệm Phật cầu sanh tây phương; lúc lâm chung sẽ nhờ sức
Phật tiếp dẫn, thoát khỏi sự đau khổ đời đời kiếp kiếp của sanh tử luân
hồi! Hai câu nói đơn giản của ngài đã chỉ ra con đường sáng rỡ thành
Phật ngay trong một đời. Ai thật thà chịu nghe, tin, và làm theo thì sẽ
được lợi ích lớn; người không thật thà chỉ thích nói lý thuyết cao siêu,
làm những chuyện kỳ quái, phô trương một số thần thông mà lại xem thường
lời dạy quan trọng nhất này thì sẽ đánh mất cơ hội quý báu để thoát ly
sanh tử luân hồi.
Ðệ tử của lão hòa thượng thuật lại lúc
ngài còn tại thế, một hôm có một người xách cặp táp kiểu điệp viên 007
một cách rất thần bí, lên núi xin gặp và nói chuyện ‘riêng’ với ngài.
Vì trong quá khứ đã có người có ý muốn làm hại ngài cho nên các đệ tử
không cho người này đơn độc gặp lão hòa thượng. Người này đến kề vào
tai lão hòa thượng và hỏi ngài một cách rất cung kính:
“Kính thưa lão hòa thượng, người ta đều
nói ngài có thần thông, xin ngài nói thật với tôi ngài có thần thông hay
không?”.
Sau đó lão hòa thượng cũng thần bí kề
vào tai người kia và nói: “Tôi nói với ông, tôi có ăn thì có thông,
không ăn thì không thông!”.
Sự kỳ diệu của Phật pháp là ở chỗ rất
bình thường, không lôi cuốn sự hiếu kỳ của người ta bằng những thần
thông hoặc những tướng trạng kỳ dị. Người người đều có đầy đủ thần
thông, chỉ vì bị tâm tham, sân, si, mạn, nghi, phiền não che lấp nên
không thể hiện ra được; có thần thông mà không thể giải quyết vấn đề
sanh tử thì cũng như không. Hướng ngoại tìm cầu nhờ ‘những người có
thần thông’ cứu giúp thì là ‘bỏ gốc rễ (căn bản) mà tìm cành nhánh’.
Ngài nói: “Cầu người thì là mất đi đức Phật Thích Ca”.
Tôi cảm thấy ‘thần thông’ vĩ đại nhất
rất đáng cho mọi người tán thán là công phu nhẫn nhục của ngài: ‘nhẫn
chuyện người không nhẫn được, làm chuyện người khác làm không được’.
Năm xưa khi ngài từ hang động trên núi về đến chùa Thừa Thiên ở Ðại lục,
đầu tóc mọc ra quá dài làm cho ngài trông giống như một người rừng,
không ai nhận biết đến khi giải thích rõ ràng thì mọi người mới nhận
ra. Về chùa qua một thời gian sau đó, vị sư ‘đương gia’ (thầy giám
viện) và ‘điện chủ’ trong chùa muốn khảo nghiệm công phu tu hành của
ngài nên cố ý đem tiền trong thùng phước sương dấu đi, rồi giả vờ nói
nghi ngờ lão hòa thượng đã ăn cắp tiền này; từ đó mọi người đều cho là
ngài đã ăn cắp, ai cũng đều nói nặng nói nhẹ lão hòa thượng. Ngài nghe
những lời nói này như gió mùa xuân thổi và như uống nước cam lồ, an
nhiên tự tại, tâm lượng của ngài thật vô cùng rộng lớn, thật là một
người tiêu diêu tự tại. Cái ‘thần thông’ nhẫn nhục này so với những thứ
‘phóng quang, lên khói’ thì còn thần kỳ hơn nhiều; tại vì đốt giấy thì
sẽ lên khói, đốt đèn thì sẽ phóng quang, nhưng chúng ta tự hỏi ai bị vu
oan là người ăn trộm mà vẫn an nhiên tự tại như uống nước cam lồ và vẫn
không giải thích biện bạch rằng mình không phải [người ăn trộm]. Ai có
công phu tu hành đến mức nhìn thấu chuyện thế gian như bèo như bọt là
người có đại trí huệ, xứng đáng được người khác cung kính. Chúng ta
thường biến thành vật mà lão hòa thượng hình dung là ‘thạch đầu cẩu’
(con chó chạy theo cục đá). Người ta muốn chúng ta chạy thì rất dễ,
chỉ cần liệng một cục đá thì mình liền chạy theo, đuổi theo đến khi mệt
lả, đuối sức cũng chỉ vì đuổi theo một cục đá ăn không được! Lão hòa
thượng mở to đôi mắt nói: “Không có chủ trương (ý chí không cứng rắn
nhất định) như vậy làm sao có thể đi về Tây phương được?” Ngài làm
chủ được mình, sanh tử tự tại, mọi người đều kính trọng. Ngài không cầu
danh văn lợi dưỡng và biểu hiện qua hành vi trong đời sống thường ngày,
làm cho mọi người tâm phục khẩu phục. Có lần nọ một ký giả nhà báo lên
chùa uy hiếp, đòi tiền ngài và nói: “Ngòi bút của tôi rất lợi hại, nếu
không đưa tiền cho tôi thì tôi sẽ viết xấu về ngài”. Lão hòa thượng
điềm nhiên và nói: “Cứ việc đăng lên báo, tùy ý viết như thế nào cũng
được, tôi không cần người ta cung kính, nếu người ta cung kính tôi, mỗi
ngày tôi phải niệm Chú Ðại Bi gia trì vào nước Ðại Bi cho họ; nếu người
ta không cung kính tôi, tôi được rảnh rang thanh tịnh mà niệm A Di Ðà
Phật”. Người ký giả này cũng không làm gì được và cảm than rằng ngài
không giống người phàm, đúng là: ‘Sự việc đến mức không tâm thì rất
vui sướng, người có thể không mong cầu thì phẩm đức tự nhiên cao’.
Còn lần nọ, một số đệ tử theo ngài đi
nghe giảng và biết vị pháp sư thuyết pháp có ý phê bình ngài trong buổi
giảng nên nổi giận và về chùa thuật lại với ngài. Không ngờ ngài nghe
xong không những không nổi giận mà còn kêu nhóm đệ tử này phải sám hối
với vị pháp sư đó, và còn giải thích rõ [dùm vị pháp sư] hàm ý của những
ngôn từ đó. Ngài nói với nhóm đệ tử nếu người ta lấy pháp danh của mình
mà chửi mắng thì mình phải cám ơn người ta, huống chi là họ không có nói
rõ tên mình ra! Ngài còn nghiêm nghị mà giảng về đạo lý: “Nếu muốn Phật
pháp hưng thịnh thì tăng phải khen ngợi tăng”. Ngài khen ngợi vị pháp
sư đó: “Trong thế giới trược ác này có thể độ chúng sanh, đúng là Bồ
Tát”. Và còn khiêm tốn nói: “Tôi không dám làm”. Công phu của lão hòa
thượng đạt đến mức chúng ta không thể suy đoán nổi, những việc xảy ra
thường ngày đều nói lên tâm lượng rộng lớn của ngài. Mỗi câu chuyện đều
làm cho tôi cảm động, ngài như ánh thái dương từ bi phổ chiếu từng ngọn
cỏ từng gốc cây; tuy nhiên có khi cũng dùng cây kiếm trí huệ của ngài
chém sạch cành lá của phiền não, chém sạch danh văn lợi dưỡng, giúp cho
những mầm non đang lớn có thể hướng về Tây phương thanh tịnh. Ngài
thường đề ra những bài thi đột xuất, thường rất là sôi nổi và kích
thích, tài nghệ ‘diễn kịch’ của ngài rất xuất sắc; những người bị khảo
thí này thường bị cảnh giới chuyển dời, ngay khi đó không cảnh giác thì
không biết, lâu dần thì hiểu được và mới biết dụng ý rất từ bi của lão
hòa thượng. Phương pháp và sự tập luyện của ngài có thể hình dung là:
‘Xay đến tróc vỏ, mài đến [gạo] trắng, nhồi đến nhuyễn, nung đến đổi
màu’. Cách này làm cho một người chân chánh phát tâm tu hành trở thành
‘một cái bánh thánh có thể cúng dường tất cả chúng sanh, cúng dường tất
cả chư Phật’. Quá trình này thường phải đòi hỏi rất nhiều nước mắt và
mồ hôi. Có lúc lão hòa thượng cũng rớt nước mắt, từ bi mà nói với đệ tử
đang bị ngài khảo thí: “Thầy dạy như vậy con có hiểu rõ chưa? Thầy sợ
kết oán thù với con, vốn là muốn giúp con phá đi những thứ chấp trước
này, nhưng nếu con không hiểu rõ được hết dụng ý, thì sẽ kết thành oán
thù với các con. Tạo cảnh nghịch ra là để tập luyện cho các con mà
thôi!”.
Tổ sư nói ba món tư lương cần có để vãng
sanh Tây Phương là ‘tín, nguyện, và hạnh’. Nguyện là chán ghét muốn
thoát ly cõi Sa Bà và ưa thích cõi Cực Lạc. (Sa Bà là từ ‘tự tâm
ác’ và ‘tâm uế’ (dơ) tạo ra, Cực Lạc là do ‘tự tâm thanh tịnh’ hiện
ra). Tuyết Công lão ân sư cũng nhấn mạnh cái tâm ‘hân’ (ưa thích) và
tâm ‘yếm’ (chán ghét) là pháp môn ‘tổng an tâm Tịnh độ’. Phàm phu chúng
ta trong cảnh thuận rất khó phát ra tâm chán ghét Sa Bà, bất đắc dĩ nên
lão hòa thượng cho đến chư Phật Bồ Tát đều ‘ban’ cho chúng ta những cảnh
nghịch, để cho chúng ta ‘dùng khổ làm thầy’, dũng mãnh phát tâm chán
ghét Sa Bà ưa thích Cực Lạc mà niệm Phật, liễu sanh thoát tử, dùng sự
tinh tấn cần khổ trong đời này đổi lấy sự tự tại hạnh phúc vĩnh viễn;
thật ra đây là ân huệ không có gì quý hơn mà các ngài ‘ban’ cho chúng
ta. Ngặt vì chúng ta ưa thích những ‘mìn nổ chậm được bao bọc đẹp đẽ
bên ngoài’, theo đuổi sự khoái lạc và danh lợi nhất thời mà đánh mất sự
an lạc vĩnh cửu. Chư Phật Bồ Tát thường rơi lệ vì những sự tổn thất
lớn lao của chúng ta.
Có lần lão hòa thượng nghiêm nghị nói:
“Trong thế giới Sa Bà này, chỉ cần
tham ái một ngọn cỏ thì sẽ đi vào luân hồi trở lại”
Cho nên mặc cho mọi người đối với ngài
vô cùng cung kính cúng dường, ngài vẫn buông xả một cách rất là siêu
thoát; ngôi chùa có một kiến trúc vô cùng hùng vĩ trên núi đối với ngài
chỉ là ‘một công cụ dạy học nhất thời mà thôi’, ngài mượn những nhân
duyên và cảnh giới này để giảng dạy cho những chúng sanh có duyên.
Những người buông xả hoàn toàn và thành thật niệm Phật vãng sanh mới là
đệ tử chân chánh của ngài. Không lâu trước khi vãng sanh, ngài cứ lập
đi lập lại và nói:
“Sự khổ nạn càng ngày càng nhiều, hãy
tu mau lên, phải tu mau mau; tu một phần được một phần công đức, tu một
ngàn phần được một ngàn phần công đức, tu một vạn phần được một vạn phần
công đức!”.
Ngài rất nhẫn nại nhắc đi nhắc lại hoài,
đây là sự khuyên nhủ vô cùng khẩn thiết; tin lời ngài nói thì hãy
thật thà niệm Phật, một môn thâm nhập không nên đổi tới đổi lui hoài!
Có một vị đạo hữu kể lại khi ông đi thăm
và hỏi lão hòa thượng:
“Phải niệm Phật cách nào?”.
Ngài nghe xong liền hỏi lại: “Ông niệm
như thế nào?”.
Ông trả lời: “Khi tôi rảnh rang thì liền
niệm Phật”.
Lão hòa thượng đáp: “Ông ‘rảnh’ thì
niệm, không rảnh thì không niệm, như vậy chắc ông có ‘quen biết lớn’
(điểm đầu chi giao) với Phật phải không? Niệm như vậy thì làm sao kỳ
vọng Phật đến cứu ông trong giờ phút sanh tử. Lại đây, mọi người đưa
chân ra, chân nào là chân Phật? Nhận ra chân của Phật không? Nếu muốn
ôm chân Phật, chân Phật là chân nào cũng không nhận ra, thì làm sao ôm
được. Ông đích thật là có nhận biết được Phật không?” (ôm chân Phật
nghĩa là cầu cứu đức Phật).
Ngài nói như vậy là để thức tỉnh người
ta. Vị đạo hữu này kể tiếp, ngài hớp một ngụm trà rồi ngước đầu lên
hỏi: “Ông thấy tôi có ‘xướng’ ra tiếng không?”. Ông đáp: “Không có”.
Ngài hỏi: “Tôi niệm Phật ông biết không?” Lão hòa thượng dạy một cách
rất sống động và biểu diễn niệm Phật trong khi uống trà, ăn cơm, đi,
đứng, nằm, ngồi, tất cả mọi thời đều phải niệm Phật. Nửa đêm không vặn
đèn khi nghe hai tiếng ho ‘ách xì’ thì bạn biết là cha bạn đã về. Như
vậy lúc nửa đêm nếu đức Phật A Di Ðà đến thì bạn biết là Phật đến hay
không? Chúng ta hãy thử hỏi mình đã niệm đến mức nhận biết Phật và cùng
Phật rất quen thuộc hay không? Lão hòa thượng đã niệm đến mức đó rồi.
Có một lần ngài nói với một vị bác sĩ đến thăm: “Tiếng chim hót, xe
chạy, âm thanh tạp loạn đều là tiếng niệm Phật”. Ông này hỏi ngài có
thể niệm như vậy được bao lâu, ngài đáp: ‘trú dạ lục thời’ (nghĩa là 24
giờ mỗi ngày, bất kỳ lúc nào cũng niệm như vậy).
Mười năm trước lão hòa thượng đã nói với
đệ tử của ngài: “Tương lai lúc tôi vãng sanh sẽ hiện ra tướng có bịnh”
và còn nói ba người trong nhóm đệ tử của ngài sẽ không tiễn ngài ra đi
(hiện diện lúc ngài ra đi). Ba người đệ tử này đều không tin, tại vì
[họ nghĩ] một trong ba người thế nào cũng có một người luôn ở bên cạnh
ngài. Làm sao có thể nói là họ không thể ‘tiễn ngài ra đi’ được. Quả
nhiên không sai, lúc ngài ra đi vì một lý do đặc biệt gì đó cả ba người
tạm thời đi khỏi thì ngài thiệt đã vãng sanh rồi.
Trước lúc ra đi ngài khuyến khích đại
chúng:
“Thế giới Sa Bà rất khổ! Ðại chúng
mau mau niệm Phật để đi về tây phương Cực Lạc thế giới”.
Cuối cùng ngài nói: “Không đến, không
đi, không có chuyện gì!” rồi an nhiên niệm Phật và vãng sanh. Thật
là đẹp, thật là siêu phàm!
Chúng ta thì ngược lại: “Ðến đến, đi
đi, quá nhiều chuyện!”, không có ngày nào, không có giờ phút nào mà
không có chuyện để lo lắng và bận tâm đến. Chữ ‘sự tình’ (chuyện xấu )
trong tiếng địa phương ở Ðài Loan hàm ý không kiết tường, đúng như người
ta thường nói:
‘Bất thị nhàn nhân nhàn bất đắc, nhàn
nhân bất thị đẳng nhàn nhân’
(Nếu không phải người nhàn hạ thì
nhàn không được, người nhàn hạ không phải là người tầm thường).
Trong tâm chúng ta nếu thiệt là không có
‘chuyện gì’ hết, thiệt là ‘nhàn hạ’ thì phải cần công phu tập luyện chứ
không phải dễ!
Khoảng một tuần trước lúc ngài vãng
sanh, cả ngày lẫn đêm ngài đều to tiếng niệm Phật, cách niệm của ngài là
‘dùng hết sức mình rất thành khẩn mà niệm A Di Ðà Phật’, không phải
người nào cũng có thể niệm như vậy được. Ðại chúng luân phiên nhau niệm
lớn tiếng theo ngài mà còn khan tiếng, đau ngực, chịu không nổi huống
chi ngài đã 95 tuổi ! Ða số người ta lúc gần ra đi thì hô hấp rất yếu
ớt, không thể làm chủ được, còn ngài thì mạnh như ‘tướng quân đột phá
vòng vây thoát ra khỏi ngũ trược ác thế’. Mấy người đệ tử sợ ngài yếu
sức chịu không nổi vì cả tháng ngài đã không ăn gì hết nên nói:
“Ðể chúng con niệm, xin sư phụ đừng
niệm, chỉ nghe theo mà thôi!”.
Ngài mở to mắt ra nói một cách rất dứt
khoát: “Mỗi người niệm theo mỗi người, sanh tử của ai thì tự người đó
đoạn dứt.”
Nói xong liền lớn tiếng và thành khẩn mà
niệm tiếp. Vào ngày thứ sáu trong tuần đó, đột nhiên ngài ‘biểu diễn’
một màn kịch, tôi nghĩ thật là đáng để mọi người chiêm nghiệm. Hôm đó
đột nhiên ngài không khuyên mọi người niệm A Di Ðà Phật như lúc trước mà
lại ra lịnh cho đại chúng mau đem Ðại Tạng Kinh ra tụng. Ðại Tạng Kinh
quá dài ai cũng không biết bắt đầu từ đâu mà tụng nên hỏi lão hòa thượng
phải tụng quyển nào?
Ngài đáp: “Tổng tụng” (tụng hết).
Ðại chúng mới đem từ quyển Ðại Tạng Kinh
ra, nội việc khiêng ra cũng mệt đứt hơi, nhìn thấy ngài có vẻ rất quyết
tâm vãng sanh, mọi người vừa mệt, vừa gấp, mà vừa buồn. Ngài nói: “Ðể
coi quý vị biết quyển kinh nào, tất cả đều tụng cho tôi nghe!” Vì thế
cho nên đại chúng mới tụng từng bộ từng bộ: Tâm kinh, kinh Kim Cang,
kinh Dược Sư, kinh Ðịa Tạng, … Lúc ở trong cửa ngõ sanh tử khẩn yếu này
mới biết nội hai trăm mấy chữ trong Tâm kinh cũng tụng không mạch lạc;
có thể nói là miệng họ tụng nhưng tâm họ lại lo ra. Lúc mọi người tụng
kinh như vậy, ngài lại cười chúm chím mà tiếp tục niệm: “Nam mô A Di Ðà
Phật, Nam mô A Di Ðà Phật, ….” một tí gì cũng không bị ảnh hưởng bởi âm
thanh đại chúng đang tụng kinh. Nụ cười này của ngài thiệt là một cây
gậy thật to đập vào đầu của mọi người! Thử hỏi trong màn biểu diễn bất
ngờ này có ai đã ‘tổng tụng’ Ðại Tạng kinh không? Duy chỉ có lão hòa
thượng niệm niệm phân minh, rõ ràng, niệm niệm rất khẩn thiết mạnh mẽ
niệm A Di Ðà Phật, đây mới là ‘tổng tụng’ Ðại Tạng kinh!
Chúng ta xin đừng nghi hoặc tại sao lão
hòa thượng lại thay đổi tiết mục bất ngờ như vậy. Ngài thường dùng
phương pháp ‘phản diện’ rất khéo léo để làm cho mọi người tỉnh giác và
còn làm cho mọi người ghi nhớ vào xương vào tuỷ; ý nghĩa rốt ráo của sự
tu hành là phải ‘thực hành’, không phải chỉ nghe rồi bỏ qua; trong
trường Y khoa bàn luận chuyện chữa bịnh trên sách vở hiển nhiên rất khác
với chuyện gặp lúc bệnh nhân máu chảy đầm đìa! Có lẽ các bạn sẽ nghĩ sự
thị hiện của lão hòa thượng rất giống cách nói của Tuyết Công lão ân sư:
‘Sáu chữ hồng danh bao gồm hết tinh
hoa của tất cả vạn pháp’.
Phần đông người ta khi lâm chung rất khổ
sở, chỉ bốn chữ ‘A Di Ðà Phật’ cũng niệm không được, huống gì là tụng
kinh mà còn tụng Ðại Tạng kinh nữa! Chúng ta hãy nghe theo lời dạy bảo
và hãy ‘lão thật niệm Phật, đừng thay đổi đề mục’ nữa. Ðừng lâm
vào tình trạng ‘luyện hết mười tám thứ võ nghệ, đến lúc khổ đau quá
không biết phải dùng thứ nào’. Mỗi ngày thay đổi đề mục hình như có vẻ
học rộng biết nhiều và hình như cũng kết rất nhiều duyên với Phật và Bồ
Tát. Ðến lúc cần thiết thì tâm rối nùi như tơ, không biết phải niệm vị
nào mới được. Thiệt ra trong kinh A Di Ðà có nói: ‘Sáu phương Phật
đều hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán A Di Ðà Phật, khuyên chúng sanh
tín thọ cầu sanh Tây phương’. Ðây là nói rõ chúng ta niệm Phật
A Di Ðà thì tất cả chư Phật đều vui vẻ tán thán, đây chính là ‘tổng
tụng’ vậy!
Hai ngày trước lúc vãng sanh, lão hòa
thượng đích thân gõ mõ và kêu đệ tử niệm Phật, trong đó có nhiều chuyện
rất thú vị. Ngài đem câu ‘Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới’ niệm ráp
vào danh hiệu của các vị Phật và Bồ Tát. Thí dụ như Nam mô Tây phương
Cực Lạc thế giới Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Nam mô Tây phương Cực Lạc thế
giới Phổ Hiền Bồ Tát , Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Di Lặc Bồ Tát
….Tôi hiểu ý của ngài là ‘có thể gặp tất cả những vị Bồ Tát này ở thế
giới Cực Lạc’, chỉ cần chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh tây phương thì
có thể sánh bước cùng họ khi đến tây phương!
Một hôm tôi cùng một bác sĩ lên núi để
thỉnh giáo ngài. Ông bác sĩ này hỏi: “Làm thế nào tĩnh tọa mới có thể
đả thông huyết mạch?”. Ngài đáp: “Không cần phải đả thông huyết
mạch, nhất tâm niệm Phật chứng đến Niệm Phật Tam Muội thì tất cả huyết
mạch tự nhiên đều thông!”; đây là lời dạy của người đã giác ngộ và
đã được đại tự tại; chúng ta hiểu được thì không cần phải phí sức tốn
công đi tìm kiếm vô ích. Mau sớm chuẩn bị tư lương như ngài đã nói:
“Tôi đã mua vé xe rồi! Đã xác nhận ghế
ngồi rồi!
Quý vị có phải đã mua vé rồi hay chưa?
Ðã xác nhận ghế rồi chưa?
Hay là không cần xác nhận chỗ ngồi?
Hay là không chịu lên xe? ”
Phải nên mua vé sớm thì hơn, đừng làm
giống tôi sau khi ngài vãng sanh lên núi niệm Phật, niệm hết mấy giờ
đồng hồ, nước mắt cứ chảy hoài, không thể nào niệm Phật được đàng hoàng
để cúng dường lão hòa thượng; cúi đầu không dám ngước lên, tại vì không
làm theo đúng lời dạy và lời dặn dò của ngài, xấu hổ và sám hối đều đau
khổ; xin nguyện cho các bạn đều sớm mua vé thượng hạng ở toa thứ nhất,
lên đài sen vàng ở thượng phẩm thượng sanh!
Tiếp theo đây chúng ta hãy xem Tuyết
Công lão ân sư (lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam) là một vị đại đức đương thời, 97
tuổi mới vãng sanh. Ở đây tại sao phải nhắc đến tuổi lúc ngài vãng
sanh? Vì đoạn trước có nói những người mắc bịnh mới ba mươi mấy tuổi đã
chết, người nhà còn than là mạng sống (đau khổ) kéo quá dài. Nhưng như
lão hòa thượng 95 tuổi, và thầy Lý 97 tuổi vãng sanh, mọi người đều than
là quá ngắn, ai cũng khóc lóc đòi các ngài ở lại trụ thế mãi mãi để phổ
độ chúng sanh. Tôi đi nghe kinh cũng là vì cảm kích thầy Lý. Mười năm
trước tôi có cơ hội đến nghe thầy giảng kinh Hoa Nghiêm ở Thư viện Từ
Quang, Ðài Trung. Vì thầy có giọng nói của người miền Sơn Ðông (rất khó
nghe) tuy là có phiên dịch qua tiếng Ðài Loan, nhưng tiếng Ðài Loan
(tiếng Phước Kiến) tôi cũng không thạo, chủ yếu là vì trình độ quá kém
nên nghe cũng không hiểu và cảm thấy thời gian kéo quá dài và không
thích thú. Thấy mọi người chung quanh nghe kinh và thường cười rộ lên
mà mình không biết gì hết. Lâu lâu chỉ nghe được một câu có cảm giác
quen quen hình như đã nghe ở đâu rồi nhưng cũng không hiểu. Mấy hôm
trước nửa đêm nằm mộng thấy trăng sáng trên núi, tự nhiên nhớ lại lời
giảng của thầy mười năm trước. Lúc đó thầy giảng kinh Hoa Nghiêm đến
đoạn ‘Vô tận tạng’, thầy có nhắc đến mấy câu trong bài Xích Bích Phú của
Tô Ðông Pha:
‘Duy giang thượng chi thanh phong
Dữ sơn gian chi minh nguyệt,
Nhĩ đắc chi nhi vi thanh,
Mục ngộ chi nhi thành
sắc...
Thị tạo vật giả chi vô tận tạng
dã’
Có một người [không rõ tên] đã dịch như
vầy:
“Bui gió mát trên sông dài,
Trăng sáng chiếu non thẳm,
Tiếng thoảng qua tai,
Cảnh in vào mắt …
Kìa kho vô tận của hóa công!”
Thầy giải thích chữ ‘vô tận tạng’ trong
bài thơ này là lấy từ kinh Phật. Nửa đêm nằm mơ nhớ lại chuyện này rồi
bị điện thoại reo giựt mình, tỉnh dậy không thấy rừng núi trăng sáng gì
cả, chỉ thấy bịnh nhân khó chịu nên mấy cô y tá kêu đi khám bịnh. Sau
cơn mộng này mới càng hối hận, lúc đó tôi đi nghe kinh không hiểu nên cứ
nghĩ là thầy giảng không hay; thật ra là vì trình độ của mình quá kém
(thiệt ra là không có trình độ gì cả!), cho nên mới chê là thầy giảng
không hay và không tiếp tục nghe cả mười năm rồi, xém chút xíu thì làm
hỏng pháp thân huệ mạng của mình! Cách một thời gian sau đó thầy không
ra giảng kinh; khi tôi tham gia Trai Giới Học Hội chịu ảnh hưởng rất lớn
của Pháp sư Sám Vân nên có thể nói Trai Giới Học Hội đã chuyển biến cả
đời tôi. Trong thời công phu tối pháp sư đọc bài hồi hướng cho lão hòa
thượng Quảng Khâm và lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam làm cho tôi có ấn tượng rất
sâu đậm, nên một hôm có cơ duyên đặc biệt tôi liền theo mấy vị liên hữu
đi nghe giảng kinh. Hôm đó chân thầy Lý sưng lên đến nỗi đi đứng không
vững nên người ta phải dùng kiệu để khiêng thầy lên bục giảng. Phật
pháp thiệt quá quan trọng và người hoằng pháp thiệt là vĩ đại, chân sưng
lên đi không được mà vẫn tiếp tục giảng kinh thuyết pháp. Buổi giảng
hôm đó tôi khóc từ đầu đến cuối; bài giảng ghi lại nghuệch ngoạc, nét
chữ xem không rõ, đến nay cũng không nhớ nội dung là giảng về đề tài gì,
nhưng lòng từ bi vô lượng của thầy Lý đã làm chấn động tâm tôi một cách
mãnh liệt, tôi cảm động tinh thần ‘vì pháp quên mình’ của thầy, nếu
không có lòng nhiệt thành hoằng pháp của thầy thì không có cách nào cứu
nổi cái tâm ngoan cố ngu si của tôi, kể từ đó tôi dọn nhà về Ðài Trung
để nghe giảng cho thuận tiện.
Mỗi đầu tháng khi bịnh viện sắp xếp thời
khoá biểu làm việc tôi luôn luôn yêu cầu sắp xếp tránh thời gian đi nghe
giảng; tôi thà chịu liên tục làm suốt mấy ngày liền và thà chịu mệt chứ
không chịu bỏ qua những buổi giảng của thầy. Tại vì ‘Thân người khó
được, đây là một nhân duyên rất hiếm có; Phật pháp khó nghe được, cơ hội
rất khó gặp trong lũy kiếp; nếu lỡ bỏ qua, thiệt không ai có thể bù đắp
sự tổn thất này!”
Mỗi ngày bịnh nhân của tôi đều than thở
khóc lóc để nhắc tôi tầm mức quan trọng của chuyện này; không phải không
có người khuyên tôi: “Cô nên ăn uống có dinh dưỡng một chút, uốn tóc đẹp
một chút, mặc áo đẹp một chút”; nhưng tôi thể hội được một cách rất sâu
sắc rằng trong giờ phút khẩn cấp của sự sanh tử trong đời người, những
thứ này đều không cần thiết tí nào! Phải nên thấy rõ, hiểu thấu,
nghe kinh, thực hành theo để chuyển hóa đời sống thì có ích lợi hơn.
Cho nên mặc dù giọng nói miền Sơn Ðông của thầy rất khó nghe, nhưng nghe
hiểu được câu nào thì trân quý câu đó, thật là cơ hội hiếm hoi ngàn đời
khó gặp! Huống chi là lời phiên dịch qua tiếng thổ ngữ Ðài Loan của bác
Giản rất rõ ràng và lưu loát, giúp đỡ rất nhiều; nếu còn chỗ nào không
hiểu thì tôi đến Ðài Trung để cung kính nghe những vị trưởng thượng
trong Liên Xã giảng lại. Khi nghe lại mới biết là các đạo hữu rất chăm
học, tư duy thâm nhập [giáo lý] mà lại còn nỗ lực đi thực hành, ai cũng
cảm nhận sự giáo huấn và đức hạnh của thầy chiêu cảm. Vào mỗi ngày thứ
tư rất nhiều người từ khắp nơi như Ðài Bắc, Ðài Nam, và Cao Hùng lũ lượt
về đến Ðài Trung để nghe giảng, cả một giải liễu châu, lục châu, tôi gặp
rất nhiều người tay cầm xâu chuỗi, mặc áo đà, thật là một cảnh tượng rất
ôn nhu, đẹp đẽ, thanh lương trong thế giới Ta Bà … Tôi còn nhớ rõ ràng
buổi giảng cuối cùng của thầy, thầy dùng tấm lòng bi nguyện rộng lớn, từ
câu, từ câu khuyến khích mọi người phải luôn ‘tịnh niệm tiếp nối’; đây
là lời trong Chương Ðại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông; nhiều người cảm
động quá không cầm được nước mắt.
Thầy rán hết sức trong mấy hơi cuối cùng
để khuyên mọi người:
‘tịnh niệm tiếp nối’ là điều quan
trọng trong sự tu niệm;
Chúng ta có thiết thật làm được chuyện
này hay chưa? Trong kinh Phật thường bắt đầu bằng câu: “Tôi nghe như
thế này”. Trên bề ngoài chúng ta đều có ‘nhĩ văn’ (tai nghe) nhưng câu
cuối cùng “hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ” (vui vẻ tin nhận, lễ lạy rồi
lui ra) thì có mấy người làm được? Y theo lời của Ngẫu Ích tổ sư, thân
tâm vui mừng thì gọi là ‘hoan hỷ’, không có nghi ngờ gì hết thì gọi là
‘tín’, nhận chịu không quên thì gọi là ‘thọ’; cảm đại ân đức quy mạng
lạy xuống thì gọi là ‘tác lễ’; y theo lời dạy mà tu trì không lùi bước
thì gọi là ‘nhi khứ’. Chúng ta có thiệt là ‘y giáo tu trì, nhất vãng
bất thoái’ không? Nghĩ đến đây thì rất xấu hổ, mọi người thử xem thì
biết, tôi tự biết vọng tưởng của mình có sức mạnh giống như thạch nham
từ trong núi lửa trào ra, còn tịnh niệm thì yếu ớt như xách một thùng
nước nhỏ mà đi chữa lửa. Muốn thay đổi thế lực của hai thứ này (vọng
niệm và tịnh niệm) thì phải ra sức khổ công; nếu không như vậy thì lúc
thân thể khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, tự mình còn không làm chủ mình
được, tự mình còn không biết tâm niệm kế tiếp là tâm niệm gì thì lúc lâm
chung còn tệ hại hơn nữa!
Thầy dạy chúng ta: “Niệm
Phật không nên cầu niệm nhiều, niệm một trăm lẻ tám hột chuỗi tâm không
loạn, trong đó nếu có một niệm loạn, quay xâu chuỗi niệm từ đầu trở lại”.
Tôi luyện tập qua một thời gian, chỉ có ba hột đầu tiên trong xâu chuỗi
là có màu đen thôi! Không biết trong ba niệm này có xen tạp không nữa;
khi niệm một vạn, hai vạn, cho đến có lúc niệm sáu vạn, bảy vạn danh
hiệu thì cũng rất khó tìm ra được ‘trăm lẻ tám tịnh niệm tiếp nối’. Cái
tâm này thiệt loạn đến mức quá nguy hiểm rồi, nguy hiểm nhưng tự mình
không biết, làm sao không sớm nỗ lực gia công thêm được! Chúng ta hãy
nhìn thầy một lần nữa và đem lời dạy này nhớ kỹ trong lòng. Ánh mắt
kiên nghị của thầy, ánh mắt nhìn về Tây phương thanh tịnh, nhìn về hư
không vô tận, và cũng nhìn chúng sanh khổ nạn vô biên. Thầy dạy chúng
ta:
“Tận hư không biến khắp pháp giới đều
là thân của đức Phật A Di Ðà. Chúng ta nằm trong lòng của đức Phật A Di
Ðà cho nên Phật lại tiếp dẫn chúng ta rất dễ dàng. Ðiều này cũng như
cái bàn ở trước mặt chúng ta, có con kiến đi từ bên đây qua đến bên kia
bàn, nếu bò theo đường thẳng thì cũng phải bò hết một thời gian rất
dài. Cũng như Phật A Di Ðà, chúng ta có thể đem con kiến từ bên này
qua đến bên kia, cũng có thể đem ngược lại; chúng ta đi và lại đã nhiều
lần rồi mà con kiến cũng chưa đi đến bờ bên kia. Chúng ta niệm Phật khi
đến mức có cảm ứng, đức Phật đến tiếp dẫn thì cũng như vậy. Làm sao
mới cùng đức Phật A Di Ðà có cảm ứng? Phải đem ngũ dục lục trần buông
xuống; phàm những ai niệm Phật không có cảm ứng đều tại vì các thứ này
trói buộc.”
Nguyện cho chúng ta có thể thật thà làm
theo lời dạy của ngài trong đời sống, có thể làm giống như thầy, có thể
dự biết trước ngày giờ vãng sanh, quảng độ chúng sanh, viên mãn bồ đề
nguyện.
Có thể có người sẽ nói: rất
khó có cơ hội gặp được những người giống như lão hòa thượng Quảng Khâm
hoặc là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Phàm phu như chúng ta phải làm sao? Xin
quý vị xem xá lợi của lão cư sĩ Lại Tạ Diệu ở Viên Lâm, có năm màu trong
suốt lấp lánh giống như lưu ly, mã não, ngọc đẹp… Bác Diệu từ khi tin
Phật đến nay rất siêng năng, mỗi ngày thức dậy đều mặc áo hải thanh (áo
tràng), mở cửa nghinh đón chư Phật Bồ Tát , ngày ngày thật thà niệm
Phật, làm người rất từ bi, ít nói, bà cũng đã niệm đến lúc dự biết trước
ngày giờ vãng sanh. Bà nhờ liên hữu trợ niệm giúp, liên hữu nói mùa hè
trợ niệm rất là khó chịu. Bà nói:
“Không sao đâu, tôi sẽ lựa một ngày mát
mẻ mà vãng sanh!”.
Quý vị xem bà có thể lựa chọn ngày mát
mẻ để vãng sanh, thiệt là thong dong tự tại biết bao. Ðến lúc cuối, mọi
người trợ niệm giúp bà, bà không thể niệm ra tiếng, nhưng tay có thể gõ
vào giường để hòa vào tiếng niệm Phật của mọi người, chánh niệm phân
minh mà về Tây. Hỏa táng xong có rất nhiều xá lợi năm màu đẹp như vậy,
làm tăng thêm lòng tin cho những người đi sau! Thường ngày bà sinh sống
rất đạm bạc, không cần mua châu báu mà dùng lòng tin tha thiết và từng
tiếng A Di Ðà Phật tích tụ lại những châu báu trang nghiêm tự mình sẵn
có. Vì mỗi khi chúng ta niệm một câu A Di Ðà Phật thì liền đem vô lượng
công đức của Phật gom về làm công đức của mình. Tín nguyện trì danh,
trì một câu, một câu không thể nghĩ bàn, trì trăm câu, ngàn câu, vạn câu
danh hiệu, câu nào cũng không thể nghĩ bàn! Người xưa có câu: ‘Thuấn
hà nhân dã, Vũ hà nhân dã, hữu vi giả diệc nhược thị’ (Thuấn là người
nào, Vũ là người nào, họ làm được mình cũng làm được! Ðại ý: Vua Nghiêu
Thuấn, Vua Đại Vũ là những ông vua nổi tiếng nhân từ hiếu thảo, tôi cũng
là một người, nếu tôi rán hết sức thì có thể làm giống vua Thuấn, vua
Vũ). Một bà lão có thể làm được như vậy, chúng ta tại sao không thể
nhìn mà bắt chước theo? Thiệt ra chúng ta có chỗ nào là thông minh hơn
[hay thua] bà lão này không? Ðạo lý của pháp môn Tịnh độ vô cùng thâm
diệu, muốn chân chánh đảm đương triệt để thì chỉ có các vị tổ sư như Mã
Minh, Long Thọ, Trí Giả, và Vĩnh Minh; nếu chúng ta dùng vọng tưởng để
đo lường thì càng suy nghĩ càng sai lầm, ngược lại không bằng bà lão
thật thà niệm Phật và có thể từ từ thâm nhập vào Phật trí, âm thầm phù
hợp với đạo lý thâm diệu!
Có thể sẽ có người hỏi: niệm danh hiệu A
Di Ðà Phật có hiệu lực lớn như vậy sao? Ðúng vậy. Hãy khoan nói công
đức vô lượng của danh hiệu đức Phật, trước hết hãy dùng một tên thông
thường làm thí dụ: thí dụ như tên ‘quýt’ (hay cam). Có một bác nông phu
muốn trồng quýt để đến mùa thu [đem ra chợ bán và] có người sẽ thưởng
thức được mùi vị ngọt ngào giải khát của quýt. Từ khi gieo hạt giống,
vun bới, bón phân, tốn rất nhiều công sức, cây quýt này trải qua những
trận mưa mùa xuân và ánh nắng gay gắt mùa hè, trải qua những cơn bão tố,
từ đất đen nở ra cây trái vàng óng ánh, toả ra hương thơm ngát, trải qua
thời gian rất dài và tốn nhiều công sức, thật không phải dễ. Cây quýt
có sự liên quan vô cùng mật thiết với cả thế giới này, rễ quýt bám sâu
vào lòng đất, cây quýt hít thở bầu không khí rộng lớn và hòa vào không
khí mà chúng ta hít thở hàng ngày, và cùng thọ nhận nguồn ánh sáng mặt
trời vô tư. Anh nông phu cần phải dựa vào sức lao lực và hoa trái của
những người khác để duy trì đời sống; anh phải mặc áo và khi bị bịnh
phải đi khám bác sĩ. Cây quýt này có một lai lịch thật là phức tạp
nhưng khi người mẹ hỏi con: “Con muốn ăn gì?” Bạn chỉ trả lời: “quýt”
thì liền ăn được trái quýt vô cùng ngọt ngào này, hưởng thụ được thành
quả mà người nông phu phải ra sức vun bồi mới có được.
Không phải vậy sao? Trái quýt bình
thường đã vậy, huống chi là câu vạn đức hồng danh ‘A Di Ðà Phật’. Quá
trình thành Phật đòi hỏi bao nhiêu sự khó khăn gian khổ, đòi hỏi bi
nguyện rộng lớn chấn động đến trời đất, thêm vào sức nhẫn nại nỗ lực qua
nhiều kiếp mới thành tựu được Phật quả không thể nghĩ bàn. Niệm danh
hiệu thì cũng như nếm trái quýt; hưởng thụ được những mùi thơm ngọt của
nó; trong danh hiệu ‘A Di Ðà Phật’ này, đức Phật ban cho chúng ta hạnh
phúc vô lượng vô biên, ban cho chúng ta thành quả gặt hái được từ tất cả
công phu tu hành của ngài. Có người hấp tấp nuốt liền và cũng có người
từ từ thưởng thức hương vị; mỗi người nếm được mùi vị khác nhau, nhưng
ai cũng được đã khát. Danh hiệu ‘A Di Ðà Phật’ chứa đựng tất cả sự
trang nghiêm, tốt đẹp, tự tại, thong dong của Cực Lạc thế giới; tất cả
đều có sẵn nhưng chỉ có người có tín nguyện thành khẩn mới có thể tiếp
nhận được. Giả sử bạn nhất định không chịu tin rằng ‘nói ‘quýt’ thì má
bạn sẽ cho bạn ăn trái quýt’, mà nhất định phải tự mình đi gieo hột
giống để trồng cây quýt. Như vậy thì cũng được nhưng sợ cây quýt chưa
lớn thì bạn đã khát quá và chết đi rồi, hoặc là bị rắn trong vườn cắn bị
thương. Giống như tôi không biết trồng cây, mạng sống lại rất ngắn
ngủi thì thích nói chữ ‘quýt’ để má cho ăn và liền có thể nếm được mùi
vị ngon ngọt của trái quýt, liền hấp thụ được mùi vị ngọt ngào dinh
dưỡng của trái quýt, và cũng cám ơn sự cần khổ của anh nông phu, tin
tưởng vào nguyện và hành của anh nông phu đã thành tựu, tin vào lời má
nói, rất đơn giản và dễ dàng. Ăn xong trái quýt thì có sức lực để đi
khám bịnh, phục vụ xã hội, như vậy thì quá tốt! Giả sử tin không được
nên phải từ sáng bận rộn cho đến tối làm việc [trồng trọt] để kiếm ăn,
đây là cả một vấn đề khó khăn.
Chúng ta ở trong đời trược ác này lâu
quá nên rất khó có thể tin những chuyện tốt hoặc tin chân lý. Nếu có
người nói với chúng ta bên đường phía đông có một băng đảng tên là Kim
Quang, họ chuyên môn lập kế để gạt tiền người khác. Chúng ta sẽ tin
liền, sợ họ và không dám đi về phía đông. Nhưng nếu nói với chúng ta
Tây phương thế giới có đức Phật A Di Ðà, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Ðại Thế
Chí Bồ Tát thường phóng hào quang và từ bi đi cứu giúp chúng sanh, giúp
cho họ thoát ly khổ nạn, và hưởng an lạc vĩnh viễn. Chúng ta ngược lại
sẽ hoài nghi cho đến chết cũng không tin. Tại sao đều là nhìn không
thấy mà chúng ta lại tin là có băng đảng Kim Quang và sợ không dám đi về
phía đông. Chúng ta tại sao không tin Phật Bồ Tát từ bi và có vô lượng
hào quang trí huệ, không hoan hỷ tin tưởng để có thể đi về phương tây?
Tâm của chúng ta trầm luân đến nỗi chỉ tin ác chứ không tin thiện, chỉ
tin giả chứ không tin thật? Tôi cũng tin người trong băng đảng Kim
Quang cũng có Phật tánh, nếu chuyển ý niệm và niệm A Di Ðà Phật thì cũng
sẽ thành Phật. Ðức Phật A Di Ðà từ bi sẽ không bao giờ bỏ rơi họ. Tôi
cũng tin Kim Quang đảng trong nội tâm của tôi: tham, sân, si có một ngày
nào đó cũng sẽ phóng hào quang như đức Phật A Di Ðà.
Tôi xin giới thiệu thêm chuyện của bác
Phan Tạ Ánh Mai. Vốn là một đêm trước tết khi tôi mở cửa phòng khám
bịnh chuẩn bị đi về thì nhìn thấy một người trẻ tuổi nói là họ từ Mỹ về
thăm bà má vợ (chồng) bị đụng xe. Bà này đã dặn dò chuyện ra đi của bà
từ một năm trước, bà dặn khi bà qua đời thì kêu họ mời ngài Sám Công và
các vị bạn sen trong liên xã trợ niệm cho bà. Tại vì họ kêu điện thoại
đến chùa Liên Nhân không gặp thầy và có người kêu họ lại kiếm tôi để nhờ
giúp đỡ. Tôi nghe nói bà đã thọ giới Bồ Tát, rất siêng năng niệm Phật,
và đã dặn dò con cái không được di động thân thể của bà sau khi bà lâm
chung, không cho con cái khóc lóc, và phải niệm Phật trợ giúp bà. Tôi
nghĩ: “Bà siêng năng tu hành như vậy mà còn gặp phải tai nạn đụng xe,
huống chi là người như tôi” nên mau mau đi trợ niệm giúp bà, phải làm
cho bà được mãn nguyện, giúp bà vãng sanh. Khi tôi đến bịnh viện thì
gặp con bà đang nói chuyện điện thoại bàn bạc về hậu sự. Tôi cảm nhận
được sự khổ của tất cả chúng sanh đang trôi lăn trong vòng sanh, lão,
bịnh, tử. Bà nằm trong phòng cấp cứu hôn mê đã mấy ngày không tỉnh.
Nhưng đến khi niệm Phật cho bà thì bà chảy nước mắt. Ðêm đó các bạn ở
liên xã chưa ăn cơm xong vừa nghe liền nhiệt tâm đến giúp chồng bà chuẩn
bị và giải thích rõ về việc trợ niệm. Con bà rất hiếu thảo, muốn làm
cho bà được mãn nguyện và vãng sanh tây phương; họ đem các hình gia đình
họ hàng đang treo trên tường đem cất để cho bà khỏi động tâm lưu luyến
thế giới Sa bà này. Bà ra đi ngay đêm giao thừa; có ba bốn mươi người
bạn trong liên xã đến để trợ niệm mà trước đó không có người nào quen
biết bà. Tôi rất xúc động khi thấy tờ giấy viết bài phát nguyện (bài kệ
phát nguyện trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện) đã nhuốm vàng bởi khói
nhang. Con bà nói trước đó bà thường đi trợ niệm và có viết sẵn tên của
những người quen có thể đến trợ niệm cho bà. Nhưng gặp ngay đêm giao
thừa có một số đi về quê, một số khác thì bận việc nên không đến được.
Con bà rất lo không có ai đến, nhưng không ngờ lại có nhiều người không
quen biết nhiệt tâm đến để trợ niệm cho bà. Thiệt là nhân quả không
sai, người niệm Phật chỉ cần tu nhân, ‘nhân’ đúng thì ‘quả’ chắc chắn sẽ
đúng.
Người Á đông vốn rất kỵ chuyện tang lễ
vào dịp tết, nhất là vào đêm giao thừa, nhưng Phật tử thì không màng đến
chuyện này, chúng ta chỉ hy vọng có thêm một người vãng sanh thành Phật
thì có thể độ được vô lượng chúng sanh; chúng ta chỉ sợ người trong gia
đình trong lúc buồn rầu làm cho họ mất đi ‘tín’ và ‘nguyện’. Sau khi
hỏa táng bà để lại vài viên xá lợi màu xanh, vàng, và trắng. Chồng bà
rất cảm động; trước đó ông thường phàn nàn: “Tôi nghèo như vầy cũng vì
bà bố thí hết trơn và không nấu thịt cá cho tôi ăn!” (từ điểm này có
thể biết được bà là người như thế nào). Ông nói tiếp: “Mỗi khi tôi ngồi
coi truyền hình, bà đều ngồi xếp bằng, dùng gốc cây nhang để tính số
niệm Phật; nhiều lúc tôi trách bà nhưng không ngờ là bà đã tu thành
công!”. Tôi cảm thấy một việc rất không thể nghĩ bàn là xâu chuỗi của
bà làm bằng hột ‘Tinh Nguyệt Bồ Ðề’, sau khi hỏa thiêu xong còn lại hai
hột y nguyên không bị cháy hết. Con trai, con gái, và con rể bà đều là
tiến sĩ ở Mỹ, đối với việc này cũng nói là không thể tưởng tượng nổi.
Thật thà niệm Phật, công phu đắc lực thì sẽ thành công; nhân quả tơ hào
chẳng sai.
Hồi xưa có một đệ tử hỏi Phật: “Nếu gặp
chuyện bất trắc mà chết đi bất ngờ thì có thể vãng sanh được không?”
Phật thí dụ: “Nếu có một cây mọc nghiêng về phía đông, nếu bị gẫy thì
cũng sẽ ngã về hướng đông”. Chúng ta niệm Phật cũng như cây mọc
nghiêng về hướng tây, mỗi ngày đều hướng về tây mà lớn thêm, nếu bị gẫy
thì cũng sẽ ngã về hướng tây. Chúng ta phải tự hỏi mình có nghiêng về
hướng tây không? (chỉ sợ là không có!). Cái tâm của mình thường thường
đều hướng về bốn phương tám hướng nhảy tùm lum, và không nhất tâm hướng
thẳng về tây. Hai mươi bốn giờ trong ngày, thời gian thiệt thà niệm
Phật cũng không quá năm phút; nếu người siêng năng hơn một chút thì một
ngày niệm được vài giờ, trong đó cũng không biết có bao nhiêu câu niệm
được đàng hoàng (không xen tạp và không gián đoạn). Cho nên cây này
đúng là mọc tùm lum, nếu bị gẫy bất ngờ rồi ngã về hướng nào thì rất khó
mà biết trước được.
Trong nhật ký bà đã viết sẵn di chúc dặn
con cháu phải lo chuyện lâm chung như thế nào, đến sau này thì con bà
mới tìm ra. Cũng may là hậu sự cũng được làm giống theo ý muốn của
bà. Có một đoạn trong nhật ký làm cho tôi có ấn tượng rất sâu. Bà có
một người con đã từng làm khoa trưởng ở đại học Phùng Giáp bị tai nạn xe
đã qua đời. Lúc đó bà chưa học Phật và cảm biết được sự đau khổ trong
đời người, bà viết: “Hôm nay là ngày vĩnh biệt con tôi và là ngày đau
khổ nhất trong đời tôi”. Một người mẹ nhận chịu sự đau khổ của người
‘tóc trắng tiễn đưa người tóc đen’ thật là chua xót biết bao. Một người
không tầm thường sẽ không vùi đầu vào sự đau khổ và tối ngày than vắn
thở dài. Người đó sẽ từ những sự khổ: ‘sanh, lão, bịnh, tử, thương xa
lìa, ghét gặp mặt, năm ấm hừng hực (ngũ ấm xí thạnh)’ giác ngộ trở lại
và bước theo gót chân của những thánh nhân hồi xưa. Chúng ta hãy cùng
nhau hướng về pháp hội Di Ðà vĩnh hằng vô tận, hướng về Liên Trì Hải Hội
thanh tịnh, hoan hỷ, sáng lạng, tràn ngập tiếng cười. Ấn Quang đại sư
đã từng nói:
Ưng đương phát nguyện nguyện vãng
sanh.
Khách lộ khê sơn nhậm bỉ luyến
Tự thị bất quy, quy tiện đắc
Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh?
Tạm dịch:
Vãng sanh phát nguyện đi thôi,
Suối non đất khách mặc người quẩn quanh,
Quê nhà chẳng chịu về nhanh,
Hễ về ắt được, ai giành gió trăng?
Chúng ta đừng đi lang thang nữa. Hãy
học theo thế giới nội tâm của Hoằng Nhất đại sư: “Hoa chi xuân mãn,
thiên tâm nguyệt viên”; hãy niệm Phật cho đàng hoàng. Pháp môn niệm
Phật là một pháp môn đặc biệt nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của
đức Phật Thích Ca, pháp môn này dễ thành công nhất. Mỗi ngày niệm đến
khi vô cùng thành khẩn thì giống như hồi nhỏ trẻ em thường ca:
“Xe lửa mau bay, xe lửa mau bay, bay qua
núi cao, bay qua khe suối …”
Lúc niệm Phật trong tâm càng trải qua
nhiều sự khó khăn thì cũng như xuyên qua núi cao, băng qua khe suối. Và
cũng giống như lời ca: “Mẹ hiền trông thấy thiệt là vui mừng”. Cha mẹ
từ bi vô tận vô biên của chúng ta, đức Phật A Di Ðà đã dang tay ra từ
lâu rồi, rất lâu rồi, khi nhìn thấy chúng ta quay trở về nhà thì vui
mừng biết bao! Nghĩ đến “Bồ Tát đón mừng, Di Ðà đợi ở ngưỡng cửa” tiếng
vang dội từ xa truyền lại thì làm sao không bước mau lên….
Quay đầu nhìn lại tất cả những hình ảnh
sanh tử bên bờ sông Hằng chúng ta giống như những người đang vùng vẫy
sắp chết, chư Phật Bồ Tát từ bi nhảy vào dòng nước sanh tử tràn đầy đau
khổ và dạy chúng ta dùng một câu “ A Di Ðà Phật” để chứng đến bản tánh
bổn vô sanh diệt của chúng ta, đem giòng nước ác trược dơ bẩn này biến
thành con sông thanh tịnh thánh thiện; đem lợn sóng cay đắng này biến
thành những mùi thơm ngọt ngào.
‘Không nỡ để chúng sanh khổ, không nỡ để
thánh giáo suy’. Nguyện cho chúng ta phát ra tâm từ bi, thường làm theo
đại nguyện của đức Phật A Di Ðà mà cứu giúp tất cả chúng sanh, nguyện
chúng sanh đều sanh đến Liên Trì Hải Hội trang nghiêm, cùng nhau thưởng
thức mưa Mạn Ðà La hoa….
Xin quý vị thứ lỗi, tôi thường không có
nội dung tốt đẹp gì để cúng dường cho quý vị, chỉ kể một vài câu chuyện
thê thảm cho quý vị nghe, không muốn quý vị ghi nhớ những huyết lệ trong
đó, chỉ nguyện cho quý vị trên con đường đời sớm giác ngộ. Chúng ta
phải làm ‘ngựa hạng nhất’ không cần phải đợi những sự đau khổ này đến kề
bên người rồi mới chạy. Ngựa hạng nhất là vừa thấy bóng dáng của cây
roi phất ngựa là chạy liền. Thấy người khác khổ, biết được đời sống
có chuyện khổ như vậy, đừng chờ đợi nữa, hãy mau tu hành! Ngựa hạng
nhì là đợi đến khi roi đánh tới mình rồi mới chạy; ngựa hạng ba là đợi
đến lúc bị đánh tróc da chảy máu rồi mới chạy. Ngựa hạng tư là cho dù
trầy da tróc vảy, đau đến xương tủy cũng không biết chạy. Có thể cũng
có ngựa hạng năm là chết rồi cũng không sợ, loại này làm cho Bồ Tát phải
rơi nước mắt!
Buổi diễn giảng hôm nay vốn là có đạo
hữu đề nghị tôi đừng giảng hoặc là mời thầy khác giảng dùm. (Ở đây
thuận tiện nên báo cáo cùng quý vị đạo hữu luôn) Vì cũng như đã nói ở
phía trước, chúng ta đều ở trong dòng sông sanh tử, những hình ảnh mà
chúng ta thấy được trên sông Hằng đều là hình bóng của chính mình. Tôi
cùng tất cả bịnh nhân đều giống nhau, đều bị bịnh ung thư, bây giờ đúng
lúc nhất tâm niệm Phật chuẩn bị vãng sanh. Tôi đã nhận lời cùng quý vị
nói chuyện ngày hôm nay (27 tháng 4). Vì bác Hứa gọi điện thoại nhiều
lần và vô cùng thành khẩn nên cho dù hôm nay chỉ có một người đến nghe
tôi cũng sẽ nói. Tại vì nếu có thêm một người niệm Phật vãng sanh Cực
Lạc thế giới thì sẽ ít đi một người đau khổ rơi lệ. Hơn nữa tôi đã gặp
nhiều vị sư trưởng đều ‘không nỡ chúng sanh chịu khổ, không nỡ thánh
giáo suy’, rán hết sức mình để đem những điều vô cùng quan trọng trong
Phật giáo dạy cho chúng ta. Hôm nay tôi có thể không ở trên giường bịnh
rên siết, đến đây cùng các bạn học tập đều là nhờ ân đức của họ (những
vị sư trưởng). Tôi chỉ muốn rán hết sức mình (phấn đấu với bịnh đau) để
báo đáp phần nào ân đức của họ. Trong Ðại Trí Ðộ Luận, có một vị Bồ Tát
nói: ‘Tôi đã mất đi thân mạng trong vô thỉ kiếp sanh tử vừa qua, chưa
từng vì pháp (mà hy sinh)’. Phải đúng vậy không? ‘Quay đầu nhìn
lại xương chất thành núi’, vô số lần mất mạng trong đời quá khứ đều nhẹ
như hồng mao, chưa từng nặng như Thái sơn thì cũng phải mất mạng. Chúng
ta hãy vì Phật pháp, vì chúng sanh, chánh niệm rõ ràng, niệm Phật mà
vãng sanh! Nếu như trong những lời nói hôm nay có một tơ hào nào thành
khẩn đáng quý, nguyện đem phần công đức này hồi hướng cho tất cả thiện
tri thức, cha mẹ, thầy giáo, bạn bè đã nhắc nhở tôi trên con đường Bồ đề
này. Tôi xin cám ơn tất cả, cám ơn từng câu nói thành khẩn, không kể là
khích lệ hay trách mắng; cảm ơn từng nụ cười, từng giọt lệ chân thành,
từng lời dạy dỗ. Cũng xin hồi hướng cho mỗi vị ‘bịnh nhân Bồ Tát’ của
tôi, cho tất cả chúng sanh đang chịu đau khổ, nguyện cho họ sớm nghe
được lời kêu gọi của Di Ðà trong nội tâm, đồng sanh nơi ‘không có sự
khổ, chỉ toàn đều vui’ ở liên bang Cực Lạc.
Lúc tôi đi khám bịnh vì bác sĩ không
biết tôi cũng hành nghề này nên lúc họ thảo luận bịnh trạng với nhau tôi
nghe và biết rất rõ và cũng nhìn thấy chỗ ung thư qua máy siêu âm. Chỗ
ung thư này đến lúc tôi có thời gian đi khám thì đã quá lớn, lớn đến gần
hết phía dưới bụng. Tôi rất xấu hổ không biết và lo chữa sớm, thiệt là
quá tệ. Mỗi lần ‘beeper’ kêu là tôi phải mau mau chạy đi, nhiều khi
đang tắm cũng phải ngưng và chạy đi. Mấy ngày trước khi đi khám, chân
tôi sưng lên đến nỗi mang giày không được nhưng cũng phải rán mang như
mang dép đi làm. Tuyết Công có nói: “Nếu có mười phần sức lực mà chỉ
dùng hết chín phần thì không đủ thành tâm”. Tôi không có cảm giác lo
sợ hay khủng bố gì hết, cảm thấy rất bình thường, chỉ quyết tâm niệm
Phật cầu sanh tây phương, tận dụng hết thời gian còn lại để hoàn thành
công việc mình phải làm, gặp mặt những người giác ngộ từ xưa đến nay.
Chỉ cần tin tưởng Phật pháp, tin tưởng điều giác ngộ thứ nhất dạy trong
kinh Bát Ðại Nhân Giác là ‘thế gian vô thường’, nếu như vậy thì chuyện
này rất bình thường, không cần phải hỏi: “Có thiệt không? Tôi làm sao
mà bị bịnh này được”. Bịnh nhân thường hỏi như vậy lắm. Và cũng không
cần phải khóc: “Không. Không thể nào là tôi được. Tôi không thể nào bị
bịnh này được (bịnh nhân thường kháng cự giống như vậy). Tại sao không
thể là chúng ta được? Rất có thể là chúng ta. Hoặc giả vốn là luân
phiên đến lượt chúng ta. Hãy thức tỉnh đi, vận dụng thời gian còn lại
đừng lãng phí và chạy trốn nữa!
Kể từ ngày sanh ra đời này, chúng ta ai
nấy đều từ từ tiến dần đến cái chết. Có một người bạn sen thường hay
nhắc nhở chúng tôi: “Mọi người đều có một sự việc luôn luôn dũng mãnh
tinh tiến, đó là từ lúc sanh ra đời thì liền từ từ tiến dần đến trạm
cuối của cuộc đời.”
Lại còn nói: “Nếu nói bạn trưởng
thành thì bạn rất vui, nhưng nếu nói là bạn đang đi về phần mộ thì bạn
rất buồn, thiệt ra hai chuyện này đều là một”.
Lại có người hỏi: “Quý vị là những người
tin Phật thì làm sao có thể bị bịnh ung thư được?”
Kinh Phật nói với chúng ta rất rõ
ràng từ vô thỉ kiếp đến nay, những ác nghiệp mà chúng ta đã làm, nếu
tính ra thì là vô lượng vô biên.
Giả sử những ý niệm, ngôn ngữ, và hành vi sai lầm của chúng ta có thể
tích và có hình tướng thì cả tận hư không này cũng chứa không hết. Muốn
biết nhân ở thời quá khứ cứ xem những gì mình thọ nhận ngày hôm nay thì
biết được; muốn biết quả tương lai, cứ xem những gì mình làm hôm nay
thì biết được.
Từ lũy kiếp đến nay, không biết tôi đã
làm hại hết bao nhiêu chúng sanh, đã làm bao nhiêu sanh linh đau khổ,
bây giờ quả báo hiện ra thì phải nhận chịu một cách vui vẻ và bình tĩnh;
chúng ta niệm Phật phải noi theo trí huệ và lòng từ bi của chư Phật,
nguyện cho tất cả những chúng sanh bị tôi làm hại lúc trước đều được tắm
gội trong ánh sáng từ quang giác ngộ, hóa giải những oán hận kết tập lại
trong nội tâm, phá bỏ tất cả không cho oan oan tương báo tiếp tục. Ðây
là sự gia trì tốt nhất của chư Phật Bồ Tát cho tôi, miễn hết tất cả
những trách móc và so đo không cần thiết, tất cả những gút mắt tình cảm
không tốt đẹp. Giả sử ngày mai là ngày tận thế, tối nay tôi vẫn phải
trồng đầy hết ‘phần đà lợi hoa’ (hoa sen) trong vườn, dưới gió mát trăng
thanh phải lớn tiếng niệm Phật A Di Ðà. Vẫn có nhiều bạn không bỏ qua
được, cứ trách móc Phật Bồ Tát không gia trì cho tôi, để cho tôi mang
bịnh này. Thiệt ra không phải là Phật Bồ Tát làm cho tôi mắc phải bịnh
này; chúng ta hãy nghĩ xem một hạt dầu khi nhỏ vào nước sẽ nổi lên mặt
nước, trái lại viên đá sẽ chìm xuống đáy nước. Nghiệp chướng của tôi
cũng nặng như viên đá cho nên tự nhiên sẽ chìm xuống đáy, sẽ mang bịnh.
Rất may đức Phật A Di Ðà đã chuẩn bị đại nguyện, đem chiếc ‘hàng không
mẫu hạm’ để cứu vớt tôi và tất cả chúng sanh có nghiệp chướng sâu nặng.
Nên tôi không lo gì cả, chỉ cần có tín nguyện kiên cố, chấp trì danh
hiệu Phật, nhất định sẽ vãng sanh. Ngẫu Ích đại sư không phải đã nói
với chúng ta rồi sao:
“Ðược sanh hay không toàn do có tín
nguyện hay không,
phẩm vị cao thấp toàn do trì danh
sâu hay cạn”.
Tôi tuy là chưa niệm đến mức ‘nhất tâm
bất loạn’ nhưng tiếp tục nỗ lực gắng sức niệm và tin đức Phật A Di Ðà sẽ
lại tiếp dẫn. Tôi hiểu được đời người cũng giống như quá trình vẽ một
hình đức Phật. Mỗi một nét chúng ta đều dùng tâm hết sức chân thành để
vẽ! Ðừng để khi gác cọ xong rồi nhìn lại bức tranh mình vẽ lại thành ra
một con chó sói hoặc là một con heo thậm chí là một con ác quỷ!
Tôi biết có một bịnh nhân vô cùng siêu
thoát, bà đã dạy cho tôi rất nhiều. Bà bị ung thư gan. Lúc bà vào bịnh
viện là vì đường tiêu hóa bị chảy máu chứ không phải vào để trị bịnh ung
thư. Ðêm đó nhằm ngày tôi trực ở bịnh viện, tôi giúp bà đút ống vào
mũi đến dạ dày, đổ nước đá vào để cầm máu và cũng để khám chỗ chảy máu.
Thường khi đút ống vào mũi thẳng đến dạ dày phần đông bịnh nhân ai cũng
rên xiết kêu đau, nhưng bà này rất là điềm đạm an nhàn, không nhăn nhó
tí nào, có vẻ dường như không có chuyện gì xảy ra hết. Sau đó tôi nhìn
thấy vết thẹo mà những người thọ giới đốt để lại trên tay mới biết bà là
một người biết tu hành đã lâu.
Ðêm đó bịnh nhân rất đông tôi phải làm
việc liên tục đến 5 giờ sáng. Lúc đi ngang qua giường, bà chắp tay nói:
“A Di Ðà Phật, chào bác sĩ”. Lúc đó bà đang nằm ở giường tạm đặt ngoài
hành lang vì bịnh viện không đủ giường cho bịnh nhân nên phải đặt thêm
giường tạm. Những bịnh nhân nằm những giường này luôn luôn phàn nàn là
‘nhiều người đi qua lại ồn quá’ và ‘đi nhà vệ sinh không thuận tiện’.
Nhưng bà này lại không phàn nàn gì hết, bà nở nụ cười chắp tay niệm Phật
(lúc đó đang đút ống vào mũi) và nói: “Ở đây không khí thiệt là tốt,
sáng sớm bốn giờ mấy là tôi đã làm xong công phu (tụng kinh) khóa sáng!
Nghe xong tôi rất cảm động, tâm lượng của bà quá đẹp. Trong hoàn cảnh
không thuận lợi, nơi chốn ồn ào, thân thể đang bịnh nặng, đối với bà tất
cả đều là: “rất thanh tịnh mát mẻ”. Chúng ta đừng xem thường công phu
niệm được một câu A Di Dà Phật trong lúc này (mỗi người thử đút một ống
vào mũi rồi niệm thử xem). Thường ngày muốn niệm đến tương ứng trong
niệm này phải dẹp sạch tất cả phiền não của tạp niệm lên xuống (giả như
muốn được niệm niệm đều tương tục thì phải niệm niệm đều thoát ra khỏi
vòng vây, niệm niệm phải đều thắng lợi, phải chiến thắng tất cả vọng
tưởng) huống chi là lúc khổ nhất! Muốn có một niệm A Di Ðà Phật mà
‘tâm và miệng tương ứng với nhau’ phải có tâm lực mạnh mẽ để khắc phục
tất cả đau khổ và khó khăn, bạn có biết không? Cho nên một câu niệm
Phật và vài câu nói của bà đã làm cho tôi cảm động rơi lệ. Tôi khám chỗ
đau của bà, cảm thấy gan cứng và sưng lên và nghi là ung thư. Qua ngày
sau rọi siêu âm và thử nghiệm thì biết là ung thư gan đã lớn đến đường
kính tám phân (8 cm). Thấy thái độ và biểu hiện khác người của bà cho
nên tôi nói thiệt bịnh tình cho bà biết (thường thường thì chúng tôi
phải suy nghĩ cân nhắc trước khi nói với bịnh nhân). Một người học Phật
chân chính sẽ xem chuyện sanh tử rất là bình thường. Chúng ta sợ nhất
là trí huệ không khai mở, đời này hồ đồ lộn xộn, chết đi rồi lại tiếp
tục sanh vào lục đạo luân hồi. Khi đã hiểu rõ đạo lý này sẽ không kêu
trời trách đất và sẽ niệm Phật đàng hoàng, đặt bước trên con đường về cố
hương, chuẩn bị tham gia liên trì hải hội. Ðây là sự ‘phò hộ’ tốt nhất,
tình cảnh bi thương là đau khổ đối với người khác, nhưng chúng ta vui vẻ
xem như là chuyện thường, đây là lễ vật của chư Phật Bồ Tát! Mười triệu
đồng có thể mua được đủ loại chữa trị (không thiếu đau khổ giày vò)
nhưng mua không được tâm bình tĩnh vui vẻ, còn lễ vật nào quý hơn tâm
này không? Lúc tôi nói thiệt bịnh tình cho bà biết, bà nói liền giống
như đã chuẩn bị lời văn từ trước: “Tôi sống ngày nào thì phục vụ thêm
một ngày cho chúng sanh, đến ngày tôi sắp chết, đức Phật A Di Ðà sẽ lại
rước tôi đi”. Bà siêu thoát như thế đó, tràn đầy từ bi và lòng tin,
thần sắc của bà khắc sâu vào tâm khảm của tôi, làm thành một sức mạnh có
khả năng khuyến khích và giúp đỡ tôi vượt qua rất nhiều khó khăn chướng
ngại thường ngày.
Thiệt tình mà nói, không phải là tôi đi
làm bác sĩ mà phải nói là tôi đang ‘đi học’, ‘bịnh’ của tôi nặng nhất
trong số những người bịnh, ‘các thứ xấu ác’ trong tâm nhiều quá; tham,
sân, si, mạn … đều rất nặng. Mỗi bịnh nhân đều đến thị hiện một hoàn
cảnh đặc biệt để dạy cho tôi hiểu được một đạo lý nào đó. Người nào
cũng rất từ bi không tiếc đem những lời dạy và những câu chuyện sống
động đầy máu và nước mắt để dạy và làm cho tôi hiểu được lời trong kinh
Lăng Nghiêm ‘Chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông’ đoạn ‘Mười
hai vị Như Lai liên tục một kiếp, vị Phật sau hết danh hiệu Siêu Nhật
Nguyệt Quang dạy tôi Niệm Phật Tam Muội’. Có một thầy giáo nói: “Thiện
duyên của đức Ðại Thế Chí Bồ Tát vô cùng tốt đẹp có thể gặp được muời
hai vị Phật và được truyền dạy Niệm Phật Tam Muội; chúng ta một vị Phật
cũng không gặp được”. Tuy là thiện căn của tôi rất mỏng, nhưng nhân
duyên thì rất đặc biệt, rất tốt! Mỗi ngày đều có một vị Bồ Tát đem hình
ảnh của sự khổ nạn vô tận trên sông Hằng đến để cảnh tỉnh và giúp cho
tôi giác ngộ: niệm Phật đi, niệm Phật đi; họ giúp tôi trao dồi tâm lực,
giúp tôi buông xả. Ðây là sự gia trì của chư Phật Bồ Tát, giả sử không
có sự từ bi gia trì này, khi nghe đến ‘tên bịnh’ thì tứ chi liền phát
run, tay chân không còn sức lực nữa và khóc: ‘Thù hận trong đời người
làm sao miễn được, …’
Có khi tôi thấy rất nhiều người thầm
thầm vái ở trước tượng Phật, đôi lúc tôi cũng muốn hỏi họ khấn vái những
gì? Mỗi người thắp ba cây nhang rồi ‘rù rì rù rì’ khấn vái, lời họ khấn
chắc còn dài hơn 48 đại nguyện của đức Phật A Di Ðà; nào là: xin ngài
phò hộ cho con tôi thông minh khỏe mạnh, có thể thi đậu vào trường Y
Khoa (tốt nhất là trúng tuyển hạng nhất); phò hộ cho con tôi cưới được
một người vợ hiền hậu hiếu thảo; phò hộ cho chồng tôi sự nghiệp phát tài
kiếm được thiệt nhiều tiền; phò hộ cho tôi trúng số độc đắc và được lên
chức… Nói ra tràng giang đại hải xong rồi đem trái cây cúng Phật đem về
nhà ăn cho ‘được bình an’. Nếu cầu không được toại nguyện liền trách
móc Phật Bồ Tát không phò hộ, chỉ ‘nhìn’ đồ cúng và ‘ngửi’ hương tôi
cúng rồi thôi, không ‘linh’ tí nào! (Thiệt ra họ đâu biết tự mình không
hiểu nhân quả, không làm theo lời dạy của Phật, là tự mình không
‘linh’). Chúng ta thử nghĩ xem người ta mong cầu những gì? Chẳng qua
là cầu cho da mặt mình nhăn thêm một chút (cầu trường thọ sống lâu thì
tránh không khỏi da nhăn tóc bạc); cầu gánh nặng vác trên vai nặng thêm
(cầu con cái đầy nhà thì nhiều phiền não); cầu chướng ngại trong đời
sống nhiều một chút (lo danh lợi, lo ‘được’, lo ‘mất’). Người ta chỉ
cầu để được nhiều những thứ nhỏ nhặt này. Thật ra pháp lực của chư Phật
Bồ Tát rộng lớn vô biên và có thể cho chúng ta sự phò hộ thần kỳ mà lại
vĩnh cữu, cho chúng ta một chìa khóa trí huệ để khai mở kho tàng vô tận
trong tự tánh, có thể lấy ra sự hạnh phúc vô tận. Sự hạnh phúc này
không bị hoàn cảnh thay đổi làm mất đi, không bị ăn trộm, không bị giựt,
cũng không bị mất. Cái chìa khóa này chính là xưng niệm ‘Nam Mô A Di Ðà
Phật’; chỉ cần tiếp nhận rồi thiệt tình đi mở, ai cũng có được kho tàng
quý báu vô tận!
Vì tôi bị bịnh nên có người nói: “Cô ăn
chay thiếu dinh dưỡng nên mới bị bịnh”. Thiệt ra chỉ cần so sánh là
biết ăn chay được khỏe mạnh và sống lâu; giống như đoạn trước có nói
đến lão hòa thượng Hư Vân và Quảng Khâm, Tuyết Công lão ân sư đều là
‘nhân thụy’ (người trường thọ và vô cùng khỏe mạnh). Nhưng ăn chay
không phải để cầu trường thọ mà là không muốn vì sự hưởng thụ ngắn ngủi
trên ba tấc lưỡi của mình đem lại sự lo sợ sắp bị mất mạng và sự đau khổ
cùng cực cho chúng sanh; mỗi con bò chờ đợi bị làm thịt cũng run và chảy
nước mắt, mỗi con chim bị bắt đều có những con chim mẹ đang chờ đợi con
bay về tổ. Chúng ta chưa bao giờ nghe hoặc thấy con gà nào tình nguyện
trườn cổ dài ra đợi bị làm thịt, nhổ lông và nói: “Tốt quá, tôi sẽ được
đi làm con gà nướng!”. Như những bịnh nhân của tôi luôn vùng vẫy trong
sự đau khổ bên bờ sanh tử, mỗi một con vật đối diện với cái chết đều sợ
phát run lên. Nếu tôi xem thường mạng người, không đếm xỉa đến sự đau
khổ của người bịnh, họ nhất định sẽ không tha thứ cho tôi. Cũng giống
như vậy nếu chúng ta xem thường sự đau khổ của các loài vật khác, chúng
nó cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta. Nếu bạn chặt một cái đùi của nó,
nó cũng sẽ tìm cách để làm bạn gãy đi một cái chân; cứ như vậy oan oan
tương báo, trở thành oan gia chủ nợ lẫn nhau, vĩnh viễn không có ngày
thoát ra, trong sự oán thù rối nùi này ai cũng vô cùng đau khổ!
Tôi từng nghe một vị pháp sư thuật lại
câu chuyện thật như sau: Một hôm có người bồng em bé nằm trong nôi đi
bái kiến lão hoà thượng Quảng Khâm. Ðứa bé mặt mũi khôi ngô rất là dễ
thương, ai nhìn cũng thích và muốn nựng em bé. Chỉ có lão hòa thượng
vừa nhìn thấy liền hiện vẻ không vui (mặt trầm xuống) và nói với chúng
đệ tử: “Nó lại để đòi nợ đó (chỉ em bé)”. Mọi người đều không hiểu.
Lão hòa thượng mới nói với những người này: “Quý vị làm ăn buôn bán gà
đông lạnh phải không? Hãy xem đứa bé”. Cha mẹ của em vừa khóc vừa gật
đầu rồi vạch áo của em ra; em bé tuy có bộ mặt rất dễ thương nhưng phía
dưới thân mình lại giống y hệt như thân hình của một con gà! Lão hòa
thượng không ngớt lời khuyên họ nên đổi nghề. Họ nói: “Ðã tốn hết 30
triệu đồng trong việc thiết bị hệ thống đông lạnh, rất là khó mà đổi….”
Tôi nghĩ tiền lời được trong việc làm ăn này có lẽ cũng không đủ trả
tiền thuốc men cho em bé, càng không thể bù đắp nổi những giọt nước mắt
chảy ra... (Vì tôi biết rất nhiều bịnh nhân có tình trạng giống như
vậy). Nhưng phần đông người ta thà chịu khổ, chịu tổn hao tài sản sau
này, và còn mất thêm sự hạnh phúc cả đời người nhưng không chịu buông bỏ
cái lợi trước mắt, sự thèm muốn của cái miệng và cái bụng của mình. Lão
hòa thượng là người có pháp nhãn, vừa nhìn thì đã thấy rõ nhân quả, hết
lòng khuyên nhủ, nhưng có mấy ai tin và chịu làm theo?
Người ta thường cầu Phật phò hộ nhưng
không tin lời Phật nói, thiệt là kỳ lạ! Cho dù hôm nay có một danh y
bác sĩ nổi tiếng nào nói với tôi là ‘đổi ăn thịt’ đừng ăn chay nữa thì
có thể chữa cho tôi hết bịnh, tôi cũng không chịu đi hy sinh tánh mạng
của con gà, heo, dê, bò, để gây ra sự đau khổ cho chúng nó. Huống chi
không có một bác sĩ nổi tiếng nào có thể xác nhận ăn mặn (ăn thịt) thì
sẽ ‘kéo dài đời sống lâu’ hơn là ăn chay; bất kỳ bác sĩ nổi tiếng nào
cũng sẽ chết, họ cũng không thể bảo đảm ăn thịt có thể trường sanh thì
làm sao có thể bảo đảm cho tôi? Thì làm sao có thể bảo đảm cho người
khác? Tôi chỉ tin tưởng lời Phật dạy và trí huệ của Phật. Hôm nay tôi
có thể lấy được thêm một số ‘đản bạch chất’ và chất béo từ thịt động
vật, nhưng tôi không thể bù đắp nổi sự đau khổ của chúng nó, không thể
an ủi sự sợ hãi khủng bố của chúng nó, càng không lau hết nước mắt của
má chúng nó khóc con mất mạng. Có một ngày nào đó chúng nó sẽ quay lại
để trả thù. Nhân quả của con người rất là phức tạp nhưng không sai chạy
tí nào. Mắt thịt của phàm phu chúng ta chỉ nhìn thấy một mà không nhìn
thấy hai, thường cho ‘quấy’ thành ‘phải’. (Hồi xưa, Nicolaus Copernicus
(1473-1534) nói địa cầu là tròn xém chút thì phải mất mạng. Chúng ta
nói nhân quả báo ứng và lục đạo luân hồi, nếu bị chê là ‘mê tín’ thì
cũng là ‘việc nhỏ’ mà thôi).
Thiệt ra danh từ ‘chủ nợ’ không hẳn là
phải ‘đeo mắt kiếng đen, hút thuốc lá thơm, cầm súng, mặt đầy ác khí, đi
đến trước cửa để đòi nợ’. Chủ nợ có rất nhiều dạng: có thể là một người
đẹp mà bạn vừa nhìn đã bị ‘hốt hồn’ đi mất rồi, bạn không có suy nghĩ
liền đem tiền cho người đó phung phí, đến khi hết tiền thì người đó bỏ
bạn, làm cho bạn âu sầu ủ rũ cả đời. Hoặc có thể là người khi bạn mới
nhìn thì nổi nóng lên, mặt đỏ gay lên để cãi lộn với họ, rốt cùng rồi
làm cho bạn lên huyết áp, chảy máu trong đầu và chết bất ngờ. Chúng ta
hãy nên tin lời nói đầy trí huệ của chư Phật Bồ Tát, tránh làm hại và
kết oán thù với chúng sanh, tại vì tất cả sự khổ đều sẽ quay trở vào
thân mình, thường là hối hận không kịp. Chúng ta hãy quyết tâm luôn
luôn kết thiện duyên, khai mở trí huệ trong bổn tánh, mở ra nguồn vui
sướng vô tận không phải là tốt đẹp hơn không? Những người như vậy,
giống như lão hoà thượng Quảng Khâm và Tuyết Công lão ân sư cho dù sống
cả trăm tuổi mọi người đều thương tiếc ‘Tại sao ngài lại ra đi sớm vậy?’
‘Tại sao không sống đến hai trăm tuổi, để cho cháu chắt của tôi cũng có
dịp gặp ngài?’ Thọ mạng của các ngài vĩnh viễn đối với mọi người đều
không đủ. Phần đông người ta chỉ cần sanh ra một bịnh nan y, ai cũng
than là tại sao họ lại ‘kéo’ [mạng sống] quá dài như vậy, làm cho cả nhà
‘kéo’ đến gần sụp luôn. Nói như vậy thì ‘trường thọ’ hay không, không
phải dựa trên ‘số tuổi’; chúng ta nên sống mà mọi người đều tiếc là quá
ngắn, nhưng đừng nên ‘kéo’ dài để cho ai cũng than là quá dài!
Thiệt ra phải sống làm sao mới tốt? Thì
nên nghe theo lời dạy của đức Phật và những người đã đắc đạo trong quá
khứ, nên thật tình niệm Phật! Dùng cái tâm tánh không thể nghĩ bàn và
rộng lớn vô biên của chúng ta để xưng niệm danh hiệu không thể nghĩ bàn
của đức Phật Vô Luợng Thọ Vô Lượng Quang A Di Ðà; mỗi khi niệm một tiếng
thì có một tiếng vượt ra khỏi trần lao! Nguyện cho chúng ta dùng lòng
tín nguyện vô cùng vững chắc, trang nghiêm từng danh hiệu A Di Ðà Phật,
mỗi một niệm đều chiến thắng tất cả phiền não, mỗi một niệm đều đầy đủ
quang minh tự tại, mỗi một niệm đều hiện ra trời trong trăng sáng. Dùng
danh hiệu bất khả tư nghì này thể hội được vô lượng quang thọ của tự
tánh. Cũng như Ngẫu Ích Tổ sư có nói: “Chuyển kiếp trược thành hải hội
thanh tịnh, chuyển kiến trược thành vô lượng quang, chuyển phiền não
trược thành thường tịch quang, chuyển chúng sanh trược thành liên hoa
hoá sanh, chuyển mạng trược thành vô lượng thọ”. Nguyện từng tiếng Phật
hiệu thành khẩn, thiết tha đem sóng nước cuồn cuộn trên sông Hằng sanh
tử trồng đầy hoa sen….
Nam mô A Di Ðà Phật.
Trong quá trình chuyển ngữ chắc không
tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho.
Xin thành thật cám ơn.
Một nhóm Diệu Âm cư sĩ, 9 tháng 4-1991
(Nguồn: thondida.com)
0 Kommentare:
Post a Comment