Pages

15 May 2012

Pháp Sư Tịnh Không khai thị Pháp Môn Tịnh Độ

"Người thật sự biết niệm Phật, sự lợi ích, niềm an lạc mà họ đạt được, phàm phu chúng ta không thể nào hiểu thấu, mà họ cũng không thể giải thích rõ cho chúng ta, vì có giải thích, chúng ta cũng không hiểu..."

 


LỢI ÍCH CỦA SỰ NIỆM PHẬT

Viết bởi Pháp Sư Tịnh Không  
 
Phần 1 : Rộng mở tâm lượng

Trong việc tu học Phật pháp, muốn tự nâng cao cảnh giới của chính mình, có rất nhiều phương pháp. « Mở rộng tâm lượng » là một trong các phương pháp đó.
Trong đại thừa kinh điển, chúng ta thấy các vị pháp thân đại sĩ, tức là những người đã minh tâm kiến tánh, tâm lượng của các ngài rộng lớn như hư không, bao trùm cả pháp giới, vì thế, cái nhìn của các ngài đối với tất cả chúng sanh trong hư không và khắp pháp đều bình đẳng. Thế nào là bình đẳng ? Vô niệm là bình đẳng, còn có niệm là không bình đẳng. Phật trụ vô niệm.
Trong Kinh Kim Cang có câu : « Ưng vô sở trụ, sở trụ vô trụ » . « Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm », vô trụ tất cả là Phật trụ, mà vô trụ là vô niệm.
Chúng sanh trong chín pháp giới còn có chỗ để trụ. Ví như :
  • Chư Bồ Tát trụ ở cảnh giới Lục Độ.
  • Duyên Giác trụ ở Nhân Duyên.
  • Thanh Văn trụ ở Tứ Đế.
  • Ngạ quỷ ở cảnh giới Tham.
  • Địa ngục trụ nơi Sân.
  • Súc sinh trụ ở cảnh Si Mê.
Tâm của tất cả chúng sanh nầy đều còn chỗ để trụ, để dính mắc. Nói cách khác là tâm của chúng ta như thế nào, thì cảnh giới của chúng ta như thế đó.
Phàm phu chúng ta muốn trụ nơi cảnh giới vô trụ của Phật, là điều không thể đạt được. Tuy nhiên, Phật thường dạy cho chúng ta một phương pháp vô cùng thù thắng và tiện lợi, để có thể dự vào cảnh giới vô trụ của các ngài. Đó là pháp môn niệm Phật.
Bồ Tát trụ ở nơi lục độ ; chúng ta trụ nơi Phật trụ. Như vậy chúng ta được nâng cao hơn đẳng cấp của Bồ Tát, thế nhưng, tiếng niệm Phật của chúng ta phải tương ưng. Thế nào gọi là tương ưng ? Mỗi một tiếng niệm Phật, chúng ta phải trải lòng từ bi của mình đến với tất cả chúng sanh trong hư không và lan rộng đến khắp pháp giới. Mỗi tiếng niệm Phật đều vì lợi ích chúng sanh, đều mang lòng ban vui cứu khổ đến cho mọi loài.
Có người hỏi : « Tiếng niệm Phật của chúng ta thực tế có lan rộng đến hư không khắp pháp giới hay không ? » Khẳng định là được !
Trong kinh Phật nói : « Tướng không rời tâm, tâm không rời tướng ». Cái chân tâm của chúng ta, nguyên gốc của nó rộng khắp hư không, trùm khắp pháp giới. Sở dĩ tiếng niệm Phật của chúng ta không hoà nhập vào với hư không, là vì chúng ta còn nhiều vọng tưởng, phân biệt và chấp trước làm chướng ngại bản năng tự nhiên của mình. Nếu âm ba của tiếng niệm hoà nhập với âm ba của tâm, tức chân tâm lan rộng vào hư không, tiến sâu vào khắp các pháp giới, cho dù chư Phật thuyết pháp ở xa xôi, bất luận nơi nào, một khi tâm đã lắng động, không còn chướng ngại chúng ta vẫn có thể nghe được âm thanh lời pháp của các ngài rõ ràng, vì tâm từ bi của các ngài luôn trải rộng đến cõi Ta Bà này của chúng ta, cũng như chúng sanh ở các pháp giới khác. Đây là sự thật, không hề hư dối.
Vậy thì âm ba của Phật có thể rộng khắp, âm ba phàm phu của chúng ta cũng có thể rộng khắp, cho nên mở rộng tâm lượng trong pháp môn niệm Phật là một phương pháp rất vi diệu, rất đặc biệt thù thắng, có thể khiến phàm phu trong một kiếp được bình đẳng, được thành Phật.
Người thật sự biết niệm Phật, sự lợi ích, niềm an lạc mà họ đạt được, phàm phu chúng ta không thể nào hiểu thấu, mà họ cũng không thể giải thích rõ cho chúng ta, vì có giải thích, chúng ta cũng không hiểu. Giống như ai uống nước, tự người đó biết nóng hay lạnh, mùi vị ngọt đắng ra sao vậy. Nguyên tắc thuyết pháp của chư Phật cũng thế ! Những điều chúng sanh có thể hiểu được, các ngài mới nói ; nếu không hiểu được, tuyệt đối đều không nói.
Tóm lại, công phu niệm Phật có đắc lực hay không, chúng ta có thể thấy biết qua cảnh giới tâm lượng và sắc tướng của người đó.
Một khi công phu niệm Phật đắc lực rồi, chắc chắn trên gương mặt của chúng ta sẽ luôn tỏ ra niềm vui an lạc tự tại, trong đạo Phật gọi là pháp hỷ sung mãn.
Chúng ta đọc kinh sách thường nghe những người tu hành chứng quả A La Hán, là hàng thánh đạt tới mức chánh định, thân tâm an ổn, không còn thối chuyển. Tất cả những người do công phu thiền định mà tâm không ô nhiễm chuyện buồn lo, thân xa lià cảnh vui khổ của thế gian, đều được chứng nhập vào cảnh giới tam ma địa, tức là cảnh giới không còn sanh diệt. Phàm phu chúng ta nếu còn một phẩm vô minh chưa dứt đoạn muốn chứng vào cảnh giới cao cấp này, chỉ còn cách nương theo pháp môn tiện lợi nhất, đó là niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.

Phần 2 : Pháp Môn Tha Lực

Chỉ cần sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc, chúng ta sẽ chứng cảnh giới tam ma địa. Tất cả cảnh bất sinh diệt này, sự chứng đắc này thật ra hoàn toàn không phải do công phu ở chính mình, mà do một phần tha lực của đức Phật A Di Đà hỗ trợ, cho nên pháp môn Tịnh độ còn gọi là pháp môn tha lực. Nói một cách rõ hơn, tự lực là năng lực của chính mình, y theo lời dạy của chư Phật mà niệm Phật để có thể hàng phục được những tập khí.
Một khi công phu niệm Phật thành khối, nhờ sức gia trì của Phật A Di Đà, sanh về thế giới Cực Lạc, vào được cảnh giới Tây phương gọi là tha lực.
Pháp môn nhị lực này là pháp môn duy nhất được chư Phật đề cập trong Tịnh độ tông. Ngoài sự chứng nhập cảnh giới tam ma địa, còn đạt nhất thiết Đà La Ni. Đà La Ni là tiếng Phạn, người Trung Hoa dịch là tổng trì. Tổng là hợp tất cả các pháp. Trì là giữ, làm theo tất cả giáo lý của Phật. Nói theo danh từ hiện nay tổng trì Đà La Ni là toàn toàn bộ nguyên tắc dạy chúng ta làm tất cả điều thiện, xa lìa các điều ác.
Hôm nay chúng ta cùng nhau tụ về nơi này để niệm Phật, cũng có thể gọi là ỡ tổng trì Đà La Ni ữ, bởi vì suốt một ngày một đêm, chỉ duy nhất giữ câu A Di Đà Phật. Tất cả những vọng niệm, suy nghĩ khác không còn nữa. Vọng niệm không còn, những việc ác không thể xảy ra, như vậy là xa lìa tất cả ác. Một câu vạn đức hồng danh thiện pháp cao tột của thế gian và xuất thế gian, chúng ta chấp trì từng câu liên tiếp không ngừng, để tăng trưởng thiện căn, đó là tất cả điều thiện. Ý nghĩa câu ỡ đắc nhứt thiết Đà La Ni ữ là như vậy. Khi bước chân vào niệm Phật đường, chúng ta đã đạt được ỡ nhất thiết Đà La Ni ữ, nhưng khi vừa ra khỏi, liền quên mất công phu niệm Phật. Tuy nhiên, một tuần 7 ngày, chúng ta có được một ngày chuyên nhất niệm Phật, đạt tâm không sanh không diệt nhất thiết đà là ni. Như vậy, chúng ta cũng đã giỏi lắm rồi !
Mỗi tuần 1 ngày đến niệm Phật, niệm liên tiếp ba năm, công phu của chúng ta đáng nể phục lắm. Khi có thì giờ rổi rảnh, mỗi ngày đều niệm Phật trong vòng ba năm thôi, chúng ta sẽ thành Phật ngay. Bao nhiêu nghiệp tội trong bao nhiêu lượng kiếp đều dứt sạch. Trong quyển Vãng Sanh Truyện, những người niệm Phật được vãng sanh ngay trong kiếp hiện tại này của chúng ta thật nhiều vô số kể. Người niệm Phật vãng sanh có nhiều hình thức : Có người đứng, có người ngồi tự biết trước giờ ra đi, không một chút bịnh hoạn, ra đi một cách vui vẻ tự tại, đẹp đẽ trang nghiêm. Kết quả vãng sanh này đều do công phu niệm Phật chuyên cần.

Phần 3 : Giải trừ nghiệp chướng

Pháp môn Tịnh độ, một pháp môn hiển bày bốn chữ tiện lợi dễ dàng một cách rõ rệt. Nếu quý vị không hiểu những lý luận trong kinh, cũng không thành vấn đề, vẫn có thể thành tựu. Nếu bảo không cần hiểu nghĩa lý trong kinh, chỉ một lòng thành tâm niệm Phật, mà có thể thành tựu, vậy tôi vẫn phải giảng kinh thuyết pháp nữa để làm chi ? Sở dĩ tôi vẫn phải mỗi ngày thuyết giảng không ngừng, đem những lời hay ý đẹp của đức Thế Tôn ra nói là vì mong quý vị hiểu, mong quý vị giác ngộ, bởi vì quý vị đây không đủ phước báo, suốt ngày vọng tưởng, suy nghĩ lung tung. Vậy ai là người có đủ phước báo? Là những người thật thà chất phác, suốt ngày chỉ ôm giữ một câu A Di Đà Phật, việc gì cũng không nghĩ tưởng. Do đó công phu niệm Phật của quý vị có thể đến lúc không còn vọng niệm, chỉ còn một câu A Di Đà Phật, thì lúc đó tam tạng, mười hai bộ kinh điển mà Thế Tôn suốt 49 năm thuyết pháp đều là dư thừa, quý vị không cần đến đây nghe tôi giảng giải nữa.
Cho nên Phật độ chúng sanh có hai hạng người dễ độ : Một là những người thượng căn lợi trí. Vừa nghe qua liền thông đạt, liễu ngộ dứt sạch vọng niệm.
Hai là những người thật thà ngu dốt, họ không cần tìm hiểu nhiều. Bảo họ niệm Phật là họ cứ ngoan ngoản, thật tình chấp trì, không nghĩ tưởng điều gì ngoài niệm Phật. Còn loại Thứ ba là những người lưng chừng thích khiêng vác ôm đồm, tìm hiểu suy nghĩ lung tung. Quý vị biết không ? Chúng ta thuộc loại người thứ ba này đó, loại người nhiều rắc rối.
Cho nên đức Thế Tôn suốt trong 49 năm khổ nhọc mỗi ngày không ngừng nói pháp cũng vì những người nhiều rắc rối như chúng ta. Ngài phải đem pháp ly ác giảng nói tỉ mỉ ra cho chúng ta, mong rằng sau khi quý vị đã hiểu rõ rồi thì phải biết buông xả. Trên thế gian này, người biết buông xả, không có vọng niệm là người có đại phước báo ; tuyệt đối không phải có nhiều tiền tài, địa vị cao. người có địa vị tiền tài chỉ được hưởng thụ đời sống vật chất độ vài ba năm, sau khi chết rồi sẽ ra sao ? Tam đồ lục đạo phải chịu luân hồi, như thế có phải là phước đâu ? Nếu tâm không chút vọng tưởng, suốt ngày chỉ câu A Di Đà Phật, người này chỉ vài năm sau là đã thành Phật được rồi. Hiểu được như vậy thì quý vị mới biết công đức niệm Phật thật vô cùng thù thắng, không gì sánh bằng.
Đức Thế Tôn sở dĩ phải bày ra phương tiện nói ra ba thừa, chỉ vì muốn dẫn độ chúng sanh mà thôi. Mục đích duy nhất của Ngài là mong cho chúng ta một đời có thể thành Phật. Có người hoài nghi rằng : ỡ Tôi rất ngu si, chậm hiểu, nghiệp chướng lại sâu dày, có thể thành Phật được không ? ữ Trong kinh điển, Phật thường nói : ỡ Chỉ cần một câu danh hiệu Phật có thể tiêu trừ 80 ức kiếp sanh tử tội nặng ữ. Chúng ta thử nghĩ xem : Suốt một ngày một đêm ở niệm Phật đường, chúng ta đã niệm được rất nhiều tiếng, vậy thử tính xem tội chướng của chúng ta đã tiêu trừ được biết bao nhiêu rồi. Điều này chắc thật không sai ! Vì lời Phật nói không hề hư dối, chắc chắn có hiệu quả tốt, không thể nghĩ bàn. Thế nhưng, vì sao nhiều người niệm Phật suốt một ngày đêm mà nghiệp chướng vẫn còn đầy ? Bởi vì nghiệp chướng của người này quá nhiều. Do đó, công đức niệm Phật một ngày đêm dù giúp họ tiêu trừ đi rất nhiều, mà chưa dứt hẳn. Cho nên cần phải mỗi ngày đều niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt đi nghiệp chướng. Phật dạy chúng ta rằng : ỡ Năng lực quan trọng nhất để giải trừ nghiệp chướng trong lúc niệm Phật là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn ữ. Với ba yếu tố này, năng lực của không xen tạp mạnh nhứt. Nếu chúng ta giữ được liên tục, không gián đoạn trong 3 năm, cho dù nghiệp chướng sâu dày bao nhiêu của vô lượng kiếp đều có thể giải trừ hết. Làm sao biết được không còn nghiệp chướng ? Hãy nhìn lúc quý vị vãng sanh, có thể ra đi bằng cách ngồi hoặc đứng rất là tự tại. Sau khi về cõi Tây phương Cực Lạc, không phải trụ ở cảnh giới phàm thánh đồng cư, cũng không phải trụ ở tứ độ vãng sanh mà dự vào hạng thượng phẩm vãng sanh.
Câu danh hiệu Phật giải trừ nghiệp chướng thật là bất khả tư nghì. Cho nên ngài Từ Vân Quán Đảnh Pháp Sư, trong lời chú giải của bộ kinh Vô Lượng Thọ nói : ỡ Chúng sanh nào từ vô lượng kiếp tạo tội tạo nghiệp cực ác, cực sâu dày, bao nhiêu kinh luận, tất cả các sám pháp đều không thể sám trừ được, cuối cùng vẫn còn một phương pháp để có thể cứu vãn, đó là phương pháp niệm Phật ữ. Cho thấy công đức niệm Phật thật là to lớn, thù thắng vô cùng.

Phần 4 : Pháp Môn Tịnh độ

Trong kinh điển chỉ dạy rất nhiều phương pháp để chúng ta đi vào, nhưng không phải phương pháp nào cũng thích hợp với chúng ta cả. Muốn tu học phải biết tự nhận rõ căn tánh của mình, trình độ lý giải của mình. Nói theo danh từ hiện nay là trình độ hiểu biết, kèm theo khả năng trí nhớ, vì hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với hoàn cảnh sống và việc làm của chúng ta. Cho nên từ trong rất nhiều phương pháp khác nhau, chúng ta phải chọn lấy một phương pháp phù hợp nhất với điều kiện của mình. Có như vậy việc tu học mới mong đạt kết quả dễ dàng.
Tuy nhiên chúng ta tự mình rất khó biết phải hạ thủ công phu từ đâu. Làm cách nào để lựa chọn phương pháp ? Phật nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn (84 000), làm sao biết được pháp môn nào là thích hợp ? Một khi lựa chọn không đúng pháp môn, thì chẳng những dụng công nhiều mà kết quả lại ít, sự tu học khó nhọc ở thế gian này cũng chẳng được một phần công đức nào, điều này là thật.
Chính bởi tình trạng như vậy, cho nên đức Thế Tôn mới vì chúng sanh thời mạt pháp này chỉ bày ra một con đường. Đó là pháp môn Tịnh độ. Pháp môn Tịnh độ cũng là pháp môn của chư Phật giúp chúng ta lựa chọn, thế nhưng pháp môn này cũng có rất nhiều phương pháp tu học. Tất cả chư Phật đều nhất khẩu đồng thanh chỉ dạy và giúp chúng ta lựa chọn phương pháp trì danh niệm Phật.
Trong kinh A Di Đà dạy chúng ta trì danh niệm Phật. Kinh Vô Lượng Thọ cũng dạy chúng ta trì danh niệm Phật. Trong Quán Kinh nói nhiều hơn. Ngoài trì danh niệm Phật ra, còn quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật. Như vậy chúng ta thấy rõ ràng trong ba bộ kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, Phật đều khuyên chúng ta giữ phương pháp chấp trì danh hiệu Phật. Chính vì thế chúng tôi lựa chọn và đề xướng phương pháp này.
Qua phương pháp trì danh niệm Phật, những người được lợi ích rất nhiều, kết quả vãng sanh vô số kể. Nếu theo phương pháp này mà chân chính tu hành sẽ rất cận kề với Hoa Nghiêm Tam Muội, lại hội đủ nguyên tắc hiện thực Bách Thiên Tam Muội. Thật là một pháp môn không thể nghĩ bàn, một pháp môn đơn giản, dễ dàng, chắc chắn, mau chóng. Chỉ cần buông xả vạn duyên, giữ chặt câu hiệu Phật niệm tới.
Một số người niệm Phật, công phu không được đắc lực, vì không buông xả được vạn duyên, tự tạo cho mình một chướng ngại trầm trọng. Chướng ngại này, người khác không thể nào giúp. Chư Phật Bồ Tát cũng không thể giúp. Nhất quyết phải do chính bản thân mình chịu buông xả. Bất luận điều gì không nên chấp giữ trong lòng..., chỉ giữ một câu A Di Đà Phật. Trong tâm nương theo Phật mà niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thành Phật.

Phần 5 : Tự hành hoá tha

Chư cổ đức thường nói : « Phát bồ đề tâm nhất hướng chuyên niệm câu A Di Đà Phật là một pháp môn vô cùng thù thắng, mau chóng và chắc chắn ». Mau chóng ở chỗ nào ? Trong Quán kinh nói thị tâm thị Phật, có nghĩa tâm này tức là Phật. Thị tâm thị Phật, có nghĩa tâm này làm Phật.
Hai câu này vô cùng quan trọng, và gồm thu vô lượng vô biên các pháp môn mà chư Phật đã nói. Thị tâm thị Phật, nói về Lý, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tâm, tâm của chúng sanh hữu tình là Phật tâm. Còn tâm của chúng sanh vô tình thì gọi là pháp tâm. Phật tâm và pháp tâm là một, chẳng phải hai. Thế nhưng một tâm sao lại biến thành hai hình tướng khác nhau ? Bởi vì một bên có tư có tưởng nên trở thành hữu hình. Ngược lại, thì biến thành vô tình chúng sanh.
Trong Pháp Tướng Tông nói rất rõ : « Tất cả chúng sanh bản lai là Phật ». Vậy nguồn gốc đã là Phật, hiện giờ lại phát tâm niệm Phật, làm Phật, có lý nào lại không thành Phật ! Do đó vấn đề then chốt để làm Phật là phải niệm Phật, vì niệm Phật là phương pháp chính yếu, phương pháp trực tiếp. Câu hỏi đặt ra là vì sao bảo chúng ta niệm Phật A Di Đà, mà không niệm danh hiệu các vị Phật khác ? Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ sẽ thấy rõ ràng là A Di Đà Phật là Quang Trung Chí Tôn, Phật Trung Chi Vương. Một vị Phật vĩ đại với quả đức vô cùng mỹ mãn cứu cánh và thiết thực, mà tất cả mười phương chư Phật đều đồng thanh tán thán.
Thưa quý vị, tất cả pháp đều do tâm nghĩ tưởng đến Phật A Di Đà, niệm Phật A Di Đà, chúng ta sẽ là Phật A Di Đà. Lý do khuyên bảo quý vị không nghĩ tưởng điều gì ngoài sự nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật là như vậy.
Hơn nữa trong kinh Đại Tạng đã nói rất rõ ràng đầy đủ là « nhất giải nhất thiết giải » . Nghĩa là khi ta niệm một danh hiệu Phật A Di Đà, là niệm đủ mười phương ba đời tất cả chư Phật, do đó đừng lo ngại hay phân biệt, chấp trước rằng, niệm Phật này là bỏ Phật kia. Không phải thế !
Sau khi chúng ta đã nhận định rõ ràng sự thật được rồi, kế tiếp là phải vững tâm bền chí dũng mãnh dựa vào Phật thất trong niệm Phật đường. Phương pháp thường được nhắc đến trong niệm Phật đường là tự hành hoá tha, nghĩa là tự mình tu hành và lợi lạc độ cho người khác, do đó phải vào niệm Phật đường, cần phải cùng nhau tu tập.

Phần 6 : Niệm Phật đối trị vọng tưởng

Niệm Phật phải lấy kinh hành làm chính. Khi nào chúng ta mỏi thì ngồi xuống nghỉ ngơi. Giờ giấc ngủ nghỉ cố giảm thiểu tới mức tối đa, bởi vì ngủ là hôn trầm. Người nào ngủ nhiều, chứng tỏ người đó còn nhiều hôn trầm. Hôn trầm là lạc vào vô minh, nhiều vọng tưởng, lạc vào trạo cử. Không riêng gì trong lúc niệm Phật, khi làm việc mà hôn trầm, hoặc trạo cử đều bị chướng ngại. Trong nhà Phật gọi hai thứ chướng ngại này là : Hôn trầm và trạo cử.
Trạo cử là tâm xao xuyến, không định, bị nhiều vọng tưởng chi phối. Hôn trầm là u mê, không sáng suốt, ngủ gục.
Bình thường, ta không thấy có vọng niệm, nhưng khi ngồi yên xuống, vọng niệm mới nổi lên rất nhiều. Có người cho là do niệm Phật mà có. Thưa quý vị, không phải như thế ! Không phải do niệm Phật mà sanh nhiều vọng niệm đâu ! Thực tế trong lúc bình thường, chúng ta đã có rất nhiều vọng niệm rồi, nhưng chúng ta không để ý đó thôi. Khi ngồi yên lặng xuống niệm Phật, muốn thu nhiếp tâm lại, mới phát giác rõ ràng như thế. Với loại chướng ngại này, Phật đã chỉ cho chúng ta hai phương pháp đối trị :
-Thứ nhất là dùng phương pháp chỉ tịnh để đối trị vọng tưởng, nghĩa là trụ ở một chỗ, hoặc trụ nơi danh hiệu Phật, hay niệm ở trong tâm cũng được, nếu không niệm thành tiếng. Cũng có thể nghe người khác niệm, chỉ cần dụng tâm chuyên nhất, vọng niệm tự nhiên tan biến. Tuyệt đối không nên tạo tác thêm vọng niệm, nghĩa là đừng nên có ý nghĩ miễn cưởng dập tắt vọng tưởng, nếu không sẽ có vọng tưởng tan theo vọng tưởng. Do đó dù có tưởng nhiều bao nhiêu cũng mặc kệ, đừng để ý đến làm gì. Hãy dồn hết tinh thần ý chí, tập trung vào câu danh hiệu Phật, hoặc tập trung vào quán tưởng, quán tượng. Quán tưởng điều gì đây ? Tưởng hình Phật. Hai mắt nhắm lại nghĩ đến hình ảnh của Phật, đến tướng hảo của Phật. Tóm lại cần phải tập trung tinh thần, ý chí mới có thể điều phục được vọng tưởng. Hầu hết tất cả các nguyên tắc dụng công vào nhằm một đích tiêu trừ vọng tưởng, hôn trầm, tạp niệm. để hồi phục lại bản tánh giác ngộ của mình. Nói chung, trong nhà Phật bất luận sự dụng công nào đều hy vọng đạt được 3 mục đích này.
-Phương pháp thứ hai là đối trị hôn trầm. Nếu trong lúc ngồi niệm Phật bị hôn trầm, tốt hơn hết hãy đứng lên lạy Phật. Lạy Phật và kinh hành niệm Phật là phương pháp đối trị hôn trầm rất có hiệu quả. Lạy Phật làm cho tinh thần tỉnh thức. Trong lúc lạy Phật, điểm đặc biệt cần lưu ý là lạy Phật để sám hối, bởi vì nghiệp chướng, tập khí của chúng ta rất là nặng nề. Cho nên trong niệm Phật đường, nhất là người sơ học nên mỗi ngày đạt tiêu chuẩn trên 300 lạy là rất tốt, rất có lợi.
Chúng ta thường nghe trong đại thừa kinh điển nói rằng : « Tu hành trong thời mạt pháp, niệm Phật là pháp môn thù thắng nhứt » . Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bày nói 8 vạn 4 ngàn pháp môn, nói vô lượng pháp môn, đó không phải là bổn ý của ngài, chỉ vì ứng cơ thuyết pháp để dẫn độ chúng sanh mà thôi !

Phần 7 : Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc

Trong Vãng Sanh Truyện chúng ta thấy có rất nhiều người công phu niệm Phật được vãng sanh tự tại, biết trước giờ giấc ra đi, không một chút bịnh hoạn, gương mặt lại tươi đẹp hơn bình thường. Nhiều người không hiểu lại cho rằng niệm Phật mới ba năm là vãng sanh, là phải chết. Ai da ! Tôi sợ lắm ! Thôi ! thôi đừng bảo tôi niệm Phật nữa ! Những người có ý nghĩ như vậy, vì họ không hiểu được ý nghĩa giá trị cao đẹp của sự vãng sanh, nên mới bị những suy nghĩ tham sống sợ chết, luyến tiếc trần cảnh, phải chịu trôi lăn mải trong lục đạo luân hồi.
Pháp môn niệm Phật không có sanh tử. vãng sanh không phải là chết. Vãng sanh là sống mà ra đi, còn chết là không thể vãng sanh, cho nên pháp môn này còn được gọi là pháp môn không sanh không diệt. Bởi vì trong lúc vãng sanh, quý vị sẽ tỉnh táo và thấy Phật tới rước, rồi theo Phật ra đi, lúc đó cái xác tạm bợ của thế gian này không còn dùng nữa. Sau khi lên đến cõi Tây phương Cực Lạc, quý vị sẽ được thân tướng trang nghiêm đẹp đẽ y như đức Phật A Di Đà. Như vậy là tuyệt đối không phải là chết, cho nên tôi thường nói với quý vị rằng pháp môn này là pháp môn không già, không bịnh, không chết. Quý vị hãy yên tâm dừng bước, lắng lòng, nhất hướng mà chuyên niệm. Tôi nói đây là sự thật, chẳng phải dối gạt quý vị để làm gì. Chỉ cần quý vị chuyên tâm niệm Phật, tới lúc tâm được thanh tịnh, thì tất cả chuyện khổ đều không còn nữa. Gương mặt lúc nào cũng tự tại vui tươi. Vì vui tươi nên không già.
Người xưa có câu : « Ưu tư khiến cho người mau già » . Lo buồn khiến quý vị rất dễ lão hoá. Hiện giờ chúng ta còn đang mang cái nghiệp báo thân này, sống chết không một chút tự do. Những lúc khổ quá mà thọ mạng chưa hết, muốn chết mà vẫn phải sống ; đến khi có phước báo nhiều rồi muốn sống thêm vài năm hưởng thụ, nhưng thọ mạng đã dứt, chừng đó muốn sống thêm vẫn phải chết. Do đó khi quý vị phát tâm niệm Phật, hoặc vào niệm Phật đường niệm Phật, thân tâm thế giới vạn duyên bên ngoài, tất cả đều buông xả hết, chỉ cần câu hồng danh A Di Đà Phật, với niềm vui đạo hạnh tràn ngập trong lòng, đó gọi là pháp hỷ sung mãn.
Sự chuyên cần tu tập đến lúc công phu thành khối, quý vị sẽ không bị ràng buộc bởi cái khổ, cái bệnh, già và chết, chừng đó sanh tử tự tại, muốn ra đi lúc nào tuỳ ý, muốn ở lại thế gian sống thêm vài ba năm nữa cũng được, lúc này cái sống của quý vị hoàn toàn mang ý nghĩa cao đẹp, và tự biết mình sẽ phải làm những điều gì.
Người đạt tới mức sanh tử tự tại là người hội đủ phước báo lên thế giới Tây phương để hưởng thụ, nhưng họ không ra đi mà tình nguyện ở lại vì xét thấy còn rất nhiều người có duyên với mình, mình phải giúp đỡ họ, phải độ cho họ, hy vọng có thể dẫn dắt thêm nhiều người cùng nhau về Tây phương.
Lý do sống chính đúng là như thế. Tuyệt đối không phải vì tham sống sợ chết, hay sống để hưởng thụ ở thế gian này. Thật ra sự hưởng thụ trên thế gian này làm sao sánh bằng thế giới Cực Lạc ở Tây phương. Cái mà chúng ta cho là đẹp và sang trọng nhất, đối với ngươi ở Tây phương Cực Lạc, họ thật không màng đến, bởi vì nhà cửa của họ là thất bảo, cung điện. Sàn nhà toàn bằng lưu ly, cẩm thạch, đường đi trải bằng vàng, thức ăn chỉ cần nghĩ đến liền hiện ra, đồ đạc mọi thứ đều do tâm nghĩ tưởng mà mà hiện hình, do tập khí ở thế gian nên có lúc khởi niệm ăn uống, đến khi giác ngộ lại, thức ăn liền biến mất. Cho nên nhà cửa ở cõi Tây phương Cực Lạc trống không, sạch sẽ vô cùng, và không cần có nhà bếp. Quý vị thấy cuộc sống như vậy có sung sướng tự tại hay không ?
Còn chúng ta đây, đồ đạc chất chứa đầy nhà, muốn dọn dẹp cho gọn gàng sạch sẽ cũng phải mất nhiều thì giờ và phiền phức vô cùng. Cho nên người niệm Phật đến khi công phu thành tựu rồi, nếu xét mình không đủ duyên hoá độ chúng sanh ở thế gian nầy, họ đều mong sớm lên Tây phương Cực Lạc để hưởng phước. Sau khi lên đến thế giới Cực Lạc rồi, mỗi ngày được thấy Phật, được cúng dường mười vạn ức chư Phật. Trong kinh A Di Đà Phật nói mười vạn ức Phật, thực tế quý vị có thể cúng dường vô lượng hằng hà sa số Phật. Sở dĩ Ngài nói như vậy vì Phật rất từ bi, Ngài biết sự tỉnh thức của chúng sanh còn rất hạn chế, lên đó rồi mà đôi lúc còn khởi tâm nghĩ nhớ về ngôi nhà cũ và những người thân ở thế gian, do đó Ngài mới phương tiện nói cúng dường con số ít hơn thật tế như vậy, và bảo chúng ta có thể trở lại thăm thế gian bất cứ lúc nào đều có thể được.
Thế giới Tây phương Cực Lạc trang nghiêm đẹp đẽ, đi đến đâu cũng có những thành tựu tốt đẹp như thế, vì sao chúng ta không tranh thủ đi sớm ? Một pháp môn có thể thành tựu dễ dàng như vậy, đối với các Bồ Tát thành tựu ở những pháp môn khác không nhập vào cảnh giới này đều cho là một pháp môn khó tin, khó hiểu. Cũng như chúng ta nói với mọi người rằng : ỡ Niệm Phật đường là nơi rất tốt, rất thù thắng để tu tập ữ. Họ nghe qua dễ gì tin ngay, nhưng sau vài ngày đến đây niệm Phật rồi họ mới chịu tin. Một việc nhỏ như vậy ở thế gian này, mà người đời còn không hiểu, không tin được, còn nói làm chi đến cảnh giới thù thắng viên mãn ở Tây phương Cực Lạc xa xôi.
Từ chuyện nhỏ suy rộng đến chuyện lớn, chúng ta có thể nhận thức được phần nào để tăng trưởng thêm niềm tin và thiện căn của mình, hầu đem hết tâm nguyện của mình ra niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, chắc chắn sẽ được thành tựu.

Phần 8 : Tri Ân Báo Ân

Hôm nay có vị đồng tu đưa ra câu hỏi : « Làm cách nào để siêu độ thân bằng quyến thuộc của mình ? » Cho thấy đây là một vấn đề quan trọng, được nhiều người quan tâm đến. Những người đã chết, niềm mong mỏi tha thiết duy nhất của họ là trông nhờ vào sự giúp đỡ của con cháu. Do đó con cháu cần phải tu học Phật Pháp, theo đúng phương pháp của Phật đã dạy để tu hành, đây là cách thức giúp đỡ có hiệu quả nhất.
Nhưng trong Phật Pháp có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, mà pháp môn trì danh niệm Phật là phương pháp dễ tu và mau chóng đạt được kết quả nhất. Nếu chúng ta thật sự phát tâm muốn cứu thân bằng quyến thuộc vĩnh viễn xa lìa ác đạo, thì chúng ta phải mạnh dạn bước vào niệm Phật đường, chân thật niệm Phật, đồng thời phải có tâm kiên cố.
Trong cuộc sống dầu có nhiều bận rộn, một tuần chúng ta phải đến niệm Phật đường một ngày. Niệm Phật vì ai ? Vì giúp đỡ thân bằng quyến thuộc hiện kiếp, cũng như thân nhân nhiều đời kiếp đã qua. Công đức này thật to lớn vô cùng. Hiện nay trong niệm Phật đường của chúng ta, mỗi tuần niệm Phật một lần 24 giờ. Một ngày như vậy, chúng ta hãy buông xả thân tâm vạn duyên thế giới bên ngoài, dùng tấm lòng chân thành thanh tịnh từ bi, đồng thời với tâm niệm báo ân để đến niệm Phật. Được như thế, việc niệm Phật của chúng ta mới mong kết quả tốt, và nhất là đối với ông bà, tổ tiên, cha mẹ đã quá cố của chúng ta sẽ được vô cùng lợi lạc, và công đức của chúng ta cũng thật là to lớn. Trong đây có người thắc mắc : « Làm sao biết được thân bằng quyến thuộc lúc nào thoát khỏi ác đạo ? » . - Xin thưa rằng : Ngay lúc quý vị phát tâm chân thành niệm Phật, họ lập tức thoát khỏi ác đạo. Bởi vì việc làm của quý vị chân thật không giả dối, thì liền được cảm ứng, chứ không phải chờ đến khi quý vị niệm Phật đến lúc công phu của quý vị thành khối họ mới được siêu thoát. Tuy nhiên nếu công phu của quý vị thành khối, nghĩa là tâm không xen tạp, không gián đoạn, có thể gọi là chứng tiểu quả, thì phước báo của họ sẽ được sanh lên thượng thiên đạo, tức là trời, người, a tu la.
Trường hợp công phu niệm Phật của quý vị không ngừng nâng cao, thì thân bằng quyến thuộc của quý vị sẽ không bao giờ trở lại ác đạo. Đến đây quý vị đủ hiểu rõ hai mặt lý và sự của công đức niệm Phật, rồi từ đây quý vị sẽ tự biết mình nên làm thế nào.
Khi phát tâm đền công ơn sâu dày đối với cửu huyền thất tổ, thân bằng quyến thuộc, thì pháp môn niệm Phật là điều rất tốt, tuy nhiên nếu không có ngoại duyên hỗ trợ, và vì nghiệp chướng tập khí của mình, thì công phu không được đắc lực. Một niệm Phật đường chân chính là một tăng thượng duyên giúp chúng ta tu hành. Duyên này rất thù thắng. Hôm qua có một vị đồng tu người Mỹ đến nói với tôi rằng : « Tôi vào niệm Phật đường thấy chung quanh đều có hình Phật, tôi có cảm giác như chính mình cũng là Phật » . Cảm giác này thật không sai. Điểm thù thắng khác nữa là ở niệm Phật đường là được mỗi ngày nghe giảng kinh thuyết pháp. Sau khi nghe và hiểu được nghĩa lý trong kinh, rồi siêng năng tu hành, đây gọi là giải hành tương ưng. Nếu một niệm Phật đường hằng ngày không được giảng kinh thuyết pháp, người niệm Phật không thể nào giải hành tương ưng được thì đa số dễ lạc vào hình thức niệm Phật. Như vậy hiệu quả sẽ khác nhau lắm.
Hiện nay có một số đạo tràng ở những nơi khác đến tham dự ỡ Phật Thất ữ và áp dụng phương thức niệm Phật ở đây vào đạo tràng của họ, thật là quý hoá vô cùng. Tôi hy vọng mỗi đạo tràng ở những nơi khác đều có thể xây niệm Phật đường, hầu giúp mọi người cùng nhau niệm Phật. Tuy nhiên một nhân tố cần thiết không thể thiếu, đó là phải hiểu rõ lý lẽ. Muốn hiểu rõ lý phải có người giảng kinh thuyết pháp không gián đoạn. Nếu quý vị không tìm được người giảng pháp, có thể đến đạo tràng của chúng tôi lấy băng về nghe. Mỗi ngày nên mở băng nghe hai giờ đồng hồ, như vậy niệm Phật đường của quý vị đối với chúng tôi không có sai khác. Công phu niệm Phật của chúng ta một khi đã thành khối, không những thân bằng quyến thuộc của kiếp này, thậm chí đến nhiều đời nhiều kiếp trước của chúng ta mà chúng ta không biết hoặc không thể nhớ, họ vẫn được siêu độ.
Nghĩ đến việc này, nếu chúng ta không siêng năng nỗ lực tu hành, chúng ta thật có lỗi với ông bà tổ tiên, thân bằng quyến thuộc vậy.
Do đó khi vào niệm Phật đường, chúng ta phải mang tâm tri ân báo ân để niệm Phật. Chính cái tâm này là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta tinh tấn không ngừng. Hôm nay những chúng sanh này vẫn còn kẹt trong ác đạo, không có khả năng giải thoát, nên họ hoàn toàn trông cậy ở chúng ta. Những người hiểu Phật Pháp, hiểu giáo lý chân thật nên giáo phụng hành. Không những giúp họ ra khỏi cảnh khổ, mà mọi tai kiếp hiện nay trên thế giới đều có thể hoá giải, có thể đạt đến chỗ quốc thới dân an như lời Phật nói. Cho nên, niệm Phật không phải chỉ vì mình mà thôi, mà còn vì thân bằng quyến thuộc, và vì tất cả chúng sanh.

Phần 9 : Giữ chánh niệm phục ma vương

Đa số chúng ta đều biết Phật có tướng hảo quang minh ; ma cũng có tướng hảo quang minh. Phước báo của Phật vô cùng to lớn ; phước báo của ma cũng không kém. Phật có hào quang kim sắc ; ma cũng có hào quang kim sắc. Tuy nhiên hào quang của Phật nhu hoà, khiến cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc đến có cảm giác nhẹ nhàng tươi mát, an ổn, vui vẻ, tự tại. Ma cũng có hào quang kim sắc, nhưng với ánh sáng chói lọi của ma, con người sẽ thấy sợ hãi không yên.
Tóm lại hào quang của ma so sánh với hào quang của Phật không có khác về hình tướng, chỉ có khác ở chỗ, sau khi con người tiếp xúc rồi, có những cảm giác hoàn toàn trái ngược nhau. Làm thế nào để tránh khỏi ánh sáng của ma, không bị ma làm tổn hại ?
Điều này hết sức quan trọng, chúng ta không thể không hiểu rõ. Phương pháp hữu hiệu nhất để đối phó là : Chúng ta phải luôn luôn giữ chánh niệm. Khi giữ được chánh niệm, chẳng những Ma không làm tổn hại được ; ngược lại sanh lòng tôn kính và hộ pháp.
Khi xưa đức Phật Mâu Ni khéo thị hiện tám tướng thành đạo, ma Ba Tuần đến và dùng mọi thủ đoạn uy hiếp cản trở, Đức Thế Tôn chánh niệm phân minh, như như bất động, sau cùng ma không còn cách nào để phá hại nữa, nên sanh lòng tôn kính bái phục, nguyện làm hộ pháp cho Ngài. Do đó tâm niệm của chúng ta cần phải tương ứng với Giới, Định, Huệ, ba môn học. Đây là phương thức quan trọng nhất để đối trị với sức cản trở lay động của Ma. Những người nào dễ bị ma làm tổn thương nhất ?
Xã hội ngày nay, những người tu học Phật Pháp, đặc biệt là giới thanh niên bị ma nhập rất nhiều. Những ai thích có thần thông cảm ứng đều dễ bị kết duyên với ma. Ma sẽ lợi dụng nhược điểm đó của quý vị, mà đến lay động quấy phá. Cho nên người tu học Phật Pháp trong thời đại này, cần phải có cảnh giác cao độ : Khi niệm Phật phải giữ tâm cho chân thật. Không nên mong cầu cảm ứng.
Trong kinh điển Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta ngoan ngoản làm theo. Điều gì Phật dạy chúng ta không nên làm, chúng ta quyết định không làm. Phật dạy chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, thì chúng ta cầu sanh Tịnh độ. Phật dạy chúng ta liễu sanh thoát tử, thoát khỏi luân hồi, chúng ta tuyệt đối không luyến tiếcvớilụcđạo.Thuậntheo lời chỉ dạy của Phật, ma sẽ không làm gì được chúng ta. Giới trẻ ngày nay đa số muốn có thần thông, muốn có cảm ứng, nhưng đâu ngờ đã tự mình làm hư hoại đến tương lai tốt đẹp của chính mình. Thật là điều đáng tiếc vô cùng !
Quý vị nên hết sức thận trọng, nhất là phải có sự cảnh tỉnh đối với con cháu, bà con quyến thuộc, bởi vì trong lúc quý vị khởi tâm mong cầu thần thông cảm ứng, Ma liền có dịp giả hình dáng Bồ Tát, giả Phật A Di Đà để mê hoặc và lừa gạt dắt quý vị đi theo. Nhiều vị đồng tu lo rằng : Lỡ khi lâm chung Ma giả Phật A Di Đà đến rước thì sao ? Nếu chúng ta không phân biệt được giữa Ma với Phật, thì công phu niệm Phật nỗ lực tu hành bấy lâu sẽ chẳng còn gì !
Đối với điều này, xin quý vị hãy yên tâm. Ma tuy lường gạt người, nhưng nhất quyết chúng không thể giả dạng Bổn Tôn, tức Phật A Di Đà. Bởi vì Phật có thần hộ pháp. Khi chúng ta phát tâm chân thật niệm Phật đều được các vị thần hộ pháp bảo hộ cho chúng ta. Thần hộ pháp nhất quyết không dung thứ cho các loài yêu, ma quái giả dạng Bổn Tôn. Nếu chúng dám giả mạo sẽ bị tội nặng. Ngược lại, nếu chúng giả dạng các vị Phật khác đến gạt quý vị, chúng không phạm tội. Cho nên quý vị niệm Phật A Di Đà, đến lúc lâm chung nhất định phải chờ Phật A Di Đà đến tiếp dẫn. Nếu thấy Phật Thích Ca, Phật Dược Sư đến rước, đó đều là ma giả dạng lường gạt. Trong tình trạng như vậy, quý vị phải tập trung tinh thần hướng niệm hồng danh A Di Đà Phật, và mặc nhiên không thèm để ý đến, tức thời những hình ảnh đó sẽ tự biến mất.
Những kiến thức này hết sức quan trọng, quý vị nên lưy ý. Người niệm Phật thỉnh thoảng mơ thấy Phật A Di Đà, như vậy là công phu niệm Phật được cảm ứng. Nếu thường xuyên thấy Phật thì không đúng, đó là công phu có vấn đề. Nhiều người hỏi : « Trong lúc niệm Phật tôi thường nghe, thấy Phật A Di Đà, nay niệm Phật đã nhiều năm rồi lại không hề thấy, như vậy có phải tôi bị thối chuyển so với lúc ban đầu hay không ? » Trả lời : Cũng có thể thối chuyển nếu không bị thối chuyển cũng không nên thường xuyên mơ thấy. Thường xuyên mơ thấy là ma cảnh. Cho dù quả thật mơ thấy Phật cảnh hiện ra, cũng không nên sanh tâm chấp trước, sanh tâm tham và vui mừng. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có chỗ chỉ dạy cho chúng ta một phương pháp đối phó với ma cảnh như sau : Khi gặp cảnh giới hiện ra phải giữ tâm không để ý đến, không tìm hiểu sâu vào. Vì sao ? Bởi vì khi ma hiện ra, có nghĩa là công phu của quý vị đã đạt tới mức khả quan. Nếu không, ma chẳng thèm tới để làm gì ! Mục đích của chúng đến là để chướng ngại phá, cho chúng ta tan mất công phu tu tập và đạo tâm của quý vị. Cho nên ý nghĩa hồng danh A Di Đà Phật giúp chúng ta giữ tâm như như bất động trước ma cảnh. Ma cảnh là rất quan trọng mật thiết với công phu tu tập của chúng ta.

Phần 10 : Phát tâm bồ đề

Nếu chúng ta muốn ngay trong một kiếp này thật sự thành tự được công phu niệm Phật, thì lúc sử thế tiếp xúc với người và vật, cái tâm duy nhứt mà chúng ta cần phải có đó là chân tâm.
Khi bị người khác lừa dối hiếp đáp, chúng ta phải nghĩ như vầy : Đó là chuyện của họ, không dính dáng gì tới tôi cả. Việc của tôi là phải dùng tâm chân thật để đối xử lại. Vì sao ? Bởi vì tôi quyết định trong một kiếp này cầu vãng sanh Tịnh độ. Làm thế nào để cầu sanh Tịnh độ ? Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ : « Phát bồ đề tâm nhất hướng niệm Phật ». Nếu chúng ta không phát bồ đề tâm, chỉ nương vào nhất hướng chuyên niệm, kết quả không vãng sanh. Điều này chúng ta nên thận trọng.
Ngài Lý Bỉnh Nam nói : « Một vạn người niệm Phật, thật sự vãng sanh chỉ có vài, ba người ». Vì sao số người vãng sanh quá ít như vậy ? Vì không phát tâm bồ đề, nên tâm không thanh tịnh. Bởi tâm không thanh tịnh nên còn thị phi, nhân ngã, tham, sân, si, mạn, nghi. Những thứ này không tương ứng với thế giới Cực Lạc một chút nào. Tây phương Cực Lạc là nơi tụ hội của chư thượng thiện nhân, tức là chỗ của những người thiện lành bậc nhất. Cho dù chúng ta niệm Phật rất siêng năng đến đâu, hoặc một ngày có thể niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của chúng ta không thiện, làm sao có thể lên Tây phương ở cùng chỗ của các bậc thượng thiện nhân ?
Do đó phát bồ đề tâm quan trọng hơn cả việc nhất tâm chuyên niệm là như vậy. Người thật sự phát bồ đề tâm, khi lâm chung một niệm hoặc mười (10) niệm, quyết định sẽ được vãng sanh. Vì sao ? Vì họ đã là thượng thiện nhân rồi, đầy đủ phước đức rồi, chỉ cần chợt khởi tâm muốn vãng sanh là được ngay.
Cho nên những lời nói trong kinh điển chúng ta phải hiểu lý, suy nghĩ kỹ lưỡng, tuyệt đối không nên tụng niệm một cách hàm hồ.
Đoạn văn trên, chúng ta nói đến chân tâm. Chân tâm là thể của bồ đề tâm. Kế tiếp nói đến thâm tín là dụng của bồ đề tâm. Tự dụng đối với chính mình là luôn giữ tâm hiền thiện hiếu đức, tức là thích làm điều thiện. Đối với chúng sanh thì đại từ đại bi, nhân từ hiền thiện. Hiếu đức là việc làm không thể miễn cưỡng, hoặc làm cho có hình thức bên ngoài, mà nó phải lưu xuất một cách tự nhiên từ bên trong. Cho nên người phát tâm bồ đề, mỗi khi khởi tâm động niệm đều nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sanh. Nghĩ đến việc giúp đỡ phá mê khai ngộ, thoát khỏi cảnh khổ, được an vui, không hề có một niệm nghĩ đến lợi ích cho cá nhân mình, Nếu còn một niệm ích kỷ tự lợi là còn ngã chấp nặng nề. Ngã chấp là gốc rễ của lục đạo luân hồi. Không bứng sạch gốc rễ này thì không cách nào ra khỏi lục đạo. Cho nên ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải buông xả. Phải nghĩ tới người khác, nghĩ tới chúng sanh, đến những người đang đau khổ, đang gặp nạn trên thế giới. Tuyệt đối không nên nghĩ đến chuyện lợi ích cho riêng cá nhân mình nữa.
Trong suốt thời gian thuyết pháp đã qua, tôi nhiều lần nhắc quý vị phải phát bồ đề tâm. Trong kinh điển, đức Thế Tôn cũng từng lập đi lập lại không biết bao nhiều ngàn lần, vì sao Thế Tôn không ngừng lập lại như vậy ? Bởi vì chúng sanh vẫn còn chưa thức tỉnh, vẫn còn u mê, cho nên Thế Tôn vẫn phải lập đi lập lại một cách không mệt mỏi để kêu gọi, thức tỉnh chúng ta. Một khi chúng ta phát khởi bồ đề tâm liền được chư Phật hộ trì, vì tâm của chư Phật là tâm bồ đề. Tóm lại, như vậy tâm của chúng ta, cùng tâm chư Phật, không hề khác nhau, và mục đích duy nhất của Ngài là mong chúng ta một đời có thể thành Phật.
Hôm nay thì giờ đã hết, tôi xin giảng đến đây.
A Di Đà Phật.
Pháp Sư Tịnh Không
 (Nguồn: daitangkinhvietnam.org)






0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites