浙水慈雲寺顯密教觀沙門續法集
Triết
thủy Từ Vân Tự Hiển Mật
Giáo Quán Sa
Môn Tục Pháp
Tập
Giảng
thuật:
Hòa Thượng Tuyên Hóa, Vạn Phật Thánh Thành Hoa
Kỳ
舜若多性可銷亡 爍迦囉心無動轉
Âm
Hán Việt :
Thuấn-nhã-đa
tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra
tâm vô động chuyển.
Dịch
:
Hư
không kia còn có thể tiêu mất,
Bổn
tâm kiên cố không hề lay động.
Thích
:
Sớ
rằng: Hai câu này lược nói tâm không thối chuyển. “Thuấn
nhã đa” có nghĩa là hư không, “thước ca ra” có nghĩa là
kiên cố, cũng gọi là Kim Cang. Nói tánh hư không không thể tiêu
vong, tuy hư không còn có thể tiêu mất nhưng nay phát tâm thệ
nguyện kiên cố, đồng với Tạng tánh, rốt không động
chuyển, không giống như hư không có thể tiêu tan. Mười tám câu
này xuất xứ từ cuối quyển ba của bộ kinh này (kinh Lăng
Nghiêm).
Giải
:
Thế
nào là “thuấn-nhã-đa” (Shunyata) ? “Thước-ca-ra” (Vajra)
lại là cái gì ? Thuấn-nhã-đa
tánh khả tiêu vong : là nói tánh hư không cũng có thể không
còn. Quý vị nói hư không không còn chăng ? Không bao giờ. Vì nó
là không, còn tiêu mất cái gì ? Nó vốn không có thứ gì, thì
có thứ gì có thể tiêu mất ? Nhưng A Nan lại nói hư không có
thể tiêu vong, đây chỉ là lời giả thiết. Hư không không
thể tiêu vong cũng có thể tiêu vong, nhưng tâm Kim cang bất
hoại của con, tâm kiên cố của con thì không thể động
chuyển, vĩnh viễn không bao giờ thay đổi.
Nguyên
văn :
南無常住十方佛。南無常住十方法。南無常住十方僧。南無本師釋迦牟尼佛。南無佛頂首楞嚴。南無觀世音菩薩。南無金剛藏菩薩。
Âm
Hán Việt :
Nam
mô thường trụ thập phương Phật.
Nam
mô thường trụ thập phương Pháp.
Nam
mô thường trụ thập phương Tăng.
Nam
mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam
mô Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm.
Nam
mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Nam
mô Kim Cang Tạng Bồ tát.
Dịch
:
Kính
lạy thường trụ thập phương Phật, kính lạy thường trụ
thập phương Pháp, kính lạy thường trụ thập phương Tăng, kính
lạy Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, kính lạy Phật đảnh Thủ Lăng
Nghiêm, kính lạy Bồ tát Quán Thế Âm, kính lạy Bồ tát Kim
Cang Tạng.
Thích
:
Sớ
rằng : Ba câu trước là quy y chung Tam bảo. Nam
mô là tiếng Phạn, dịch là quy mạng. Phật
Ðà dịch là giác giả, có ba nghĩa tự giác, giác tha, giác
hạnh viên mãn. Pháp có nghĩa
là “nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải”, tức là có
thể nắm giữ được tự tánh của nó, không khiến ta lầm
với các vật khác, cũng tức Tam tạng Mười hai bộ loại. Tăng dịch là hòa hợp chúng, có hai nghĩa. Một là lý hòa,
đồng chứng trạch diệt vô vi. Hai là sự hòa, là giới hòa đồng
tu, kiến hòa đồng giải, lợi hòa đồng quân, thân hòa đồng
trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt. Bốn câu sau là quy
y riêng Tam bảo của bộ kinh này. Thích Ca Mâu Ni dịch là Năng Nhân Tịch Mặc, là Phật
bảo của pháp hội này. Thủ Lăng
Nghiêm xem giải thích ở trên. Chú Lăng Nghiêm do hóa thân
Phật trong hào quang trên đỉnh đầu của Phật thuyết ra, nên
lấy Phật đỉnh đặt tên, là Pháp bảo của hội. Pháp môn
của Ngài Bồ tát Quán Thế Âm được chọn là pháp môn viên
thông nhất trong kinh này, cùng với cõi này có duyên rất sâu dày,
cho nên người tụng chú cũng nên quay lại tánh nghe nghe âm
thanh của mình. Kim Cang Tạng
là chủ của mật bộ, có thể hộ trì chú, thành tựu công đức
vậy, vì thế nên cung kính quy y, để cầu gia bị.
Giải
:
Nam
mô thường trụ thập phương Phật. Nam mô thường trụ thập
phương Pháp. Nam mô thường trụ thập phương Tăng :
Ðây là quy y Tam bảo. Chúng ta quy y mười phương chư Phật,
lại quy y Pháp mà chư Phật thuyết ra, lại quy y Hiền thánh tăng
trong ba đời mười phương. Hiền thánh tăng tức là đại Bồ
tát, đại A la hán cũng đều bao gồm ở trong. Nam
mô Thích Ca Mâu Ni Phật : Sau khi quy y thập phương Tam bảo,
lại quy y bổn tôn Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni là
tiếng Phạn, dịch là Năng Nhân, Tịch Mặc. Năng Nhân tức là
phổ độ chúng sanh, Tịch Mặc tức là tịch nhiên bất động.
Năng nhân cũng tức là cảm ứng quán thông với tất cả. Năng
lấy lòng nhân từ ban cho chúng sanh. Ðây tức là động tĩnh không
hai. Năng nhân là động, Tịch mặc là tĩnh, động tĩnh nhất
như. Trong động tức là tĩnh, trong tĩnh tức là động, động
không làm chướng ngại tĩnh, tĩnh không làm chướng ngại động.
Khi chúng ta tu đạo, tu đến lúc động tĩnh nhất như thì sẽ
tìm được bản thể, không còn vọng niệm nữa.
Nam
mô Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm
: lại quy y đại định
Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm này. Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát : lại quy y Bồ tát Quán
Thế Âm. Nam mô Kim Cang Tạng
Bồ tát : lại quy y tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ tát.
Niệm chú Lăng Nghiêm có tám vạn bốn ngàn Kim cang tạng Bồ tát
thường theo bên mình bảo hộ. Vì thế nay có thể trì được
chú Lăng Nghiêm không phải căn lành gieo trồng trong một đời
một kiếp, mà là căn lành đã gieo trồng trong vô lượng trăm
ngàn vạn ức kiếp về trước, mới có thể học tập chú Lăng
Nghiêm và tụng trì thọ trì chú Lăng Nghiêm. Không phải ở
một chỗ Ðức Phật, hai Ðức Phật, ba bốn năm Ðức Phật
gieo trồng căn lành, mà đã ở vô lượng ngàn vạn chỗ Phật
gieo trồng các căn lành, mới có thể gặp được chú Lăng Nghiêm,
mới có thể nghe giảng chú Lăng Nghiêm.
Có
người nghĩ rằng : “Sư phụ hôm qua nói không hiểu chính là
huyền diệu. Vậy thì tại sao Sư phụ lại giảng cho chúng con
nghe”. Vậy thì quý vị có thể bịt lỗ tai lại không nên
nghe ! Tôi giảng là việc của tôi, quý vị không nghe là việc
của quý vị. Quý vị có thể ngủ ở đó, thì càng vi diệu hơn.
Nhập vào tam ma địa ngủ, vừa ngủ thì gặp Châu Công. Châu Công
nói : “Mừng ông đến đây ! Tôi sẽ cùng chơi với ông một
bàn cờ”, nơi đó bày bàn cờ đánh với quý vị. Khi chú Lăng
Nghiêm giảng xong, thì cờ quý vị cũng chơi xong, nói : “Ô ! cái
gì ?”. Tôi cũng không biết.
Quý
vị tu Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn cần phải thành tâm một chút,
nỗ lực tu pháp này. Tu pháp này thì mai sau đều có thể trên
trời dưới đất được ngàn tay ngàn mắt, như Bồ tát Quán
Âm giáo hóa chúng sanh. Ðó là sự kỳ vọng của tôi đối
với quý vị. Tu pháp thì cần phải có hành vi chánh đáng, tâm
địa tốt, không được có tâm tham, không được có tâm ô
nhiễm gạt người. Không thể dùng pháp này hướng người phan
duyên. Cần phải thành thực, không thể có những hành vi không
chánh đáng, điều này rất quan trọng.
Nguyên
văn :
爾時世尊。從肉髻中。涌百寶光。光中涌出千葉寶蓮。有化如來,坐寶華中。頂放十道百寶光明。一一光明。皆遍示現十恒河沙金剛密跡,擎山持杵,遍虛空界。大眾仰觀,畏愛兼抱,求佛哀祐。一心聽佛無見頂相。放光如來宣說神咒。
Âm
Hán Việt :
Nhĩ
thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang
trung dõng xuất thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa
bảo hoa trung. Ðảnh phóng thập đạo bách bảo quang minh, nhất
nhất quang minh, giai biến thị hiện thập Hằng Hà sa Kim cang
mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới. Ðại chúng
ngưỡng quán, úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính
Phật vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai tuyên thuyết
thần chú.
Dịch
:
Bấy
giờ, Thế Tôn từ nơi nhục kế phóng ra hào quang trăm báu,
trong hào quang phóng ra hoa sen báu ngàn cánh, có Hóa thân Như Lai
ngồi trong hoa sen báu. Trên đảnh phóng mười đạo hào quang trăm
báu, mỗi mỗi đạo hào quang đều thị hiện Kim Cang Mật Tích
nhiều như số cát mười sông Hằng hà, tay đỡ núi, tay cầm
chày, khắp cõi hư không. Ðại chúng ngước lên xem, vừa kính
yêu vừa lo sợ, xin Phật thương xót che chở, nhất tâm lắng
nghe đức Như Lai nơi Vô Kiến Ðảnh Tướng[3]
của Phật phóng ra hào quang tuyên thuyết Thần Chú.
Thích
:
Sớ
rằng : Nhục kế, “kinh
Phật thuyết Vô Thượng Y” nói, xương trên đỉnh đầu Phật
nổi cao lên gọi là nhục kế, tức đại Phật đảnh ở đây,
biểu thị thể bất động. Bách
bảo quang, biểu thị trăm cõi. Mười cõi là bốn cõi thánh
sáu cõi phàm, mỗi cõi lại có mười nên gọi là một trăm. Thiên
diệp bảo liên, biểu thị thiên (ngàn) như thị[4].
Trăm cõi mỗi cõi có như thị tướng, như thị tánh, như thị
thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên,
như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh v.v…
nên gọi là một ngàn. Có hóa
thân Như Lai, ngồi trong hoa sen báu, hoa báu là nhân, Như Lai
là quả, biểu thị nhân bao gồm quả, quả không lìa nhân,
trong nhân có quả, trong quả có nhân, quả tức là nhân, nhân
quả đồng thời, nhân quả không hai vậy. Trên đỉnh phóng ra
mười đạo hào quang, cho đến mười Hằng hà sa, biểu thị mười
cõi hoặc mười pháp như thị. Pháp có sai biệt, hào quang không
sai khác, đều là một Như Lai Tạng tâm vậy. Lại pháp giới
tuy nhiều như số cát sông Hằng, nhưng không vượt hơn mười.
Giai biến thị hiện chính là
biểu thị bổn nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới vậy. Kim cang mật tích, Phạn ngữ là tán-na, tức tán-chi,
dịch là mật chủ, đầy đủ 4 mật pháp vô thượng là danh
(ngôn giáo), hành (hành trì giới định huệ), trí (trí huệ), lý
(nghĩa lý), là hộ pháp chủ, thị hiện là Kim Cang thần phát
nguyện thân cận Ðức Phật nghe các sự tích bí mật nên gọi
là Mật tích, biểu thị hào
quang báu, như Kim cang không hư hoại lại có thể phá Hằng sa
phiền não trong 10 cõi, hiển thị cùng khắp mười cõi Hằng sa
diệu dụng, nên cùng khắp hư không vậy. Úy
ái, có uy chiết phục nên đại chúng đều sợ, có lòng
từ nhiếp phục nên đại chúng đều thương. Ðỉnh Phật thuyết chú, biểu thị tâm Phật vô vi, không
nương vào mật thể tu chứng vậy. Thuyết
vô thượng chú, biểu thị mật dụng bất khả tư nghì. Phóng
quang hóa thuyết, hóa thân Phật tuyên thuyết đều là phóng
hào quang, biểu mật tướng thanh tịnh vô ngại. Lại từ Phật
đỉnh, biểu thị là hiển là mật, pháp không sai khác ; mà
vô kiến biểu thị không phải hiển không phải mật, pháp
vốn tịch nhiên. Ðây tức là lý Như Lai viên chứng, và thể
chúng sanh đồng vốn có. Nhưng lý do sự mà rõ, pháp tùy theo căn
cơ mà cảm. Nhưng A Nan trước đó được chú nhiếp thọ dẫn
về, chỉ được lợi ích bí mật, chưa từng được nghe, nay
được Như Lai tuần tự khai thị, tín giải đã sâu, muốn
thực hành chứng đắc, nhiếp tâm nhập định, lìa chướng ma
thành đạo quả, lần nữa thỉnh Phật tuyên thuyết thần chú.
Mà Như Lai nói giữ bốn loại luật nghi dâm, sát, đạo, vọng,
trong trắng như băng tuyết, nếu có tập khí đời trước, không
thể trừ diệt thì nên trì tụng thần chú Phật đỉnh của
Ta. Vì thế nên thỉnh Ðức Phật tuyên thuyết lại thần chú,
mà Như Lai phóng hào quang thuyết thần chú này vậy. Ba đoạn văn
ở trên mở đầu sự tụng chú, lưu thông đã lâu, hành khắp
trong vũ trụ, lý hợp bù vào, vì thế duyệt lại đại sớ, trích
tiết giải thích bổ sung thêm.
Giải
:
“Nhĩ
thời” tức đương thời, lúc thuyết chú Lăng Nghiêm,
“lại” là hiện nay đang giảng chú Lăng Nghiêm. Thuyết chú Lăng
Nghiêm là mấy ngàn năm về trước, giảng chú Lăng Nghiêm là
mấy ngàn năm về sau. Nghe chú Lăng Nghiêm là hiện tại, không
phải là quá khứ, không phải là vị lai, vì quá khứ đã trôi
qua, vị lai lại chưa đến. Còn hiện tại, hiện tại cũng đang
trôi chảy không ngừng nghỉ. Khi quý vị nói đây là thời
hiện tại thì đã trở thành quá khứ, ngay hiện tại cũng không
tồn tại. Tại sao lại nói như thế ? Vì tâm quá khứ không
thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không
thể được, ba tâm không thể được, chỉ có chú Lăng Nghiêm
là có thể được. “Thế Tôn” là bậc tôn quý ở thế gian
và xuất thế gian. Không có gì cao quý hơn, siêu việt hơn,
tức là Phật. Lúc này từ nhục kế trên đỉnh của Phật phóng
ra hào quang trăm báu, trong hào quang lại phóng ra hoa sen báu ngàn
cánh. Trăm báu ở đây biểu thị trăm cõi, hoa sen báu ngàn cánh
biểu thị thiên như. Nói là nói như thế, không chỉ biểu
thị trăm cõi thiên như, mà là vô cùng vô tận, vô lượng vô
biên. Có thể nói tam thiên đại thiên thế giới đều từ hào
quang trăm báu này mà tạo thành ra. Trên hoa sen báu có hóa thân
của Ðức Phật. Hóa thân tức là từ không hóa có, nói có nó
lại không có, nói không có nó lại có. Thoáng hiện thoáng
ẩn, lúc có lúc không, nhìn dường như thấy trước mắt,
bỗng hiện ra ở sau, hóa Như Lai tức là thân biến hóa của
Phật ngồi trên hoa sen báu ngàn cánh. Trên đầu của hóa thân
Như Lai lại phóng ra mười đạo hào quang trăm báu. Mười đạo
biểu thị mười pháp giới, mỗi một đạo hào quang đều
phổ biến thị hiện mười Hằng hà sa số Kim cang mật tích,
tức là Kim cang hộ pháp, cũng tức là hộ pháp Kim cang. Mật tích
là im lặng bảo hộ quý vị. Niệm chú thấp nhất có tám vạn
bốn ngàn Kim cang bảo hộ quý vị, kỳ thực không chỉ từng
đó, có số nhiều như mười lần như số cát sông Hằng, ngay
máy vi tính cũng không tính nỗi số hộ pháp Kim cang âm thầm
bảo hộ quý vị. Quý vị nhìn không thấy, nhưng Kim cang Bồ tát
lại là có thật.
Nhìn
thấy Kim cang tạng Bồ tát một tay cầm ngọn núi lớn, một
tay cầm chày báu lớn, biến mãn đầy hư không. Ðại chúng ngưỡng
mặt nhìn, úy ái kim bảo. Úy là rất sợ, trong tâm như có
một con thỏ đang nhảy. Nói không dám xem nhưng lại không nỡ,
muốn xem thì rất sợ, sợ rởn tóc gáy, tóc lông đều dựng
đứng lên, lỗ chân lông cũng nổi da gà. “Úy ái kim bão” là
vừa lo sợ lại vừa kính thương, hai loại tâm tình, hai loại
tư tưởng.
Cầu
Phật ai hựu : lúc đó
thỉnh cầu Ðức Phật Thích Ca thương xót chúng con. Nhất
tâm thính Phật : Lúc đó thật không còn vọng tưởng nữa.
Con gái thì không nhớ đến bạn trai, con trai thì không còn
nhớ đến bạn gái. Ðây gọi là nhất tâm, không có tâm thứ
hai. Không giống như quý vị đang nghe giảng chú Lăng Nghiêm, Pháp
sư đang giảng còn tâm quý vị thì cứ mãi sanh khởi vọng tưởng,
không thể nhất tâm. Ðương nhiên tôi không có uy đức lớn như
Phật, cho nên giảng cho quý vị nghe, quý vị đều sanh tâm
vọng tưởng. Vô kiến đảnh tướng:
Vô kiến đảnh tướng của Ðức Phật, “Càng trông lên thì
thấy càng cao, soi vào thì càng kiên cố, dường như thấy trước
mắt, bỗng hiện ra ở sau”[5].
Vô kiến đảnh tướng này, dường như có dường như không, nói
không có thì dường như có. Vô kiến đảnh tướng quý vị nhìn
không thấy đâu, nhưng không chỗ nào không nhìn thấy, chốn
chốn đều nhìn thấy. Phóng
quang Như Lai tuyên thuyết thần chú : Hóa thân Như Lai đang
ở trên hoa sen báu, trên Vô kiến đảnh tướng của Ngài sanh
ra hào quang trăm báu, hào quang trăm báu lại có hoa sen báu ngàn
cánh, trên hoa sen báu ngàn cánh lại có hóa thân Như Lai, lại
phóng ánh sáng lớn tuyên thuyết thần chú. Ðây là thần chú
do hóa thân của Ðức Phật tuyên thuyết, không phải người thường
có thể nghe được, lúc đó đều là những bậc đại Bồ tát
Pháp thân đại sĩ mới có thể nghe được thần chú. Quý vị
muốn nghe thì trước phải học chú Lăng Nghiêm, học xong thì
mới có thể nghe được.
Nguyên
văn :
佛頂光明摩訶薩怛多般怛囉無上神咒。
Âm
Hán Việt :
Phật
đỉnh quang minh ma ha tát đát đa bát đát ra vô thượng thần
chú.
Dịch
:
Thần
chú vô thượng như cây lọng trắng lớn do hóa thân Phật từ
hào quang trên Phật đảnh thuyết ra.
Thích
:
Ðỉnh
Phật phóng hào quang, trong hào quang có hóa thân Phật tuyên
thuyết thần chú, gọi là Phật
đỉnh quang. Ma ha dịch là lớn, thể biến mười phương gọi là
lớn. Tát đát đa dịch là
bạch (trắng), không có các tướng nhiễm nên gọi là trắng. Bát
đát ra dịch là tản cái (tàng lọng), che chở vạn vật
gọi là tản cái. Cả ba đều đầy đủ đức viên dung, tức
ba tạng tâm. Ðây là nhất thiết chủng trí của chư Phật[6],
cũng tức là tự tánh của chúng sanh, bao gồm nhân quả, cùng
tận thấu suốt chân lý. Trì chú thì hiện đời được giác
ngộ, tụng chú thì nghiệp chướng kiếp trước tiêu trừ . Cao
minh không gì bằng gọi là vô,
tôn quý không gì sánh được gọi là thượng.
Uy linh không thể đo lường gọi là thần,
cảm ứng không thể nghĩ bàn gọi là chú. Kinh nói : Nếu ta
thuyết thần chú bát đát ra này, trải qua Hằng hà sa số
kiếp cũng không thể nói hết, chính là nghĩa này vậy. Chú có
5 hội, hội thứ nhất là “tát đát đa, bát đát lam”. Hội
thứ hai là “tát đát tha, bát lặc xá tất đa”. Hội thứ ba
là “tô ba ra noa, ma ha bát du bát đác dạ”. Hội thứ tư là
“tát đát đa, bát đát ra”. Hội thứ năm là “tất đát đa
bát đát ra”. Nay giải thích chú không giống với đề kinh. Nói
“Phật đỉnh quang minh ma ha tát đát đa bát đát ra vô thượng
thần chú”. Lời vàng tuyên thuyết, Như Lai mật nhân tu chứng
liễu nghĩa, tất cả đều viên mãn cụ túc.
Giải
:
Tên
của chú Lăng Nghiêm là “Ma ha tát đát đa bát đát ra đà la
ni”, còn gọi là “Ma ha tát
đát đa bát đát ra vô thượng thần chú”. Ma
ha là tiếng Phạn, dịch là lớn, thể tướng dụng đều
lớn. Thể biến mãn mười phương, cùng tận hư không biến pháp
giới là đại dụng này. Tướng, nó thì không có tướng, chú
thì có tướng gì ? Nhưng vô tướng vô bất tướng, có nghĩa là
không có tướng nhưng tất cả đều có tướng, cũng có thể nói
nó không có dụng gì, nhưng không chỗ nào không có dụng, cùng
tận hư không biến pháp giới tất cả đều là dụng. Dụng này
là đại dụng, tướng là đại tướng, thể là đại thể, đây
là ý nghĩa của chữ Ma ha.
Tát
đát đa : cũng là Phạn
ngữ, dịch là màu trắng, cũng có nghĩa là thanh tịnh, không có
ô nhiễm. Cho nên nói : “Dứt tuyệt các tướng ô nhiễm gọi
là trắng” (tướng tuyệt chư nhiễm viết bạch). Chú Lăng
Nghiêm là pháp trắng trong thanh tịnh, là pháp thanh tịnh không
chút nhiễm ô.
Bát
đát ra : cũng là tiếng
Phạn, dịch là tản cái (tàng lọng). Ðây là ví dụ, ví dụ cái
lọng che mát vạn vật, che chở bảo hộ những người có đức,
ai có đức hạnh thì sẽ gặp được pháp này, người không có
đức hạnh thì sẽ không gặp được pháp này. Vì thế nói : “Tam
quang phổ chiếu thấu tam tài”, ba thứ ánh sáng chiếu
khắp tam tài. Người thường nhất định cho rằng “tam
quang” là ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và ngôi sao. Ánh
sáng của mặt trời, mặt trăng và ngôi sao là ba thứ ánh sáng
ở bên ngoài. Tụng trì chú Lăng Nghiêm thân có ánh sáng của
thân, miệng có ánh sáng của miệng, tâm có ánh sáng của tâm.
Thân khẩu ý ba nghiệp đều có ánh sáng. Có nghe qua điều này
chưa ? Ðây là nghe điều chưa từng nghe, thấy điều chưa
từng thấy. Ánh sáng mà thân phóng ra là ánh sáng màu vàng. Tu
thành công thì biến thành ánh sáng màu vàng ròng, hàng vạn tia
ánh sáng màu vàng ròng. Lúc mới đầu tu chú Lăng Nghiêm, là ánh
sáng màu vàng nhạt, lâu ngày biến thành màu vàng ròng, nên nói
vạn đạo ánh sáng màu vàng sắc tía rực rỡ tràn ngập pháp
giới. Ðó đều là do tu chú Lăng Nghiêm mà được thành tựu.
Ánh sáng mà trong miệng phóng ra là ánh sáng màu hồng. Ánh sáng
mà trong tâm phóng ra là ánh sáng màu trắng. Nhưng có lúc trong
miệng cũng phóng ra ánh sáng màu vàng, có lúc lại phóng màu
xanh, có lúc lại phóng màu đen. Có lúc ánh sáng các màu xanh vàng
đỏ trắng đen đều phóng ra. Nhưng cần phải tu hành thành
tựu mới có. Bát đát ra
tức bao hàm vạn đức, như cây lọng màu trắng lớn, che chở
bảo hộ tất cả chúng sanh có đức và người thọ trì chú Lăng
Nghiêm, cho nên nói : “Tam quang phổ chiếu thấu tam tài”. Tam
tài tức là trời đất người. “Thế
giới Diêm phù nễ bất lai”. Trong cõi Diêm phù quý vị tìm
khắp nơi cũng tìm không ra, nhất định phải thọ trì chú Lăng
Nghiêm mới có thể được ánh sáng này. “Ðại
đức đại thiện năng ư đắc”, phải có đức hạnh lớn
căn lành lớn mới có được pháp môn này. “Vô đức vô thiện bất minh bạch”, nếu không có đức
hạnh, không có công đức lành thì dù có gặp cũng bỏ lỡ
dịp may ngay trước mặt, nhìn thấy vàng ròng mà cho là đồng,
nhìn thấy kim cương mà cho là thủy tinh, nhìn thấy chú Lăng
Nghiêm mà cho rằng rất tầm thường, không gì đáng kể, không
biết của quý báu, không biết rất vi diệu, không biết công
đức của chú Lăng Nghiêm là bất khả tư nghì. Tâm quang (ánh
sáng của tâm) tức ý niệm, là thức thứ sáu. Nhưng nếu quý
vị không tu hành thì không có tác dụng gì, nếu tu hành thì có
thể phóng hào quang. Không chỉ thân khẩu ý tam nghiệp thanh
tịnh phóng ra ánh sáng thanh tịnh, còn có ánh sáng hồng bao
bọc cuộn tròn chung quanh. Quý vị tụng chú Lăng Nghiêm tự nhiên
sẽ có ánh sáng màu hồng bao bọc. Cho nên nói “thiên đóa hồng liên hộ trụ thân” ngàn đóa sen
hồng hộ trì thân, hoa sen hồng phóng ra ánh sáng hồng. “Tọa
câu kỵ trước mặc kỳ lân”, người trì tụng chú Lăng
Nghiêm như là “cỡi kỳ lân đen”. Ở thời đại khoa học
hiện nay nói điều này, người nghiên cứu khoa học sẽ cười
rụng răng. Nhưng như vậy thì cũng tốt, nếu không sẽ không cười
rụng răng, ngày ngày cứ mãi ở đó mà khoa học với khoa
học. “Vạn yêu nhất kiến vãng viễn đóa”. Yêu ma quỷ quái
gì khi nhìn thấy tướng uy đức của Pháp thân có ngàn đóa
sen hồng bảo hộ, đều trốn thật xa. “Chí
Công Pháp sư hữu diệu âm”, Quốc sư Chí Công có âm thanh
huyền diệu, khi tụng chú Lăng Nghiêm thì có ánh sáng màu đỏ
tía bao bọc, ánh sáng màu trắng xoay tròn. Tại sao vừa tụng
chú Lăng Nghiêm yêu ma quỷ quái không dám ló mặt ? Vì sức
mạnh của chú Lăng Nghiêm rất lớn. Cùng tận hư không biến
pháp giới không có chỗ nào mà không có ánh sáng, không khí an
lành tràn ngập khắp nơi, cho nên có người tụng chú Lăng Nghiêm
thì sẽ bổ sung vào chỗ không đủ của chánh khí trời đất.
Một người tụng chú Lăng Nghiêm thì có sức mạnh của một
người, trăm người tụng chú Lăng Nghiêm thì có sức mạnh
của một trăm người, thì yêu ma quỷ quái trên cõi đời này
sẽ thật thà ngoan ngoãn.
Chú
Lăng Nghiêm là vua trong các thứ chú, cũng là chú dài nhất
trong các thứ chú. Chú này quan hệ đến sự thịnh suy của
Phật giáo. Trên thế gian nếu không một người nào biết
tụng chú Lăng Nghiêm thì thế giới này sắp hủy diệt, vì trên
cõi đời này không còn chánh pháp nữa, chỉ có kinh Lăng Nghiêm
và chú Lăng Nghiêm là bộ kinh và bộ chú quan trọng nhất trong
chánh pháp. Kinh Lăng Nghiêm là vì chú Lăng Nghiêm mà thuyết, để
giảng thích chú Lăng Nghiêm, xưng tán chú Lăng Nghiêm. Trong kinh
Lăng Nghiêm đoạn kinh văn nói về phương pháp kiết đàn rất
tỉ mỉ tường tận, muốn biết rõ ràng có thể xem đoạn kinh
này.
Chú
Lăng Nghiêm gọi là Phật đỉnh
quang minh, là Ðức Phật hóa thân trên Phật đảnh tuyên
thuyết ra, vì thế sự vi diệu không thể nghĩ bàn. Mỗi câu thì
có diệu dụng của mỗi câu, mỗi chữ thì có sự sâu xa
huyền diệu của mỗi chữ, đều không thể nghĩ bàn. “Phật
đỉnh quang minh” biểu thị sức mạnh của chú có thể phá
trừ tất cả tối tăm, có thể thành tựu tất cả công đức.
Nếu quý vị có thể thọ trì chú Lăng Nghiêm thì tương lai
nhất định thành Phật, nhất định chứng đắc quả vị Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Không cầm quyển chú mà có
thể niệm thì gọi là tụng, đối với chú mà niệm gọi là
đọc. Nếu có thể thường tụng niệm chú Lăng Nghiêm thì có
thể tiêu trừ nghiệp chướng đời trước. Ðây là diệu
dụng của chú Lăng Nghiêm. Sao gọi là “vô”
? Cao minh vô cực, quang minh đến chỗ cực điểm, không có gì
vượt qua quang minh này; “thượng” là tôn quý cao thượng không gì sánh bằng,
không có gì tôn quý cao thượng hơn nữa. “Thần”
là bất khả tư nghì, cũng có nghĩa là uy đức linh diệu không
lường. “Chú” tức là
cảm ứng đạo giao, có một sức mạnh lớn, quý vị niệm chú
thì có cảm ứng.
Phật
đỉnh quang minh ma ha tát đát đa bát đát ra vô thượng thần
chú : Ánh sáng Phật đảnh
giống như tàng lọng trắng lớn che chở bảo hộ tất cả
những người tụng trì chú Lăng Nghiêm. Ở trên là ý nghĩa đại
khái của danh xưng này.
TÔN
CHỈ VI DIỆU CỦA SỰ DỊCH CHÚ
(DỊCH
CHÚ DIỆU CHỈ)
Phiên
dịch kinh chú, gồm có 4 nguyên tắc. Một là âm và chữ đều
phiên dịch như hết thảy kinh văn vậy. Hai là âm và chữ đều
không phiên dịch như kinh điển tiếng Phạn từ Ấn Ðộ
truyền vào Trung Hoa. Ba là phiên âm không phiên chữ, như chữ
vạn 卍
vậy.
Phiên dịch chữ mà không phiên dịch âm như các loại chú
ngữ. Nay ở đây nói đến loại thứ tư.
Phiên
dịch kinh chú, gồm có 4 nguyên tắc :
Phương pháp phiên dịch kinh chú gồm có 4 loại nguyên tắc.
Một
là âm và chữ đều phiên dịch như tất cả kinh văn vậy :
Âm cũng phiên dịch, chữ cũng phiên dịch, tức là hết thảy
kinh văn.
Hai
âm và chữ đều không phiên dịch như kinh điển tiếng Phạn
từ Ấn Ðộ truyền vào Trung Hoa :
Âm là âm tiếng Phạn, chữ là chữ Phạn, tức là kinh điển
tiếng Phạn từ Ấn Ðộ truyền vào Trung Hoa.
Ba
phiên âm không phiên chữ, như chữ vạn 卍 vậy
: như chữ vạn 卍,
chỉ phiên dịch âm của nó mà thôi.
Phiên
dịch chữ mà không phiên dịch âm như các loại chú ngữ :
chữ phiên dịch thành tiếng Hoa nhưng âm vẫn là âm tiếng
Phạn, hết thảy chú đều thuộc loại này. Phiên dịch thành
tiếng Anh cũng vậy, chữ là tiếng Anh, nhưng cách đọc vẫn là
âm tiếng Phạn. Nay ở đây nói đến loại thứ tư : Nay nói đến
chính là loại thứ tư, dịch chữ không dịch âm.
Lại
có 5 loại không phiên dịch. Một là bí mật như các kinh chú
vậy. Hai nhiều nghĩa, như Bạc Già phạm có sáu nghĩa. Ba vốn
không có như cây Diêm Phù. Bốn theo xưa, như A Nậu Bồ đề. Năm
sanh khởi lòng thiện, vì tôn trọng như Bát nhã. Nay thuộc
loại thứ nhất.
Lại
có 5 loại không phiên dịch. Một là bí mật như các kinh chú
vậy : Người ngoài không
biết là điều rất bí mật, làm sao có thể phiên dịch ra. Chú
nếu phiên dịch thì không còn bí mật nữa. Thế nào là bí
mật? Trong một câu bao hàm rất nhiều nghĩa, rất nhiều sức
mạnh, rất nhiều cách dùng cho nên không phiên dịch.
Hai
nhiều nghĩa, như Bạc Già phạm có sáu nghĩa :
Một câu bao hàm rất nhiều nghĩa cho nên không phiên dịch. Như
“Bát nhã” có ba nghĩa là Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã,
Thực tướng Bát nhã, cho nên không phiên dịch. Lại như Bạc
Già Phạm có sáu nghĩa cho nên không phiên dịch. Sáu nghĩa là :
Một là tự tại, tức không vọng tưởng. Một khi vọng tưởng
tâm hướng bên ngoài giong ruổi thì không được tự tại. Hai
là xí thạnh, không phải là ngũ ấm xí thạnh mà là hào quang
của đức phật chiếu sáng quang minh xí thạnh rực rỡ. Ba là
đoan nghiêm; đoan chánh, uy nghiêm, trang nghiêm. Bốn là danh xưng
tiếng tốt. Năm là kiết tường. Sáu là tôn quý.
Ba
vốn không có như cây Diêm Phù :
Như cây Diêm Phù ở Trung Hoa vốn không có, phiên dịch thành
tiếng Hoa cũng không ai hiểu, cho nên giữ lại nguyên âm Diêm
Phù.
Bốn
theo xưa, như A Nậu Bồ đề :
như người xưa đã dịch ra, dịch rất hay, như A Nậu Bồ đề
là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tôn trọng người xưa đã
tốn rất nhiều tâm huyết phiên dịch ra, chúng ta không nên
lập dị đưa ra một cái mới khác người, nói chúng ta hay hơn
người xưa.
Năm
sanh khởi lòng thiện, vì tôn trọng như Bát nhã :
có thể sanh ra các thứ thiện pháp cho nên không phiên dịch ra.
Vì Bát nhã cũng có thể sanh ra các thứ thiện pháp nên không
phiên dịch, cũng vì tôn trọng nên không phiên dịch.
Nay
thuộc loại thứ nhất : Nay
thuộc loại thứ nhất bí mật nên không phiên dịch.
Chánh
Mạch nói : Hiển giáo như truyền trao phương thuốc có giải thích
hướng dẫn rõ ràng. Mật chú như đưa thuốc mật trị, công
hiệu của sự trị liệu không dễ dàng thấy biết được. Ý
nghĩa gồm có ba sức mạnh. Một là sức lý pháp, một chữ bao
hàm vô biên diệu lý, như 4 chữ: nguyên, hanh, lợi, trinh. Hai là
sức uy đức, như Tam bảo thần thánh, có sức mạnh uy đức
rất lớn, như thanh thế của Vua quan. Ba sức mạnh của lời nói
thật.
Chánh
Mạch nói : Hiển giáo như truyền trao phương thuốc có giải thích
hướng dẫn rõ ràng. Mật chú như đưa thuốc mật trị, công
hiệu của sự trị liệu không dễ dàng thấy biết được: Kinh
như toa thuốc rất rõ ràng minh bạch. Mật chú như viên thuốc
đã chế sẵn, đã gói kỹ, thuốc nào thì trị bịnh nấy, đến
lúc đó tự nhiên có sức mạnh, quý vị không dễ dàng biết
được, cho nên gọi là mật trị.
Ý nghĩa gồm có ba sức mạnh. Một là sức lý pháp, một
chữ bao hàm vô biên diệu lý, như 4 chữ nguyên,
hanh, lợi, trinh. Hai là sức uy đức, như Tam bảo thần thánh,
có sức mạnh uy đức rất lớn, như thanh thế của Vua quan. Ba
sức mạnh của lời nói thật : Mật chú có ba sức mạnh :
Một là sức lý pháp, đạo lý không có bến bờ, có thể nói
trong một chữ bao gồm vô lượng vô biên đạo lý vi diệu. Như
bốn chữ “nguyên, hanh, lợi, trinh” trong Dịch kinh nói đến,
bao gồm rất nhiều nghĩa lý của tám quẻ. Hai là sức mạnh uy
đức. Như sức mạnh của đại chúng làm cho người phải sợ.
Có người trước mặt hai ba người thì thao thao nói không
ngừng, đến khi kêu người ấy diễn giảng trước đại chúng
thì một câu nói cũng không ra. Ðó chính là uy đức của đại
chúng làm cho người đó sợ nói không ra lời. Phật Pháp Tăng,
Tam bảo thần thánh, danh xưng cùng khắp ai cũng biết đến, công
đức cũng lớn, sức mạnh cũng lớn, có đầy đủ uy đức
lớn. Như Quốc vương đại thần có thanh thế lớn. Ba là sức
mạnh của lời nói chân thật.
Chân
ngôn chú nguyện, siêu phàm nhập thánh, như chiếu sắc kế
cực. Pháp sư Trường Thủy cũng nói : Từ xưa đến nay không
phiên dịch, lược nói có 5 ý. Một là mật ngữ của chư
Phật, các bậc thánh khác khó thông hiểu. Hai là mật ấn của
chư Phật như ấn tín của nhà vua. Ba là pháp môn tổng trì, như
Bạc Già có sáu nghĩa. Bốn là tên của quỷ thần vương, kêu
họ đến giữ gìn bảo hộ người trì chú. Năm là sức bất
khả tư nghì, miễn tội ban cho chức vụ. Pháp sư Hồ Sơn nói
: Mật chú của Kinh điển theo lệ đều không phiên dịch.
Chân
ngôn chú nguyện, siêu phàm nhập thánh như chiếu sắc kế cực
: Chúng ta niệm chân ngôn,
chú nguyện cho người được may mắn kiết tường. Vì là lời
nói thật, nên gọi là chân ngôn. Như chân ngôn trong Bốn Mươi
Hai Thủ Nhãn đều là lời chú nguyện, như chú nguyện cho người
siêu phàm nhập thánh, sớm thành tựu thánh quả. Chân ngôn
lại giống như chiếu thư hoặc sắc ngữ của Hoàng đế, bảo
quý vị làm thế làm thế. Kế cực, tức thừa kế Vương vị
làm Hoàng đế.
Pháp
sư Trường Thủy cũng nói : Từ xưa đến nay không phiên dịch,
lược nói có 5 ý : Pháp sư Trường Thủy nói : Từ xưa đến
nay không phiên dịch đại khái có 5 loại ý nghĩa.
Một
là mật ngữ của chư Phật, các bậc thánh khác khó thông
hiểu : Lời của chư Phật nói ra, các bậc thánh khác đều không
hiểu rõ.
Hai
là mật ấn của chư Phật như ấn tín của nhà vua : Tâm ấn bí
mật của chư Phật, giống như ấn tín của Vua.
Ba
là pháp môn tổng trì, như Bạc Già có sáu nghĩa : Bao gồm
tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, như Bạc Già có sáu nghĩa.
Bốn
là tên của quỷ thần vương, kêu họ đến giữ gìn bảo hộ
người trì chú : Tên của quỷ thần vương, kêu họ đến giữ
gìn bảo hộ người trì chú.
Năm
là sức bất khả tư nghì, miễn tội ban cho chức vụ : Tha
thứ tội lỗi của họ, giao cho họ đảm nhiệm chức vụ, làm
chút công tác.
Pháp
sư Hồ Sơn nói : Mật chú của Kinh điển theo lệ đều không
phiên dịch : Pháp sư Hồ Sơn nói : Mật chú các Kinh chiếu theo
quy củ thì không nên phiên dịch.
Các
vị Pháp sư từ xưa đến nay có nhiều quan điểm không giống
nhau, Thiên Thai tổng quát các quan điểm này trong 4 loại Tất
đàn[7].
Một là trong chú có tên quỷ thần vương, xưng niệm vương
hiệu của quỷ thần vương, bộ lạc kính trọng chủ của
họ, không dám làm trái, đây là lợi ích của sự hoan hỷ
thế giới tất đàn. Hai, niệm chú, như mật hiệu trong quân đội,
tương ứng thì không bị trách hỏi, không tương ứng lập
tức bắt về trị tội, đây là ích lợi sanh thiện của người
vậy (Sinh thiện tất đàn). Ba, chú là phương pháp bí mật ngăn
ngừa tội lỗi. Không phải ai cũng biết điều này. Như kẻ
thấp hèn đi đến nước khác, gạt người tự xưng là vương
tử, được vua nước đó gã công chúa cho làm vợ. Người đó
lại nhiều sân giận khó hầu hạ, có người đến vạch trần
sự bí mật của người đó, mượn bài kệ nói ra, làm cho người
kia im lặng tự ngừng, đây là ích lợi của sự ngăn ngừa tiêu
trừ tội lỗi (Đối trị tất đàn). Bốn, chú là lời bí
mật của chư Phật, chỉ có thánh mới biết (Nhập lý tất đàn),
như Vua muốn Tiên Ðà Bà, một tên chỉ bốn thứ : muối, nước,
khí cụ, ngựa, người dưới không hiểu, chỉ có viên quan có
trí mới biết. Chú chỉ một lời mà sức mạnh đầy khắp,
bệnh lành tội trừ, sanh thiện hợp đạo, nhập lý Đệ nhất
nghĩa, chú có bốn sự ích lợi, chính là như thế.
Các
vị Pháp sư từ xưa đến nay có nhiều quan điểm không giống
nhau, Thiên thai tổng quát các quan điểm này trong 4 loại Tất
đàn : tất cả các vị Pháp
sư từ xưa cho đến nay đều có nhiều quan điểm không giống
nhau. Thiên Thai tổng quát những quan điểm này này trong bốn
loại Tất đàn.
Một
là trong chú có tên quỷ thần vương, xưng niệm vương hiệu
của quỷ thần vương, bộ lạc kính trọng chủ của họ, không
dám làm trái, đây là lợi ích của sự hoan hỷ của thế
giới tất đàn : trong chú có
tên của quỷ thần vương. Như chú Lăng Nghiêm có rất nhiều tên
của quỷ thần vương như Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Già. Quý vị xưng
tên của quỷ lớn, quỷ nhỏ vì cung kính quỷ vương nên không
dám làm bậy, quấy nhiễu mình, hết thảy đều giữ gìn quy
củ. Ðây là thế giới tất đàn, người trên thế gian này
được ích lợi của sự hoan hỷ.
Hai,
niệm chú, như mật hiệu trong quân đội, tương ứng thì không
bị trách hỏi, không tương ứng lập tức bắt về trị tội,
đây là ích lợi sanh thiện của người vậy:
Như trong quân đội mỗi ngày đều có khẩu lệnh, đây là do
quan tư lệnh phát ra, binh lính ở dưới đều biết. Ban đêm trên
đường đi gặp người không quen biết bèn hỏi khẩu lệnh,
hoặc trả lời “trời”, hoặc trả lời “đất”. Nếu
trả lời đúng thì không sao, trả lời sai thì nổ súng. Quý
vị không thể hỏi người khác khẩu lệnh là gì. Nếu quý
vị đáp đúng thì không bị trách phạt. Nếu đáp không đúng,
không tương ứng thì bắt quý vị đem về trị tội, đây là vì
ích lợi sanh thiện vậy.
Ba,
chú là phương pháp bí mật ngăn ngừa tội lỗi. Không
phải ai cũng biết điều này. Như kẻ thấp hèn đi đến nước
khác, gạt người tự xưng là vương tử, được vua nước
đó gã công chúa cho làm vợ. Người đó lại nhiều sân
giận khó hầu hạ, có người đến vạch trần sự bí mật
của người đó, mượn bài kệ nói ra, làm cho người kia im
lặng tự ngừng, đây là ích lợi của sự ngăn ngừa tiêu
trừ tội lỗi: Chú có
thể bí mật tiêu trừ tội nghiệp, mà người vẫn không
biết. Như kẻ thấp hèn đi đến nước khác, dối gạt người
nói ta đây là Vương tử của nước kia. Quốc vương tin
lời bèn gã công chúa cho anh ta. Anh ta bèn như tục ngữ nói,
“người nghèo trong một đêm biến thành người giàu bèn hách
mặt lên trời”. Anh ta tánh tình thường hay nổi nóng, nói
cái này không đúng, cái kia không đúng, khắp mình đều là
lửa giận rất khó hầu hạ. Có người biết được lý
lịch của anh ta đến chỗ đó, mới mượn một bài kệ
tụng để nói anh ta. Bài kệ tụng này trước đã giảng
qua, mọi người đều không nhớ, tôi nay làm một bài kệ
khác :
Vô
đức khứ tha quốc,
Khi
cuống nhất thiết nhân,
Bổn
thị bần cùng giả,
Hà
lai tư đa sân?
Có
nghĩa là :
Người
không có đức hạnh đi đến nước khác,
Dối
gạt mọi người ở thế gian,
Vốn
là một người bần cùng,
Sao
mà nhiều sân giận như thế?
Bài
kệ này vừa đọc cho anh ta nghe, anh ta bèn ngoan ngoãn ngay,
hiểu người ta đã biết bí mật của mình. Sợ người
vạch trần, nên không dám nóng giận nữa, đây là đối
trị tập quán xấu của người, phá bỏ những tập quán
xấu ác.
Bốn,
chú là lời bí mật của chư Phật, chỉ có thánh mới
biết, như Vua muốn Tiên Ðà Bà, một tên chỉ bốn thứ:
muối, nước, khí cụ, ngựa, người dưới không hiểu,
chỉ có viên quan có trí mới biết. Chú chỉ một lời mà
sức mạnh đầy khắp, bệnh lành tội trừ, sanh thiện hợp
đạo, nhập lý Đệ nhất nghĩa đế : Chú
là lời bí mật của chư Phật, chỉ có Phật mới biết ý
nghĩa của nó, giống như Quốc vương muốn Tiên Ðà Bà. Tiên
Ðà Bà là cái gì ? Muối, nước, khí cụ, ngựa đều là Tiên
Ðà Bà. Khi Vua muốn Tiên Ðà Bà thì không ai biết Vua muốn
cái chi, chỉ có quan thần có trí huệ mới biết được. Ví
dụ Vua đang ăn cơm muốn Tiên Ðà Bà, viên quan có trí huệ
bèn biết là muối. Ăn cơm xong muốn Tiên Ðà Bà, tức là
cần nước rửa tay súc miệng. Khi Quốc vương đi du ngoạn
muốn Tiên Ðà Bà thì đó là ngựa. Ví thế nói bốn món cùng
một tên. Phải xem Quốc vương lúc nào cần món gì, phải
biết tùy cơ ứng biến. Cho nên nói chỉ có quan trí huệ
mới biết. Chú cũng như vậy, một câu chú có rất nhiều
nghĩa, quỷ thần đều biết. Chỉ một câu chú bao hàm rất
nhiều nghĩa lý, rất nhiều sức mạnh. Sức mạnh gì ? Có
thể làm lành bệnh, giải độc, tiêu trừ nghiệp chướng,
còn sanh thiện pháp, cùng với đạo hợp nhất, khôi phục
lại thiên lý vốn có.
Chú
có bốn sự ích lợi, chính là như thế :
Chú có bốn điều lợi ích cũng giống như Tiên Ðà Bà,
một lời mà có bốn nghĩa. Bốn điều lợi ích là Đối
trị tất đàn, Phá ác tất đàn, Nhập lý tất đàn, Sanh
thiện tất đàn, như trên đã nói đến.
Chú
Lăng Nghiêm rất hiếm có, là một pháp hội rất khó gặp,
nhưng quý vị ở đây khi nghe chú Lăng Nghiêm, vừa nghe vừa
ngủ, vừa nghe vừa ngáp, không những bản thân mình không
được thọ dụng, mà người ngồi bên cạnh cũng sanh tâm
vọng tưởng, đó không phải là thái độ cung kính pháp. Như
quý vị học pháp, mà không có Sư phụ truyền trao, thì
gọi là trộm pháp. Khi quý vị nghe pháp mà không lắng lòng
nghe pháp, chỉ ngủ, đó gọi là mạn pháp. Mạn pháp và
trộm pháp đều là hành vi không hợp pháp. Quý vị khi nghe
pháp mà buồn ngủ, có thể trước khi đến nghe pháp uống
một ly cà phê, hoặc một ly trà đậm. Không nên mới đến
đây có một lúc mà chịu không nỗi ! Cứ ở đó mà ngủ gà
ngủ gục, đi đánh cờ với Châu công rồi, bỏ qua cơ hội
quý báu, để thời gian vàng ngọc luống trôi vô ích. Quý
vị nên biết, quý vị đến giảng đường này, là vì pháp
mà đến, không phải vì ngủ mà đến, cũng không phải vì
ăn mà đến, đã vì pháp mà đến, thì cần phải được
một chút pháp, không nên phiền tôi lãng phí quá nhiều
sức lực như thế. Quý vị ở đó nhập tam muội ngủ,
rất tự tại, rất xí thạnh, rất đoan chánh trang nghiêm,
danh xưng rất lớn, rất kiết tường, cũng rất tôn quý,
bao gồm sáu nghĩa của Bạc Già Phạm, vậy thì không hay không
tốt. Cho nên tôi hy vọng người ham ngủ, khi nghe pháp,
phải phấn chấn tinh thần lên, không nên ngủ nhiều như
thế.
Pháp
sư U Khê nói : đầu tiên nói tên quỷ thần vương, như Tỳ
Xá Già, Cưu Bàn Trà, Yết Ra Ha. Lại sơ hội nói Bà Già bà
Ðế v.v… đều là tên của chư Phật, Bồ tát, điều này
khiến người nghe cảm được ân đức của chư Phật, chư
Bồ tát. Lại Bạt Xà Ra, Thương Yết Ra Chế Bà… ở đoạn
cuối cùng của sơ hội, đều là danh hiệu của Kim Cang
mật tích, khiến người nghe sợ uy đức, đều là lợi ích
của sự hoan hỷ. Lại đoạn cuối của mỗi hội, hoặc như
mật lệnh trong quân đội, hoặc như phương pháp bí mật ngăn
ngừa tội lỗi, hoặc là mật ngữ của chư Phật, chỉ là
muốn cho người nghe trì tụng chú hoan hỷ sanh thiện, tiêu
trừ tội lỗi, bước vào đạo mà thôi. Cho nên lời hiển
giáo hay mật giáo nói ra, ý nghĩa và lợi ích đều giống
nhau.
Pháp
sư U Khê nói : đầu tiên nói tên quỷ thần vương, như Tỳ
Xá Già, Cưu Bàn Trà, Yết Ra Ha. Lại sơ hội nói Bà Già bà
Ðế v.v… đều là tên của chư Phật, Bồ tát, điều này
khiến người nghe cảm được ân đức của chư Phật, chư
Bồ tát. Lại Bạt Xà Ra, Thương Yết Ra Chế Bà… ở đoạn
cuối cùng của sơ hội, đều là danh hiệu của Kim Cang
mật tích, khiến người nghe sợ uy đức, đều là lợi ích
của sự hoan hỷ. Lại đoạn cuối của mỗi hội, hoặc như
mật lệnh trong quân đội, hoặc như phương pháp bí mật ngăn
ngừa tội lỗi, hoặc là mật ngữ của chư Phật, chỉ là
muốn cho người nghe trì tụng chú hoan hỷ sanh thiện, tiêu
trừ tội lỗi, bước vào đạo mà thôi. Cho nên lời hiển
giáo hay mật giáo nói ra, ý nghĩa và lợi ích đều giống
nhau : U Khê Pháp sư nói,
tên của quỷ thần vương như Tỳ Xá Già, Cưu Bàn Trà,
tức quỷ có hình như cái vại, Yết Ra Ha v.v…, khi chúng ta
giảng đến chú sẽ giảng chi tiết hơn. Lại sơ hội nói Bà
Già Bà Ðế … đều là tên của chư Phật, chư Bồ tát,
khiến người nghe cảm nhận được ân đức của chư
Phật, chư Bồ tát. Lại cuối sơ hội nói Bạt Xà La, Thương
Yết Ra Chế Bà… đều là tên của Kim Cang Mật Tích,
khiến cho thiên ma ngoại đạo, ly mị võng lượng, nghe rồi
thì sanh tâm khiếp sợ, đó đều là ích lợi của hoan hỷ.
Lại nữa, cuối của mỗi hội, hoặc như mật lệnh trong quân
đội, hoặc như phương pháp bí mật ngăn ngừa tội lỗi,
hoặc như lời bí mật của chư Phật, đều là muốn cho người
nghe thấy chú Lăng Nghiêm hoặc những người trì tụng chú
Lăng Nghiêm hoan hỷ, sanh điều thiện lành, diệt trừ ác
nghiệp, khôi phục thiên lý vốn có. Cho nên hoặc là nói rõ
(hiển thuyết), hoặc là nói bí mật (mật thuyết), sự
lợi ích cho chúng sanh đều giống nhau.
Pháp
sư Trường Thủy cũng nói : các câu chú ngữ trước câu
Ðát Ðiệt Tha, đều là quy mệnh chư Phật, chư Bồ tát,
hiền thánh tăng, cùng với chú nguyện cầu gia bị, lìa xa các
tai nạn, ác quỷ, bệnh tật v.v… Sau chữ “Án”mới nói
Tâm chú. Nhưng đây tức là Thủ Lăng Nghiêm bí mật vậy,
thời xưa không phiên dịch. Sách “Bổ Vị ” nói : lời bí
mật của bậc thánh, phàm phu làm sao có thể hiểu được,
dù có phiên dịch thành tiếng Hoa, ý nghĩa cũng không hiểu,
giống như điển ngữ (tên xưa), tên món đồ, bản thân món
đồ thực không khác, mà người sau không biết là thứ gì.
Giống như nói đại vũ nhu mao, để chỉ cho trâu dê; nói
thanh địch, thanh chước để chỉ cho nước, rượu. Cách nói
hiển mật cũng giống như vậy.
Pháp
sư Trường Thủy cũng nói : các câu chú ngữ trước câu
Ðát Ðiệt Tha, đều là quy mệnh chư Phật, chư Bồ tát,
Hiền thánh tăng, cùng với chú nguyện cầu gia bị, lìa xa các
tai nạn, ác quỷ, bệnh tật v.v… Sau chữ “án”mới nói
Tâm chú. Nhưng đây tức là Thủ Lăng Nghiêm bí mật vậy,
thời xưa không phiên dịch : Pháp
sư Trường Thủy nói, đoạn cuối cùng của chú trước câu
Ðát điệt tha (tức trước Tâm chú) đều là quy mệnh chư
Phật, Bồ tát, Hiền thánh, hoặc là chú nguyện gia bị, lìa
xa các ác quỷ, bệnh tật, lìa khổ được vui v.v… Sau
chữ “án” mới nói Tâm chú (The Heart of The Shurangama
Mantra). Tâm chú này tức là đại định bí mật Thủ Lăng
Nghiêm, từ xưa đến nay đều là bí mật không phiên dịch
ra.
Sách
“Bổ Vị” nói : lời bí mật của bậc Thánh, phàm phu làm
sao có thể hiểu được, dù có phiên dịch thành tiếng Hoa,
ý nghĩa cũng không hiểu, giống như điển ngữ (tên xưa), tên
món đồ, bản thân món đồ thực không khác, mà người sau
không biết là thứ gì. Giống như nói đại vũ nhu mao, để
chỉ cho trâu dê; nói thanh địch, thanh chước để chỉ cho
nước, rượu. Cách nói hiển mật cũng giống như vậy:
Sách “Bổ Vị” nói, lời nói bí mật của các bậc thánh
nhân, phàm phu tục tử chúng ta làm sao có thể hiểu được
? Dù cho có phiên dịch thành tiếng Hoa, cũng không thể
hiểu được nghĩa lý của nó. Giống như tên xưa, tên món
đồ, món đồ thì không khác, nhưng người sau nghe điển
cố, không biết là chỉ cái gì ? Giống như người nói
những lời văn nhã. Như gọi trâu bò là “đại vũ”,
gọi dê là “nhu mao”, nói “thanh
địch” là chỉ cho nước, nói “thanh chước” là
chỉ cho rượu. Người không có học vấn không hiểu nói cái
gì ? Như nay khi tôi giảng xong quý vị mới biết, nếu tôi
không giảng quý vị cũng không biết đại vũ, nhu mao, thanh
địch, thanh chước là thứ chi ? Các lời nói hiển mật cũng
giống như vậy.
Ở
trên nói về các sự giải thích bí mật không phiên dịch.
Nay có người nói rằng : Xét các bậc Cao Tăng Ðại đức
ngày xưa cũng có vị phiên dịch. Như Ngài Trúc Pháp Hộ đời
Tấn, vừa phiên dịch chữ lại phiên dịch âm Ðà La Ni chú
trong Kinh Chánh Pháp Hoa. Âm chữ các câu chú trong kinh Trì Tâm
Phạm Thiên Sở Vấn cũng đều được phiên dịch. Lại 5
loại không phiên dịch, Bạc Già dịch là Thánh tôn, Diêm phù
dịch là Thắng kim, A Nậu Bồ đề dịch là Vô thượng giác,
Bát nhã dịch là Trí huệ. Xưa bí mật không phiên dịch,
nay làm sao biết được? Cho đến các chú bí mật, Tam Tạng
Pháp Sư Kim Cang Trí đời Ðường viết quyển “Niệm Tụng
Nghi Quy”, trong đó dịch và giải thích các chú ngữ, Thượng
sư Bất Không giải thích chú trong Nhân Vương Bát Nhã Lý Thú
Thích. Tam tạng Pháp sư Cầu Na đời Tống, dịch thần chú
48 tên. Quốc sư Hiền Thủ giải thích chú Bát nhã. Bồ tát
Long Thọ ở Tây thổ, giải thích chú Chuẩn Ðề và các
mật ngữ trong Trì Minh Tạng . Các kinh như Thủ Hộ Quốc
Chủ Ðà La Ni kinh, Ðại Bi Không Trí, Nhất Tự v.v… Ðức
Phật và Bồ tát, đích thân tán thán và giải thích ý nghĩa
và ngôn ngữ của chú. Trong kinh Niết bàn, Bát nhã, Hoa Nghiêm,
Ðức Phật và Ngài Ca Diếp, Ngài Thiện Hiện, cùng các
bậc thiện tri thức nhiều tài nghệ, giải thích nghĩa 42
chữ cái (Hoa Nghiêm Mẫu tự), cho nên biết các bộ chân ngôn
bí mật, cũng y mật tạng, có thể phiên dịch giải thích
vậy.
Ở
trên nói về các sự giải thích bí mật không
phiên dịch. Nay có người nói rằng :
Xét các bậc Cao Tăng Ðại đức ngày xưa cũng có vị phiên
dịch. Như Ngài Trúc Pháp Hộ đời Tấn, vừa phiên dịch
chữ lại phiên dịch âm Ðà La Ni chú trong Kinh Chánh Pháp
Hoa. Âm chữ các câu chú trong kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở
Vấn cũng đều được phiên dịch: những điều nói ở
trên đều là thuyết minh dụng ý bí mật không phiên dịch.
Nay lại có người nói: các bậc Cổ đức xưa kia cũng có
vị phiên dịch chú ngữ. Như Tôn giả Trúc Pháp Hộ phiên
dịch chữ và phiên dịch âm Ðà La Ni chú trong kinh Chánh Pháp
Hoa. Lại chú ngữ trong kinh Trì Tâm Phạm Thiên Sở Vấn cũng
đều được phiên dịch thành tiếng Hoa. Nhưng những bản
dịch này không có chánh thức lưu thông, vì thế rất ít người
biết.
Lại
5 loại không phiên dịch, Bạc Già dịch là Thánh tôn, Diêm
phù dịch là Thắng kim, A Nậu Bồ đề dịch là Vô thượng
giác, Bát nhã dịch là Trí huệ. Xưa bí mật không phiên
dịch, nay làm sao biết được? Cho đến các chú bí mật,
Tam Tạng Pháp Sư Kim Cang Trí đời Ðường viết quyển
“Niệm Tụng Nghi Quy”, trong đó dịch và giải thích các
chú ngữ, Thượng sư Bất Không giải thích chú trong Nhân Vương
Bát nhã lý thú thích. Tam tạng Pháp sư Cầu Na đời Tống,
dịch 48 danh hiệu trong thần chú. Quốc sư Hiền Thủ giải
thích chú Bát nhã. Bồ tát Long Thọ ở Tây thổ, giải thích
chú Chuẩn Ðề và các mật ngữ trong Trì Minh Tạng. Các
kinh như Thủ Hộ Quốc Chủ Ðà La Ni kinh, Ðại Bi Không Trí,
Nhất Tự v.v… Ðức Phật và Bồ tát, đích thân tán thán
và giải thích ý nghĩa và ngôn ngữ của chú. Trong kinh
Niết bàn, Bát nhã, Hoa Nghiêm, Ðức Phật và Ngài Ca Diếp,
Ngài Thiện Hiện, cùng các bậc thiện tri thức nhiều tài
nghệ, giải thích nghĩa 42 chữ cái (Hoa Nghiêm Mẫu Tự), cho
nên biết các bộ chân ngôn bí mật, cũng y mật tạng, có
thể phiên dịch giải thích vậy :
lại trong 5 loại không phiên dịch, Bạc Già Phạm dịch là
Thánh tôn, A Nậu Bồ đề dịch là Vô thượng giác, Bát nhã
dịch là trí huệ, Diêm phù dịch là Thắng kim, trước kia
không dịch sao nay lại dịch ? Cho đến các câu chú bí mật
trong “Niệm Tụng Nghi Quy” (Nghi thức tụng niệm) do Tam
Tạng Kim Cang Trí đời Ðường lược viết cũng phiên dịch
thành tiếng Hoa. Thượng sư Bất Không trong Nhân Vương Bát
Nhã Lý Thú Thích cũng có giải thích chú ngữ. Tam tạng Pháp
sư Cầu Na Tôn giả (Gunavriddhi) đời Lưu Tống cũng phiên
dịch 48 danh hiệu trong thần chú (thần chú tứ thập bát
danh). Quốc sư Hiền Thủ cũng giải thích “chú Bát nhã”.
Ngài Long Thọ Bồ tát ở Ấn Ðộ trong Trì Minh Tạng cũng
giải thích chú Chuẩn Ðề và các lời nói bí mật khác.
Trong các kinh Thủ Hộ Quốc Chủ Ðà La Ni, Ðại Bi Không Trí,
Nhất Tự… Ðức Phật và Bồ tát tự miệng tán thán và
giải thích ý nghĩa của ngôn ngữ và chữ trong chú. Trong
kinh Niết bàn, Bát nhã, Pháp Hoa, Ðức Phật và Ngài Ca
Diếp, Tôn giả Tu Bồ Ðề, các vị thiện tri thức nhiều tài
nghệ, cũng giải thích 42 chữ cái (Mẫu tự) của Hoa Nghiêm.
Do đây mà biết các bộ bí mật chân ngôn chiếu theo đạo
lý mật tạng cũng có thể phiên dịch vậy.
Nay
chú Lăng Nghiêm, trước Ðát Ðiệt Tha là 5 hội chân ngôn,
sau chữ “Án” mới là Tâm chú. Theo sự giải thích của
Pháp sư Hoài Ðịch người Tuần Châu đời Ðường, thì phát
xuất từ (phân mục) chữ Thâm trong Ðại tạng kinh. Ở trên
nói rõ mục đích vốn không phiên dịch của người xưa,
ở dưới thuyết minh lợi ích của sự phiên dịch có rất
nhiều, nếu mở ra sự lợi ích của phiên dịch, lược nói
thì có 24 điều:
1.
Biết danh hiệu chư Phật, xưng niệm danh hiệu của chư
Phật thì thường thấy Phật thân.
2.
Biết được nguồn gốc Tam bảo Phật Pháp Tăng, nương vào
uy đức gia trì của Tam bảo.
3.
Biết được Kim Cang tướng, tà ma ngoại đạo đều đến
quy hàng.
4.
Biết quỷ thần vương, thì bộ đảng sẽ cung kính bảo
hộ, không có điều tai ương.
5.
Biết chú của Phật, là tôn quý thù thắng nhất trong năm
bộ.
6.
Biết đỉnh chú, khi niệm chú thì được chư Phật quán đỉnh.
7.
Thần chú, linh thông cảm ứng không thể nghĩ bàn.
8.
Rõ chú, sanh trí huệ quang minh rộng lớn.
9.
Biết chú vương, Vua trong tất cả các loại chú.
10.
Biết Tâm chú, tụng Tâm chú thì kiến tánh minh tâm.
11.
Ấn chú, ấn tín phú quý, không gặp cảnh trái nghịch.
12.
Chú quyết, biến hóa vạn vật không thể đo lường.
13.
Chú nguyện, nhân quả tùy nguyện viên thành.
14.
Chú nguyền, muốn họa phước đều không sai.
15.
Chú chúc, cầu nguyện chư Phật chư Bồ tát thì sẽ được
các Ngài đáp ứng lại như tiếng vang.
16.
Chú pháp, khai mở trí huệ biện tài vô ngại.
17.
Biết gốc chữ, nguồn gốc văn tự Tam tạng.
18.
Biết chữ cái (Mẫu tự), hiển mật thánh hiền từ đó
sanh.
19.
Nghĩa chữ, hàm nhiếp vô biên lý thú.
20.
Chủng loại của chữ, vốn là chủng trí của chư Phật.
21.
Biết âm của tiếng Phạn, là do Phật, chư Thiên truyền ra
đầu tiên.
22.
Biết tổng trì, hiểu hết thảy ý nghĩa của các pháp.
23.
Biết chân ngôn, lời nói ra như thật, không hư dối.
24.
Biết mật ngữ, quân lệnh thánh chỉ, không thể tiết lộ
ra.
Bốn
điều lợi ích đầu chỉ giới hạn trong năm hội, 20 điều
lợi ích sau thông với Tâm chú.
Nay
chú Lăng Nghiêm, trước Ðát Ðiệt Tha là 5 hội chân ngôn,
sau chữ “án” mới là Tâm chú. Theo sự giải thích của
Pháp sư Hoài Ðịch người Tuần Châu đời Ðường, thì phát
xuất từ chữ Thâm trong Ðại tạng kinh :
Vì thế, nay chú Lăng Nghiêm cũng có dịch thành tiếng Hoa.
Chú Lăng Nghiêm trước chữ “Ðát Ðiệt Tha” là năm hội
chân ngôn, sau chữ “Án” mới là Tâm chú. Nay y theo sự
giải thích và phiên dịch của Pháp sư Hoài Ðịch người Tùng
Châu đời Ðường, đây là phát xuất từ chữ Thâm trong Ðại
tạng kinh.
Ở
trên nói rõ mục đích vốn không phiên dịch của người xưa,
dưới thuyết minh lợi ích của sự phiên dịch có rất
nhiều, nếu mở ra sự lợi ích của phiên dịch, lược nói
thì có 24 điều: Ở trên
nói rõ dụng ý không phiên dịch của người xưa. Ở dưới
thuyết minh sự lợi ích của phiên dịch, lược nói gồm có
24 điều :
1.
Biết danh hiệu chư Phật, xưng niệm danh hiệu của chư
Phật thì thường thấy Phật thân :
Biết danh hiệu của chư Phật, như đoạn ở trước đều là
danh hiệu của chư Phật, xưng niệm danh hiệu của chư
Phật thì thường thấy được Phật thân. Quý vị thường
tụng chú Lăng Nghiêm thì có thể thường thấy được Pháp
thân của chư Phật.
2.
Biết được nguồn gốc Tam bảo Phật Pháp Tăng, nương vào
uy đức gia trì của Tam bảo :
Biết Phật Pháp Tăng Tam bảo, nương vào uy đức hộ trì
của Tam bảo.
3.
Biết được Kim Cang tướng, tà ma ngoại đạo đều đến
quy hàng : Biết được
Kim Cang tướng, như Bạt Xà Ra, Thương Yết Ra v.v… tất
cả tà ma ngoại đạo đều đến quy hàng.
4.
Biết quỷ thần vương, thì bộ đảng sẽ cung kính bảo
hộ, không có điều tai ương:
Vì quý vị biết quỷ thần vương, nên bộ đảng ở dưới
sẽ cung kính quý vị.
5.
Biết chú của Phật, là tôn quý thù thắng nhất trong năm
bộ: Biết ngũ bộ, trung
ương là Phật bộ, do Ðức Phật Tỳ Lô Xá Na làm chủ.
Nam
phương là Bảo bộ, Ðức Phật Bảo Sanh làm chủ. Ðông phương
là Kim Cang bộ, cũng là A Súc bộ, do Ðức Phật A Súc, cũng
tức là Ðức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư làm chủ. Tây
phương Liên Hoa bộ do Ðức Phật A Di Ðà làm chủ. Bắc phương
là Yết Ma bộ, Ðức Phật Thành Tựu làm chủ. Biết trong năm
bộ, Phật chú là tôn quý nhất, thù thắng nhất, vi diệu
nhất.
6.
Biết đỉnh chú, khi niệm chú thì được chư Phật quán đỉnh
: Biết được đây là
Phật đỉnh quang minh ma ha tát đát đa bát đát ra vô thượng
thần chú (Thần chú vô thượng như cây lọng trắng lớn do
hóa thân Phật từ hào quang trên Phật đảnh thuyết ra), quý
vị niệm chú Lăng Nghiêm thì mười phương chư Phật đều
đến quán đỉnh cho quý vị.
7.
Thần chú, linh thông cảm ứng không thể nghĩ bàn :
Linh thông cảm ứng không thể nghĩ bàn.
8.
Rõ chú sanh trí huệ quang minh rộng lớn :
biết chú có thể sanh trưởng trí huệ lớn, lại có thể
phóng ra hào quang lớn.
9.
Biết chú vương, Vua trong tất cả các loại chú :
Biết chú Lăng Nghiêm là Vua trong tất cả các loại chú.
10.
Biết Tâm chú[1],
tụng Tâm chú thì kiến tánh minh tâm :
Biết đoạn đó là Tâm chú, thường thường tụng niệm,
lại chuyên nhất thì có thể kiến tánh minh tâm, khai mở trí
huệ lớn.
11.
Ấn chú, ấn tín phú quý, không gặp cảnh trái nghịch :
Biến chú ấn, tam pháp ấn. Tụng trì chú Lăng Nghiêm thì
thấp nhất trong bảy đời đều là người giàu có nhất trên
thế gian.
12.
Chú quyết, biến hóa vạn vật không thể đo lường :
Chú lại dịch là quyết, sự thần thông biến hóa không
thể lường được. Có người nói, tôi tụng chú không vì
cầu phú quý. Quý vị cầu thần thông thì được thần thông,
cầu khai ngộ thì được khai ngộ, cầu trí huệ thì được
trí huệ, tùy ý của quý vị, không phải bảo quý vị
nhất định phải cầu phú quý giàu sang.
13.
Chú nguyện, nhân quả tùy nguyện viên thành :
Cầu cái gì, phát nguyện gì đều có thể thành tựu.
14.
Chú nguyền, muốn họa phước đều không sai :
quý vị niệm chú này, nguyện cho người bên cạnh được
phước họ liền được phước, nguyện cho họ bị tai họa
họ bèn bị tai họa. Nhưng không nên có tâm đem tai hại cho
người chung quanh, niệm chú khiến cho người chung quanh bị
tai họa là đều không nên.
15.
Chú chúc, cầu nguyện chư Phật chư Bồ tát thì sẽ được
các Ngài đáp ứng lại như tiếng vang :
quý vị cầu cái gì thì giống như tiếng vang vọng lại,
tất cả đều tùy tâm mãn nguyện.
16.
Chú pháp, khai mở trí huệ biện tài vô ngại :
Chú pháp có thể khai mở trí huệ của quý vị, khiến cho
quý vị có biện tài vô ngại.
17.
Biết gốc chữ, nguồn gốc văn tự Tam tạng:
biết nguồn gốc của tiếng Phạn, đây là nguồn gốc văn
tự của Tam tạng, Tam tạng thì do tiếng Phạn phiên dịch mà
thành.
18.
Biết chữ cái (Mẫu tự), hiển mật thánh hiền từ đó
sanh : biết tất cả thánh
hiền hiển giáo và mật giáo đều từ chữ cái (Mẫu tự)
sanh ra.
19.
Nghĩa chữ, hàm nhiếp vô biên lý thú :
Nghĩa lý của chữ bao gồm vô lượng vô biên lý thú
(principles).
20.
Chủng loại của chữ, vốn là chủng trí của chư Phật :
Tiếng Phạn vốn là hột giống trí huệ của chư Phật.
21.
Biết âm của tiếng Phạn, là do Phật, chư Thiên truyền ra
đầu tiên : Biết được
âm đọc của chú là âm mà Phật, chư Thiên truyền ra trước
nhất.
22.
Biết tổng trì, hiểu hết thảy ý nghĩa của các pháp :
tất cả nghĩa lý pháp đều thu nhiếp hiểu rõ.
23.
Biết chân ngôn, lời nói ra như thật, không hư dối :
biết chân ngôn, lời nói ra đều là chân thực, không có
một câu vọng ngữ.
24.
Biết mật ngữ, quân lệnh thánh chỉ không thể tiết lộ
ra: biết chú ngữ như
khẩu lệnh trong quân đội, lại giống như thánh chỉ của
Vua không thể tiết lộ cho người khác.
Bốn
điều lợi ích đầu chỉ giới hạn trong năm hội, 20 điều
lợi ích sau thông với Tâm chú:
Bốn điều trước là giới hạn trong năm hội chân ngôn,
hai mươi điều sau cũng bao gồm Tâm chú ở trong.
Ðây
là nói tổng quát về sự lợi ích của việc dịch chú
của người xưa và sau này. Nếu dịch Tâm chú ở sau cùng
chú Lăng Nghiêm, thì có 6 sự lợi ích của pháp. Một là
một chữ bao hàm nhiều nghĩa của pháp. Hai, âm chữ tiếng
Hoa và tiếng Phạn đều viên thông. Ba, biểu hiện 30 loại
tâm trong Tam tạng. Bốn, biểu thị thu nhiếp Tam hiền,
Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác. Năm, quay về nương
tựa 37 quả vị thánh. Sáu, kinh vĩ (đường dọc đường
ngang) của tất cả chữ cái. Mật bộ hỏi : Chân ngôn chữ
Phạn tại sao lại có diệu dụng tướng trạng bất khả tư
nghì như thế. Trả lời vì : tâm thể của chư Phật, vì pháp
tánh như thế, vì một chữ bao hàm nhiều nghĩa, vì hạnh
nguyện Bồ tát, vì thần lực gia trì không thể nghĩ bàn,
đều phát xuất từ phiên dịch. Nay được nhiều lợi ích
như thế, dưới lại răn nhắc khuyên nhủ người tu hành không
được nói lời hư vọng.
Ðây
là nói tổng quát về sự lợi ích của việc dịch chú
của người xưa và sau này. Nếu dịch Tâm chú ở sau cùng
chú Lăng Nghiêm, thì có 6 sự lợi ích của pháp :
Ðây là nói chung lợi ích của sự dịch chú. Nếu phiên
dịch Tâm chú thì có sáu điều lợi ích.
Một
là một chữ bao hàm nhiều nghĩa của pháp :
Một chữ bao gồm rất nhiều nghĩa lý, có sức mạnh vô cùng
vô tận , uy đức vô lượng vô biên.
Hai,
âm chữ tiếng Hoa và tiếng Phạn đều viên thông:
cách đọc và chữ đều phiên dịch thành tiếng Hoa, lại có
Phạn văn, cả hai đều biết, ứng dụng lẫn nhau, viên thông
vô ngại.
Ba,
biểu hiện 30 loại tâm trong Tam tạng :
Tam tạng là Kinh Luật Luận.
Bốn,
biểu thị thu nhiếp Tam hiền, Thập địa, Đẳng giác,
Diệu giác : Tam hiền
tức Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. Ðịa là
Thập địa. Ðẳng tức Đẳng giác. Diệu tức Diệu giác.
Năm,
quay về nương tựa 37 quả vị thánh :
tức là quả vị mà ở trên đã nói đến.
Sáu,
kinh vĩ (đường dọc đường ngang) của tất cả chữ cái :
chữ cái tiếng Phạn có ngang, có dọc.
Mật
bộ hỏi : Chân ngôn chữ Phạn tại sao lại có diệu dụng
tướng trạng bất khả tư nghì như thế. Trả lời vì : tâm
thể của chư Phật, vì pháp tánh như thế, vì một chữ bao
hàm nhiều nghĩa, vì hạnh nguyện Bồ tát, vì thần lực gia
trì không thể nghĩ bàn :
trong mật tông có người hỏi, chữ Phạn chân ngôn tại sao
lại có diệu dụng bất khả tư nghì như thế ? có tướng
trạng lợi ích như thế ? Trả lời : Ðó là vì chữ Phạn
của chú là bổn thể chân tâm của chư Phật, cho nên có
sức mạnh không thể nghĩ bàn như thế. Lại vì bản tánh
của pháp có sức mạnh lớn như thế. Lại vì hạnh nguyện
do chư Phật Bồ tát phát ra không thể dùng tâm suy lường,
không thể dùng lời diễn tả. Các Ngài dùng thần chú gia
trì khiến cho quý vị được nhiều lợi ích.
Ðều
phát xuất từ phiên dịch. Nay được nhiều lợi ích như
thế, dưới lại răn nhắc khuyên nhủ người tu hành không
được nói lời hư vọng :
Nay nói phiên dịch có rất nhiều lợi ích. Dưới đây lại
khuyên nhắc quý vị nỗ lực tu hành, không nên phạm giới
luật, không nên vọng ngữ nói bậy nói bạ, nếu không trì
chú sẽ không linh nghiệm. Không thể tùy tiện nói bậy,
tạo sự thị phi, không thể nói lời không công bình.
Lại “Ðà La Ni Môn
Chư
Bộ Yếu Mục” rằng :
Du Già hội nói năm bộ. Một là Phật bộ, Ðức Phật Tỳ
Lô làm chủ. Hai là Kim Cang bộ, Ðức Phật A Súc làm chủ.
Ba là Bảo bộ, Ðức Phật Bảo Sanh làm chủ. Bốn là Liên
Hoa bộ, Ðức Phật Di Ðà làm chủ. Năm là Yết Ma bộ, Ðức
Phật Thành Tựu làm chủ. “Ngũ Bí Mật Tu Hành Niệm Tụng
Nghi” rằng : Ngũ bộ tức năm pháp môn Du Già bí mật, là
tiêu tai, tăng ích, hàng phục, câu bắt chiêu về, kính ái.
Nay thuộc Phật bộ, pháp môn tăng trưởng lợi ích xuất
thế. Kinh Tô Tất Ðịa nói : Phiến để ca là pháp tiêu
tai, Bổ sắt trưng ca là pháp tăng ích, A tỳ già lỗ là pháp
hàng phục. Ba bộ này mỗi bộ đều có ba hạng chân ngôn.
Một là bậc thánh thuyết. Chư Phật, Bồ tát, Duyên giác,
Thanh văn là chân ngôn của bậc thánh. Hai, chư thiên
thuyết. Từ cõi Trời Tịnh Cư cho đến cõi trời 33, là chân
ngôn của chư Thiên. Ba, là cõi trời Ðịa Cư nói. Bát bộ
thần vương, gọi là chân ngôn của cõi trời Ðịa Cư. Nay
là Phật thánh, bộ tăng ích vậy.
Lại
“Ðà La Ni Môn
Chư
Bộ Yếu Mục” rằng : Du Già hội nói năm bộ. Một là
Phật bộ, Ðức Phật Tỳ Lô làm chủ. Hai là Kim Cang bộ,
Ðức Phật A Súc làm chủ. Ba là Bảo bộ, Ðức Phật Bảo
Sanh làm chủ. Bốn là Liên Hoa bộ, Ðức Phật Di Ðà làm
chủ. Năm là Yết Ma bộ, Ðức Phật Thành Tựu làm chủ :
Trung ương do Ðức Phật Tỳ Lô Xá Na làm bộ chủ. Trung
ương thuộc thổ, bốn mùa hưng thạnh, cho nên Phật thì cùng
khắp pháp giới. Ðông phương Kim Cang bộ tức Mật Tích Kim
Cang, Ðức Phật A Súc làm bộ chủ, tức Ðức Phật Tiêu
Tai Diên Thọ Dược Sư. Nam phương Bảo bộ, Ðức Phật
Bảo Sanh làm bộ chủ. Tây phương Liên Hoa bộ do Ðức
Phật A Di Ðà làm bộ chủ. Bắc phương Yết Ma bộ do Ðức
Phật Thành Tựu làm bộ chủ.
“Ngũ
Bí Mật Tu Hành Niệm Tụng Nghi” rằng : Ngũ bộ tức năm
pháp môn Du Già bí mật, là tiêu tai, tăng ích, hàng phục, câu
bắt chiêu về, kính ái. Nay thuộc Phật bộ, pháp môn tăng
trưởng lợi ích xuất thế: Có
một quyển sách gọi là “Bí Mật Tu Hành Niệm Tụng Nghi
Thức”, tức là năm pháp môn Du Già bí mật. Trong năm pháp
môn này, bộ này thuộc Phật bộ, tức là pháp môn Tăng trưởng
lợi ích xuất thế.
Kinh
Tô Tất Ðịa nói : Phiến để ca là pháp tiêu tai, Bổ sắt
trưng ca là pháp tăng ích, A tỳ già lỗ là pháp hàng phục.
Ba bộ này mỗi bộ đều có ba hạng chân ngôn. Một là
bậc thánh thuyết. Chư Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn
là chân ngôn của bậc thánh. Hai, chư thiên thuyết. Từ cõi
Trời Tịnh Cư cho đến cõi trời 33, là chân ngôn của chư
Thiên. Ba, là cõi trời Ðịa Cư nói. Bát bộ thần vương,
gọi là chân ngôn của cõi trời Ðịa Cư. Nay là Phật thánh,
bộ tăng ích vậy : Kinh
Tô Tất Ðịa nói Phiến để ca tức pháp môn Tiêu tai, Bổ
sắt trưng ca tức pháp môn Tăng trưởng lợi ích, A tỳ già
lỗ tức pháp môn Hàng phục. Ba bộ này mỗi bộ có ba
hạng chân ngôn. Một loại chân ngôn là do bậc thánh nói
ra. Tức pháp do bốn bậc thánh thuyết ra là mười phương
ba đời tất cả chư Phật, tất cả Bồ tát, tất cả Thanh
văn và tất cả Duyên giác. Thứ hai là chân ngôn do chư Thiên
nói ra, bao gồm từ cõi trời Tịnh Cư cho đến cõi trời
33. Thứ ba là chân ngôn của cõi trời Ðịa Cư, cõi người
cũng thuộc cõi trời Ðịa Cư, bao gồm Bát bộ quỷ thần vương.
Nay là pháp môn tăng trưởng lợi ích của Phật bộ.
Hội
nghĩa nói : Mật bộ có ba. Một là Phật bộ, hai là Bồ tát
bộ, ba là quỷ thần bộ. Mỗi bộ đều luận ba phẩm thượng
trung hạ. Thành tựu, tăng trưởng lợi ích gọi là pháp thượng
phẩm. Cầu tiêu tai, nhiếp thọ chiêu về gọi là pháp trung
phẩm. Hàng phục gọi là pháp hạ phẩm. Thượng pháp lại
có ba, là hành nghi, quán pháp, nghiêm cấm, là ba phẩm của
thượng pháp, lấy Vô thượng Bồ đề đạo tâm làm chủ
quán thông với 3 pháp này. Nếu
không có thầy truyền trao, gọi là trộm pháp. Nếu trái ngược
với hành nghi thì đem lại quả báo ác. Nếu phạm nghiêm
cấm thì sẽ nhận lấy hậu quả. Nói với người khác thì
đem lại tai họa. Cùng với lợi ích 4 loại Tất đàn
bất khả tư nghì của Ðức Phật. Một là Kinh Diệu Tý
Bồ Tát Sở Vấn nói : Người tu hành nếu muốn trì tụng,mong
sớm được tất địa, lợi ích thành tựu, thì tất cả
nghi pháp, không được mảy may thiếu sót vi phạm, khiến
cho ma chướng thừa cơ hội mà vào. Cho nên người tu hành
trực tâm trì tụng, trong một thời gian dài không gián đoạn,
khiến quán tưởng chủng loại của chữ chân ngôn, mỗi
mỗi đều thành thục, sự sự tương ứng, mới thành Du Già
vô tát diệu hạnh. Lại người trì tụng không được tâm
duyên cảnh khác, cùng người nói chuyện tạp. Sự trì
tụng nếu gián đoạn, tất địa sẽ không thành tựu. Lại
nếu trì tụng không y theo nghi thức phép tắc, hoặc không
trì giới, hoặc không thanh tịnh, không những pháp không thành
tựu mà còn đem đến sự tổn hại.
Hội
nghĩa nói : Mật bộ có ba. Một là Phật bộ, hai là Bồ tát
bộ, ba là quỷ thần bộ. Mỗi bộ đều luận ba phẩm thượng
trung hạ. Thành tựu, tăng trưởng lợi ích gọi là pháp thượng
phẩm. Cầu tiêu tai, nhiếp thọ chiêu về gọi là pháp trung
phẩm. Hàng phục gọi là pháp hạ phẩm :
thành tựu, tăng trưởng lợi ích là hai pháp môn thượng
phẩm trung phẩm. Cầu tiêu tai, nhiếp thọ chiêu về là pháp
môn trung phẩm. Nhiếp chiêu tức là câu bắt về, tức pháp
truy nã. Tiêu tai tức quý vị có tai nạn gì, tụng chú có
thể tiêu trừ. Nhưng quý vị cũng cần phải tiêu trừ tai
nạn trong tâm. Nếu quý vị chỉ niệm chú, còn trong tâm
cứ mãi khởi lên những niệm không thanh tịnh, tạp niệm và
dục niệm tràn ngập, thì không thể tiêu trừ tai nạn căn
bổn, niệm chú gì cũng không có ích dụng. Vì thế muốn tiêu
trừ tai nạn đầu tiên tâm cần phải thanh tịnh, dọn dẹp
tâm cho sạch sẽ, đó mới thật là tiêu trừ tai nạn. Nếu
trong tâm chứa đầy thâm sân si, niệm chú gì cũng không
linh nghiệm. Vì thế tâm là quan trọng nhất. Tâm cần phải
từ bi lương thiện, mong muốn giúp đỡ người khác. Ðó là
pháp tiêu trừ tai nạn, tăng trưởng lợi ích. Nhiếp chiêu
tức câu bắt đem về, giống như cảnh sát bắt phạm nhân
vậy. Yêu ma quỷ quái làm việc xấu, khiến người sanh
bệnh, gặp tai nạn, quý vị vừa niệm chú thì có thể
bắt yêu ma quỷ quái. Nhưng bắt thì bắt, có lúc vẫn không
phục, cần phải dùng đủ thứ phương pháp để giáo hóa nó.
Nhưng hàng phục là pháp hạ đẳng, còn pháp thượng đẳng
thì không cần dùng bất cứ thế lực nào để đè nén ép
bức người khác, và bất cứ yêu ma quỷ quái nào, không cùng
với họ tranh đấu, không nên học sự đấu tranh kiên cố
của A tu la. Bản thân mình rõ ràng có sức mạnh có thể hàng
phục họ, cũng không cần dùng đến. Nên dùng đức hạnh
để giáo hóa, cảm hóa họ.
Thượng
pháp lại có ba, là hành nghi, quán pháp, nghiêm cấm, là ba
phẩm của thượng pháp, lấy Vô thượng Bồ đề đạo tâm
làm chủ quán thông với 3 pháp này : bất
luận tu pháp nào cũng cần phải lấy Bồ đề đạo tâm làm
chủ, đại từ đại bi, đại hỷ đại xả, không nên dùng
đạo lực để đè nén, áp bức bất cứ người nào, hoặc
bất cứ yêu ma quỷ quái nào.
Nếu
không có thầy truyền trao, gọi là trộm pháp :
Pháp cần phải có Sư phụ truyền trao, nếu không có Sư
phụ truyền pháp thì gọi là trộm pháp.
Nếu
trái ngược với hành nghi thì đem lại quả báo ác :
Nếu không hợp pháp tu hành, thì khiến cho thiện thần hộ
trì chú sẽ không vui.
Nếu
phạm nghiêm cấm thì sẽ nhận lấy hậu quả. Nói với người
khác thì đem lại tai họa. Cùng với lợi ích 4 loại tất
đàn bất khả tư nghì của Ðức Phật :
Nếu quý vị thường nói với người khác rằng quý vị trì
chú có hiệu lực linh nghiệm cảm ứng gì đó, niệm chú Ðại
bi thì chữa được bệnh nào đó, niệm chú Lăng Nghiêm
lại được cảm ứng gì đó, giống như người bán thuốc
dán vậy. Ðó gọi là bán tu hành, là điều không đúng.
Nếu như thế thì sẽ gặp phải tai bay họa gởi, không được
sự lợi ích của tứ tất đàn bất khả tư nghì của
Phật.
Một
là Kinh Diệu Tý Bồ Tát Sở Vấn nói : Người tu hành nếu
muốn trì tụng,mong
sớm được tất địa, lợi ích thành tựu, thì tất cả
nghi pháp, không được mảy may thiếu sót vi phạm, khiến
cho ma chướng thừa cơ hội mà vào. Cho nên người tu hành
trực tâm trì tụng, trong một thời gian dài không gián đoạn,
khiến quán tưởng chủng loại của chữ chân ngôn, mỗi
mỗi đều thành thục, sự sự tương ứng, mới thành Du Già
vô tát diệu hạnh: người
tu hành nếu mong muốn mau chóng được sự lợi ích và thành
tựu của chú, thì tất cả phương pháp tu hành không được
mảy may thiếu sót vi phạm. Phải giữ quy củ, không được
hủy hoại giới luật. Cho nên quý vị tu pháp này nhất định
phải giữ quy củ, không thể nghĩ đến việc dối gạt
người, chiếm lợi lộc của người. Như thế không
những một chút cảm ứng cũng không có, mà còn gặp tai
họa lạ kỳ. Nếu cứ mãi khoe khoang công đức của mình thì
có chỗ sơ hở, ma chướng bèn thừa cơ hội mà vào. Giống
như quý vị có tiền bạc của báu, không bỏ trong tủ bảo
hiểm mà để ngay cửa nhà, nhất định sẽ bị ăn trộm.
Cho nên tu học Phật pháp cần phải cẩn thận, không nên để
cho thiên ma ngoại đạo thừa cơ hội mà vào, cần phải
nỗ lực trì tụng. Trì chú giống như mặc áo, ăn cơm,
ngủ nghỉ vậy, một ngày không thể thiếu, cần phải trường
kỳ không gián đoạn. Quán tưởng chữ Phạn thì mỗi mỗi
cần phải thành thục, sự sự tương ứng. Mỗi việc đều
cần phải như pháp mới có thể đạt được sức mạnh không
thể nghĩ bàn, mới có thể thành tựu Du Già vô tác diệu
hạnh.
Lại
người trì tụng không được tâm duyên cảnh khác, cùng người
nói chuyện tạp. Sự trì tụng nếu gián đoạn, tất địa
sẽ không thành tựu :
trong tâm không nên cứ mãi khởi vọng tưởng, nghĩ những
việc thị phi, suy nghĩ những việc viển vông, hoặc cùng
với người nói chuyện tạp. Tụng chú nếu gián đoạn thì
không thành tựu tất địa. Tất địa tức là tam muội.
Lại
nếu trì tụng không y theo nghi thức phép tắc, hoặc không
trì giới, hoặc không thanh tịnh, không những pháp không thành
tựu mà còn đem đến sự tổn hại :
nếu quý vị không giữ gìn quy củ, không giữ gìn giới
luật, hoặc trong tâm chứa đầy những vọng tưởng ô
nhiễm, không những tu pháp không thể thành tựu mà lại
bị tai họa. Cho nên tu pháp Lăng Nghiêm cần phải đặc
biệt chú ý, thân khẩu ý ba nghiệp cần phải thanh tịnh
mới có thể tương ưng. Không thể tùy tiện nói việc thị
phi của người, khích bác gây xích mích chia rẽ, hoặc
khiến cho đại chúng trong đạo trường không được an
lạc, đều là những việc không nên làm. Phải quản thúc hành
vi của mình, đi đứng nằm ngồi không rời khỏi nhà (bản
tâm) của mình, không thể cứ mãi giặc đồ dơ cho kẻ
khác, cần phải chiếu cố săn sóc lấy mình.
Bộ
chủ Minh Vương kia, đều là chư Phật Bồ tát, không bao
giờ sanh lòng sân giận hại người, nhưng những thị giả
đồ chúng thiên long, quỷ thần hung dữ, thấy sự tội
lỗi của người, bèn muốn làm hại. Hai, kinh Kim Cang Đỉnh
Du Già Niệm Tụng nói : Phàm là người tu Du Già giáo nghĩa,
cần phải có trí huệ, hiểu rõ tam muội, cùng với pháp môn
chân ngôn, ở trong giới Bồ tát, phát tâm Bồ đề, công đức
như thế, mới cho vào niệm tụng. Ba, kinh Bồ Tát Thiện
Giới nói : Thọ trì thần chú có 5 điều không được làm.
Một là ăn thịt, hai là uống rượu, ba là ngũ tân, bốn là
dâm sự, năm là ăn uống tại nhà không thanh tịnh. Ðầy đủ
5 giới này mới có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh,
mới có thể trị ác thần độc bệnh. Bốn, Pháp Uyển nói
: Ðạo tục tụng trì không có công hiệu, là vì không có tâm
chí thành, hủy báng kinh điển. Hoặc văn tự sai lầm,
hoặc âm vận không đúng, hoặc uống rượu ăn thịt, hoặc
ăn tạp các thứ cay nồng, hoặc đụng tay vào chỗ ô uế,
hoặc nói chuyện thế tục, hoặc y phục không thanh tịnh,
hoặc chỗ ở không trang nghiêm. Tám loại giới pháp, nếu
phạm thì khiến cho quỷ thần thừa cơ hội mà vào, mang đến
tai ương cho người trì niệm.
Bộ
chủ Minh Vương kia, đều là chư Phật Bồ tát, không bao
giờ sanh lòng sân giận hại người, nhưng những thị giả
đồ chúng thiên long, quỷ thần hung dữ, thấy sự tội
lỗi của người, bèn muốn làm hại:
Phật bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cang bộ, Bảo bộ, Yết Ma bộ.
Bộ chủ của các bộ này đều là Minh Vương, tức chư
Phật hoặc chư Bồ tát. Các Ngài đều có tâm đại từ bi,
không làm tổn hại chúng sanh.
Nhưng
những hộ pháp, thiên long, quỷ thần hung dữ đều có sự
nóng giận rất lớn. Mãnh quỷ ác thần nhìn thấy người
tu pháp có tội lỗi sai lầm bèn đem đến tai hại, khiến
họ không được tự tại, hoặc là đem đến cho họ rất
nhiều phiền phức.
Hai,
kinh Kim Cang Đỉnh Du Già Niệm Tụng nói : Phàm là người tu
Du Già giáo nghĩa, cần phải có trí huệ, hiểu rõ tam
muội, cùng với pháp môn chân ngôn, ở trong giới Bồ tát,
phát tâm Bồ đề, công đức như thế, mới cho vào niệm
tụng : Phàm người tu chú
này cần phải có trí huệ, hiểu rõ tất cả các loại định
và sự nghiêm mật của chú. Phép tắc ngôn ngữ của chú cũng
cần phải hiểu rõ. Cần phải giữ giới Bồ tát trong kinh
Phạm Võng, phát tâm Bồ đề. Có công đức trì giới, lại
có công đức phát tâm Bồ đề như thế, mới cho phép tu pháp
này.
Ba,
kinh Bồ Tát Thiện Giới nói : Thọ trì thần chú có 5 điều
không được làm. Một là ăn thịt, hai là uống rượu, ba là
ngũ tân, bốn là dâm sự, năm là ăn uống tại nhà không
thanh tịnh. Ðầy đủ 5 giới này mới có thể làm lợi ích
lớn cho chúng sanh, mới có thể trị ác thần độc bệnh:
Thọ trì tất cả thần chú có 5 điều không thể phạm. Ngũ
tân, tức hành, tỏi, hẹ, kiệu, nén. Nhà không thanh tịnh
tức nhà của kỹ nữ hoặc những gia đình thường làm
những hạnh ô nhiễm. Nếu có thể thọ trì năm giới này
rồi tu pháp thì nhất định được lợi ích lớn, và có
thể làm lợi ích cho chúng sanh. Nếu giữ 5 giới này ăn
nấm độc cũng không sao. Cho nên cư sĩ Tiêu ăn nấm độc
chúng ta cầu nguyện cho ông ta, Bồ tát Quán Âm bèn hiển
thần thông trị cho ông ta lành bệnh. Ðó đều là những
việc chứng minh.
Bốn,
Pháp Uyển nói : Ðạo tục tụng trì không có công hiệu, là
vì không có tâm chí thành, hủy báng kinh điển. Hoặc văn
tự sai lầm, hoặc âm vận không đúng, hoặc uống rượu ăn
thịt, hoặc ăn tạp các thứ cay nồng, hoặc đụng tay vào
chỗ ô uế, hoặc nói chuyện thế tục, hoặc y phục không
thanh tịnh, hoặc chỗ ở không trang nghiêm. Tám loại giới
pháp, nếu phạm thì khiến cho quỷ thần thừa cơ hội mà vào,
mang đến tai ương cho người trì niệm:
Pháp Uyển Châu Lâm nói: tại sao người xuất gia và người
tại gia tụng trì kinh chú không có công hiệu ? Vì không có
tâm chí thành tha thiết. Tu hành cảm thấy không có gì linh
cảm bèn hủy báng, nói không có gì chứng minh, không có gì
linh nghiệm, nói chú này là giả, nói kinh kia là giả. Kỳ
thực, nguyên nhân trì chú không linh nghiệm là do văn tự không
đúng, hoặc âm vận đọc sai, hoặc uống rượu ăn thịt,
hoặc ăn 5 món cay, hoặc đại tiểu tiện mà không rửa tay
rồi cầm lấy quyển chú, hoặc nói việc thế tục, không
giữ quy củ, thị phi, nào là nhà họ Trương dài, nhà họ Lý
ngắn, hoặc mặc y phục không thanh tịnh sạch sẽ, hoặc
chỗ ở không trang nghiêm thanh tịnh. Phạm tám giới pháp đã
nói ở trên, sẽ khiến quỷ thần không cung kính. Không
những không có công đức mà còn có tội.
Nếu
muốn hành trì cần phải thường tắm gội, miệng ngậm nước
thơm, tâm chí thành tha thiết ân cần, vì khắp sáu đường,
phát tâm không biếng nhác, tâm chân thành tha thiết như
thế, nhất định sẽ có cảm ứng không nghi. Năm là Hiển
Mật Viên Thông nói : Kim Cang Đỉnh, Tô Tất Địa, kinh
Chuẩn Đề v.v… đều nói hành giả dụng công trì tụng,
hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ tát, hiền thánh tăng, thiên
tướng, hoặc mộng thấy thân mình tiếp xúc hư không, cưỡi
ngựa qua sông, các thứ hương hoa hào quang, cùng các tướng
khác lạ. Nếu được ứng nghiệm như thế thì cần phải
cảnh sách giữ gìn tam nghiệp, gia công tụng niệm, không
được tuyên nói cảnh giới trong chú, khoe khoang với người
khác, chỉ đối với người đồng đạo, không vì danh lợi
tôn kính tán thán, mới được nói điều đó.
Nếu
muốn hành trì cần phải thường tắm gội, miệng ngậm nước
thơm, tâm chí thành tha thiết ân cần, vì khắp sáu đường,
phát tâm không biếng nhác, tâm chân thành tha thiết như
thế, nhất định sẽ có cảm ứng không nghi:
Nếu muốn tu pháp chú Lăng Nghiêm, cần phải tắm gội,
lấy nước trong xúc miệng, tâm chí thành tha thiết ân
cần, giờ giờ phút phút không quên, khắp vì chúng sanh
trong sáu đường, tức là chúng sanh trong cõi trời, cõi người,
a tu la, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục phát đại Bồ đề
tâm, thường không giải đãi biếng lười. Chí thành khẩn
thiết như thế nhất định sẽ có cảm ứng.
Năm
là Hiển Mật Viên Thông nói : Kim Cang Đỉnh, Tô Tất Địa,
kinh Chuẩn Đề v.v… đều nói hành giả dụng công trì
tụng, hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ tát, hiền thánh tăng,
thiên tướng, hoặc mộng thấy thân mình tiếp xúc hư không,
cưỡi ngựa qua sông, các thứ hương hoa hào quang, cùng các
tướng khác lạ. Nếu được ứng nghiệm như thế thì cần
phải cảnh sách giữ gìn tam nghiệp, gia công tụng niệm, không
được tuyên nói cảnh giới trong chú, khoe khoang với người
khác, chỉ đối với người đồng đạo, không vì danh lợi
tôn kính tán thán, mới được nói điều đó :
Hiển Mật Viên Thông nói : Khi quý vị dụng công trì chú,
hoặc mộng thấy bản thân mình lễ Phật, mộng thấy Ðức
Phật phóng hào quang, mộng thấy Ðức Phật đến xoa đầu,
mộng thấy Ðức Phật vì mình giảng kinh thuyết pháp,
hoặc mộng thấy Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn thánh tăng,
hoặc thiên tướng trên cõi trời, hoặc đủ thứ các tướng
kỳ lạ vô cùng, hoặc mộng thấy mình bay trong hư không,
hoặc cưỡi ngựa, qua sông, hoặc thấy các thứ hương thơm,
ánh sáng điềm lành, đó đều là những cảnh giới tốt đẹp.
Nếu được cảm ứng như thế, thì cần phải cẩn thận tu
ba nghiệp thân khẩu ý, khiến cho ba nghiệp được thanh
tịnh. Phát đại Bồ đề tâm, càng thêm dụng công niệm chú.
Không thể tuyên thuyết những cảnh giới trong chú, không
thể nói với người có những cảm ứng gì, khiến người
tin tưởng mình, đối với mình có thiện cảm, hoặc kêu người
cung kính mình, tán thán mình, những điều đó thì không nên.
Chỉ có đối với người đồng tu, không vì cung kính hoặc
tán thán, mới có thể nói những cảnh giới cảm ứng.
Sáu,
kinh Ðại Bi nói : Nếu khi người khẩn thiết tụng niệm,
hoặc gặp thấy các thứ ma chướng, hoặc bỗng nhiên sanh lòng
sợ sệt, thân tâm không an, hoặc nhiều sân ham ngủ, lưỡi
khó trì tụng, hoặc thấy những tướng lạ, hoặc sanh lòng
nghi ngờ đối với chú, hoặc sanh các tưởng phân biệt,
hoặc vô minh chấp có. Nếu đối trị, cần quán chữ LAM (
) trong Phạn thư , hoặc quán chữ A ( )
, thì các cảnh giới vọng tưởng đáng cười kia tự
nhiên tiêu diệt. Nên biết pháp nhân duyên vốn không.
Những lời khuyên nhắc ở trên, trong kinh đã nói đầy đủ,
nay chỉ sợ lơ là, nên lại dẫn chứng tận tường.
Sáu,
kinh Ðại Bi nói : Nếu khi người khẩn thiết tụng niệm,
hoặc gặp thấy các thứ ma chướng, hoặc bỗng nhiên sanh lòng
sợ sệt, thân tâm không an, hoặc nhiều sân ham ngủ, lưỡi
khó trì tụng, hoặc thấy những tướng lạ, hoặc sanh lòng
nghi ngờ đối với chú, hoặc sanh các tưởng phân biệt,
hoặc vô minh chấp có. Nếu đối trị, cần quán chữ LAM (
) trong Phạn thư , hoặc quán chữ A (
) , thì các cảnh giới vọng tưởng đáng cười kia
tự nhiên tiêu diệt. Nên biết pháp nhân duyên vốn không.:
Kinh Ðại Bi nói : Nếu khi người đang niệm khẩn thiết
bỗng gặp phải các thứ ma chướng, hoặc bỗng nhiên sanh lòng
sợ sệt, thân tâm không an, hoặc sanh lòng nóng giận, hoặc
ham ngủ, hoặc lưỡi khó trì niệm, hoặc thấy những yêu
ma quỷ quái hình tướng dị thường. Dị tướng nói ở đây,
không giống với dị tướng nói ở trên. Ở đây là dị tướng
xấu, dị tướng ở trên là dị tướng tốt do cảm ứng mà
có. Hoặc đối với chú Lăng Nghiêm sanh lòng nghi ngờ, sanh
tâm phân biệt, hoặc khởi tâm vô minh chấp trước các
hữu. Quý vị xem người mang nghiệp chướng nào cũng có,
nay quý vị có thể an vui niệm chú này là việc khó được
vậy. Nếu gặp phải những cảnh giới không kiết tường
như trên đã nói thì cần phải quán tưởng chữ LAM
( ) của Phạn thư
thì có thể được thanh tịnh, hoặc quán chữ A (
) , thì những cảnh giới buồn cười ở trên tự nhiên
tiêu diệt. Nên biết tất cả pháp đều do nhân duyên hòa
hợp nên bản tính vốn là không.
Những
lời khuyên nhắc ở trên, trong kinh đã nói đầy đủ, nay
chỉ sợ lơ là, nên lại dẫn chứng tận tường:
Những lời khuyên răn nhắc nhở hành giả đã nói ở trên,
trong kinh đã nói qua rồi, chỉ sợ quý vị lơ là, cho nên
lại đưa ra để nói tường tận kỹ càng.
Năm
hội chân ngôn ở dưới, tuy y theo Cổ đức phiên dịch, sau
này truyền pháp cho người hậu lai, nói im tùy ý, không
bắt buộc phải hạn định, phải biết điều nào nên
giảng, điều nào không nên không giảng. Khổng Tử nói : có
thể nói mà không nói, mất người ; không thể nói mà nói,
mất lời. Người trí không mất người, cũng không mất
lời. Vì thế Mạnh Tử có 5 phương pháp dạy dỗ, có 5
thứ không trả lời. Kinh Lăng Già cũng có 4 loại thuyết pháp,
mật bộ không phiên dịch, vì để tồi phục chư ma ngoại
đạo vậy. Trước đã khai mở nói rõ ba nghĩa, đều là
sự quan trọng khẩn cấp trong pháp. Nay đặc biệt trước
chú, nói trước vài lời.
Năm
hội chân ngôn ở dưới, tuy y theo Cổ đức phiên dịch, sau
này truyền pháp cho người hậu lai, nói im tùy ý, không
bắt buộc phải hạn định, phải biết điều nào nên
giảng, điều nào không nên không giảng. Khổng Tử nói : có
thể nói mà không nói, mất người ; không thể nói mà nói,
mất lời. Người trí không mất người, cũng không mất
lời. Vì thế Mạnh Tử có 5 phương pháp dạy dỗ, có 5
thứ không trả lời. Kinh Lăng Già cũng có 4 loại thuyết pháp,
mật bộ không phiên dịch, vì để tồi phục chư ma ngoại
đạo vậy: Dưới đây năm
hội chân ngôn tuy y cứ sự phiên dịch của Cổ đức, khi
truyền pháp cho người sau, hoặc niệm ra lời, hoặc niệm
trong tâm, không nhất định phải chấp trước vào một phương
thức nào. Nên giảng mà quý vị không giảng, như dạy người
phải tu hành như thế nào quý vị không nói; không nên nói
thì quý vị lại nói, như nói quý vị được sự lợi ích,
linh nghiệm, khai ngộ chứng quả thành Phật, đó là tội
vọng ngữ rất lớn, không được nói. Khổng Tử nói : Có
thể nói mà không nói, mất người ; không thể nói mà nói,
mất lời. Người có trí khi nói sẽ không bỏ qua cơ hội,
cũng không nói sai lời. Mạnh Tử cũng có 5 loại không trả
lời. Kinh Lăng Già cũng có bốn cách nói. Trong Mật bộ cũng
có lệ không phiên dịch là vì để tồi phục thiên ma
ngoại đạo.
Trước
đã khai mở nói rõ ba nghĩa, đều là sự quan trọng khẩn
cấp trong pháp. Nay đặc biệt trước chú, nói trước vài
lời: Trước đã nói ba
loại ý nghĩa, đối với sự tu pháp rất quan trọng. Nay đặc
biệt trước chú nói một chút. Dưới đây là giải thích
chú.
Giải
thích chú chia làm hai phần.
1.
Ngũ hội chân ngôn
Sở
dĩ có 5 hội, Hiển Mật Viên Thông nói : thần chú trong kinh
điển , không ngoài 5 bộ. Một là Phật bộ, tức chú của
chư Phật. Hai là Liên Hoa bộ, tức chú của chư Bồ tát. Ba
là Kim Cang bộ, tức chú của các Kim Cang vương. Bốn là
Bảo bộ, tức chú của chư thiên. Năm là Yết Ma bộ, tức
chú của quỷ thần. Năm Phật trong đàn trường, biểu thị
năm bộ chủ, lại năm Phật tức Phật bộ, Quán Âm là Liên
Hoa Bồ tát bộ, Kim Cang là Kim Cang minh vương bộ, Thích
phạm là Bảo Sanh chư thiên bộ, Tần Na Dạ Ca (Vinayaka) là
Yết Ma quỷ thần bộ. Năm hội và 5 bộ chú này đều là
tổng trì. Lại hương, hoa, bát, gương, mỗi thứ 16 món.
Lại trong kinh Kim Cang Đỉnh Du Già, nói thọ 16 pháp cúng dường,
chia làm 5.
2.
Hội chân ngôn thứ nhất.
Du
Già có bốn loại tụng niệm. Một là âm thanh tụng niệm
tức là niệm ra lời. Hai, Kim Cang tụng niệm là ngậm
miệng im lặng niệm. Ba, tam-ma-đề niệm, là tâm niệm.
Bốn, chân thực nghĩa niệm, như chữ tu hành. Lại chia làm
5. Một theo hơi thở ra vào tụng niệm. Quán tưởng chữ
của chú, tùy theo hơi thở ra vào, hơi ra chữ ra, hơi vào
chữ vào, chữ chữ rõ ràng, như xâu chuỗi minh châu, trước
sau không gián đoạn. Hai là Du Già trì tụng. Quán tưởng
trong tâm có vầng trăng sáng, trong ngoài phân minh, chữ chú
thứ tự, phía trước xoay vòng từ bên phải, xoay vòng theo
hình mặt trăng, xoay giáp vòng thì lại tiếp tục xoay nữa.
Ba là Kim Cang trì tụng, trong miệng nhẹ nhàng mật chuyển.
Bốn, vi thanh trì tụng, chữ chữ phân minh xưng niệm, chỉ
để cho tai mình nghe thôi. Năm, cao thanh trì tụng, khiến cho
người khác nghe. Diệt trừ ác nghiệp, sanh trưởng thiện
pháp. Trong Kim Cang Đỉnh, Ngũ Tự, Kinh Chuẩn Đề v.v… đều
có nói rất rõ ràng.
Giải
thích chú chia làm hai phần.
1.
Ngũ hội chân ngôn
Sở
dĩ có 5 hội, Hiển Mật Viên Thông nói : thần chú trong kinh
điển , không ngoài 5 bộ. Một là Phật bộ, tức chú của
chư Phật. Hai là Liên Hoa bộ, tức chú của chư Bồ tát. Ba
là Kim Cang bộ, tức chú của các Kim Cang vương. Bốn là
Bảo bộ, tức chú của chư thiên. Năm là Yết Ma bộ, tức
chú của quỷ thần. Năm Phật trong đàn trường, biểu thị
năm bộ chủ, lại năm Phật tức Phật bộ, Quán Âm là Liên
Hoa Bồ tát bộ, Kim Cang là Kim Cang minh vương bộ, Thích
phạm là Bảo Sanh chư thiên bộ, Tần Na Dạ Ca Yết ma quỷ
thần bộ. Năm hội và 5 bộ chú này đều là tổng trì.
Lại hương, hoa, bát, gương, mỗi thứ 16 món. Lại trong kinh
Kim Cang đỉnh Du Già, nói thọ 16 pháp cúng dường, chia làm
5: Phật
bộ tức là chú do chư Phật thuyết ra. Liên
hoa bộ tức là chú do chư Bồ tát thuyết ra. Kim
Cang bộ tức chú của hết thảy Kim Cang Mật Tích. Bảo bộ tức chú của Bảo Sanh bộ, là chú quản lý chư
thiên. Yết Ma bộ là
những chú để cai quản quỷ thần. Tất đàn mà ở trên đã
nói, cần phải tam mật tương ưng.
2.
Hội chân ngôn thứ nhất.
Du
Già có bốn loại tụng niệm. Một là âm thanh tụng niệm
tức là niệm ra lời. Hai Kim Cang tụng niệm là ngậm miệng
im lặng niệm. Ba Tam-ma-đề niệm, là tâm niệm. Bốn chân
thực nghĩa niệm, như chữ tu hành. Lại chia làm 5. Một theo
hơi thở ra vào tụng niệm. Quán tưởng chữ của chú, tùy
theo hơi thở ra vào, hơi ra chữ ra, hơi vào chữ vào, chữ
chữ rõ ràng, như xâu chuỗi minh châu, trước sau không gián
đoạn. Hai là Du Già trì tụng. Quán tưởng trong tâm có
vầng trăng sáng, trong ngoài phân minh, chữ chú thứ tự, phía
trước xoay vòng từ bên phải, xoay vòng theo hình mặt trăng,
xoay giáp vòng thì lại tiếp tục xoay nữa. Ba là Kim Cang trì
tụng, trong miệng nhẹ nhàng mật chuyển. Bốn là vi thanh trì
tụng, chữ chữ phân minh xưng niệm, chỉ để cho tai mình
nghe thôi. Năm cao thanh trì tụng, khiến cho người khác nghe.
Diệt trừ ác nghiệp, sanh trưởng thiện pháp. Trong Kim cang
đỉnh, Ngũ tự, kinh Chuẩn đề v.v… đều có nói rất rõ
ràng : Trong Du Già có
bốn phương pháp niệm tụng : Một là âm thanh niệm tụng,
tức niệm ra tiếng. Hai là cách niệm Kim Cang, tức niệm
thầm trong miệng. Ba là cách niệm Tam-ma-đề tức là tâm
niệm. Bốn là cách niệm chân thực nghĩa, như chữ Phạn tu
hành. Lại có 5 phương pháp tụng niệm : Một là phương pháp
niệm theo hơi thở, quán tưởng chữ Phạn, theo hơi thở ra
vào, thở ra chữ cũng ra, hít vào chữ cũng vào, mỗi mỗi
đều niệm rõ ràng, giống như xâu chuỗi minh châu trước
sau không có gián đoạn. Hai là phương pháp trì tụng Du Già.
Quán tưởng trong tâm có một vầng trăng sáng, trong ngoài phân
minh. Chữ Phạn thứ tự từ phía trước xoay vòng theo hướng
tay phải, xoay vòng theo hình mặt trăng trong tâm, xoay xong
rồi lại xoay nữa. Ba là phương pháp trì tụng Kim Cang,
trong miệng im lặng niệm, không có tiếng nhưng có thể nghe
thấy, nói có tiếng lại dường như không có tiếng. Bốn là
phương pháp trì tụng âm thanh nhỏ. Âm thanh rất nhỏ, mỗi
chữ đều niệm rõ ràng, khiến lỗ tai mình có thể nghe
rất rõ ràng, không phải niệm một cách vội vàng hấp
tấp, bản thân mình cũng không biết có niệm hay không. Năm
là phương pháp lớn tiếng trì tụng, khiến cho người khác
cũng nghe. Trong kinh Chuẩn Ðề, Ngũ Tự, Kim Cang Ðỉnh niệm
tụng nghi có thuyết minh kỹ càng.
Trong
kinh Như Ý Bảo, Bồ tát Diệu Trụ hỏi : “Trì chương cú
Tổng Trì Vương này, tại sao không thấy chư Phật ba đời
?” Ðức Phật nói : “Do nghiệp quá khứ vậy, do lòng nghi
chưa đoạn vậy, do tâm hữu vi vậy, do không có phương
tiện vậy. Nếu tâm không nghi hoặc, quyết định chuyên chú,
gọi là chân thực trì tụng”. Lại Bồ tát Diệu Tý hỏi
: “Trì tụng chân ngôn, không thể thành đạo chứng quả,
vì pháp lực không có khả năng chăng? việc làm phi thời chăng
? Chủng tánh không phải Phật tánh chăng ? Chân ngôn thiếu
lợi ích chăng ? Tu trì khinh mạn chăng ? Cúng dường không
đầy đủ chăng ?” Bồ tát Kim Cang Thủ trả lời : “Người
tu hạnh chân ngôn, cầu mong thành tựu, cần phải lìa các
phiền não, sanh khởi lòng tin sâu dày, phát tâm Bồ đề, tôn
trọng Phật Pháp Tăng, lánh xa mười ác nghiệp, lìa lưới
tà kiến, hành mười thiện pháp, vào mạn đà la[2]
lớn. Nương A Xà Lê, quyết chí dũng mãnh tinh tấn, sám
hối nghiệp xưa, giúp đỡ quý vị đồng tu, cúng dường
thanh tịnh kiền thành. Chân ngôn không sai, nay không như pháp,
làm sao ứng nghiệm được!” Dưới nói, dù đã uống rượu,
ăn năm món cay nồng, các thứ bất tịnh, y rách, lại không
có đàn tràng, Phật trời cũng không cho rằng lỗi, đó đều
là Như Lai tùy cơ thuyết pháp. Nay được lợi ích 4 tất đàn,
không được nghi ngờ chấp trước, tự tạo tội lỗi cho mình”.
Trong
kinh Như Ý Bảo, Bồ tát Diệu Trụ hỏi : “Trì chương cú
Tổng Trì Vương này, tại sao không thấy chư Phật ba đời
?” Ðức Phật nói : “Do nghiệp quá khứ vậy :
Vì định nghiệp đã tạo trong kiếp quá khứ quá nặng. Do
lòng nghi chưa đoạn vậy : Do hoài nghi chư đoạn vậy.
Do tâm hữu vi vậy : Do dùng tâm tham cầu pháp vậy. Do
không có phương tiện vậy : Do niệm không đúng pháp. Nếu tâm không nghi hoặc, quyết định chuyên chú, gọi là
chân thực trì tụng: Nếu trong tâm không có lòng nghi
hoặc, một lòng chuyên chú vào chữ Phạn hoặc âm Phạn, đó
chính là người chân thực tu pháp.
Lại
Bồ tát Diệu Tý hỏi : “Trì tụng chân ngôn, không thể thành
đạo chứng quả, vì pháp lực không có khả năng chăng? :
Vì pháp không có năng lực này chăng ? việc làm phi thời chăng
? việc làm không đúng thời chăng ? Chủng tánh không phải
Phật tánh chăng ? hoặc không có chủng tánh Phật chăng ? Chân
ngôn thiếu lợi ích chăng ? Chú không có lợi ích chăng ? Chú
là giả sao ? Tu trì khinh mạn chăng ? đối với chú không
cung kính chăng ? Cúng dường không đầy đủ chăng ? cúng dường
chú thần không viên mãn chăng ?
Bồ
tát Kim Cang Thủ trả lời :
“Người tu hạnh chân ngôn,
cầu mong thành tựu, cần phải lìa các phiền não, sanh
khởi lòng tin sâu dày, phát tâm Bồ đề, tôn trọng Phật
Pháp Tăng: đối với Phật Pháp Tăng đều phải tôn trọng.
Lánh xa mười ác nghiệp : thân không được sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, ý cần phải trừ tham, sân, si, miệng không
được vọng ngôn, ác khẩu, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, lìa
lưới tà kiến : phải giữ gìn chánh tri chánh kiến, không
nên có tà kiến, hành mười thiện pháp : không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói lưỡi hai chiều, không nói
lời hung ác, không nói dối, không nói thêu dệt, không sân,
không tham, không si, vào Mạn đà la lớn: vào đạo trường
lớn. Y A Xà Lê : Nương Thầy quy phạm, thầy y chỉ, quyết chí
dũng mãnh tinh tấn : có chí quả quyết dõng mãnh, sám
hối nghiệp xưa : sám hối nghiệp chướng đời quá
khứ, giúp đỡ quý vị đồng tu : giúp đỡ quý vị đồng
tu, cúng dường thanh tịnh
kiền thành : đồ ăn chay trái cây cúng dường cần
phải thanh tịnh sạch sẽ, chân
ngôn không sai : niệm chú cần phải chính xác. Nay
không như pháp : nay sự tu học của quý vị không đúng
như pháp, sao ứng nghiệm được ! thì không có ứng
nghiệm.
Dưới
nói, dù đã uống rượu, ăn năm món cay nồng, các thứ
bất tịnh, y rách, lại không có đàn tràng, Phật trời cũng
không cho rằng lỗi: Y áo
không chỉnh tề, mũ cũng đội không ngay ngắn, nút áo cũng
không gài, lại không có đàn tràng. Tuy là như thế, Phật và
chư Thiên cũng không cho rằng có tội, đó đều là Như Lai
tùy cơ thuyết pháp. Nay được
lợi ích 4 tất đàn, không được nghi ngờ chấp trước,
tự tạo tội lỗi cho mình : Nay được sư lợi ích của
tứ tất đàn, không nên sanh lòng nghi hoặc, nếu không sẽ
gây ra tội lỗi cho mình.
[1]
Hòa Thượng Tuyên Hóa:
pháp danh An Từ tự Độ Luân.
[2]
Có nghĩa là kế độ, tức lấy vọng tâm của mình để
phân biệt phán đoán đạo lý, sự vật. (Phật
học đại từ điển)
[3]
Vô Kiến Ðảnh Tướng: tướng Phật đảnh cao đến nỗi không
thấy được, chỉ có Phật với Phật mới thấy, còn hàng
thập địa Bồ Tát, Thanh Văn và phàm phu không thể
thấy được nên gọi là "Vô kiến đảnh tướng".
(Phật học đại từ điển)
[4]
Thiên như : (hay
Thiên Như Thị) Từ cõi Phật đến cõi địa ngục, tất
cả là 10 cõi gọi là thập pháp giới, tánh của mỗi pháp
giới đều có đủ tánh của mười pháp giới kia, thành
100 pháp giới, một trăm pháp giới này có đủ 10 thứ
như thị “tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên,
quả, báo, bổn mạt cứu cánh”, nên thành Thiên như
thị. Nếu nhân 1000 như thị này với 3 loại thế gian thì
thành 3000, là con số biểu thị cho thật tướng các pháp
mà tông Thiên Thai lập ra. (Từ Ðiển Phật Học Huệ
Quang)
[5]
Câu này dẫn từ “Luận ngữ”, hình dung đạo đức,
học vấn của Khổng Tử cao sâu không cùng tận, không
thể hình dung được. Ở đây mượn để hình dung Vô
kiến đảnh tướng của Ðức Phật.
[6]
Nhất thiết chủng trí là một trong ba trí của Ðức
Phật, ba trí tức là Nhất thiết trí, Ðạo chủng trí và
Nhất thiết chủng trí. Nhất thiết trí là trí huệ
của Thanh văn Duyên giác hiểu biết tất cả tổng tướng
của các pháp, tổng tướng tức là không tướng; Ðạo
chủng trí tức là trí huệ hiểu biết các tướng sai khác
của pháp; Nhất thiết chủng trí là trí huệ của Ðức
Phật hiết biết tất cả tướng riêng và tướng chung
của mọi pháp, giáo hóa chúng sanh đoạn trừ mê hoặc,
hợp hai trí Nhất thiết trí và Ðạo chủng trí, gọi là
Nhất thiết chủng trí.
[7]
Tất
Đàn (Phạm,
Pali: Siddhanta. Gọi
tắt: Tứ tất):
Giáo pháp mà đức Phật dùng để giáo hóa, dất
dẫn chúng sinh có thể được chia làm 4 phạm trù, gọi
là Tứ tất đàn. Tất đàn là từ ghép chung cả Phạn và
Hán. Tất nghĩa là khắp hết; Đàn (nói đủ là Đàn na
(Phạm: Dana, Hán dịch: Bố thí), tức Phật dùng 4 phương
pháp bố thí khắp hết thảy chúng sinh.
Cứ theo
luận Đại trí độ quyển 1, giáo pháp của đức Phật
có nhiều loại khác nhau, mới nhìn tựa hồ như mâu
thuẫn, nhưng nếu tổng hợp giáo thuyết của Ngài thì có
4 Tất đàn đều là thực nghĩa chứ không hề trái nhau.
Đó là:
1.
Thế
giới tất đàn: Tức thuận theo pháp thế gian mà nói
nghĩa nhân duyên hòa hợp; cũng tức là dùng những pháp
phổ thông ở thế gian như tư tưởng, ngôn ngữ, quan
niệm… để thuyết minh chân lý duyên khởi. Chẳng hạn
như: Con người là do nhân duyên (các
điều kiện) hòa hợp mà có, vì thế nên chẳng
phải là thực thể. Cho rằng con người có thật xưa
nay, vốn là cái thấy phổ thông của thế tục, nên
Phật nói pháp thích hợp với thế tục để thuận theo
mọi người, khiến cho phàm phu vui mừng mà được chánh
trí thế gian, cho nên Tất đàn này còn được gọi là
Lạc dục tất đàn.
2.
Các
các vị nhân tất đàn (gọi
tắt là Nhân tất đàn): Tức tùy theo căn cơ và năng
lực khác nhau của mỗi chúng sinh mà nói các pháp thực
tiễn xuất thế, khiến chúng sinh sinh khởi thiện căn,
cho nên cũng gọi Sinh thiện tất đàn.
3.
Đối
trị tất đàn: Đối với phiền não của chúng sinh
như tham, sân, si… tùy bệnh mà cho thuốc pháp để đối
trị. Đây là giáo pháp nhằm diệt trừ phiền não và ác
nghiệp của chúng sinh. Vì giáo pháp này có công năng
dứt các điều ác của chúng sinh, cho nên cũng gọi là
Đoạn ác tất đàn.
4.
Đệ
nhất nghĩa tất đàn: Tức dẹp bỏ tất cả các ngôn
ngữ, luận nghị mà trực tiếp dùng Đệ nhất nghĩa đế
để giải thích rõ lý thực tướng của các pháp,
khiến chúng sinh chân chính khế nhập giáo pháp, cho nên
cũng gọi là Nhập lý tất đàn.
[1]
Tâm chú tức là “Ðát điệt tha. Án, a na lệ, tỳ xá
đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể,
bạt xà ra bàn ni phấn, hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà
ha.” Trì 108 biến Tâm chú này là một phần công khóa
chung mỗi tối của đại chúng tại Vạn Phật Thánh Thành
và các đạo tràng chi nhánh.
[2]
Mạn đà la : dịch là Luân chuyển viên mãn cụ túc, Tụ
tập, Ðàn, Ðạo trường…Ấn Ðộ thuở xưa, khi tu
Mật pháp, vì để ngăn ngừa chúng ma xâm nhập quấy
nhiễu, nên vẽ nhưng khu vực hình vuông hoặc hình tròn,
hoặc xây dựng Ðàn, trong Ðàn vẽ hình tượng Phật,
Bồ tát để cúng dường, lễ bái. Thường gọi những
khu vực hình vuông hoặc tròn này là Mạn Ðà La. Ðứng
về mặt thể mà nói, Ðàn hoặc Ðạo trường là Chánh
ý, Luân viên cụ túc là Bổn ý, xây dựng Ðàn trong có
hình Phật, Bồ tát để cúng dường lễ bái, đó là
bổn thể của Mạn Ðà La. Nay Mạn Ðà La thường chỉ
cho đồ họa, hình vẽ của Ðàn hoặc Ðạo trường.
0 Kommentare:
Post a Comment