“Luyện”
tâm tuyệt nhiên không có nghĩa là gượng ép ức chế nó, hay tẩy não cái tâm.
Luyện tâm là trước hết thấy được một cách trực tiếp và cụ thể, tâm thực sự
vận hành như thế nào, một hiểu biết mà ta có thể rút từ những giáo lý tâm
linh và qua kinh nghiệm của mình trong sự thực hành thiền định"...
The Tibetan Book Of Living And Dying
Sogyal Rinpoche
PHẦN MỘT: SỐNG
5. ĐƯA
TÂM VỀ NHÀ
Trên hai ngàn năm trăm năm về trước, một người
đã đi tìm chân lý trong nhiều đời kiếp, đi đến một chỗ thanh vắng miền Bắc
Ấn và ngồi dưới một bóng cây. Người ấy tiếp tục ngồi dưới cây với một tâm
cả quyết vô biên, và thề sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra chân lý. Tương
truyền vào lúc hoàng hôn, người ấy đã chiến thắng tất cả những năng lực
hắc ám của mê vọng; và bình minh hôm sau, khi ngôi sao Mai xuất hiện trên
nền trời, người ấy đã được đền bù cho lòng kiên nhẫn trường kỳ, cho kỉ
luật và sự tập trung toàn hảo của mình bằng sự chứng đắc tuệ giác, cái mục
đích tối thượng của đời người. Vào giờ phút thiêng liêng ấy, trái đất cũng
phải rùng mình như thể “say sưa trong niềm phúc lạc”, và kinh điển đã ghi
rằng “Không ai trong giờ phút ấy, ở bất cứ đâu, nổi giận, hay ốm đau,
buồn khổ, không ai làm ác, không ai kiêu căng ngã mạn; thế giới trở nên
hoàn toàn thanh tịnh, dường như thể vừa đạt tới sự toàn thiện.” Con
người ấy được biết dưới danh hiệu là Đức Phật. Thầy Nhất Hạnh đã mô tả sự
giác ngộ của Phật bằng những lời đẹp đẽ như sau:
-
Gautama cảm thấy như thể là cái ngục tù giam giữ mình cả ngàn đời, vừa mới
mở tung. Vô minh chính là người giữ ngục. Vì vô minh, tâm người đã bị che
mờ, hệt như trăng sao bị mây che trong bầu trời giông bão. Bị vây bủa bởi
nhiều làn sóng vọng tưởng bất tận, tâm ta đã cắt xén thực tại một cách sai
lầm thành ra chủ thể và đối tượng, ta và người, hữu và phi hữu, sinh và
tử, và do phân biệt khởi lên tà kiến – đó là những ngục tù của thọ, ái,
thủ và hữu. Nỗi khổ sinh già bệnh chết chỉ làm cho tường vách nhà tù dày
thêm. Điều duy nhất phải làm là tóm lấy kẻ giữ ngục mà nhìn vào mặt thật
của y. Kẻ giữ ngục chính là vô minh... Khi kẻ giữ ngục đã bỏ đi, thì nhà
tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.
Những gì
Phật thấy là, sự không biết bản tâm chính là nguồn gốc của tất cả đau khổ
trong sinh tử, và nguồn gốc của vô minh chính là khuynh hướng xao lãng của
tâm ta, cái khuynh hướng đã thành thói quen khó gỡ. Chấm dứt cái tâm lơ
đễnh ấy chính là chấm dứt sinh tử; và chìa khóa đưa đến sự chấm dứt là đưa
tâm về nhà, trở về bản tính chân thực của nó, nhờ sự thực tập thiền định.
Đức Phật
ngồi trên đất với cung cách khiêm hạ bình an, trên cao và quanh ngài là
trời đất bao la, như thể chỉ cho ta rằng trong khi thiền định, bạn nên
ngồi với một tâm thái rộng mở khoáng đạt như bầu trời, mà đồng thời vẫn
hiện diện, có nền tảng vững vàng trên mặt đất. Bầu trời là bản tính tuyệt
đối của chúng ta, vốn không có rào ngăn, không biên giới, còn mặt đất là
thực tại của chúng ta, hoàn cảnh tương đối và thường nhật của ta. Dáng
ngồi khi ta thiền định có nghĩa rằng ta đang nối cái tuyệt đối với tương
đối, trời và đất, như đôi cánh của một con chim, thể nhập cái bản tâm bất
tử như bầu trời, với cái bản chất phù du khả loại của ta như đất.
Năng
khiếu tập thiền định là năng khiếu vĩ đại nhất mà bạn có thể tự đem lại
cho mình trên cuộc đời này. Vì chỉ nhờ thiền định bạn mới có thể khởi hành
cuộc hành trình đi tìm bản chất chân thực của bạn, và nhờ vây tìm thấy
niềm tin vững chải mà bạn cần, để sống tốt đẹp và chết tốt đẹp. Thiền định
chính là con đường đưa đến tuệ giác.
LUYỆN TÂM
Có rất
nhiều cách trình bày về thiền định, và có lẽ tôi đã giảng dạy cả ngàn lần
về thiền, nhưng mỗi lần một khác, và mỗi lần nó đều trực tiếp và mới mẻ.
May thay
ta sống trong một thời đại mà tất cả mọi người trên thế giới đều quen
thuộc với thiền định. Càng ngày thiền càng được chấp nhận như một lối tập
luyện, bỏ qua và vượt trên tất cả những hàng rào văn hóa và tín ngưỡng,
giúp hành giả thiết lập một tiếp xúc thẳng với sự thật của bản thể họ. Đấy
là một luyện tập vượt ngoài giáo điều của các tôn giáo, và là tinh túy của
tôn giáo.
Thông
thường chúng ta lãng phí đời mình, lạc ra ngoài cái ngã chân thực của ta,
trong những hoạt động bất tận. Thiền trái lại, là phương pháp đưa ta trở
về chính mình, ở đấy ta có thể thực sự chứng nghiệm và thưởng thức cái bản
thể toàn vẹn của ta, vượt ngoài mọi mẫu mực thói quen. Những cuộc đời của
chúng ta được sống trong đấu tranh căng thẳng và lo âu, trong sự quay
cuồng của tốc độ và bạo động, trong cạnh tranh, bám víu, chiếm hữu, thành
công, ta mãi mãi chất đầy những hoạt động và bận rộn thuộc ngoại vi. Thiền
chính là cái ngược lại. Thiền định là làm một cuộc tuyệt giao với cái cách
ta hành động “bình thường,” vì đấy là trạng thái không lo lắng
không bận tâm, không có cạnh tranh, không có ham muốn sở hữu hay níu kéo
một thứ gì, không có sự phấn đấu quyết liệt đầy âu lo, và không có sự khao
khát đạt thành: Một trạng thái không có tham vọng không có lấy hay bỏ,
không hy vọng cũng không sợ hãi, một trạng thái trong đó ta dần khởi sự
buông bỏ mọi cảm xúc và khái niệm đã giam hãm ta để tung cánh vào bầu
không gian của tính tự nhiên đơn giản.
Những
bậc thầy về thiền định trong Phật giáo biết rõ tính dẻo dai, dễ sử dụng
của tâm là như thế nào. Nếu ta luyện được nó, thì không có gì là bất khả.
Quả thực ta đã được huấn luyện một cách thuần thục bởi sinh tử và cho sinh
tử, được luyện để nổi ghen tuông, được luyện để bám víu chấp thủ, được
luyện để lo âu, phiền muộn, thất vọng, thèm khát; được luyện để phản ứng
một cách tức giận đối với bất cứ gì khiêu khích chúng ta. Thực vậy, chúng
ta được luyện thuần thục tới mức độ mà những cảm xúc tiêu cực ấy khởi lên
một cách tự nhiên, chúng ta không cần cố gắng làm cho chúng phát sinh ra.
Bởi thế, mọi sự đều là vấn đề huấn luyện, và năng lực của thói quen. Nếu
tâm chuyên chú vào sự nghiệp vô minh thì ta sẽ thấy nó trở thành một chúa
tể của vô minh, chuyên viên nghiện ngập, tinh vi và mềm dẻo trong thói nô
lệ của nó. Nếu tâm chuyên chú vào thiền định, vào sự nghiệp tự giải thoát
ra khỏi ảo tưởng, thì ta sẽ thấy với thời gian, kiên nhẫn, kỷ luật, và
luyện đúng – tâm ra khởi sự mở gút và biết được niềm phúc lạc và trong
sáng nguyên ủy của nó.
“Luyện”
tâm tuyệt nhiên không có nghĩa là gượng ép ức chế nó, hay tẩy não cái tâm.
Luyện tâm là trước hết thấy được một cách trực tiếp và cụ thể, tâm thực sự
vận hành như thế nào, một hiểu biết mà ta có thể rút từ những giáo lý tâm
linh và qua kinh nghiệm của mình trong sự thực hành thiền định. Rồi bạn có
thể dùng sự hiểu biết ấy để thuần hóa cái tâm và làm việc với nó một cách
khéo léo, làm cho nó càng ngày nhu nhuyến, để bạn có thể trở thành chủ
nhân của chính tâm mình và sử dụng nó cho cứu cánh viên mãn và lợi lạc
nhất.
Bậc thầy
Shantideva vào thế kỷ thứ tám có nói:
- Nếu buộc chặt con voi tâm bằng sợi dây chánh niệm
Thì mọi sợ hãi tan biến, hạnh phúc toàn vẹn đến với ta
Tất cả kẻ thù: cọp, sư tử,, voi, gấu, rắn những cảm xúc;
Tất cả ngục tốt ở địa ngục; ngạ quỷ, những sự khủng khiếp
Tất cả thứ ấy đều bị trói nhờ bạn đã làm chủ được tâm.
Hàng phục một tâm ấy, thì mọi sự đều được hàng phục.
Vì do tâm mà có ra mọi sợ hãi và vô lượng khổ đau.
Cũng như
một văn sĩ sau nhiều năm dày công học hỏi mới có được cách diễn đạt tự
nhiên, hoặc như một vũ công chỉ thành đạt nhờ nỗ lực lớn và kiên nhẫn,
cũng thế khi bạn bắt đầu hiểu được thiền định sẽ đưa bạn tới đâu, thì bạn
sẽ xem nó như sự nghiệp lớn nhất của đời mình, và nó đòi hỏi ở bạn một sự
kiên trì sâu xa, lòng hăng hái, trí thông minh, và kỷ luật.
TRỌNG TÂM CỦA THIỀN ĐỊNH
Mục đích
thiền định là để làm thức dậy trong ta cái tự tính của tâm giống như bầu
trời ấy, và để cho ta thấy bản lai diện mục của ta, tính giác không thay
đổi nơi ta, cái nằm đằng sau toàn thể sự sống và chết.
Trong
cái yên lặng và im lặng của thiền, ta thoáng thấy và quay về với sự tự
tính sâu xa ấy, cái mà từ quá lâu ta đã không thấy được giữa những bận rộn
và xao lãng của tâm. Có phải lạ lùng, là tâm ta không thể ở yên lâu hơn
chốc lát mà không theo đuổi bám víu một lối xao lãng nào đó; nó bất an,
rộn ràng tới nỗi lắm lúc tôi nghĩ rằng, sống trong một đô thị tân tiến, là
ta đã giống như những linh hồn bị dày vò trong trạng thái trung gian sau
khi chết, lúc mà tâm (theo Tử thư) được mô tả là vô cùng xao xuyến. Theo
tài liệu đáng tin, thì hết mười ba phần trăm người ở Mỹ mắc phải chứng rối
loạn thần kinh. Điều ấy nói gì về cách sống của chúng ta?
Chúng ta
bị phân đoạn thành quá nhiều phương diện khác nhau. Chúng ta không biết
mình thực sự là ai, hay ta nên đồng hóa mình với phương diện nào, nên tin
tưởng cái gì. Quá nhiều tiếng nói mâu thuẫn, nhiều mệnh lệnh và cảm thức
khác nhau giành giựt quyền kiểm soát đời sống nội tâm ta, đến nỗi ta tự
thấy mình rã rời ra từng mảnh ở khắp mọi nơi, mọi hướng, không còn ai ở
nhà.
Thiền
định, như vậy, chính là đem tâm trở về nhà.
Trong
giáo lý Phật, chúng ta nói có ba việc làm nên sự khác nhau sự tu thiền của
bạn, hoặc để đem lại thoải mái bình an tạm thời, hoặc để đưa đến tự giác
giác tha. Ba việc đó gọi là “tốt ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối.”
·
Tốt ở chặng đầu bắt nguồn từ cái ý
thức rằng chúng ta và mọi hữu tình tự căn để, đều có Phật tính, tinh chất
sâu xa nhất của ta, và trực ngộ được nó thì thoát khỏi vô minh và chấm dứt
vĩnh viễn mọi đau khổ. Bởi vậy mỗi lần khởi sự tập thiền định, chúng ta
được điều động bởi cái ý thức ấy, và phát tâm cống hiến sự tập thiền của
mình và cả cuộc đời mình cho việc giác ngộ tất cả chúng sinh, trong tinh
thần lời nguyện sau đây, mà chư Phật trong quá khứ đã từng phát ra:
Nhờ năng lực và chân lý của tập luyện này,
Mong tất cả hữu tình được hạnh phúc, và nhân của hạnh phúc;
Mong tất cả đều thoát khổ đau, và nhân của khổ đau;
Mong tất cả không rời hạnh phúc tối thượng, không sầu;
Mong tất cả sống hỉ xả không thương ghét
Và sống tin ở bình đẳng của mọi loài.
·
Tốt ở chặng giữa là tâm thái khi ta
đi vào trọng tâm của luyện tập, mong thực chứng bản tâm, từ đấy khởi lên
sự không chấp thủ, thoát khỏi mọi khái niệm phân biệt, và một tỉnh thức để
thấy mọi sự tự nó trống rỗng không thực chất, như huyễn, như mộng.
·
Tốt ở chặng cuối là cách ta kết thúc
thời thiền tập bằng sự hồi hướng tất cả công đức, với lời cầu nguyện thành
thiết như sau:
- Mong
rằng, bất cứ công đức gì có được do thời thiền tập này, đều hướng về sự
giác ngộ tất cả hữu tình; mong rằng nó trở thành một giọt nước trong biển
công hạnh của chư Phật đang làm việc không biết mệt để giải thoát tất cả
chúng sinh.
Công đức
là công năng tích cực và lợi lạc, niềm bình an hạnh phúc mà sự tu tập
thiền định của bạn tỏa chiếu ra. Bạn cống hiến công đức ấy cho sự an lạc
lâu dài của hữu tình, cho sự giác ngộ của chúng. Gần hơn, thì bạn hồi
hướng cầu nguyện cho hòa bình thế giới, cho mọi người thoát khỏi thiếu
thốn bệnh tật, được sức khỏe và hạnh phúc lâu bền. Rồi, khi nhận thức bản
chất mộng huyễn của thực tại, bạn tư duy rằng, trong ý nghĩa sâu kín nhất,
thì bạn, người hồi hướng, những chúng sinh mà bạn cống hiến công đức, và
chính cái hành vi hồi hướng, cả ba thứ đều trống rỗng, huyễn hóa. Điều này
được nói trong giáo lý là để “niêm phong” thời thiền định, bảo đảm
sao cho không một giọt nào của công năng thuần tịnh của nó bị rò rỉ, và để
chắc chắn không một chút công đức nào của sự thực hành là bị lãng phí.
Những
nguyên tắc thiêng liêng này – cách khởi tâm thiện xảo, thái độ không chấp
thủ, và sự hồi hướng sau cùng để niêm phong, là những gì làm cho việc
thiền tập của bạn thực sự có năng lực, đem lại giác ngộ. Ba nguyên lý này
được Longchenpa bậc thầy Tây Tạng mô tả là “trái tim, con mắt và
sức sống của sự thực hành chân chính.” Như Nyoshul Khenpo nói:
- Muốn
đạt toàn giác, nhiều hơn thế thì dư, mà ít hơn thì thiếu.
LUYỆN TẬP CHÁNH NIỆM
Thiền
định là đưa tâm về nhà, và việc này trước hết được hoàn tất nhờ luyện tập
chánh niệm.
Một lần
có một thiếu phụ đến hỏi Bụt làm cách thế nào để thiền. Bụt bảo nàng hãy ý
thức từng động tác của đôi tay khi nàng kéo nước giếng, vì ngài biết như
vậy nàng sẽ tự thấy mình ở trong tâm trạng an bình, khoáng đạt và bén
nhạy, mà chính là thiền định.
Sự thực
tập chánh niệm, đưa cái tâm phân tán trở về nhà và do đó tập trung ý thức
vào những khía cạnh khác nhau của con người chúng ta - được gọi là “Tịnh
trú” hay “An trú,” thành tựu được ba việc. Trước hết, mọi mảnh
vụn của con người ta - thường mâu thuẫn chống chọi nhau – bây giờ ổn định,
tan hòa và trở thành bạn. Trong sự ổn định ấy ta bắt đầu hiểu mình hơn, và
đôi khi còn thoáng thấy được tia sáng tự tính bản nhiên của ta. Thứ hai
là, luyện tập thiền định làm tiêu tan tính tiêu cực, bạo hành nơi ta,
những cảm xúc hỗn độn đã chứa nhóm nhiều đời. Thay vì đàn áp chúng hay bị
lôi cuốn theo chúng, ở đây điều quan trọng là ngắm nhìn chúng và bất cứ gì
khởi lên trong tâm, với sự chấp nhận và bao dung, càng cởi mở càng tốt.
Những bậc thầy Tây Tạng thường bảo rằng tính độ lượng sáng suốt ấy giống
như không gian vô biên, thân thiết và dễ chịu, làm bạn cảm thấy như thể
được bao phủ, được che chở trong một cái mền bằng ánh sáng.
Dần dần,
khi bạn vẫn ở trong trạng thái cởi mở, tỉnh giác ấy, và dùng một trong
những phương pháp sẽ nói sau, để làm cho tâm càng lúc càng tập trung hơn,
tính tiêu cực nơi bạn càng ngày càng tan loãng ra; bạn khởi sự cảm thấy
thoải mái trong toàn diện bản thể bạn, hay như ngưòi Pháp nói, être
bien dans sa peau. Từ đấy phát sinh sự buông xả và một niềm an lạc sâu
xa. Theo tôi thì sự tập luyện này là cách tốt nhất để chữa trị thân bệnh
và tâm bệnh nơi bạn.
Thứ ba,
sự tập luyên này vén màn, làm hiển lộ Thiện tâm căn bản của bạn, vì nó làm
tan biến thói hung ác hay tác hại ở trong bạn. Chỉ khi trừ khử được thói
ấy ta mới thực sự hữu ích cho người khác. Vậy thì nhờ tập luyện, trừ khử
dần thói ác tác hại khỏi tâm ta, mà ta có thể để cho Thiện tâm chân thực
của ta – lòng tử tế, từ bi tự nhiên nơi ta - chiếu sáng, và trở thành bầu
khí hậu cho bản thể đích thực của ta phát triển.
Bây giờ
bạn thấy tại sao tôi gọi thiền định là sự thực hành chân thực để đi đến
hòa bình, đi đến sự không gây hấn, đi đến sự bất bạo động. Ðấy là sự giải
trừ vũ khí chân thực và quan trọng nhất.
SỰ BÌNH AN TỰ NHIÊN
Mỗi khi
giảng dạy thiền định, tôi thường bắt đầu bằng câu nói:
- Hãy
đưa tâm bạn về nhà. Buông xả, và thư giãn.
Toàn thể
sự thực hành thiền định có thể rút gọn vào ba điểm cốt yếu đó: Ðưa tâm
về nhà, buông xả và thư giãn.
Ðưa
tâm về nhà có nghĩa là hướng dẫn tâm đến trạng thái An trú nhờ thực
tập chánh niệm. Trong ý nghĩa sâu xa nhất, thì đưa tâm về nhà có nghĩa là
xoay tâm vào trong và an trú trong bản tánh tự nhiên của nó. Ðiều này
chính là thiền định tối thượng.
Buông
xả là giải phóng tâm khỏi ngục tù chấp thủ, vì bạn đã nhận thấy rằng
mọi đau khổ, sợ hãi và lo buồn đều bắt nguồn từ sự khát ái của tâm chấp
thủ. Ở bình diện sâu xa hơn, sự thực chứng, niềm tin phát sinh do hiểu rõ
bản chất của tự tâm sẽ làm cho bạn có được tính bao dung sâu sắc và tự
nhiên, khiến bạn dễ dàng buông hết mọi chấp thủ của mình, để cho nó tự bay
mất, tan vào trong nguồn cảm hứng của thiền định.
Cuối
cùng, thư giãn có nghĩa là khoáng đạt, giải tỏa tâm khỏi mọi căng
thẳng. Sâu hơn nữa, là bạn thể nhập vào bản tính chân thực tự nhiên của
tâm bạn một cách thoải mái, vào trạng thái Rigpa. Tạng ngữ diễn tả
tiến trình này là “thư giãn trên Rigpa”. Giống như khi ta đổ một
nắm cát trên một mặt phẳng, thì mỗi hạt cát tự động an trú. Ðấy là cách
bạn thư giãn vào trong bản tính chân thực của bạn, để cho mọi ý nghĩa cảm
xúc tự động rút lui, tan biến vào trong trạng thái tâm tự nhiên.
Mỗi khi
thiền định, bài thơ sau đây của Nyoshul Khenpo luôn luôn gây cho
tôi nguồn cảm hứng:
Hãy an trú tịch nhiên
Cái tâm mệt mỏi này
bị nghiệp làm xơ xác
với tư duy cuồng loạn
như sóng vỗ không ngừng
trong biển lớn sinh tử.
Hãy an trú tịch nhiên.
Cần nhất
là ta hãy thoải mái tự nhiên và khoáng đạt như hư không. Hãy lặng lẽ chuồn
ra khỏi cái thòng lọng của bản ngã đầy lo âu thường ngày, buông mọi sự bám
víu, và thả mình vào trong bản tính chân thực của bạn. Hãy tưởng đến cái
tôi thường nhật của bạn như một khối băng hay một thỏi bơ để dưới ánh mặt
trời. Nếu bạn đang cảm thấy cứng cỏi lạnh lùng, thì hãy để cho sự cứng cỏi
ấy tan ra trong ánh mặt trời thiền định. Ðể cho niềm bình an làm việc trên
bạn, giúp bạn thâu nhặt lại cái tâm phân tán gom vào trong sự An trú, và
đánh thức dậy sự tỉnh giác và cái thấy sâu xa của Minh kiến. Rồi bạn sẽ
thấy tất cả thói tiêu cực nơi mình bị tước khí giới, tính bạo động tan ra,
vọng tưởng chầm chậm tiêu tan như thể sương mù tan vào trong bầu trời
khoáng đạt vô nhiễm của tính tự nhiên tuyệt đối nơi bạn.
Khi ngồi
lặng lẽ, thân yên, lời im, tâm am tĩnh, bạn hãy để cho những ý tưởng, cảm
xúc hay bất cứ gì khởi lên, tự đến và đi, không bám víu vào cái gì.
Trạng
thái ấy ra thế nào? Dudjom Rinpoche thường nói, hãy tưởng tượng một
nông phu suốt ngày làm lụng mệt nhọc ngoài đồng, bây giờ đang ngồi thoải
mái trước lò sưởi, trong chiếc ghế mà ông yêu thích. Ông đã làm lụng trọn
ngày và biết mình đã làm những gì cần hoàn tất, không còn gì phải lo,
không còn việc gì chưa xong, ông có thể buông bỏ hoàn toàn mọi lo âu bận
bịu, và bây giờ hài lòng, ông chỉ là, không còn gì phải làm nữa.
Vậy, khi
thiền định, điều cần thiết là bạn phải tạo ra bối cảnh nội tâm cho thích
hợp. Mọi nỗ lực và phấn đấu xảy ra đều do bởi cái tâm không khoáng đạt như
hư không, bởi thế tạo ra bối cảnh thích hợp ấy là điều cốt yếu để cho
thiền định thực sự xảy đến. Khi điều kiện ấy có mặt, thì thiền định phát
sinh không cần nỗ lực.
Ðôi khi,
lúc thiền định, tôi không dùng một phương pháp đặc biệt nào cả. Tôi chỉ để
cho tâm an nghỉ, và thấy rằng tôi có thể đưa tâm về nhà và thư giãn một
cách mau lẹ, nhất là mỗi khi được cảm hứng. Tôi ngồi yên lặng và an trú
trong tự tính của tâm; tôi không cần tự hỏi mình có ở trong trạng thái “đúng”
hay không. Không có nỗ lực, chỉ có sự hiểu biết dồi dào, sự tỉnh thức, và
một niềm xác tín không lay chuyển. Khi tôi ở trong trạng thái tâm bản
nhiên ấy, thì cái tâm thường ngày không còn ở đấy. Không cần xác định một
cảm thức hiện hữu nào: tôi chỉ đang là, một cách đơn giản. Một niềm tin
tưởng căn để đang có mặt. Không có việc gì đặc biệt phải làm.
PHƯƠNG PHÁP TRONG THIỀN
Nếu tâm
bạn tự nó có thể an trú một cách tự nhiên và nếu bạn thấy mình có thể trú
trong sự tỉnh thức thuần tịnh của tâm bạn, thì khi ấy bạn không cần phương
pháp nào để thiền định nữa. Quả thế, đôi khi còn không nên cố sử dụng một
phương pháp, khi tâm bạn đã ở trong một trạng thái như vậy. Tuy nhiên,
phần đông chúng ta thấy khó mà đạt tới trạng thái đó ngay được. Chúng ta
không biết làm sao để đánh thức tâm, tâm ta quá hoang vu và xao lãng đến
độ ta cần một phương tiện thiện xảo, một phương pháp tốt, để hô triệu nó
lên.
Tôi muốn
nói “thiện xảo” nghĩa là hợp nhất cái biết của bạn về tự tánh tâm,
cái biết những tâm trạng đang thay đổi nơi bạn và cái biết đối trị mà bạn
đã phát triển qua sự thực tập – những vọng tưởng trong từng giai đoạn. Nhờ
hòa hợp chúng lại, mà bạn học được nghệ thuật áp dụng phương pháp thích
hợp cho bất cứ một tình huống hay vấn đề đặc biệt nào, để chuyến hóa bối
cảnh của tâm bạn.
Nhưng
nên nhớ rằng phương pháp chỉ là phương tiện, không phải chính là thiền
định. Nhờ thực hành phương pháp một cách thiện xảo mà bạn có thể đạt đến
trạng thái thuần tịnh của sự tỉnh giác toàn vẹn, mà chính là thiền đích
thực.
Tạng ngữ
có câu: “Gompa ma yin, kompa yin” nghĩa là, không có thiền định mà
chỉ có sự quen thực hành thiền định. Thiền định không phải là nỗ lực, mà
tự nhiên thấm nhuần. Khi bạn tiếp tục áp dụng phương pháp, thì dần dần
thiền định phát sinh. Thiền định không phải là một cái gì bạn có thể làm,
nó xảy đến một cách tự nhiên, chỉ khi bạn đã thuần thục trong sự thực tập.
Tuy
nhiên muốn thiền định xảy đến, thì cần tạo những điều kiện yên tĩnh và tốt
lành. Muốn làm chủ được tâm, ta cần phải làm cho hoàn cảnh xung quanh được
an tịnh. Lúc này tâm ta giống như ngọn đèn cầy luôn luôn lay động bởi
những ngọn gió mạnh của ý tưởng và cảm xúc. Ngọn đèn chỉ đứng yên khi ta
làm cho không khí xung quanh nó lắng xuống. Ta chỉ có thể thoáng thấy tự
tính tâm và an trú trong đó, khi những ý tưởng và cảm xúc quay cuồng của
ta đã lắng xuống. Ngược lại, khi ta đã an trú trong thiền định thì những
tiếng ồn và rối loạn đủ loại sẽ rất ít ảnh hưởng.
Ở Tây
phương, người ta quen thói chú mục vào cái mà tôi gọi là “kỹ thuật
thiền định”. Thế giới ngày nay thực say mê máy móc cơ khí, và chỉ
thích những công thức thực tiễn. Nhưng điều quan trọng hơn nhiều ở trong
thiền không phải là kỹ thuật, mà là tinh thần, cách thế thiện xảo và đầy
sáng tạo trong đó ta thực hành thiền định, gọi là thế ngồi.
THẾ NGỒI
Những
bậc thầy nói:
- Nếu
bạn tạo một điều kiện tốt lành trong thân và cảnh, thì thiền và ngộ sẽ tự
động sinh khởi.
Nói về
thế ngồi không phải là dạy một chuyện bí truyền; toàn bộ của việc ngồi
đúng cách chỉ là để tạo một bối cảnh gợi cảm hứng cho thiền, cho sự thức
dậy của Rigpa. Có sự tương quan giữa thế ngồi của thân với thái độ
của tâm, và thiền định phát sinh một cách tự nhiên khi có thế ngồi và thái
độ thích hợp.
Nếu bạn
đang ngồi mà tâm không hoàn toàn hòa điệu với thân – chẳng hạn bạn đang lo
lắng bận rộn một việc gì – thì thân bạn sẽ kinh quá nỗi bực dọc vật lý, và
những khó khăn dễ dàng xảy ra. Trong khi nếu tâm bạn an tĩnh, nó sẽ ảnh
hưởng đến toàn thể thế ngồi của bạn, bạn có thể ngồi tự nhiên không cần cố
gắng. Bởi thế thực rất quan trọng để phối hợp thế ngồi của thân với niềm
tin phát sinh từ sự trực ngộ bản tâm nơi bạn.
Thế ngồi
tôi sắp giải thích có thể khác những thế ngồi mà bạn đã quen. Nó rút từ
giáo lý Dzogchen ngày xưa, đó là thế ngồi mà các bậc thầy đã dạy
tôi, và tôi thấy nó đầy hiệu lực.
Trong giáo
lý Dzogchen nói rằng Cái thấy và Thế ngồi của bạn phải như ngọn
núi. Cái thấy là đỉnh cao của toàn thể tri kiến và tuệ giác về bản tâm mà
bạn đem vào thiền định. Bởi vậy cái thấy ấy gợi cảm hứng cho thế ngồi
của bạn, diễn tả cốt lõi của bản thể bạn trong lối bạn ngồi.
Vậy, hãy
ngồi như thể bạn là một ngọn núi, với tất cả uy thế lẫm liệt vững chắc
không ai lay chuyển nổi, của một ngọn núi. Ngọn núi hoàn toàn tự nhiên,
thoải mái dù có bao nhiêu ngọn gió mạnh tạt qua nó, bao nhiêu đám mây đen
dày vần vũ quanh nó. Ngồi như một ngọn núi, bạn để tâm bạn vươn lên và bay
lượn.
Ðiều quan
trọng nhất trong thế ngồi này là giữ lưng thẳng như một mủi tên hay một
cọc tiền vàng. Nội khí hay prana sẽ tuôn chảy thông suốt qua các
huyệt đạo cơ thể, và tâm bạn sẽ tìm được trạng thái an nghỉ thực sự của
nó. Ðừng gắng gượng cưỡng ép cái gì cả. Phần dưới của cột sống có một
đường cong tự nhiên; nên thư dãn nó theo chiều thẳng đứng. Ðầu bạn nên an
nghỉ thoải mái trên cần cổ. Ðôi vai và phần trên ngực mang tất cả sức mạnh
và vẻ đẹp của thế ngồi, cần giữ yên, vững, nhưng không được có một sự căng
thẳng nào.
Hãy ngồi
khoanh chân, không cần phải theo thế hoa sen (kiết già) như trong pháp
Yoya cao cấp. Ðôi chân khoanh lại biểu trưng sự nhất thể giữa sống và
chết, thiện và ác, phương tiện và trí tuệ, nguyên lý âm dương, sinh tử
niết bàn, trạng thái bất nhị. Bạn cũng có thể ngồi trên ghế để thỏng chân,
nhưng điều cần thiết là phải giữ lưng cho thẳng.
Trong
truyền thống thiền của tôi, thì đôi mắt phải mở: Ðây là điều tối
quan trọng. Nếu bạn nhạy cảm đối với những quấy rầy bên ngoài, thì mới đầu
bạn có thể nhắm mắt lại một lúc, và lặng lẽ xoay cái nhìn vào trong (nội
quán). Khi đã định tĩnh, và từ từ mở mắt ra bạn sẽ thấy cái nhìn của
bạn đã trở nên an tịnh hơn. Bấy giờ bạn nhìn xuống dọc theo sóng mũi, làm
thành một góc bốn mươi lăm độ trước mặt. Thông thường một cái mánh thực
tiễn là khi tâm tán loạn, tốt nhất là hạ tầm nhìn xuống, và khi lừ đừ muốn
ngủ thì đưa tầm nhìn lên.
Khi tâm đã
định tĩnh, sự sáng suốt của tuệ giác bắt đầu sinh khởi, bạn có thể tự
nhiên nhìn lên, mở lớn mắt hơn và nhìn vào khoảng không gian ngay trước
mặt. Ðấy là cái nhìn mà giáo lý Dzogchen thường dạy.
Giáo lý
Dzogchen dạy rằng thiền định và cái nhìn của bạn phải giống như không
gian bao la của đại dương: Cùng khắp, khoáng đạt và vô giới hạn.
Cũng như Cái thấy và Thế ngồi không rời nhau, thiền định và lối
nhìn của bạn cũng tan hòa thành một.
Khi ấy đừng
chú ý vào một cái gì đặc biệt, trái lại nhẹ nhàng xoay vào trong tâm bạn,
cứ để cái nhìn trải rộng, càng lúc càng bao la, thấm nhuần khắp. Bấy giờ
bạn sẽ thấy “cái thấy” của bạn cũng rộng rãi hơn, và nhờ thế trong
tia mắt của bạn có niềm bình an hơn, có niềm bi mẫn, hỉ xả và trầm tĩnh
hơn.
Tạng ngữ
gọi vị Phật của lòng Từ bi là Chenrezig. Chen là con mắt,
re là khóe mắt, và zig là nhìn; có nghĩa rằng, với đối mắt bi
mẫn, ngài nhìn thấy nhu cầu của mọi chúng sinh. Vậy bạn hãy dồn sự bi mẫn
– phát sinh từ thiền quán – vào đôi mắt, sao cho cái nhìn của bạn chính là
cái nhìn của tâm đại bi, bao la như đại dương, và soi thấy cùng khắp.
Có nhiều lý
do để giữ đôi mắt mở. Khi mở mắt, bạn ít buồn ngủ. Và thiền định không
phải là một cách trốn đời, hay để tâm thoát li vào một trạng thái xuất
thần mê mẩn. Trái lại, đó là cách trực tiếp giúp ta thực sự biết mình
trong tương giao với cuộc đời và mọi người.
Bởi thế,
trong thiền định, bạn để con mắt mở, không nhắm mắt. Thay vì đóng cửa để
cuộc đời ra ngoài, bạn có thái độ phóng khoáng và hòa bình với mọi sự. Bạn
để cho các giác quan - thấy nghe cảm giác – cứ mở ra tự nhiên mà không bám
víu vào những cái biết của chúng. Dudjom Rinpoche nói:
- Mặc dù
nhiều hình sắc được thấy, tự bản chất chúng là không (trống rỗng);
tuy thế trong không ta thấy sắc. Mặc dù nhiều âm thanh được nghe, tự bản
chất chúng là không; tuy thế trong không ta nghe tiếng, Cũng vậy,
nhiều ý nghĩ khởi lên, chúng vốn là trống rỗng, tuy thế trong không, ta
thấy có tư tưởng.
Bất cứ
gì bạn thấy, nghe, cứ để mặc chúng, đừng bám víu. Ðể cái nghe cứ là cái
nghe, để cái thấy cứ là cái thấy, không để cho sự bám víu của bạn đi vào
trong đó.
Theo sự
thực tập quang sắc đặc biệt của Dzogchen, mọi ánh sáng của trí tuệ
ta nằm ở tim, liên lạc tới con mắt qua những huyệt đạo thuộc trí tuệ. Con
mắt là cửa ngõ của quang tướng, bởi thể bạn để mắt mở để khỏi bế tắc các
huyệt đạo trí tuệ.
Khi
thiền định, bạn để miệng hơi hé mở, như thể sắp thốt ra một tiếng Aaaah
sâu dài thư dãn. Khi hé miệng và thở phần lớn qua ngõ ấy, người ta
bảo, những luồng gió nghiệp gây ra tư tưởng tán loạn làm chướng ngại thiền
định, nhờ thế mà ít có dịp phát sinh.
Tay bạn
nghỉ ngơi thoái mái bao bọc hai đầu gối. Ðây gọi là thế ngồi làm cho tâm
an lạc.
Có một
tia hy vọng lạc quan trong thế ngồi này, do sự ngầm hiểu chúng ta đều có
Phật tính. Bởi vậy khi ngồi như thế, ta đang bắt chước một đức Phật, xác
nhận và khuyến khích sự xuất hiện của Phật tính trong ta. Quả thế, bạn
khởi sự tôn trọng chính mình như một vị Phật tiềm tàng.
Đồng
thời, bạn vẫn nhận ra hoàn cảnh tương đối của mình. Nhưng vì bạn đã được
cảm hứng từ niềm tin ở Phật tính thực sự của bạn, ban có thể dễ chấp nhận
những khía cạnh tiêu cực nơi mình hơn, đối xử với chúng tử tế hơn, và có
thái độ hài hước hơn. Vậy khi thiền định, bạn nên mời chính bạn hãy cảm
thấy tự tôn trọng, hãy thấy mình có tư cách, và có sự khiêm cung của một
vị Phật. Bạn chỉ cần gợi lên niềm tin lạc quan đó là đủ: Từ niềm vui và sự
hiểu biết ấy, tự nhiên thiền định sẽ phát sinh.
BA PHƯƠNG PHÁP THIỀN QUÁN
Đức Phật
dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn để thuần hóa và an định những cảm xúc tiêu
cực, và trong Phật giáo có vô số phương pháp thiền định. Tôi tìm thấy có
ba kỹ thuật thiền đặc biệt hiệu nghiệm trong thế giới ngày nay, mà ai cũng
có thể sử dụng để được lợi lạc. Đó là phương pháp “canh chừng” hơi thở, sử
dụng một vật làm đối tượng, và nhẩm đọc một câu thần chú.
1.
Quán hơi thở.
Phương
pháp này rất xưa và có mặt trong tất cả trường phái Phật giáo. Đó là để
tâm chú ý vào hơi thở một cách nhẹ nhàng đầy chánh niệm.
Hơi thở
là sự sống, sự biểu hiện căn bản nhất của cuộc đời ta. Trong Do thái giáo
thì ruah, hơi thở, là linh hồn của Thượng đế thấm khắp tạo vật;
trong Ki tô giáo cũng có dây nối mật thiết giữa đấng Thánh linh – nguồn
gốc của mọi sự sống – và hơi thở. Trong giáo lý Phật, thì hơi thở, Phạn
ngữ là prana, được gọi là “cỗ xe của tâm”, vì chính hơi thở
làm cho ta tâm ta di chuyển. Bởi thế khi ta làm an tịnh tâm bằng cách làm
việc khéo léo với hơi thở, thì cũng như ta đang luyện tâm và hàng phục
tâm. Có phải ai trong chúng ta cũng đã từng thấy khỏe khoắn biết bao khi
đang gặp căng thẳng mà ngồi lại vài phút để thở những hơi thở vào ra thật
chậm và sâu không? Ngày cả một tập luyện đơn giản như thế cũng có thể giúp
ta rất nhiều.
Vậy khi
thiền định, bạn hãy thở tự nhiên, như thường ngày bạn thở. Tập trung sự
chú ý của bạn vào hơi thở ra. Khi thở ra, bạn hãy buông ra theo hơi thở
tất cả sự bám víu của bạn. Tưởng tượng hơi thở bạn tan vào trong khoảng
không bao la của chân lý. Mỗi lần thở ra, trước khi hít vào lại, bạn sẽ
thấy có một khoảng hở tự nhiên, khi sự chấp thủ đã tan biến.
Hãy an
trú trong khoảng hở ấy, không gian rộng mở ấy. Và khi tự nhiên bạn thở
vào, thì đừng chú ý hơi thở vào, mà cứ tiếp tục an trú tâm nơi khoảng hở
đã mở ra ấy.
Khi thực
tập, điều quan trọng là bạn đừng vướng vào sự luận giải, phân tích trong
tâm, hay thói lải nhải nội tâm. Đừng lầm sự lặp đi lặp lại trong tâm rằng
“Bây giờ tôi đang thở vào, bây giờ tôi đang thở ra” cho đó là chánh
niệm; cái quan trọng là sự tỉnh giác thuần túy không xao lãng.
Đừng quá
tập trung vào hơi thở; chỉ để cho nó chừng hai mươi lăm phần trăm, còn bảy
mươi lăm phần trăm thì bạn hãy buông xả một cách lặng lẽ bao la. Càng
chánh niệm hơi thở, bạn càng tỉnh thức về chính mình, gom lại những mảnh
vụn phân tán của bạn thành một nhất thể, tính nhị nguyên và ngăn cách tan
biến.
Chính
tiến trình chánh niệm ấy lọc sạch tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi ấy, bạn cảm
như đã rũ bỏ một cái lốt da ngoài, có cái gì được lột sạch, được phóng
thích.
Tuy
nhiên có nhiều người không được thoải mái với pháp quán hơi thở, họ còn
thấy gần như bị ngộp. Đối với họ, kỹ thuật sau đây có thể tốt hơn.
2.
Dùng một vật làm đối tượng.
Phương
pháp thứ hai, mà nhiều người thấy tốt, là an tâm vào một đối tượng. Bạn có
thể dùng một vật đẹp tự nhiên gợi cảm đối với bạn, như một đóa hoa hay
bình pha lê. Nhưng một cái gì biểu tượng cho chân lý, như tượng Phật,
Chúa, hay nhất là bậc thầy của bạn. Thầy là gạch nối giữa bạn với chân lý,
và nhờ bạn có quan hệ mật thiết với thầy, nên nhìn gương mặt thầy bạn có
thể được cảm hứng và nhớ đến Phật tính của bạn.
Nhiều
người đã có được liên hệ đặc biệt với bức tranh của tượng đức
Padmasambhava gọi là “Trông giống tôi,” bức tượng được tạc lúc
sinh thời của ngài và được ngài ban phép vào thế kỷ thứ tám ở Tây Tạng.
Padmasambhava, bằng năng lực tâm linh khổng lồ của ngài đã đưa giáo lý
Phật vào Tây Tạng.
Ngài
được xem là vị Phật thứ hai, và được dân Tây Tạng gọi một cách âu yếm là “Thầy
Rinpoche” hay “Bậc thầy quý báu.” Dilgo Khientse
Rinpoche nói:
- Trên
đất Ấn và Tây Tạng, đã từng có nhiều bậc thầy tuyệt luân, nhưng người có
công bi mẫn lớn lao nhất, người nhiều ân đức với hữu tình trong thời đại
khó khăn này, chính là Padmasambhava, người tượng trưng từ bi và
trí tuệ của tất cả chư Phật. Một trong những đức của ngài là, ngài ban
phúc ngay lập tức cho ai cầu khẩn ngài, và bất cứ gì ta cầu xin, ngài đều
có năng lực làm ta toại nguyện tức khắc.
Khi được
cảm hứng từ điều này, thì bạn hãy gắn một tấm hình của bức tượng ngài
ngang tầm mắt bạn, rồi hướng sự chú ý của bạn đến gương mặt ngài, nhất là
tia nhìn nơi đôi mắt. Có niềm an tịnh sâu xa trong cái nhìn ấy, như đang
phóng ra từ bức tranh để đưa bạn đi vào một trạng thái tỉnh giác không bám
víu, trạng thái thiền định. Rồi bạn để yên cho tâm bạn an nghỉ cùng với
Padmasambhava.
3.
Nhẩm đọc một thần chú.
Một kỹ
thuật thứ ba được sử dụng rất nhiều trong Phật giáo Tây Tạng (và cả trong
đạo Sufism, Ki tô giáo chính thống, và Ấn giáo), là hợp nhất tâm
bạn với âm thanh của một bài chú. Định nghĩa của mantra là “cái
che chở tâm.” Cái che chở tâm khỏi tính tiêu cực, hay che chở bạn khỏi
tâm bạn, gọi là mantra.
Khi bạn
đang nóng nảy, mất hướng đi, hoặc cảm thấy yếu đuối tình cảm, thì tụng đọc
thần chú có thể thay đổi hoàn toàn tâm thái của bạn bằng cách thay đổi
năng lực và bầu khí hậu của nó. Việc này xảy ra được bằng cách nào? Thần
chú là tinh túy của âm thanh, và là hiện thân của chân lý qua hình thức âm
thanh. Mỗi âm đều thấm nhuần năng lực tâm linh, cô đọng một sự thật về tâm
linh, và rung động với ân đức của Lời chư Phật. Người ta bảo rằng tâm cỡi
trên Prana hay Khí lực, khí này di chuyển khắp cơ thể và
thanh lọc những huyệt đạo vi tế. Bởi thế khi đọc chú, là bạn đang chở đầy
năng lực của thần chú trong hơi thở và khí lực của mình, tác động trực
tiếp trên tâm và thân vi tế.
Câu chú
tôi khuyên các học trò tôi đọc là:
- OM
AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
(Người
Tây Tạng nói:
Om Ah
Hung Benzaa Guru Péma Siddhi Hung)
Là thần
chú của Padmasambhava, của tất cả chư Phật, các bậc thầy và những
bậc đã chứng ngộ, bởi thế rất có mãnh lực đem lại bình an, chữa bệnh,
chuyển hóa và che chở người ta trong thời đại hỗn độn bạo hành này. Hãy
lặng lẽ đọc câu chú với sự chú tâm sâu xa, và để hơi thở, câu chú và sự
tỉnh thức của bạn dần trở thành một. Hoặc tụng nó lên một cách hứng khởi,
rồi an trú trong sự im lặng bao la đôi khi tiếp theo sau đó.
Mặc dù
suốt đời quen thuộc với sự thực hành này, tôi vẫn còn đôi lúc kinh ngạc
bởi năng lực của thần chú. Vài năm trước, khi tôi đang hướng dẫn một thiền
hội gồm ba trăm người ở Lyon, Pháp, phần đông là những bà nội trợ
và những nhà chữa tâm bệnh. Tôi đã giảng dạy suốt ngày, nhưng họ dường như
muốn tận dụng khoản thời gian ở gần tôi, nên cứ tiếp tục hỏi hết câu này
tới câu khác không ngừng. Cuối ngày thì tôi hoàn toàn kiệt sức, một bầu
không khí nặng nề tẻ nhạt lan khắp phòng. Bởi thế tôi tụng lên bài chú nói
trên. Tôi kinh ngạc trước hiệu quả: Trong vài phút tôi cảm thấy năng lực
được phục hồi, bầu khí quanh chúng tôi thay đổi, và toàn thể thính giả trở
lại tươi sáng say mê. Tôi vẫn thường có kinh nghiệm ấy nhiều lần, nên tôi
biết không phải chỉ là một “phép lạ” tình cờ.
TÂM TRONG THIỀN ĐỊNH
Vậy, ta
nên làm gì với tâm ta trong thiền định? Không gì cả. Cứ để mặc nó như nó
là. Một bậc thầy mô tả thiền định là “Tâm lơ lửng trong không, không ở
đâu.”
Có một
câu nói nổi tiếng:
- Nếu
tâm không bị gượng ép, thì nó tự nhjiên đầy hỉ lạc, cũng như nước, khi
không bị quấy động thì tự nhiên trong suốt.
Tôi
thường so sánh tâm thiền với một chun nước bùn: Ta càng để yên đừng khuấy
động nước lên, thì những phân tử bụi càng chìm xuống đáy, làm cho tính
trong sáng tự nhiên của nước chiếu suốt đáy. Tính tự nhiên của tâm là nếu
bạn để nó trong trạng thái đừng thay đổi, thì nó sẽ tìm thấy tính tự nhiên
chân thực của nó, hỉ lạc và trong sáng.
Bởi vậy
cẩn thận đừng áp đặt lên tâm bạn một cái gì. Khi thiền định, không được có
nỗ lực để kiểm soát, không cố để được an. Đừng quá quan trọng cảm thấy
mình đang làm một lễ lạc gì đặc biệt; hãy buông xả ngay cả cái ý niệm rằng
bạn đang thiền. Hãy để thân bạn tự nhiên, hơi thở tự nhiên. Tưởng về bạn
như bầu trời, bao trùm tất cả vũ trụ.
QUÂN BÌNH TẾ NHỊ
Trong
thiền định cũng như trong mọi nghệ thuật, cần có một quân bình tế nhị giữa
thư dãn và bén nhạy.
Một lần,
một tu sĩ tên Shrona học thiền với một trong những đệ tử gần nhất
của Phật. Ông đang gặp khó khăn trong việc để tâm như thế nào. Ông có hết
sức để tập trung, làm cho ông bị nhức đầu. Rồi khi buông tâm ra, thì buông
quá độ nên ông buồn ngủ. Cuối cùng ông phải tới cầu xin Bụt giúp đỡ. Biết
ông ta đã từng là nhạc công nổi tiếng lúc còn tại gia, Bụt hỏi:
- Có
phải ông đã từng chơi đàn lúc còn là cư sĩ không?
Shrona thưa vâng. Bụt hỏi:
- Ông
làm sao để gãy ra tiếng hay nhất? Đó là lúc dây đàn thật căng, hay lúc dây
thật chùng?
- Bạch
Thế tôn, không quá căng cũng không quá chùng mới được.
- Vậy,
với tâm ông cũng như thế đó.
Ma
Chik Lap Dron, một trong những bậc nữ đạo sư của Tây Tạng, nói:
- Tỉnh,
tỉnh, mà buông, buông. Đây là điểm cốt yếu trong thiền để có Tri kiến.
Hãy khơi
dậy sự tỉnh giác, nhưng đồng thời buông xả, xả cho đến độ bạn không bám
vào một ý niệm về buông xả.
Ý TƯỞNG VÀ CẢM XÚC: SÓNG VÀ ĐẠI DƯƠNG
Khi bắt
đầu thiền, người ta thường nói những ý tưởng của họ nổi loạn, và trở nên
ồn ào hơn bao giờ hết. Nhưng tôi trấn an họ rằng, đó là dấu hiệu tốt. Nó
chứng tỏ bạn đã trở nên an tịnh hơn, nên mới ý thức được sự ồn ào của
những ý tưởng trong tâm bạn. Bạn không nên nản chí bỏ cuộc. Dù khởi lên ý
niệm gì, hãy để tâm bạn tỉnh thức, kéo tâm về hơi thở, ngay dù nó đang tán
loạn.
Trong
những chỉ dẫn về thiền ngày xưa, thường nói rằng lúc đầu những ý tưởng kéo
đến té nhào lên nhau không gián đoạn, như thác đổ trên núi xuống. Dần dần,
khi bạn hoàn hảo về thiền, thì ý tưởng như nước trong vực sâu, rồi như
dòng sông lớn chảy ra biển, chỉ thỉnh thoảng có sống gợn lăn tăn.
Đôi khi
người ta nghĩ rằng khi thiền định, họ không được có ý tưởng cảm xúc nào
cả, nên khi chúng khởi lên, họ đâm ra bực bội cáu tiết với chính họ, vì
tưởng mình thất bại. Thật không gì sai sự thật hơn. Tây Tạng có câu: “Đấy
cũng như đòi thịt đừng có xương, đòi trà đừng có lá.” Bao lâu bạn còn
tâm là còn có ý tưởng và cảm xúc.
Cũng như
đại dương có sóng, mặt trời có tia, những tia sáng của tâm bạn chính là
những ý tưởng và cảm xúc. Biển có sóng, nhưng nó không phiền hà gì về
những ngọn sóng. Sóng chính là bản tính của biển. Sóng sẽ nổi lên, nhưng
sẽ đi về đâu? Trở về đại dương. Và những con sóng ấy từ đâu đến? Từ đại
dương. Cũng thế, ý tưởng và cảm xúc là những tia sáng và biểu hiện của
chính tự tính của tâm. Chúng nổi lên từ tâm, nhưng chúng tan biến đi đâu?
Cũng tan trở về tâm. Dù ý tưởng gì khởi lên, cũng đừng xem nó như một vấn
đề trọng đại. Nếu bạn không phản kháng một cách ồn ào, nếu bạn cứ kiên
nhẫn, thì nó sẽ lại trở về trong tự tính của nó.
Khi bạn
hiểu được như vậy, thì những ý tưởng khởi lên chỉ làm tăng tiến việc thực
tập thiền định của bạn. Mà nếu không hiểu như vậy, thì chúng lại trở thành
hạt giống của mê mờ. Vậy hãy có một thái độ cởi mở từ bi đối với chúng, vì
những ý tưởng ấy đều là gia đình của tâm bạn. Bạn hãy xử với chúng “như
một ông già minh triết nhìn đứa trẻ đang chơi,” như Dudjom Rinpoche
đã nói.
Chúng ta
thường không biết làm sao với tính tiêu cực hay vài cảm xúc rầy rà. Trong
tính khoáng đạt của thiền định, bạn có thể nhìn những ý tưởng và cảm xúc
bạn với một thái độ hoàn toàn cởi mở không thành kiến. Khi thái độ của bạn
thay đổi, thì toàn thể không khí của tâm bạn cũng thay đổi, cả đến bản
chất của những tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi bạn trở nên dễ chịu hơn, thì
chúng cũng dễ chịu hơn; nếu bạn không khó khăn với chúng, thì chúng cũng
không khó khăn với bạn.
Bởi thế,
dù tư tưởng cảm xúc nào khởi lên, hãy để cho chúng lên xuống như sóng
biển. Bất cứ gì bạn thấy mình đang nghĩ tới, hãy để cho ý nghĩ ấy tự sinh
tự diệt không một gượng ép nào. Đừng nắm bắt nó, nuôi dưỡng nó, chạy theo
nó; đứng bám lấy nó và củng cố nó. Không theo dõi những vọng tưởng, cũng
không mời gọi chúng, bạn hãy giống như biển nhìn những làn sóng của nó,
hay như bầu trời nhìn những đám mây bay qua nó.
Bạn sẽ
thấy rằng những ý tưởng như cơn gió, chúng đến và đi. Bí quyết là đừng “nghĩ”
về chúng, mà để cho chúng tuôn chảy qua tâm, đồng thời giữ cho tâm bạn
thoát khỏi những “hậu” ý tưởng.
Trong
tâm thường ngày, ta nhận thấy dòng tư tưởng như là liên tục; song kỳ thực
không phải vậy. Bạn sẽ khám phá cho chính bạn rằng có một khoảng hở giữa
hai ý tưởng. Khi niệm quá khứ đã qua, thì niệm tương lai chưa đến. Bạn sẽ
luôn luôn tìm thấy một khe hở trong đó Rigpa, tự tính của tâm, làm
hiển lộ. Vậy, công việc của thiền định là làm chậm lại dòng tư tưởng, để
cho khoảng hở ấy trở thành rõ rệt hơn.
Thầy tôi
có một người học trò tên Apa Pant, một nhà ngoại đạo Ấn, một tác
giả, người đã làm đại sứ Ấn ở nhiều thủ đô khắp thế giới. Ông ta đã từng
làm đại diện cho chính phủ Ấn tại Tây Tạng ở Lhasa, và có một thời
gian ông làm đại diện ở Sikkim. Ông cũng là một thiền giả và người
thực hành yoga, và mỗi lần gặp thầy tôi, ông đều hỏi làm sao để
thiền. Ông đang theo một truyền thống Đông phương, trong đó người học cứ
hỏi đi hỏi lại vị thầy một câu hỏi căn bản thật nhiều lần.
Apa
Pant kể cho tôi nghe chuyện này. Một hôm thầy tôi Jamyang Khientse
đang ngắm một màn vũ của các Lama trước Chùa Cung điện ở Gangtok,
thủ đô Sikkim, đang khúc khích xem một người hề làm trò giữa hai
màn vũ. Apa Pant cứ hỏi đi hỏi lại mãi cái câu làm thế nào để thiền
định, bởi thế thầy tôi cho ông biết thầy trả lời ông ta một lần chót:
- Xem,
nó giống như thế này: Khi ý tưởng quá khứ đã qua, mà ý tưởng vị lai chưa
đến, có phải có một khoảng hở không?
Apa
Pant đáp:
- Vâng.
Thầy tôi
nói:
- Đấy,
hãy kéo dài nó ra: Đó là thiền định.
KINH NGHIỆM
Khi bạn
tiếp tục thực hành, bạn có thể có đủ thứ kinh nghiệm tốt cũng như xấu. Như
một cái phòng có nhiều cửa sổ cửa lớn để cho không khí ùa vào từ mọi phía,
cũng thế khi tâm bạn mở ra, thì tự nhiên mọi kinh nghiệm có thể vào trong
tâm. Bạn có thể kinh quá những trạng thái hỉ lạc, sáng suốt, hay dứt mọi
tư tưởng. Có thể nói đấy là những kinh nghiệm tốt, những dấu hiệu của sự
tiến bộ trong thiền. Vì khi bạn có hỉ lạc, ấy là dấu hiệu dục vọng tạm
thời lắng xuống. Khi bạn cảm thấy sáng suốt, là dấu hiệu sân giận tạm
ngừng. Khi bạn kinh quá sự vắng bóng tư tưởng, là dấu hiệu vô minh tạm
diệt. Tự bản chất, chúng là kinh nghiệm tốt, nhưng nếu bạn bám víu chúng
thì chúng trở thành những chướng ngại. Kinh nghiệm tự chúng không phải là
chứng ngộ, nhưng nếu ta thoát khỏi chấp thủ vào chúng, thì chúng là những
nguyên liệu để chứng ngộ.
Những
kinh nghiệm tiêu cực thường bị lầm nhất, vì người ta dễ xem chúng như dấu
hiệu xấu. Nhưng kỳ thực chúng là những ân sủng trá hình. Hãy cố đừng phản
ứng lại với sự chán ghét như bạn thường làm, mà thay vì thế, hãy nhận chân
chúng chỉ là những kinh nghiệm, như huyễn như mộng. Sự nhận ra thực tính
của kinh nghiệm sẽ giải thoát bạn khỏi tai hai nguy hiểm của nó, và do vậy
ngay cả một kinh nghiệm xấu có thể trở thành một nguồn ân sủng và thành
tựu lớn lao. Có rất nhiều câu chuyện về những bậc thầy đã làm việc như vậy
với những kinh nghiệm xấu và đã chuyển hóa chúng thành chất xúc tác cho sự
chứng ngộ.
Theo
truyền thống, người ta bảo rằng đối với một hành giả thực thụ, thì không
phải nhưng kinh nghiệm xấu, mà chính những kinh nghiệm tốt mới gây ra
chướng ngại. Khi mọi sự tiến hành tốt đẹp, bạn phải đặc biệt cẩn thận để
khỏi đâm ra tự mãn hay quá tin. Nhớ lại Dudjom Rinpoche đã bảo tôi
khi tôi gặp một kinh nghiệm rất mãnh liệt:
- Đừng
quá náo nức. Cuối cùng, nó không tốt cũng không xấu.
Thầy
biết tôi đang bám víu kinh nghiệm: Chính sự bám víu ấy phải được cắt đứt,
như bất cứ sự bám víu nào khác. Điều chúng ta cần học trong thiền định
cũng như trong cuộc đời, là giải thoát chấp thủ đối với những kinh nghiệm
tốt, và giải thoát sự chán ghét đối với những kinh nghiệm xấu.
Dudjom Rinpoche cảnh cáo chúng ta một cái bẫy khác:
- Ngược
lại, trong khi hành thiền, bạn có thể kinh quá một cảm giác bồng bềnh nửa
tỉnh nửa mê, như là có cái mồng trên đầu bạn, một trạng thái chán chường
mơ mộng. Đây chỉ là một tình trạng ứ đọng vô tâm. Làm sao bạn ra khỏi tình
trạng ấy? Hãy thức tỉnh bạn, thẳng người lại, thở mạnh cho thán khí ra
khỏi buồng phổi, và hướng sự tỉnh giác của bạn vào khoảng không gian trong
sáng để làm tâm bạn tươi tỉnh lại. Nếu ở lại trong trạng thái tù đọng ấy,
bạn sẽ không tiến bộ; bởi thế mỗi khi sự thụt lùi này xảy ra, thì bạn hãy
xua tan nó nhiều lần. Điều quan trọng là bạn hãy thật tỉnh táo canh chừng.
Bất cứ
phương pháp nào bạn sử dụng, hãy bỏ nó, hay để nó tự tan rã, khi bạn thấy
mình đã đạt tới một trạng thái bén nhạy, rộng rãi, và bình an. Rồi tiếp
tục an trú trong đó lặng lẽ không xao lãng, không cần dùng một phương pháp
đặc biệt nào. Phương pháp đã làm tròn mục đích của nó. Tuy nhiên, nếu bạn
trở nên phân tán, thì hãy trở lại sử dụng bất cứ kỹ thuật nào thích hợp để
gọi tâm bạn trở lại.
Vinh
quang thực sự của thiền định không nằm ở phương pháp, mà ở cái kinh nghiệm
liên tục về sự tỉnh giác, sự hỉ lạc, sáng suốt, bình an, và quan trọng hơn
cả là hoàn toàn vắng bóng chấp thủ. Sự giảm bớt chấp thủ trong chính bạn
là dấu hiệu chứng tỏ bạn đang dần thoát khỏi chính mình.
Và bạn
càng kinh quá sự giải thoát này, thì càng chứng tỏ cái ngã và những hy
vọng sợ hãi đã nuôi dưỡng nó, đang tan rã, và bạn càng tiến gần hơn đến
trí tuệ vô ngã. Khi bạn ở trong cái nhà trí tuệ ấy, bạn sẽ không còn thấy
một rào ngăn nào giữa tôi và anh, tự và tha, trong và ngoài; cuối cùng bạn
đã trở về ngôi nhà chân thực, nghĩa là trạng thái bất nhị.
NGHỈ NGƠI
Phần
nhiều người ta hỏi:
- Tôi
nên ngồi thiền bao nhiêu lâu? Lúc nào? Tôi có nên thực tập hai mươi phút
sáng chiều, hay nên làm thành nhiều thời ngắn hơn trong ngày?
Vâng,
nên ngồi trong hai mươi phút, mặc dù không muốn nói mức giới hạn là hai
mươi phút. Trong kinh điển tôi chưa từng thấy ở đâu nói hai mươi phút; có
lẽ đấy là một quan niệm mới bày đặt ra ở phương Tây, mà tôi gọi là “Thời
hạn Thiền theo tiêu chuẩn Tây phương.” Vấn đề không phải là bạn phải
ngồi bao lâu, mà vấn đề là sự hành thiền có thực sự đem lại cho bạn một
trạng thái tỉnh thức và hiện trú hay không, một trạng thái trong đó bạn
hơi cởi mở và có thể liên lạc với bản tâm của bạn. Và năm phút ngồi thiền
tỉnh táo có giá trị hơn nhiều so với hai mươi phút ngủ gà ngủ gật!
Dudjom Rinpoche thường nói một người mới tập nên tập từng thời ngắn.
Hãy thực tập chừng bốn năm phút, rồi nghỉ ngơi chỉ chừng một phút. Trong
khi nghỉ thì buông phương pháp ra, nhưng đừng buông hoàn toàn cái tâm tỉnh
giác của bạn. Đôi khi, lúc bạn đang phấn đấu nỗ lực để thiền, thì kỳ lạ
thay, vào đúng cái lúc bạn nghỉ ngơi không dùng phương pháp – mà nếu bạn
vẫn duy trì tỉnh giác và hiện trú, – thiền định mới thực sự xảy ra. Đấy là
lý do sự nghỉ ngơi cũng là một phần của thiền định, quan trọng như chính
lúc ngồi. Tôi thường bảo những học trò nào gặp khó khăn trong khi thực
tập, hãy tu tập trong lúc nghỉ ngơi và nghỉ ngơi trong lúc tu tập.
Hãy ngồi
một thời ngắn, rồi nghỉ chứng ba mươi giây hay một phút. Nhưng trong lúc
ấy hãy tỉnh giác đối với mọi sự bạn làm, mà đừng đánh mất sự hiện trú của
bạn, sự thoải mái tự nhiên của nó. Rồi làm cho bạn tỉnh táo ra, và ngồi
tiếp. Nếu bạn tập nhiều thời ngắn như thế, những thời nghỉ ngơi của bạn
thường làm cho thiền của bạn thực hơn, gợi cảm hứng nhiều hơn, tẩy trừ sự
cứng đơ, tính trịnh trọng và mất tự nhiên của sự tu tập, và đem lại cho
bạn nhiều chú tâm và thoải mái hơn. Dần dần, qua sự xen kẽ giữa thực tập
và nghỉ ngơi như thế, cái hàng rào ngăn giữa đời sống thường ngày và thiền
định sẽ sụp đổ, sự tương phản tiêu tan, và bạn sẽ thấy mình càng ngày càng
ở trong trạng thái tỉnh giác hiện trú một cách tự nhiên không phân tán.
Khi ấy, như Dudjom Rinpoche thường nói:
- Dù cho
người thiền định từ bỏ thiền, mà thiền không bao giờ rời khỏi người.
HÒA NHẬP THIỀN VỚI HÀNH ĐỘNG
Tôi đã
thấy rằng phần lớn những hành giả tâm linh ngày nay thiếu tri thức để hội
nhập đời sống hàng ngày của họ với thiền định. Tôi không biết làm sao để
nhấn mạnh điều này: Hội nhập thiền vào hành động chính là tất cả nền tảng,
lý do và mục tiêu của thiền định. Sự bạo động, căng thẳng, những thử thách
và xao lãng của đời sống tân tiến làm cho sự hội nhập này càng thêm khẩn
thiết hơn nữa.
Có người
phàn nàn với tôi:
- Tôi đã
thiền mười hai năm, những vẫn chứng nào tật ấy. Tôi không thay đổi, tại
sao?
Tại vì
có một hố sâu giữa hành thiền của họ với đời sống hàng ngày. Họ dường như
hiện hữu trên hai thế giới tách biệt, thế giới này không giúp gì cho kia.
Tôi lại nhớ một thầy giáo hồi tôi còn đi học ở Tây Tạng. Ông ta giảng quy
luật văn phạm rất xuất sắc, nhưng không bao giờ viết đúng được một câu
nào.
Thế thì
làm sao chúng ta có được sự hội nhập giữa đời sống hàng ngày với tư thái
bình tĩnh, buông xả rộng rãi của thiền định? Không gì bằng thực tập thường
xuyên, chỉ nhờ thực tập thường xuyên ta mới bắt đầu nếm được một cách
không gián đoạn sự an tĩnh của tự tính ta, và có thể duy trì kinh nghiệm
ấy trong đời sống hàng ngày.
Tôi luôn
luôn bảo học trò tôi đừng xuất thiền quá nhanh: Hãy để vài phút cho niềm
an lạc của sự hành thiền len lỏi vào đời bạn.
Thầy
Dudjom Rinpoche tôi nói:
- Đừng
nhảy lên bỏ chạy, mà hòa tâm tỉnh giác của bạn với đời sống hàng ngày. Hãy
giống như người bị nứt sọ, luôn luôn cẩn thận canh chừng để người khác
khỏi đụng vào mình.
Rồi sau
thời thiền định, điều quan trọng là đừng đầu hàng cái khuynh hướng củng cố
lối nhận thức của ta đối với sự vật. Khi bạn vào lại đời sống hàng ngày,
hãy để cho tuệ giác, tri kiến, lòng bi mẫn, tính khí, sự khoáng đạt và
giải thoát mà thiền đã đem lại cho bạn, thể nhập trong kinh nghiệm hàng
ngày. Thiền khơi dậy trong bạn cái nhận thức vạn pháp đều huyễn hóa, như
mộng; bạn hãy duy trì nhận thức ấy ngay trong lòng sinh tử. Một bậc thầy
vĩ đại đã nói:
- Sau
khi thực tập thiền định, người ta phải trở thành một đứa con của huyễn
hóa.
Dudjom Rinpoche khuyên:
- Mặc dù
mọi sự đều như mộng, huyễn hóa, bạn vẫn tiếp tục làm việc với thái độ hài
hước. Chẳng hạn, nếu bạn đang đi dạo, hãy bước về khoảng trống khoáng đạt
của chân lý. Khi ngồi, bạn hãy là thành trì của chân lý. Khi ăn, bạn hãy
cho những thói tiêu cực và ảo tưởng của bạn vào trong cái bụng của
chân-không. Và khi đi cầu, hãy xem những chướng ngại đang được tẩy sạch.
Vậy,
điều quan trọng không phải chỉ là ngồi, mà chính là trạng thái tâm của bạn
sau thời thiền. Chính cái tâm trạng an tĩnh tập trung ấy, bạn hãy đưa nó
vào trong mọi sự bạn làm. Tôi rất thích câu chuyện thiền trong đó môn đệ
hỏi bậc thầy:
- Bạch
thầy, làm sao ta đưa giác ngộ vào trong hành động? Làm sao ta thực hành
thiền trong đời sống?
Vị thầy
đáp:
- Bằng
cách ăn, ngủ.
- Nhưng
bạch thầy, ăn ngủ thì ai cũng ăn ngủ.
- Nhưng
không phải ai cũng thực ăn lúc họ ăn, thực ngủ lúc họ ngủ.
Từ đấy
có thiền ngữ nổi tiếng:
- Khi
ăn, ta ăn; khi ngủ, ta ngủ.
Ăn khi
bạn ăn và ngủ khi bạn ngủ có nghĩa là hoàn toàn hiện trú trong tất cả hành
động của bạn, không có những sự phân tán của bản ngã xen vào. Đấy là hội
nhập.
Và nếu
bạn thực sự mong muốn hoàn thành việc này, điều cần yếu không phải là chỉ
tập thiền thỉnh thoảng như uống thuốc trị bệnh, mà phải như ăn cơm bữa.
Bởi vậy, một cách tuyệt hảo để phát triển khả năng hội nhập này, là đầu
tiên hãy thực tập thiền trong một khung cảnh nhập thất, xa hẳn những căng
thẳng của sinh hoạt đô thị ngày nay.
Người ta
rất thường đến với thiền với hy vọng có những kết quả phi thường, như linh
kiến, ánh sáng, hay một vài phép lạ siêu nhiên. Khi không có điều gì như
vậy xảy ra, thì họ hết sức thất vọng. Nhưng phép lạ thực sự của thiền định
lại “thuờng” hơn, và hữu ích hơn nhiều. Đấy là một sự chuyển hóa tế
nhị, không chỉ xảy ra trong tâm bạn, cảm xúc bạn, mà thực sự cả trong thân
bạn. Nó chữa lành. Những bác sĩ và nhà khoa học đã khám phá rằng
khi bạn vui vẻ, thì những tế bào trong cơ thể bạn còn vui vẻ hơn, nhưng
khi tâm bạn ở trong trạng thái tiêu cực, thì những tế bào của bạn có thể
trở thành ác tính. Toàn thể tình trạng sức khỏe bạn, có quan hệ mật thiết
đến trạng thái tâm bạn và lối sống của bạn.
NGUỒN CẢM HỨNG
Tôi đã
nói rằng thiền định là con đường đưa đến giác ngộ và là nỗ lực lớn lao
nhất của đời này. Mỗi khi nói về thiền định cho sinh viên, tôi luôn nhấn
mạnh sự cần thiết phải thực hành thiền với một kỷ luật quyết định và sự
sùng kính nhất tâm; đồng thời, cũng rất quan trọng là thực hành thiền với
cảm hứng và tinh thần sáng tạo càng nhiều càng tốt. Có thể nói thiền là
một nghệ thuật, và bạn nên tập thiền định với niềm hứng thú và giàu tính
phát minh của một nghệ sĩ.
Hãy hăng
hái đi vào sự an lạc của bạn như bạn đang cạnh tranh điên cuồng trong cuộc
đời. Có nhiều cách đề làm cho thiền định trở thành một niềm vui. Bạn có
thể tìm một bản nhạc ưa thích, và dùng nó để mở tâm trí bạn. Bạn có thể
sưu tập thi ca, trích dẫn lời thánh nhân động đến tâm can bạn, và giữ
chúng bên mình để làm bạn lên tinh thần. Tôi luôn luôn thích những bức
tranh cổ thangka của Tây Tạng, vẻ đẹp của chúng làm cho tôi thêm
năng lực. Bạn cũng có thể tìm những bức tranh gợi cho bạn cảm giác thiêng
liêng, và treo lên tường phòng bạn. Lắng nghe băng giảng của một vị thầy
vĩ đại, hoặc nghe tán tụng. Bạn có thể biến chỗ bạn ngồi thiền thành một
thiên đường giản dị, với một đóa hoa, một cây hương, một ngón nến, một bức
ảnh của bậc thầy đã giác ngộ, hay một tượng Phật. bạn có thể biến gian
phòng thường nhất thành một nơi thiêng liêng ấm cúng, một khung cảnh mà
mỗi ngày bạn đến gặp bản ngã đích thực của bạn với tất cả niềm vui và hạnh
phúc như gặp bạn cố tri. Và nếu bạn nhận thấy thiền định không dễ dàng xảy
đến trong phòng bạn ở đô thị, thì hãy ra ngoài thiên nhiên. Thiên nhiên
luôn luôn là một nguồn cảm hứng bất tận. Muốn an tâm, bạn hãy đi dạo vào
lúc bình minh trong công viên, hay ngắm sương mai trên một đóa hồng trong
vườn. Nằm giữa đất mà ngắm nhìn bầu trời, để tâm bạn trải ra trong cái bao
la đó. Hãy để cho bầu trời bên ngoài đánh thức bầu trời trong tâm bạn.
Đứng bên dòng suối mà hòa tâm bạn vào tiếng nước chảy, ngồi bên thác đổ,
để cho tiếng cười trong sáng của nó tịnh hóa tâm hồn bạn. Đi dạo trên bãi
biển và hứng đầy gió biển trên mặt bạn. Mừng ánh trăng sáng để cho vẻ đẹp
của trăng làm lắng tâm bạn. Ngồi trên hồ hay trong vườn, thở lặng lẽ, để
tâm bạn im lặng khi trăng từ từ lên tráng lệ trong bầu trời không mây. Mọi
sự đều có thể dùng làm sự mời gọi thiền định. Một nụ cười, một gương mặt
trên tàu hầm, một cánh hoa mọc trong khe đá bên vệ đường, một tấm vải sặc
sỡ treo trong cửa tiệm, ánh trời chiếu trên chậu hoa nơi cửa sổ. Hãy nhạy
bén đối với mọi dấu hiệu của cái đẹp và vẻ diễm kiều. Dâng lên mọi niềm
vui, tỉnh giác vào mọi lúc, trước “những tin tức luôn luôn đến từ im
lặng.”
Dần dà
bạn sẽ là người làm chủ lấy hạnh phúc của mình, tạo ra niềm vui cho chính
mình, có đủ mọi phương pháp để thắp sáng, nâng cao, gợi cảm hứng cho từng
hơi thở và động tác của mình. Thế nào là một thiền giả vĩ đại? Đó là người
luôn luôn sống với sự hiện diện của cái tự ngã chân thực của mình, đã tìm
ra và sử dụng liên tục suối nguồn của cảm hứng sâu xa. Nhà văn Anh
Lewis Thompson viết:
- Kitô,
thi nhân tối thượng, đã sống chân lý một cách say sưa đến độ mỗi hành vi
của ngài đều là Hành vi thuần tịnh và ngôi Lời toàn hảo, thể hiện cái siêu
việt.
Thể hiện
cái siêu việt, đó là lý do chúng ta sống trên đời.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment