Cầu mong tất cả chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc...
(trong cuốn Tâm Từ – Tỳ Khưu Hộ
Pháp)
Theo bộ Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga)
Phương pháp niệm rải tâm từ đơn giản:
– Niệm rải tâm từ cho chính mình:
“Ahaṃ sukhito homi niddukkho”.
(Tôi cầu mong được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Tôi cầu mong được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
– Niệm rải tâm từ đến thân mẫu của mình còn sống cách đơn giản như sau:
“Mātā me sukhī hotu niddukkhā”.
(Cầu mong thân mẫu của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Cầu mong thân mẫu của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
– Niệm rải tâm từ đến thân phụ của mình còn sống cách đơn giản như sau:
“Pitā me sukhī hotu niddukkho”.
(Cầu mong thân phụ của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Cầu mong thân phụ của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
– Niệm rải tâm từ đến thầy tổ của mình còn sống cách đơn giản như sau:
“Ācariyo me sukhī hotu niddukkho”.
(Cầu mong bậc thầy tổ của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Cầu mong bậc thầy tổ của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
– Niệm rải tâm từ đến những bạn bè của mình còn sống cách đơn giản như sau:
“Mittā no sukhī hontu niddukkhā”.
(Cầu mong những bạn bè của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Cầu mong những bạn bè của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
– Niệm rải tâm từ đến những bà con thân quyến của mình còn sống cách đơn giản như sau:
“Ñātayo no sukhī hontu niddukkhā”.
(Cầu mong những bà con thân quyến của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Cầu mong những bà con thân quyến của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
– Niệm rải tâm từ đến dân tộc Việt Nam cách đơn giản như sau:
“Vietnamraṭṭhikā no sukhī hontu niddukkhā”.
(Cầu mong dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Cầu mong dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
– Niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh cách đơn giản như sau:
“Sabbe sattā sukhitā hontu niddukkhā”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
(Cầu mong tất cả chúng sinh được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm).
Những
phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến từng hạng người theo tuần tự
trước sau này, không thể dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới,
nhưng theo phương pháp này, làm cho hành giả phát sanh tâm từ khiến thân
và tâm được an lạc; và mỗi hạng người làm đối tượng của tâm từ cũng cảm
thấy thân và tâm mát mẻ dễ chịu, thương yêu, quý mến đến hành giả một
cách đặc biệt và tự nhiên, bởi do năng lực tâm từ của hành giả.
Hành
giả tiến hành niệm rải tâm từ đến từng hạng người với thiện tâm hợp tâm
từ, cầu mong mỗi hạng người đều được an lạc, không oan trái lẫn nhau,
không khổ thân, khổ tâm, cầu mong họ giữ gìn thân tâm thường được an
lạc.
Tâm Từ chứng đắc các bậc thiền sắc giới
Hành
giả tiến hành đề mục thiền định niệm rải tâm từ đến từng hạng người,
bắt đầu niệm rải tâm từ cho chính mình, rồi tuần tự niệm rải tâm từ đến
người thương yêu, người thương yêu nhiều, người không thương không ghét
và đến giai đoạn cuối cùng là niệm rải tâm từ đến hạng người thù địch,
tâm từ phát sanh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc
trong từng mỗi đối tượng không còn trở ngại nữa. Khi ấy tâm từ của hành
giả đạt đến mức cao, gọi là sīmasambheda: nghĩa là phá tan
được ranh giới tâm từ; để cho tâm từ đồng đều cả mình lẫn mọi hạng người
hạng người, không còn phân biệt gọi là samacittatā: nghĩa là
tâm từ đối với chính mình như thế nào, thì tâm từ đối với các hạng người
khác, thậm chí đối với hạng người thù địch cũng như thế ấy, đồng đều
nhau cả thảy.
Ví dụ: Hành
giả đang tiến hành niệm rải tâm từ cùng ngồi chung với 4 hạng người:
hạng người thương yêu, hạng người thương yêu nhiều, hạng người không
thương, không ghét và hạng người thù địch. Nếu có một kẻ sát nhân đến
bảo với hành giả rằng:
– Ta cần một người trong 5 người này; vậy nhà ngươi chỉ cho ta bắt người nào?
– Ông cần bắt một người để làm gì? – Hành giả hỏi.
– Ta cần bắt một người để giết, rồi lấy máu tế thần linh của ta.
Khi
gặp trường hợp như vậy, nếu hành giả còn có tâm thiên vị, chỉ cho tên
sát nhân bắt người thù địch với mình hoặc người không thương không ghét
hoặc người thương yêu hoặc người thương yêu nhiều, thì hành giả chưa đạt
đến sīmasambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ; hoặc dù hành giả chịu hy sinh sinh mạng của mình, để bảo vệ sinh mạng của 4 người khác, thì cũng chưa đạt đến sīmasambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ. Bởi vì tâm từ còn phân biệt giới hạn giữa những hạng người khác với chính mình.
Hành giả không thể chỉ định bắt một hạng người nào trong số 5 hạng người ấy, thì mới đạt đến sīmasambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ.
Như
vậy, tâm từ của hành giả đã có được một nền tảng vững chắc trước tiên,
và sau đó, tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh để
dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới theo khả năng của đề mục
niệm rải tâm từ.
Ðề
mục niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không ngoại trừ một
chúng sinh nào, cho nên, sau khi hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến
đối tượng tất cả các hạng người, đã phá tan được ranh giới của tâm từ (sīmasambheda), đạt đến tâm từ đồng đều giữa mình với tất cả hạng người (samacittatā), bằng
thiện tâm hợp với tâm từ hướng đến các đối tượng ấy, làm nền tảng căn
bản xong rồi, hành giả tiến hành niệm rải tâm từ theo phương pháp Parikamma: niệm
rải tâm từ bằng lời hoặc niệm thầm trong tâm, để dẫn đến sự chứng đắc
các bậc thiền sắc giới theo khả năng của đề mục niệm rải tâm từ.
-ooOoo-
ÐỀ MỤC NIỆM RẢI TÂM TỪ
Theo bộ Paṭisambhidāmagga
Theo bộ Paṭisambhidāmagga, phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh phân chia có 12 nhóm, mỗi nhóm có 4 điều (averā hontu, v.v…) trong 10 phương hướng, tổng cộng gồm có tất cả 528 điều niệm rải tâm từ được trình bày như sau:
Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ theo 3 phương pháp:
– Niệm rải tâm từ đến chúng sinh cách tổng quát (anodhiso).
– Niệm rải tâm từ đến chúng sinh cách riêng biệt (odhiso).
– Niệm rải tâm từ đến chúng sinh ở các phương hướng (disā).
1- Chúng sinh cách tổng quát như thế nào?
Chúng sinh cách tổng quát có 5 hạng:
1.1- Sabbe sattā: Tất cả chúng sinh.
1.2- Sabbe paṇā: Tất cả chúng sinh có sinh mạng.
1.3- Sabbe bhūtā: Tất cả chúng sinh hiện hữu.
1.4- Sabbe puggalā: Tất cả hạng chúng sinh.
1.5- Sabbe attabhāvapariyāpannā: Tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn.
Năm
hạng chúng sinh này có danh từ riêng khác nhau, song về ý nghĩa chung
thì giống nhau, bởi vì đều là tất cả chúng sinh một cách tổng quát,
không có riêng biệt về hạng chúng sinh nào.
2- Chúng sinh cách riêng biệt như thế nào?
Chúng sinh cách riêng biệt có 7 hạng:
2.1- Sabbā itthiyo: Tất cả nữ giới.
2.2- Sabbe purisā: Tất cả nam giới.
2.3- Sabbe ariyā: Tất cả bậc Thánh nhân.
2.4- Sabbe anariyā: Tất cả hạng phàm nhân.
2.5- Sabbe devā: Tất cả hàng chư thiên.
2.6- Sabbe manussā: Tất cả nhân loại.
2.7- Sabbe vinipātikā: Tất cả nhóm ngạ quỷ, atula.
3- Chúng sinh ở các phương hướng như thế nào?
Có 10 phương hướng:
3.1- Puratthimāya disāya: Hướng Ðông.
3.2- Pacchimāya disāya: Hướng Tây.
3.3- Dakkhiṇāya disāya: Hướng Nam.
3.4- Uttarāya disāya: Hướng Bắc.
3.5- Puratthimāya anudisāya: Hướng Ðông Nam.
3.6- Pacchimāya anudisāya: Hướng Tây Bắc.
3.7- Uttarāya anudisāya: Hướng Ðông Bắc.
3.8- Dakkhiṇāya anudisāya: Hướng Tây Nam.
3.9- Heṭṭhimāya disāya: Hướng dưới.
3.10- Uparimāya disāya: Hướng trên.
Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ
- Tâm từ rải đến chúng sinh cách tổng quát
Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến 5 hạng chúng sinh cách tổng quát:
Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm đến 5 hạng chúng sinh ấy như sau:
1- “Sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
2- “Sabbe pāṇā averā hontu, abyāpajā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh có sinh mạng không oan trái lẫn nhau, không có
khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
3- “Sabbe bhūtā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh hiện hữu không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả chúng sinh hiện hữu không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
4- “Sabbe puggalā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả hạng chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả hạng chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
5- “Sabbe attabhāvapariyāpannā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
Như
vậy, hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh một cách tổng
quát, không ngoại trừ chúng sinh hạng nào. Có 5 nhóm chúng sinh, mỗi
nhóm chúng sinh có 4 điều niệm rải tâm từ, tổng cộng (5×4) 20 điều niệm
rải tâm từ.
- Tâm từ rải đến chúng sinh cách riêng biệt
Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến 7 hạng chúng sinh cách riêng biệt:
Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm đến 7 hạng chúng sinh ấy như sau:
1- “Sabbā itthiyo averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nữ giới không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả nữ giới không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
2- “Sabbe purisā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nam giới không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả nam giới không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
3- “Sabbe ariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả bậc Thánh nhân không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả bậc Thánh nhân không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
4- “Sabbe anariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả hạng phàm nhân không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả hạng phàm nhân không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
5- “Sabbe devā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả hàng chư thiên không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả hàng chư thiên không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
6- “Sabbe manussā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nhân loại không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả nhân loại không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
7-“Sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nhóm ngạ quỷ, atula không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả nhóm ngạ quỷ, atula không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
Như
vậy hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh cách riêng biệt
từng mỗi nhóm chúng sinh, mà không phân biệt chúng sinh thuộc hạng nào.
Có 7 nhóm chúng sinh, mỗi nhóm chúng sinh có 4 điều niệm rải tâm từ,
tổng cộng (7×4) 28 điều niệm rải tâm từ.
- Tâm từ rải đến chúng sinh ở các phương hướng
Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh ở các phương hướng:
Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm đến chúng sinh ở trong 10 phương hướng như sau:
1- “Puratthimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh ở trong hướng Ðông không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả chúng sinh ở trong hướng Ðông không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
Tương tự như trên:
“Puratthimāya
disāya, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe
attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…,
sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā
hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
2- “Pacchimāya
disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe
attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…,
sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā
hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng
sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc
thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh
nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân
loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Tây không oan trái lẫn
nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường
được an lạc).
3- “Dakkhiṇāya
disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe
attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…,
sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā
hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng
sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc
thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh
nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân
loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Nam không oan trái lẫn
nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường
được an lạc).
4- “Uttarāya
disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe
attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…,
sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā
hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng
sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc
thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh
nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân
loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Bắc không oan trái lẫn
nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường
được an lạc).
5- “Puratthimāya
anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…,
sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe
ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā
averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông Nam không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông Nam không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
6- “Pacchimāya
anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…,
sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe
ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā
averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Tây Bắc không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Tây Bắc không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
7- “Uttarāya
anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…,
sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe
ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā
averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng
sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc
thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh
nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân
loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông Bắc không oan trái
lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm
thường được an lạc).
8- “Dakkhiṇāya
anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…,
sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe
ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā
averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng
sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc
thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh
nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân
loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Tây Nam không oan trái
lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm
thường được an lạc).
9- “Heṭṭhimāya
disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe
attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…,
sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā
hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng
sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc
thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh
nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân
loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng dưới không oan trái lẫn
nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường
được an lạc).
10- “Uparimāya
disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe
attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…,
sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā
hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu
mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng
sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc
thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh
nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân
loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng trên không oan trái lẫn
nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường
được an lạc).
Như
vậy hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến 12 nhóm chúng sinh ở trong
10 phương hướng, mỗi nhóm chúng sinh có 4 điều niệm rải tâm từ, tổng
cộng (10×48) 480 điều niệm rải tâm từ.
Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ theo bộ Paṭisambhidāmagga:
– Niệm rải tâm từ đến 5 nhóm chúng sinh cách tổng quát gồm có 20 điều.
– Niệm rải tâm từ đến 7 nhóm chúng sinh cách riêng biệt gồm có 28 điều.
–
Niệm rải tâm từ đến 12 nhóm chúng sinh ở trong 10 phương hướng gồm có
480 điều. Tổng cộng (20+28+480) thành 528 điều niệm rải tâm từ.
Niệm
rải tâm từ gồm có 528 điều được phát sanh lên đối với hành giả đã tiến
hành niệm rải tâm từ đến 12 nhóm chúng sinh ở trong 10 phương hướng. Như
vậy, hành giả tiến hành rải tâm từ đến mỗi nhóm chúng sinh có 4 điều (averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu).
Tâm từ rải đặc biệt
Tâm từ rải đến từng cá nhân hoặc đến một tập thể chỉ định hoặc đến tổng hợp đủ các loại chúng sinh:
– Tâm từ rải đến thân mẫu của mình còn sống:
“Mama mātā averā hotu, abyāpajjā hotu, anīghā hotu, sukhī attānaṃ pariharatu”.
(Cầu mong thân mẫu của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong thân mẫu của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Tâm từ rải đến thân phụ của mình còn sống:
“Mama pitā avero hotu, abyāpajjo hotu, anīgho hotu, sukhī attānaṃ pariharatu”.
(Cầu mong thân phụ của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong thân phụ của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Tâm từ rải đến phụ mẫu của mình còn sống:
“Mama mātā-pitaro averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong thân mẫu, thân phụ của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong thân mẫu, thân phụ của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Tâm từ rải đến vị thầy của mình còn sống (số ít):
“Mama ācariyo avero hotu, abyāpajjo hotu, anīgho hotu, sukhī attānaṃ pariharatu”.
(Cầu mong vị thầy của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong vị thầy của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Tâm từ rải đến các vị thầy của mình còn sống (số nhiều):
“Mama ācariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong các vị thầy của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong các vị thầy của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Tâm từ rải đến toàn thể dân tộc Việt Nam:
“Mama sabbe Vietnamraṭṭhikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả dân tộc Việt Nam thân yêu của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong tất cả dân tộc Việt Nam thân yêu của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Tâm từ rải đến tổng hợp đủ tất cả các loại chúng sinh trong 10 phương hướng:
“Puratthimāya disāya, Pacchimāya disāya,
Dakkhiṇāya disāya, Uttarāya disāya,
Puratthimāya anudisāya, Pacchimāya anudisāya, Uttarāya anudisāya, Dakkhiṇāya anudisāya, Heṭṭhimāya disāya, uparimāya disāya,
sabbe sattā, sabbe pāṇā,
sabbe bhūtā, sabbe puggalā,
sabbe attabhāvapariyāpannā,
sabbā itthiyo, sabbe purisā,
sabbe ariyā, sabbe anariyā,
sabbe devā, sabbe manussā,
sabbe vinipātikā,
Averā hontu, abyāpajjā hontu,
Anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
Dakkhiṇāya disāya, Uttarāya disāya,
Puratthimāya anudisāya, Pacchimāya anudisāya, Uttarāya anudisāya, Dakkhiṇāya anudisāya, Heṭṭhimāya disāya, uparimāya disāya,
sabbe sattā, sabbe pāṇā,
sabbe bhūtā, sabbe puggalā,
sabbe attabhāvapariyāpannā,
sabbā itthiyo, sabbe purisā,
sabbe ariyā, sabbe anariyā,
sabbe devā, sabbe manussā,
sabbe vinipātikā,
Averā hontu, abyāpajjā hontu,
Anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh có sanh mạng, tất cả chúng sinh hiện hữu,
tất cả các hạng chúng sinh,
tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn,
tất cả nữ giới, tất cả nam giới,
tất cả bậc Thánh nhân, tất cả hạng phàm nhân,
tất cả hạng chư thiên, tất cả nhân loại,
tất cả nhóm ngạ quỷ, atula,
ở trong hướng Ðông, ở trong hướng Tây,
ở trong hướng Nam, ở trong hướng Bắc,
ở trong hướng Ðông Nam, ở trong hướng Tây Bắc,
ở trong hướng Ðông Bắc, ở trong hướng Tây Nam,
ở trong hướng dưới, ở trong hướng trên,
Không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm,
Không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
Tâm
từ rải đến cá nhân nào, cá nhân ấy phải là ân nhân [5] mà mình thương
yêu kính mến nhất như: cha, mẹ, thầy tổ, v.v… Như vậy, hành giả nên xác
định phương hướng, nơi chốn, chỗ ở của người mà mình rải tâm từ.
Tâm từ rải đến tập thể chung mọi người, thì không nên phân biệt hạng người trong tập thể ấy như: dân tộc Việt Nam, v.v…
Tâm
từ rải đến tất cả mọi chúng sinh trong các hướng, trước tiên, hành giả
nên xác định phương hướng. Ví dụ: trước mặt hành giả là hướng Ðông, thì
sau lưng là hướng Tây, bên tay phải là hướng Nam, bên tay trái là hướng
Bắc, v.v… Khi hành giả rải tâm từ đến tất cả chúng sinh ở hướng nào, thì
thiện tâm hướng đến hướng ấy, và rải tâm từ đến tất cả chúng sinh ở các
hướng khác cũng vậy.
Ví dụ:
Một
người cầm cây đèn pin rọi đến hướng nào, ánh sáng toả rộng khoảng không
gian hướng ấy, rồi quay cái đèn pin qua hướng khác, ánh sáng lại toả
rộng khoảng không gian qua hướng khác. Ánh sáng của cây đèn pin toả rộng
khoảng không gian gần hoặc xa, nhỏ hẹp hoặc rộng lớn tuỳ theo năng
lượng của viên pin. Cũng như vậy, hành giả niệm rải tâm từ đến tất cả
chúng sinh ở các phương hướng gần hoặc xa, nhỏ hẹp hoặc rộng lớn và
chúng sinh tiếp nhận được sự an lạc, mát mẻ ít hoặc nhiều hoàn toàn tuỳ
thuộc vào năng lực tâm từ của hành giả.
Ðề mục niệm rải tâm từ này có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới, nên có đủ 3 đối tượng (nimitta)với đủ 3 cách tiến hành (bhāvanā).
Ba đối tượng với 3 cách tiến hành
3 đối tượng là:
– Parikammanimitta: Ðối tượng tiến hành ban đầu.
– Uggahanimitta: Ðối tượng thô ảnh tương tự.
– Paṭibhāganimitta: Ðối tượng quang ảnh trong sáng.
3 cách tiến hành là:
– Parikammabhāvanā: Giai đoạn tiến hành ban đầu.
– Upacārabhāvanā: Giai đoạn giữa tiến hành đạt đến cận định.
– Appanābhāvanā: Giai đoạn cuối tiến hành đạt đến an định, chứng đắc các bậc thiền sắc giới.
Ðối với đề mục rải tâm từ theo tuần tự trải qua ba giai đoạn:
1- Giai đoạn tiến hành ban đầu:
- a) Ðối tượng (nimitta):
Hành giả bắt đầu tiến hành niệm rải tâm từ cho chính mình (ahaṃ [6]) và tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ theo tuần tự từ hạng người thương yêu (piyapuggala), hạng người thương yêu nhiều (atippiyapuggala),hạng người không thương, không ghét (majjhattapuggala), và cuối cùng đến hạng người thù địch (verīpuggala), những đối tượng này gọi là parikammanimitta: đối tượng tiến hành ban đầu.
- b) Phương pháp tiến hành (bhāvanā):
– Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm rải tâm từ cho chính mình rằng:
“Ahaṃ avero homi, abyāpajjo homi, anīgho homi, sukhī attānaṃ pariharāmi,…”.
(Tôi nguyện không oan trái với mọi chúng sinh; mong tâm không có khổ não, không có thù hận; mong thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Tôi nguyện không oan trái với mọi chúng sinh; mong tâm không có khổ não, không có thù hận; mong thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Niệm rải tâm từ đến từng hạng người số ít rằng:
“… avero hotu, abyāpajjo hotu, anīgho hotu, sukhī attānaṃ pariharatu,…”.
(Cầu mong người ấy không oan trái với mọi chúng sinh; tâm không có khổ não, không có thù hận; thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong người ấy không oan trái với mọi chúng sinh; tâm không có khổ não, không có thù hận; thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
– Niệm rải tâm từ đến từng hạng người số nhiều rằng:
“… averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu,…”.
(Cầu mong những người ấy không oan trái với mọi chúng sinh; tâm không có khổ não, không có thù hận; thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
(Cầu mong những người ấy không oan trái với mọi chúng sinh; tâm không có khổ não, không có thù hận; thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).
Phương pháp tiến hành rải tâm từ niệm thầm trong tâm như vậy gọi là parikammabhāvanā: giai đoạn tiến hành ban đầu. Ðiều
quan trọng là hành giả cần phải hiểu rõ từng chữ, từng nghĩa trong câu
niệm rải tâm từ; giống như nói những điều mình hiểu và hiểu những điều
mình nói, thì tâm từ an trú trong đối tượng được.
2- Giai đoạn giữa tiến hành đạt đến cận định:
- a) Ðối tượng (nimitta):
Ðề mục niệm rải tâm từ là một đề mục thiền định mà khi hành giả tiến hành chỉ biết do nương nhờ ý môn,không nương nhờ nhãn môn để nhìn thấy đối tượng, cũng không nương nhờ thân môn để xúc giác biết đối tượng; vì vậy cho nên, uggahanimitta: đối tượng thô ảnh tương tự và paṭibhāganimitta: đối tượng quang ảnh trong sáng không phải trực tiếp, mà chỉ là gián tiếp mà thôi.
Khi
hành giả tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ đến từng hạng người (thương
yêu; thương yêu nhiều; không thương, không ghét; thù nghịch) nhưng chưa
đạt đến sīmasambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ đối với các hạng người. Những đối tượng ấy, gọi là uggahanimitta: đối tượng thô ảnh tương tự, tức là tâm từ an trú trong đối tượng riêng rẽ từng mỗi chúng sinh. Và đến khi hành giả đã đạt đến sīmisambheda để cho tâm từ đồng đều đối với các hạng người, gọi là samacittatā: có tâm từ đồng đều, thì những đối tượng ấy gọi là paṭibhāganimitta: đối tượng quang ảnh trong sáng, tâm từ an trú khắng khít trong đối tượng, không còn phân biệt các đối tượng hạng người.
- b) Phương pháp tiến hành (bhāvanā):
Hành giả tiếp tục hành niệm rải tâm từ đến đối tượng các hạng người giai đoạn giữa sau khi đối tượng thô ảnh tương tự (uggahanimitta) đã phát sanh, cho đến khi phát sanh đối tượng quang ảnh trong sáng(paṭibhāganimitta). Phương pháp hành giả đang tiến hành ở khoảng giữa của hai đối tượng ấy là đạt đến upacārabhāvanā: giai đoạn tiến hành đạt đến cận định của bậc thiền sắc giới.
3- Giai đoạn cuối tiến hành đạt đến an định:
- a) Ðối tượng (nimitta):
Hành giả tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ đến các hạng người đã phát sanh đối tượng quang ảnh trong sáng, tâm từ khắng khít trong đối tượng.
- b) Phương pháp tiến hành (bhāvanā):
Hành giả tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ đến các hạng người có đối tượng quang ảnh trong sáng, tâm từ khắng khít trong đối tượng, chứng đắc các bậc thiền sắc giới. Những bậc thiền sắc giới này gọi là appanābhāvanā: tiến hành đạt đến an định của bậc thiền sắc giới ấy.
Bốn bậc thiền sắc giới
Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới đến đệ tứ thiền sắc giới.
Thiền sắc giới có 5 chi thiền, là những pháp có khả năng đè nén, chế ngự được 5 pháp chướng ngại.
Năm chi thiền của thiền sắc giới (jhānaṅga):
1- Vitakka: Tâm sở hướng tâm, làm phận sự chi thiền hướng tâm đến đề mục thiền định duy nhất làm đối tượng.
2- Vicāra: Tâm sở quan sát, làm phận sự chi thiền quan sát đối tượng thiền định.
3- Pīti: Tâm sở hỉ, làm phận sự chi thiền phát sanh tâm hoan hỉ do an trú trong đối tượng thiền định ấy.
4- Sukha: Tâm sở thọ lạc, làm phận sự chi thiền phát sanh an lạc do an trú trong đối tượng thiền định ấy.
5- Ekaggatā: Tâm sở nhất tâm, làm phận sự chi thiền an trú vững chắc trong đối tượng ấy.
Ðó là 5 chi thiền của thiền sắc giới.
Năm pháp chướng ngại (nivāraṇa):
Hành
giả tiến hành thiền định sở dĩ không thể chứng đắc được các bậc thiền
sắc giới, là vì 5 pháp chướng ngại của pháp hành thiền định.
1- Kāmachanda: Tham dục, là tâm sở tham say mê trong ngũ dục: sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc giác êm ấm.
2- Byāpada: Sân hận, là tâm sở sân thường thù hận, bực bội khó chịu, nóng nảy trong tâm do đối tượng không hài lòng.
3- Thīna-middha: Buồn chán-buồn ngủ, là 2 tâm sở làm cho tâm thoái chí, buông bỏ đối tượng, không muốn tiến hành thiền định, chỉ muốn ngủ.
4- Uddhacca-kukkucca: Phóng tâm-hối hận, là 2 tâm sở làm cho tâm không an trú trong đối tượng thiền định:
Phóng tâm: nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác không ngớt.
Hối hận: ân hận, hối tiếc không hành việc thiện, mà làm việc ác, nên tâm cảm thấy ăn năn khó chịu
5- Vicikicchā: Hoài
nghi, là tâm sở hoài nghi, không có đức tin nơi Tam bảo, không tin
nghiệp và quả của nghiệp, và nhất là hoài nghi trong pháp hành thiền
định.
Năm chi thiền chế ngự 5 pháp chướng ngại:
Hành
giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc đến đệ nhất thiền sắc
giới, thì có khả năng chế ngự, đè nén được 5 pháp chướng ngại bằng 5 chi
thiền đồng sanh trong đệ nhất thiền sắc giới như sau:
1- Vitakka: Chi thiền tâm sở hướng tâm, có khả năng chế ngự, đè nén được thīna-middha: tâm sở buồn chán-buồn ngủ.
2- Vicāra: Chi thiền tâm sở quan sát, có khả năng chế ngự, đè nén được vicikicchā: tâm sở hoài nghi.
3- Pīti: Chi thiền tâm sở hỉ, có khả năng chế ngự, đè nén được byāpada: tâm sở sân hận.
4- Sukha: Chi thiền tâm sở thọ lạc, có khả năng chế ngự, đè nén được uddhacca-kukkucca: tâm sở phóng tâm-hối hận.
5- Ekaggatā: Chi thiền tâm sở nhất tâm, có khả năng chế ngự, đè nén được kāmachanda: tâm sở tham dục.
Bậc thiền sắc giới của đề mục niệm rải tâm từ:
Ðề
mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho
đến đệ tứ thiền sắc giới, cùng giống nhau ở đối tượng niệm rải tâm từ
đến tất cả mọi hạng chúng sinh không ngoại trừ một chúng sinh nào; nhưng
chắc chắn các bậc thiền khác nhau về chi thiền như sau:
1- Ðệ nhất thiền sắc giới có 5 chi thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự, đè nén được 5 pháp chướng ngại.
2- Ðệ nhị thiền sắc giới có 4 chi thiền, do diệt được chi thiền thô vitakka, nên còn lại 4 chi thiền vi tế:vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.
3- Ðệ tam thiền sắc giới có 3 chi thiền, do diệt được chi thiền thô vicāra, nên còn lại 3 chi thiền vi tế: pīti, sukha, ekaggatā.
4- Ðệ tứ thiền sắc giới có 2 chi thiền: do diệt được chi thiền thô pīti, nên còn lại 2 chi thiền vi tế: sukha, ekaggatā.
Ðề
mục niệm rải tâm từ chỉ có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới
cho đến đệ tứ thiền sắc giới là cao nhất, không thể chứng đắc đến đệ
ngũ thiền sắc giới, bởi vì đề mục niệm rải tâm từ này còn tuỳ thuộc vào
chi thiền thọ lạc (sukha).
Nếu muốn chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới, thì hành giả cần phải thay đổi sang đề mục thiền định niệm rải tâm xả, để tiếp tục tiến hành đến sự chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới, có 2 chi thiền do diệt được chi thiền thô thọ lạc (sukha) thay bằng chi thiền thọ xả (upekkā).
Như vậy, đệ ngũ thiền sắc giới có 2 chi thiền upekkā và ekaggatā.
Ðặc biệt, đề mục thiền định niệm rải tâm xả này,
hành giả không thể sử dụng làm đề mục thiền định tiến hành đầu tiên, mà
chỉ có thể làm đề mục thiền định tiến hành cuối cùng; nghĩa là sau khi
hành giả đã tiến hành đề mục thiền định niệm rải tâm từ hoặc niệm rải tâm bi hoặc niệm rải tâm hỉ,
đã đẫn đến sự chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến đệ tứ thiền
sắc giới là bậc thiền cao nhất của 3 đề mục thiền định ấy xong rồi, muốn
chứng đắc được đệ ngũ thiền sắc giới, hành giả chỉ có thể chuyển sang đề mục thiền định tiến hành niệm rải tâm xả mà thôi, không thể chuyển sang các đề mục thiền định khác.
Những pháp nên biết về đề mục niệm rải tâm từ:
Ðề mục niệm rải tâm từ có 8 tính chất riêng biệt như sau:
1- Lakkhaṇa: Trạng
thái. Tâm từ có trạng thái biểu hiện thân, khẩu, ý bằng hành động, lời
nói, ý nghĩ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc đến cho tất cả
chúng sinh.
2- Rasa: Phận sự. Tâm từ có phận sự làm cho tất cả chúng sinh được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc thật sự.
3- Paccuppaṭṭhāna: Sự hiện hữu. Sự hiện hữu của tâm từ làm tiêu diệt tâm sân hận.
4- Padaṭṭhāna: Nguyên
nhân gần của tâm từ. Xét thấy những điều tốt, những thiện pháp của tất
cả chúng sinh thật đáng hài lòng; hoàn toàn không quan tâm đến những
điều xấu, những ác pháp của chúng sinh, đó là nguyên nhân gần để phát
sanh tâm từ.
5- Sampatti: Sự thành tựu. Sự thành tựu của tâm từ là làm cho tâm sân hận không thể phát sanh.
6- Vippatti: Sự thất bại. Sự thất bại của tâm từ là làm cho tâm tham ái dễ phát sanh.
7- Āsannapaccatthika: Thù nghịch gần của tâm từ là tâm tham dục.
8- Dūrapaccatthika: Thù nghịch xa của tâm từ đó là tâm sân hận.
Hành
giả thường ngày tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, dù chưa chứng đắc bậc
thiền nào, thiện tâm vẫn được an lạc, tâm sân hận không phát sanh, được
phần đông chúng sinh thương yêu, quý mến, và chúng sinh nào được thân
cận gần gũi với hành giả cũng cảm thấy mát lành dễ chịu.
Nếu
hành giả chứng đắc được bậc thiền nào, thì được sự an lạc vô cùng, làm
cho tất cả chúng sinh gần xa cũng được sự an lành bởi do năng lực tâm từ
của hành giả.
-ooOoo-
[1] Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Mallikāsutta.
[2] Bộ Visuddhimagga, phần Brahmadattamavihāraniddesa, Mettābhāvanākathā.
[3] Năm quả báu của đức tính nhẫn nại:
– Người có pháp hạnh nhẫn nại là người được phần đông yêu mến, hài lòng.
– Là người không gây oan trái với người khác.
– Là người không tạo nên tội ác, tạo phước thiện.
– Là người không mê muội, có tâm sáng suốt minh mẫn lúc lâm chung.
– Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh cõi thiện giới, cõi trời….
[4] Aṅguttaranikāya, phần Ekadasakanipāta, kinh Mettāsutta, hoặc xem phần sau của quyển sách này.
[5] Chú ý: Không nên rải tâm từ đến người yêu khác phái, vì tâm từ không thể phát sanh, chỉ có tâm tham ái phát sanh mà thôi.
[6] Ahaṃ: Ta ở đây có nghĩa cả thân lẫn tâm, không phải nghĩa ta tà kiến.
0 Kommentare:
Post a Comment