Con nhớ kiếp trước sinh ra ở nước Ba-la-nại, làm người con gái
nghèo. Bấy giờ, có Phật hiệu là Ca-diếp thường thuyết pháp, đại chúng
vây quanh. Bấy giờ, con ở dưới tòa nghe kinh tâm sinh hoan hỷ, ý muốn bố
thí, xét lại mình không có vật gì, tự nghĩ nghèo hèn, tâm khởi buồn
than, sau đó đi đến vườn cây kia, xin một quả dưa đem dâng cúng Phật...
Phạn ngữ sang Hán ngữ
Sa môn Pháp Lập và Pháp Cự đời Tây Tấn ( 265-317)
Hán ngữ sang Việt ngữ Thiền sinh Thích Tuệ Thông
Sa môn Pháp Lập và Pháp Cự đời Tây Tấn ( 265-317)
Hán ngữ sang Việt ngữ Thiền sinh Thích Tuệ Thông
Lời Tựa
Là người ai ai cũng mong muốn cho mình có cơm ăn áo mặc, khỏe mạnh sống lâu, gia đình hạnh phúc, hay hơn thế nữa lại cũng được phú quý vinh hoa, sở cầu như ý...nhưng cũng có khi do thiếu niềm tin và lý trí, không biết nhân quả thiện ác, muốn vươn lên mà lại đi xuống, muốn hạnh phúc nhưng lại dấn sâu vào con đường khổ đau, muốn bình an mà lại tạo bất an...
Hoặc cũng có người có chút ít niềm tin nơi nhân quả, ưa làm phước thiện nhưng chẳng biết rồi sẽ ra sao...
Hay có người lại cam chịu cuộc đời theo số mệnh, mất đi sự tự chủ mà không biết vươn lên: “Ta là nhân tố quyết định số phận của chính mình”...
Chúng tôi hữu duyên được đọc trong “Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh”, quyển thứ 16, gặp cuốn “ Phật Thuyết Chư Công Đức Phước Điền Kinh”, thật như ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, giúp cho chúng ta thấu rõ nhân quả thiện ác.
Đồng thời bài kinh này không những giúp cho chúng ta tin sâu nhân quả, vui trong thiện nghiệp mà còn là nhân tố lành khiến cho chúng ta đời đời sinh ra đều được gặp Tam Bảo, nếu tiến tu thêm dần dần sẽ thành Phật đạo, dù chỉ bắt đầu từ những việc làm phước nhỏ nhoi mà thôi.
Vì thế, chúng tôi phát tâm Việt ngữ với tên Kinh là “ Phật nói Các Công Đức Của Ruộng Phước” để kết duyên lành với những ai hữu duyên được đọc đến.
Thế nhưng vì khả năng có hạn, không sao tránh khỏi những lỗi lầm trong khi dịch thuật, chỉ kính mong các bậc thiện hữu tri thức từ bi chỉ giáo để lần tái bản sau được hoàn hảo hơn.
Thiền viện Trúc Lâm Phụng Hoàng năm 2013
Kính ghi
Thích Tuệ Thông
PHẬT NÓI KINH CÔNG ĐỨC RUỘNG PHƯỚC
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Phật ở vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ-đà thuộc nước Xá-vệ, cùng với 1250 vị Tỳ Kheo, một vạn vị Bồ-tát, vô số đại chúng vây quanh nghe Phật thuyết pháp. Bấy giờ, Trời Đế-thích cùng với các thiên tử trời Dục giới gồm có ba vạn hai ngàn vị, mỗi vị mang theo nhiều người tùy tùng không thể đếm hết đi đến chỗ Phật, đầu lễ sát đất, xong đều ngồi sang một bên.
Bấy giờ Trời Đế-thích quán sát toàn chúng đã ngồi an định, bèn nương thần lực Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục đảnh lễ, quỳ gối chắp tay mà bạch Thế tôn rằng: “ Con có điều muốn thưa hỏi, cúi xin Thế tôn giảng dạy để làm khuôn phép cho đời”.
Phật bảo Trời Đế-thích: “ Ví như ngôi nhà tối tăm, chẳng cầu có đèn sáng thì đâu thấy được vật gì? Lành thay lời hỏi này! Ta sẽ vì ông phân biệt nói rõ”.
Trời Đế-thích bạch Phật rằng: “Nói về người gieo trồng phước đức, muốn cầu phước báo, có ruộng tốt nào gieo giống vào được quả báo vô hạn, trồng một chút ít gốc phước đức mà thu được phước vô lượng chăng? Cúi xin Thế tôn mở bày ban bố lới huấn từ, khiến cho những kẻ ngu mê này được phước báo vô lượng”.
Thế tôn khen rằng: “ Thích thú thay Thiên Đế, khởi ý hỏi pháp vô thượng! Ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ giảng dạy đầy đủ khiến ông được hoan hỷ”.
Vua Trời Đế-thích cùng với đại chúng vâng lời Phật dạy mà lắng nghe.
Phật bảo vua Trời rằng: “Trong chúng Tăng, có năm đức thanh tịnh gọi là ruộng phước, cúng dường chúng Tăng sẽ được nhiều phước, tu tiến thêm có thể thành Phật. Những gì gọi là năm?
• Hai là hủy hoại thân hình đẹp của mình, vì ưa thích mặc pháp phục (áo hoại sắc)
• Ba là cắt đứt tình thương yêu người thân, vì xem mọi người đều là thân thuộc.
• Bốn là xả bỏ thân mạng, vì thích làm các việc lành.
• Năm là quyết chí cầu pháp Đại thừa, vì muốn cứu độ tất cả chúng sinh.
Tăng do có năm đức tính này nên gọi là ruộng phước, là tốt đẹp, là không bị hoại nhanh, cúng dường được nhiều phước, khó lấy vật gì để so sánh”.
Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ rằng:
Hủy hình giữ khí tiết
Cắt ái không người thân
Xuất gia hoằng đạo Thánh
Nguyện độ khắp thế nhân
Năm đức vượt thế gian
Gọi là ruộng phước tốt
Cúng dường mãi an vui
Phước ấy quý bậc nhất
Cắt ái không người thân
Xuất gia hoằng đạo Thánh
Nguyện độ khắp thế nhân
Năm đức vượt thế gian
Gọi là ruộng phước tốt
Cúng dường mãi an vui
Phước ấy quý bậc nhất
Phật bảo Đế-thích: “ Lại có bảy pháp bố thí rộng rãi gọi là ruộng phước. Người thực hành được phước liền sinh trời Phạm Thiên. Những gì là bảy?
• Một là xây dựng chùa tháp thờ Phật và lầu gác phòng ốc cho chúng Tăng ở.
• Hai là dựng lập vườn cây ăn trái, ao tắm, cây cối trong sạch mát mẻ để phục vụ mọi người.
• Ba là thường bố thí thuốc thang chữa trị cứu giúp những người tật bệnh.
• Bốn là làm thuyền bền chắc đứa đón nhân dân qua lại trên sông.
• Năm là lắp đặt cầu cống giúp người gầy yếu đi qua lại được thuận lợi.
• Sáu là gần đường đào giếng để người khát nước mỏi mệt được uống.
• Bảy là tạo lập nhà vệ sinh đặt chỗ tiện lợi.
Đó là bảy việc, người thực hành được nhiều phước, mạng chung sinh lên cõi trời Phạm Thiên”.
Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ rằng:
Dựng tháp lập Tăng đường
Vườn cây nơi mát mẻ
Cho thuốc cứu người bệnh
Cầu, thuyền giúp nhân dân
Bên đường làm giếng tốt
Người khát được tiện dùng
Sinh ra ăn cam lồ
Không bệnh thường an ổn
Nhà vệ sinh chỗ sạch
Trừ uế được nhẹ vui
Sau không bệnh bất tiện
Chẳng gặp chỗ xấu nhơ
Ví như nước năm sông
Ngày đêm chảy không dừng
Phước này cũng như thế
Chết được sinh Phạm Thiên.
Vườn cây nơi mát mẻ
Cho thuốc cứu người bệnh
Cầu, thuyền giúp nhân dân
Bên đường làm giếng tốt
Người khát được tiện dùng
Sinh ra ăn cam lồ
Không bệnh thường an ổn
Nhà vệ sinh chỗ sạch
Trừ uế được nhẹ vui
Sau không bệnh bất tiện
Chẳng gặp chỗ xấu nhơ
Ví như nước năm sông
Ngày đêm chảy không dừng
Phước này cũng như thế
Chết được sinh Phạm Thiên.
Bấy giờ từ trong giữa đại chúng có một vị Tỳ-kheo tên là Thính Thông, nghe pháp vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy hướng về Phật đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Thế Tôn rằng:
-Lời Phật dạy là chân thật, đem đến lợi ích lớn vô lượng. Vì cớ sao? Con nhớ kiếp quá khứ cách đây vô số đời, con sinh ra ở nước Ba-la-nại làm con của nhà trưởng giả. Ở bên đường lớn, con làm một tinh xá nhỏ, sắm sửa giường nằm, nước uống, lương thực cung cấp cho chúng Tăng, người đi đường mệt mỏi cũng được có chỗ dừng lại nghỉ ngơi. Nhờ công đức này, sau khi mạng chung, con được sinh lên cõi trời làm Thiên Đế-thích. Sau đó, sinh xuống nhân gian làm Chuyển Luân Thánh Vương, đến ba mươi sáu lần, lãnh đạo Trời người, dưới chân con mọc một lớp lông, đi được trong hư không mà dạo chơi, trải qua chín mươi mốt kiếp, ăn uống nhờ phước tự nhiên. Nay gặp Thế Tôn, nhìn lại chúng sinh si mê chấp ngã, riêng con được an lạc là nhờ trí tuệ đoạn dứt mầm sinh tử hiệu là Chân Nhân.
Bấy giờ Thính Thông liền nói kệ rằng:
Nghĩ nhớ đời quá khứ
Cúng dường chỉ ít thôi
Quả báo nhiều kiếp nối
Phước thừa gặp Thế Tôn
Trí sáng đoạn sinh tử
Si, ái nhiễm không còn
Ân Phật tỏa cùng khắp
Do đó con tìm về.
Cúng dường chỉ ít thôi
Quả báo nhiều kiếp nối
Phước thừa gặp Thế Tôn
Trí sáng đoạn sinh tử
Si, ái nhiễm không còn
Ân Phật tỏa cùng khắp
Do đó con tìm về.
Bấy giờ, Thính Thông đảnh lễ Phật xong trở về chỗ ngồi. Lại có một vị Tỳ-kheo tên là Bạc-câu-la từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục rồi đảnh lễ, chắp tay quỳ gối bạch Thế Tôn rằng:
- Con nhớ kiếp quá khứ, sinh ra trong nước Câu-di-na-kiệt làm con của ông trưởng giả. Thời bấy giờ không có Phật, chỉ có chúng Tăng giáo hóa, mở đại hội thuyết pháp, con đi qua đó nghe giảng kinh. Lòng con hoan hỷ bèn cầm một quả thuốc tên là Ha-lê-lặc dâng cúng lên chúng Tăng. Do quả báo này, sau khi mạng chung được sinh cõi Trời, sau đó sinh xuống nhân gian. Luôn được ở chỗ tôn quý, đoan chính tài giỏi hơn hẳn mọi người, trải qua chín mươi mốt kiếp chưa từng có bệnh. Phước còn thừa nên gặp Phật. Soi sáng dẫn đường cho con hết ngu si, truyền cho con pháp dược, cho đến khế hợp được với chân lý, sức mạnh có thể dời những ngọn núi, trí huệ hay tiêu trừ các điều ác. Lành thay! Phước báo đúng là chân lý!
Bấy giờ, Bạc-câu-la liền nói kệ rằng:
Nước từ bi thấm nhuần khô héo
Công đức lành khổ nạn vượt qua
Gốc thiện chỉ có một quả thuốc
Hưởng phước dư thừa đến ngày nay
Phật dạy nghĩa lý rất chân thật
Phước điền tối thượng con nương về.
Công đức lành khổ nạn vượt qua
Gốc thiện chỉ có một quả thuốc
Hưởng phước dư thừa đến ngày nay
Phật dạy nghĩa lý rất chân thật
Phước điền tối thượng con nương về.
Bấy giờ, Bạc-câu-la đảnh lễ Phật xong trở về chỗ ngồi. Lại có một Tỳ kheo tên là Tu-đà-da, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục rồi đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Thế Tôn rằng:
- Con nhớ lại đời trước, sinh ra tại nước Duy-da-ly, làm con của một gia đình nhỏ. Lúc bấy giờ không có Phật, chỉ còn chúng Tăng đi giáo hóa, khi ấy con mang sữa đặc vào chợ định bán thì gặp chúng Tăng đang mở đại hội giảng pháp, con qua đó đứng nghe. Lời pháp vi diệu, rồi tâm con hoan hỷ, liền cầm bình sữa lên cúng dường chúng Tăng. Chúng Tăng chú nguyện nên lòng con càng vui vẻ hân hoan. Do phước báo ấy, sau khi mạng chung được sinh lên cõi Trời. Kế đó sinh xuống nhân gian, tiền của vô hạn, trong chín mươi mốt kiếp giàu có tôn vinh. Sau cùng do tội lỗi còn sót nên sinh ra trong thế gian, người mẹ mang thai vài tháng, bị bệnh liền chết, chôn mẹ trong phần mộ đủ tháng mới sinh ra con. Trong mộ bảy năm, con uống sữa của người mẹ đã chết để tự nuôi sống, còn một ít phước nên được gặp Phật khai pháp sáng tỏ, vượt qua sống chết, đến chỗ chân thật. Vi tế thay! Tội phước đúng như lời Phật dạy.
Bấy giờ, Tu-đà-da liền nói kệ rằng:
Đời trước làm con gia đình nhỏ
Bán sữa ngoài chợ để nuôi thân
Cúng dường chút ít lòng hoan hỷ
Nhờ đó được thoát khổ ba đường
Vì còn sót tội, sinh trong mộ
Uống sữa mẹ chết, sống bảy năm
Nhờ tạo duyên lành được giải thoát
Nhất tâm quy mạng Thánh phước điền.
Bán sữa ngoài chợ để nuôi thân
Cúng dường chút ít lòng hoan hỷ
Nhờ đó được thoát khổ ba đường
Vì còn sót tội, sinh trong mộ
Uống sữa mẹ chết, sống bảy năm
Nhờ tạo duyên lành được giải thoát
Nhất tâm quy mạng Thánh phước điền.
Bấy giờ, Tu-đà-da lễ Phật xong trở về chỗ ngồi. Lại có Tỳ-kheo tên là A-nan, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y đảnh lễ, quỳ gối chắp tay, bạch Thế Tôn rằng:
- Con nhớ kiếp quá khứ sinh ra trong nước La-duyêt-kỳ, làm con của dân thường, thân bị bệnh ác, điều trị mãi mà không hết bệnh. Con có bạn thân là đạo nhân, đến nói với con rằng: “ Anh nên tắm rửa chúng Tăng, lấy nước tắm ấy để rửa vết lở, bệnh liền trừ hết, lại còn có thể tăng Phước”.
Con liền hoan hỷ đến ngôi chùa kia, hết lòng thành kính, lại cho đào giếng mới, mua sắm dầu thơm, xà phòng... đầy đủ để chúng Tăng tắm rửa, rồi dùng nước tắm ấy tẩy rửa vết thương, chẳng bao lâu bệnh được hết hẳn. Do nhân duyên này, thân con sinh ra đều được đoan chính, sắc vàng rực rỡ, chẳng dính bụi trần, trong chín mươi mốt kiếp thường được phước trong sạch, chư Tăng rộng tâm hóa độ. Nay lại gặp Phật, tâm nhơ tiêu diệt, được đến chỗ chân thật.
A-nan trước Phật liền nói kệ rằng:
Thánh chúng là lương y
Cứu giúp họa khổ não
Cúng dường nước tắm Tăng
Bệnh hết được an ổn
Sinh ra thường trang nghiêm
Thù thắng màu vàng tía
Đức nhuận không mé bờ
Quy mạng phước điền tốt (Phật)
Cứu giúp họa khổ não
Cúng dường nước tắm Tăng
Bệnh hết được an ổn
Sinh ra thường trang nghiêm
Thù thắng màu vàng tía
Đức nhuận không mé bờ
Quy mạng phước điền tốt (Phật)
A-nan lễ Phật xong trở về chỗ ngồi. Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ-kheo-ni tên là Nại Nữ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Thế Tôn rằng:
- Con nhớ kiếp trước sinh ra ở nước Ba-la-nại, làm người con gái nghèo. Bấy giờ, có Phật hiệu là Ca-diếp thường thuyết pháp, đại chúng vây quanh. Bấy giờ, con ở dưới tòa nghe kinh tâm sinh hoan hỷ, ý muốn bố thí, xét lại mình không có vật gì, tự nghĩ nghèo hèn, tâm khởi buồn than, sau đó đi đến vườn cây kia, xin một quả dưa đem dâng cúng Phật. Bấy giờ, người ta cho con một quả nại to lớn thơm ngon, con dâng lên quả nại và một cái bát để chứa nước quả nại cúng Phật Ca-diếp và chúng Tăng. Phật biết con có lòng chí thành, bèn chú nguyện rồi nhận, phân phát nước quả nại khắp hết tất cả Tăng chúng. Do phước báo này, sau khi mạng chung, con được sinh lên cõi trời, làm hoàng hậu của vua Trời, sau đó sinh xuống nhân gian, không vào trong bào thai, trải qua chín mươi mốt kiếp sinh ra từ hoa nại, doan chính sinh đẹp, thường biết rõ kiếp trước. Nay gặp Thế Tôn khai thị đạo nhãn.
Bấy giờ Nại Nữ liền nói kệ rằng:
Lòng từ Phật thấm nhuần khắp cả
Trí tuệ độ không phân nữ nam
Nước dưa cúng dường phước báo rộng
Do đó được lìa các nạn tai
Chào đời sinh ra từ hoa nại
Sinh lên trời làm vợ Thiên vương
Quy mạng Thánh chúng thường cứu giúp
Ruộng phước lành quả thật thâm sâu.
Trí tuệ độ không phân nữ nam
Nước dưa cúng dường phước báo rộng
Do đó được lìa các nạn tai
Chào đời sinh ra từ hoa nại
Sinh lên trời làm vợ Thiên vương
Quy mạng Thánh chúng thường cứu giúp
Ruộng phước lành quả thật thâm sâu.
Tỳ-kheo-ni Nại Nữ lễ Phật xong trở về chỗ ngồi. Bấy giờ, Trời Đế-thích liền từ chỗ ngồi đứng dậy, hướng về Phật đảnh lễ, bạch Thế Tôn rằng:
- Con nhớ kiếp quá khứ sinh ra tại nước Câu-lưu-đại, làm con của trưởng giả, cùng các nô tỳ vào thành dạo chơi. Khi đó, con gặp được chúng Tăng tại chỗ đầu đường ngã ba phân ra các ngõ, nhân dân, người bố thí rất nhiều. Con liền tự nghĩ rằng: “ Nguyện được của báu để cúng dường chúng Tăng”. Đó đúng là niềm vui lớn! Con liền mở châu ngọc đang đeo, dâng lên cúng dường chúng Tăng. Chúng Tăng đồng tâm chú nguyện, tâm con rất hoan hỷ, sau đó từ giã ra đi. Do nhân duyên này, con mạng chung liền được sinh lên cõi trời Đao-lợi, làm vua Trời Đế-thích, trải qua 91 kiếp thường xa lìa tám nạn,
( Tám nạn: 1- Địa ngục, 2- Ngạ quỷ, 3- Súc sinh, 4- Sinh ra ở vùng biên địa, vùng sâu, vùng xa..., 5- Sinh lên cõi Trời Trường thọ, 6- Tuy được làm người mà bị mù, điếc, câm ngọng, tay chân khuyết tật, chẳng thể nghe nhận, 7- Tuy được thân người, sáu căn đầy đủ, lanh lợi thông minh theo thế gian, học các sách vở thế tục, tin theo tà kiến, cúng tế quỷ yêu, hoặc sát sinh săn bắn, buông tâm phóng ý, lừa dối hư ngụy muôn điều, chẳng tin Tam Bảo, từ đó sau khi chết bị đọa vào địa ngục, từ sáng đi vào tối, không có ngày thoát ra. Khi được làm thân người, lại chẳng có lòng tin chân chánh, chẳng phụng thờ Tam Bảo, 8- Sinh ra trước khi Phật giáng sinh và sau khi Phật Niết-bàn).
Bấy giờ, Đế-thích liền nói kệ rằng:
Đức cao không có lỗi lầm
Khai phước lấp bít nguồn họa
Thánh chúng sức định như thần
Con trẻ phát tâm hoan hỷ
Học theo người thích cúng dường
Mạng chung sinh trời Đao-lợi
Tự quy y Đức Thế Tôn
Đời đời con nguyện thờ kính.
Khai phước lấp bít nguồn họa
Thánh chúng sức định như thần
Con trẻ phát tâm hoan hỷ
Học theo người thích cúng dường
Mạng chung sinh trời Đao-lợi
Tự quy y Đức Thế Tôn
Đời đời con nguyện thờ kính.
Phật bảo Thiên Đế-thích và đại chúng:
Hãy lắng nghe ta nói về những việc làm trong kiếp trước. Vào đời xa xưa, trong đời quá khứ, ta sinh ra tại nước Ba-la-nại. Chỗ gần bên đường lớn, ta xây dựng một nhà vệ sinh công cộng. Nhân dân trong thành nhờ vậy mà được nhẹ nhàng, mọi người đều cảm động. Do công đức này, ta sinh ra nơi nào cũng đều được chỗ sạch sẽ, nhiều kiếp hành đạo, uế nhiễm chẳng dính vào thân, công đức đầy đủ, liền được thành Phật, thân thể sáng như vàng ròng, nước bụi chẳng dính, thức ăn tự tiêu hóa, không có bệnh đường ruột.
Bấy giờ Thế Tôn Liền nói kệ rằng:
Chịu nhơ bẩn siêng làm việc phước
Ta làm sạch chỗ ở cho người
Tạo nhà vệ sinh nơi tiện lợi
Mọi người bức xúc được nhẹ nhàng
Hạnh này trừ được tâm kiêu mạn
Do đó hiểu được duyên tử sinh
Tiến lên tu thêm thành Phật đạo
Thanh tịnh cao vút tự rỗng rang.
Ta làm sạch chỗ ở cho người
Tạo nhà vệ sinh nơi tiện lợi
Mọi người bức xúc được nhẹ nhàng
Hạnh này trừ được tâm kiêu mạn
Do đó hiểu được duyên tử sinh
Tiến lên tu thêm thành Phật đạo
Thanh tịnh cao vút tự rỗng rang.
Phật bảo Trời Đế-thích: “ Trong 96 thứ ngoại đạo, Phật pháp rất là chân thật; trong 96 loại Tăng, Tăng của Phật rất là chân chánh. Vì cớ sao? Bởi vì Như Lai từ vô số kiếp phát nguyện trung thực với sự thật, quên mạng sống để tích lũy phước đức, nguyện vì chúng sinh đem đất nước, tài sản vợ con, đầu mắt máu thịt, đều bố thí, không khởi tâm luyến tiếc. Tâm như hư không, tất cả các lời đều được che chở. Lục độ ( bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ) và tứ đẳng tâm (từ, bi,hỷ,xả), các việc lành ta ban bố khắp, phước trí đầy đủ, liền được thành Phật, sắc thân màu vàng tía, tướng tốt không gì sánh bằng; quá khứ, vị lai, hiện tại, không đâu mà không thông suốt, tôn quý trong ba cõi, không ai có thể bì kịp; lời nói ra được mọi người tin theo, đạo đức thâm hậu, chấn động trời đất.
Nếu có chúng sinh, một lần phát tâm thành kính hướng về Như Lai, công đức còn vượt hơn của báu bằng tam thiên đại thiên thế giới. Ta nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười hai bộ kinh, phân biệt tội phước, lời nói đều chí thành, mở dạy ba thừa, mọi người phụng hành. Người nghe hoan hỷ, thích làm Sa-môn, tin Phật làm theo lời dạy, tâm chí thành đến chỗ thanh cao. Trong chúng Tăng, có tứ song bát bối ( 1 - Tu-đà-hoàn, Hướng Tu-đà-hoàn. 2 - Tư-đà-hàm, Hướng Tư-đà-hàm. 3 - A-na-hàm, Hướng A-na-hàm. 4 – A-la-hán, Hướng A-la-hán), mười hai bậc hiền, xả bỏ đời tham lam tranh đấu, dẫn đường thế gian mở ra phước báo, thông suốt đường Trời người, đó là nguồn gốc của chúng Tăng vậy. Đấy là con đường tối tôn không gì hơn. Chư Phật, Bồ-tát, Duyên Giác ứng hợp với chân lý đều từ trong đó mà ra, giáo hóa tất cả, độ thoát quần sinh”.
Bấy giờ, Phật nói như thế rồi, Trời Đế-thích và toàn chúng đều phát tâm hướng về đạo Vô thượng Chánh nhân, người được pháp nhãn thanh tịnh không thể tính kể. Khi ấy, A-nan quỳ gối chắp tay, bạch Phật rằng:
- Đây gọi là kinh gì? Chúng con làm sao phụng trì?
Phật bảo A-nan:
- Kinh này tên là “ Công Đức Ruộng Phước”, ông phải thường vâng theo thọ trì, hết lòng tuyên dương kinh này, chớ để cho suy giảm.
Phật nói kinh này rồi. Trời Đế-thích và các vị Trời tùy tùng, tất cả hội chúng đều hoan hỷ, lễ Phật rồi lui ra.
Dịch từ “Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển 16”. Hoàn tất trong mùa An cư 2007 tại Thiền viện Trúc Lâm Phụng Hoàng (Đà Lạt)
0 Kommentare:
Post a Comment