"Chúng ta chọn lựa pháp môn này giống như các vị
Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền, phương pháp tu
hành cũng tương đồng, sanh về Tây
Phương đạt được quả vị
đương nhiên cũng tương đồng.."
Phần
3
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập dịch kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí
Húc chú giải vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng
thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù
ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Phật
Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
IV. Giải
thích chánh kinh
(Giải)
Nhập văn phân tam: Sơ Tự Phần, nhị Chánh Tông
Phần, tam Lưu Thông Phần. Thử tam danh Sơ Thiện,
Trung Thiện, Hậu Thiện. Tự như thủ, ngũ
quan cụ tồn. Chánh Tông như thân, phủ tạng vô khuyết.
Lưu Thông như thủ túc, vận hành bất trệ. Cố,
Trí Giả thích Pháp Hoa, sơ nhất phẩm giai vi Tự, hậu
thập nhất phẩm bán, giai vi Lưu Thông. Hựu nhất
thời Tích Bổn nhị môn, các phân tam đoạn, tắc
Pháp Sư đẳng ngũ phẩm, giai vi Tích Môn lưu
thông. Cái Tự tất đề nhất kinh chi
cương, Lưu Thông tắc pháp thí bất ủng, quan hệ
phi tiểu. Hậu nhân bất đạt, kiến kinh
văn sảo thiệp nghĩa lý, tiện phán nhập Chánh
Tông, trí Tự cập Lưu Thông cận tồn cố sáo,
an sở xưng “sơ ngữ diệc thiện, hậu ngữ
diệc thiện” dã tai?
(解) 入文分三。初序分。二正宗分。三流通分。此三名初善。中善。後善。序如首。五官具存。正宗如
身。腑臟無闕。流通如手足。運行不滯。故智者釋法華。初一品皆為序。後十一品半。皆為流通。又一時跡本二門。各分三段。則法師等五品。皆為跡門流通。蓋序
必提一經之綱。流通則法施不壅。關係非小。後人不達。見經文稍涉義理。便判入正宗。致序及流通。僅存故套。安所稱初語亦善。後語亦善也哉。
(Giải: Bước vào phần kinh văn, chia
thành ba phần: Một là Tự Phần, hai là Chánh Tông Phần,
ba là Lưu Thông Phần. Ba phần này gọi là Sơ Thiện,
Trung Thiện, Hậu Thiện. Tự giống như đầu,
ngũ quan[1]
đầy đủ. Chánh Tông như thân, tạng phủ chẳng
thiếu. Lưu Thông như chân tay, đi lại không trở
ngại. Vì thế, ngài Trí Giả chú giải kinh Pháp Hoa, coi
một phẩm đầu là Tự Phần, mười một
phẩm rưỡi trong phần cuối đều thuộc
Lưu Thông Phần. Lại trong một thời, chia thành hai
môn Tích và Bổn, đối với mỗi môn đều
chia thành ba đoạn, tức là năm phẩm như phẩm
Pháp Sư v.v... đều thuộc Lưu Thông Phần của
Tích Môn. Bởi lẽ, Tự Phần ắt phải nêu lên
cương lãnh của một bộ kinh, Lưu Thông Phần
chính là pháp thí không úng tắc. Quan hệ chẳng nhỏ!
Người đời sau chẳng thông hiểu, hễ thấy
phần kinh văn nào dính dáng đôi chút nghĩa lý bèn phán
định thuộc phần Chánh Tông, đến nỗi Tự
Phần và Lưu Thông Phần chỉ còn là khuôn sáo cũ kỹ,
đâu đáng được gọi là “những câu nói trong
phần đầu cũng tốt lành, những lời nói
cuối cùng cũng tốt lành” đó ư?)
Đoạn văn giảng giải trong phần
này nhằm nêu rõ cách phân chia kinh văn
thành từng khoa. Tại Trung Quốc, dưới thời
Đông Tấn, pháp sư Đạo An đã chia mỗi bộ
kinh thành ba đoạn lớn, trước đó không
hề có lệ này. Thuở ấy, có người chẳng
tán đồng làm như vậy là đúng. Về sau, bộ
Phật Địa Luận[2]
(tức bản chú giải phẩm Thập Địa của
kinh Hoa Nghiêm) của pháp sư Thân Quang tại Ấn
Độ được truyền đến Trung Quốc,
sau khi được dịch ra thì [người đọc
mới thấy ngài Thân Quang] cũng chia kinh văn thành ba phần
Tự, Chánh Tông và Lưu Thông. Từ đấy về sau, hết
thảy kinh văn đều tuân theo cách phân đoạn
này. Cách phân khoa kinh A Di Đà của Ngẫu Ích đại
sư có chỗ khác biệt với cổ đức nên Ngài
đặc biệt nêu lên cách Thiên Thai Trí Giả đại
sư giảng kinh Pháp Hoa, gồm Sơ Thiện, Trung Thiện,
Hậu Thiện, [tức là] cả ba phần đều tốt
lành. Tự Phần giống như đầu, Chánh Tông Phần
giống như thân, Lưu Thông Phần như chân tay, cả
ba phần đều tốt lành, chẳng phân chia cao thấp.
Trí Giả đại sư là một nhân vật lỗi lạc
trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, nếu quý vị
muốn biết cặn kẽ, xin hãy đọc Trí Giả
Đại Sư Truyện. Kinh Pháp Hoa gồm hai mươi
tám phẩm, chia thành hai phần trước và sau. Nửa phần
trước gọi là Tích Môn, nửa phần sau gọi là Bổn
Môn. “Tích” (跡) là nói về sự tướng hoàn toàn
hiển lộ trước mặt chúng ta. “Bổn” (本) là nói về quả vị đã chứng
đắc trong quá khứ. Giống như Quán Thế Âm Bồ
Tát, luận về Tích thì Ngài dùng thân phận Bồ Tát vào thế
gian hóa độ chúng sanh. Luận theo Bổn, Ngài đã
thành Phật từ lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, thả
chiếc bè từ, dùng thân phận Bồ Tát giáng thế
độ sanh. Lại như đại đệ tử của
đức Thế Tôn là ngài Xá Lợi Phất, [mang thân phận]
là Tiểu Thừa Tứ Quả A La Hán, nhưng ngài Xá Lợi
Phất cũng là cổ Phật tái lai.
Trong phần Tích Môn của kinh Pháp Hoa cũng
có ba phần Tự, Chánh Tông và Lưu Thông. Phẩm thứ
nhất là Tự Phần, từ phẩm thứ hai đến
phẩm mười bảy, tức phẩm Phân Biệt Công
Đức, là Chánh Tông Phần. Nửa phần còn lại
cho đến phẩm cuối cùng, tức phẩm hai
mươi tám, thuộc Lưu Thông Phần. Vì thế,
được gọi là Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu
Thiện. Đại sư lại đem hai mươi tám
phẩm ấy chia thành hai phần là Bổn Môn và Tích Môn,
Tích Môn gồm mười bốn phẩm đầu. Phẩm
thứ mười lăm là Tự Phần của Bổn
Môn, từ đó cho tới phẩm thứ mười bảy
là Chánh Tông Phần của Bổn Môn, từ phẩm mười
tám đến phẩm hai mươi tám đều thuộc
về Lưu Thông Phần của Bổn Môn. Do đây, có thể
thấy rõ là kinh điển từ đầu đến
cuối đều tốt lành, như người ăn mật,
nếm ở giữa hay chung quanh đều ngọt. Từ
Tự Phần có thể thấy được
cương yếu của toàn bộ kinh, do Lưu Thông Phần
nên kinh có thể lưu truyền mười phương ba
đời không bị chướng ngại, quan hệ chẳng
nhỏ. Người đời sau chẳng biết tánh chất
trọng yếu [của hai phần này], hễ thấy kinh
văn dính dáng đôi chút nghĩa lý bèn phán định đoạn
ấy thuộc vào Chánh Tông Phần, đến nỗi Tự
Phần và Lưu Thông Phần chỉ còn là hình thức. Cách
phân chia ba phần như vậy là do người đời
sau đặt ra, chứ trong lúc giảng kinh Thế Tôn không
phân chia như vậy.
4.1. Tự
Phần
4.1.1. Thông
Tự
(Kinh)
Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá
Vệ quốc, Kỳ Thụ, Cấp Cô Độc viên.
(Giải)
“Như thị” tiêu tín nguyện, “ngã văn” tiêu sư thừa,
“nhất thời” tiêu cơ cảm, “Phật” tiêu giáo chủ.
“Xá Vệ đẳng” tiêu thuyết kinh xứ dã. Thật
Tướng diệu lý cổ kim bất biến, danh
Như. Y Thật Tướng lý, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, quyết định vô phi, viết
Thị. Thật Tướng phi ngã, phi vô ngã, A Nan bất hoại
giả danh, cố nhưng xưng Ngã. Nhĩ Căn phát sanh
nhĩ thức, thân linh viên âm, như không ấn không, danh
Văn. Thời vô thực pháp, dĩ sư tư đạo
hợp, thuyết thính châu túc, danh Nhất Thời. Tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, nhân thiên đại sư,
danh Phật. Xá Vệ, thử vân Văn Vật, Trung Ấn
Độ đại quốc chi danh, Ba Tư Nặc
vương sở đô dã. Nặc vương Thái Tử
danh Kỳ Đà, thử vân Chiến Thắng. Nặc
vương đại thần danh Tu Đạt Đa, thử
vân Cấp Cô Độc. Cấp Cô trưởng giả, bố
kim mãi Thái Tử viên, cúng Phật cập Tăng. Kỳ
Đà cảm thán, thí dư vị bố thiểu địa.
Cố tịnh danh Kỳ Thụ Cấp Cô Độc viên
dã.
(經) 如是我聞。一時佛在舍衛國。祇樹給孤獨園。
(解) 如
是標信順。我聞標師承。一時標機感。佛標教主。舍衛等。標說經處也。實相妙理。古今不變。名如。依實相理。念佛求生淨土。決定無非。曰是。實相非我非無
我。阿難不壞假名。故仍稱我。耳根發耳識。親聆圓音。如空印空。名聞。時無實法。以師資道合。說聽周足。名一時。自覺。覺他。覺行圓滿。人天大師。名佛。
舍衛。此云聞物。中印度大國之名。波斯匿王所都也。匿王太子名祇陀。此云戰勝。匿王大臣名須達多。此云給孤獨。給孤長者。布金買太子園。供佛及僧。祇陀感歎。施餘未布少地。故並名祇樹給孤獨園也。
(Chánh Kinh: Ta nghe
như thế này, một thời đức Phật ngự
tại nước Xá Vệ, trong “vườn ông Cấp Cô
Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà”.
Giải: Chữ “như thị” nêu bày tín nguyện,
“ngã văn” nêu sư thừa, “nhất thời” nêu sự
cơ cảm. Chữ “Phật” nói về vị giáo chủ.
“Xá Vệ...” chỉ ra chỗ nói kinh. Diệu lý Thật
Tướng xưa nay chẳng biến đổi, nên gọi
là Như. Nương vào lý Thật Tướng để
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quyết
định chẳng sai, thì gọi là Thị. Thật Tướng
chẳng phải là ngã, chẳng phải là vô ngã, nhưng
ngài A Nan chẳng bỏ giả danh nên vẫn xưng là Ngã
(ta). Căn tai phát sanh ra nhĩ thức, đích thân nghe viên
âm, giống như hư không in vào hư không, nên gọi là
Văn (nghe). “Thời” không phải là pháp thật có, do thầy
và trò đạo hợp, người nói kẻ nghe xong xuôi
thì gọi là “nhất thời”. Tự giác, giác tha, giác hạnh
viên mãn, là bậc đại sư của người và trời
thì gọi là Phật. Xá Vệ, cõi này (Trung Hoa) dịch là
Văn Vật, là tên một nước[3]
lớn ở Trung Ấn Độ, kinh đô của vua Ba
Tư Nặc. Thái Tử của vua Ba Tư Nặc tên là Kỳ
Đà, cõi
này dịch là Chiến Thắng.
Đại thần của vua Ba Tư Nặc tên là Tu Đạt
Đa, cõi này dịch là Cấp Cô Độc. Trưởng
giả Cấp Cô Độc trải vàng [lót đất]
để mua khu vườn của Thái Tử [hòng lập
tinh xá] cúng Phật và Tăng. Kỳ Đà cảm động,
than thở, bố thí chút đất còn lại chưa kịp
lót vàng, nên gọi gộp chung [khu vườn ấy] là Kỳ
Thụ Cấp Cô Độc viên).
Thuở ấy, đức Thế
Tôn giảng kinh thuyết pháp hoàn toàn chẳng ghi chép, giống
như cách Khổng lão phu tử dạy học tại Trung
Quốc. Sau khi đức Phật nhập diệt, các đệ
tử nhận thấy những pháp trọng yếu do thầy
đã nói ra lúc Ngài còn tại thế, nếu không được
chỉnh lý, ghi chép, gìn giữ thì do năm tháng lâu xa có thể
bị thất truyền. Do vậy, các vị đệ tử
cùng suy cử ngài A Nan chủ trì chuyện này. A Nan (Ānanda) là em họ của
đức Thế Tôn, lại còn là thị giả. A Nan giáng sanh nhằm ngày
đức Thế Tôn thành đạo [nên mới được
đặt tên là A Nan (Khánh Hỷ)]. Đức Thế Tôn giảng
kinh đã hai mươi năm rồi A Nan mới xuất
gia. Những kinh đã được giảng trước
đó, A Nan chưa từng nghe qua, nên trong lúc xuất gia,
Ngài đã xin đức Phật đem những kinh đã giảng
trước đó nhắc lại một lượt, Phật
chấp thuận. Lại có thuyết nói ngài A Nan tu đắc Pháp
Tánh Giác Tự Tại tam-muội, có thể từ trong Định,
thấu triệt hết thảy các pháp. Vì thế, khi kết
tập pháp tạng, [đại chúng] ắt phải suy cử
A Nan. Trong khi kết tập, có năm trăm vị A La Hán
tham gia, họ đều là đệ tử của đức
Thế Tôn khi Ngài còn tại thế. Họ đặt ra một
quy định: Ngài A Nan lên tòa thuật lại nội dung của
kinh giáo do đức Phật đã giảng khi Ngài còn tại
thế, nếu có một người nào dị nghị một
chữ hay một từ ngữ nào, thì phải bỏ từ
ngữ ấy đi, không ghi lại. [Điều này] nhằm
giữ chữ tín với đời sau, chứ không phải
là thiểu số phục tùng đa số. Trong hội, ngài
A Nan vừa lên pháp tòa, liền được Phật lực
gia trì, tướng mạo rất giống Phật, người
tham dự ngỡ là Phật lại xuất thế, hoặc
là Phật từ phương khác đến, hoặc A Nan
đã thành Phật. Đến khi A Nan nói câu thứ nhất
“như thị ngã văn”, mọi
mối nghi nhanh chóng hóa giải. Các kinh điển vừa mở
đầu, ắt đều có những câu như “như thị ngã văn, một
thời đức Phật ở chỗ đó, và bao nhiêu
người cùng nhóm họp” v.v... giống như biên bản
cuộc họp. Những câu ấy gọi là Chứng Tín Tự
(lời tựa để chứng thực nhằm tạo
lòng tin). Kế đến, những lời tường thuật
nhân duyên phát khởi của pháp hội, được gọi
là Phát Khởi Tự.
“Như thị ngã
văn”
có nghĩa là tôi (A Nan) đích thân nghe đức Phật nói
như vậy, tôi chỉ nhắc lại, chẳng tăng
thêm, chẳng giảm bớt. Đối với chữ “nhất thời”, lúc tôi mới
học Phật đã hoài nghi: Cớ sao không viết rõ
năm tháng? Lúc Phật tại thế, Ấn Độ còn
thuộc thời kỳ bộ lạc, các nước lớn
nhỏ rất nhiều, mỗi nước có lịch pháp
(cách tính lịch) riêng. Tại Trung Quốc, vào thời nhà
Thương, nhà Châu, cũng có rất nhiều bộ lạc,
nhưng nguyên tắc tính lịch giống nhau. Hai chữ “nhất thời” nêu bày sự
cơ cảm, nghĩa là khi chúng sanh và Phật cảm ứng
đạo giao thì sẽ giống như đảo ngược
thời gian, có thể quay về quá khứ. Trí Giả đại
sư là người đời Tùy, cách Phật hơn một
ngàn năm. Khi Ngài đọc kinh Pháp Hoa đến phẩm
Dược Vương, nhập Định, thấy Phật
còn đang giảng kinh Pháp Hoa ở núi Linh Thứu, Ngài nghe
hết một buổi giảng. Sau khi xuất Định,
kể với đại chúng: “Một
hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan”. “Nhất” là
nhất tâm, nhất tâm là chân tâm, không có quá khứ, hiện
tại, vị lai.
“Phật” là vị chủ giảng,
còn giảng đường là Kỳ Thụ Cấp Cô Độc
Viên.
“Thật
Tướng diệu lý, cổ kim bất biến, danh
Như” (Diệu lý Thật Tướng xưa nay chẳng
đổi, nên gọi là Như): Thật Tướng là chân
tướng của nhân sinh và vũ trụ, lý trong ấy mầu
nhiệm tột bậc. Trong kinh Đại Thừa thường
nói đến “Thể, Tướng,
Dụng”. Thể là Lý Thể[4],
Tướng là hiện tượng, Dụng là tác dụng.
Một mà ba, tuy ba nhưng là một. “Như” là vĩnh viễn chẳng biến đổi.
“Y
Thật Tướng lý, niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, quyết định vô phi, viết Thị”
(Nương theo lý Thật Tướng, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ quyết định chẳng sai, thì
gọi là Thị). Đủ thấy chuyện niệm Phật
có căn cứ lý luận, căn cứ lý luận ấy cao
tột nhất, chân thật nhất, viên mãn nhất. Nếu
hoàn toàn thấu hiểu, chẳng hoài nghi thì chúng ta niệm
một câu A Di Đà Phật sẽ là Thật Tướng
Niệm Phật. Chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng
gián đoạn chính là Thật Tướng Niệm Phật.
Nếu vẫn còn có tơ hào gì không thể buông xuống hoặc
hoài nghi thì chẳng phải là Thật Tướng Niệm
Phật, mà là Sự niệm. Sự niệm chân chánh thì cũng
tốt, Sự niệm mà niệm đến mức công phu
thành phiến hay nhất tâm bất loạn thì cũng có thể
vãng sanh giống như [Thật Tướng Niệm Phật].
Sanh về Tây Phương rồi mới hiểu rõ ràng thì cũng
chẳng chậm trễ gì!
“Thật
Tướng” là bổn tánh chân tâm của chính mình, cổ
đức nói “tự tánh Di
Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Di Đà và Tịnh Độ
là sự tướng, tâm tánh là Thật Tướng. Tâm tánh
là Như, Di Đà và Tịnh Độ là Thị. Thân thể
của chúng ta do tự tánh biến hiện ra, mười
phương vô lượng vô biên cõi nước chỉ do
tâm biến hiện. Đông đảo chúng sanh, núi, sông,
đại địa chỉ do tâm biến hiện. Chân tâm
biến hiện chân độ, chân thân (cõi thật, thân thật),
vọng tâm biến hiện huyễn độ, huyễn
thân. Thân, tâm, thế giới của chúng ta hư huyễn, “hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”. “Huyễn” là biến
hóa trong từng sát-na. “Chân”
là chẳng biến đổi. Tây Phương thế giới
do chân tâm của chúng ta biến hiện ra. Cái tâm vọng
tưởng sanh diệt trong từng sát-na; vì vậy, thế
giới của chúng ta là thế giới sanh diệt. Thiền
căn cứ trên đạo lý này để
tu tập, Giáo cũng căn cứ trên đạo lý này
để tu tập, Niệm Phật cũng không ngoài lệ
ấy. Pháp môn tuy nhiều, khác đường,
nhưng cùng về một chỗ. Thật Tướng Niệm
Phật chính là dùng cái tâm chân thành để niệm Phật.
Trong Độc Thư Bút Ký (bút ký đọc sách), tiên sinh
Tăng Quốc Phiên[5]
đã định nghĩa chữ Thành (誠) như sau: “Nhất niệm bất sanh vị
chi thành” (Một niệm chẳng sanh gọi là Thành).
Trong cái tâm niệm Phật không có tạp niệm, vứt bỏ
hết thảy các vọng duyên, chẳng cần nghĩ
đến quá khứ, vị lai, hết thảy đều
chẳng nghĩ tới, chân tâm liền hiển lộ. Trong
tâm có Ngã thì là vọng niệm. Nếu trong tâm có vô ngã thì cũng
là vọng niệm. Có và Không là đối lập. Không và Hữu
cũng là đối lập. Cả hai đằng đều
chẳng phải là thanh tịnh thật sự. Bất
đắc dĩ, Lục Tổ phải nói: “Bổn lai vô nhất vật” (Vốn chẳng có một
vật). “Bổn lai vô nhất
vật” cũng chẳng có, bất cứ thứ gì cũng
đều chẳng nói tới, đấy mới là Tánh
Đức hoàn toàn hiển lộ. Phàm phu suốt ngày từ
sáng đến tối khởi vọng tưởng, chấp
trước thân này là ta, nhân, ngã, thị, phi trói buộc
không ngừng. Nếu Phật trụ trong cảnh giới
chân thật, một câu cũng chẳng nói thì làm sao chúng sanh
có thể khai ngộ? Ắt phải tùy thuận chúng sanh mà
nói thì mọi người mới có thể hiểu
được. Mọi người đều nói thân thể
này là Ngã, Phật cũng nói Ngã, do tùy thuận chúng sanh mà Phật
nói có Ngã, chứ Ngài trọn chẳng chấp trước
Ngã. Phật là “nói mà chẳng
nói, không nói mà nói”. A Nan chẳng hoại giả danh nên vẫn
xưng là Ngã.
Nhĩ
Căn tiếp xúc với âm thanh bên ngoài thì [thì sự nhận
biết âm thanh] gọi là Nhĩ Thức, cũng gọi là “liễu biệt” (nhận biết,
phân biệt rõ ràng). “Thân linh viên
âm” tức là ngài A Nan đích thân nghe lời đức Phật
giảng. “Như không ấn
không, danh Văn”: Tâm địa vĩnh viễn thanh tịnh,
giống như hư không in vào hư không nên gọi là Nghe.
Thời gian và không gian đều chẳng phải là
thực tại, “Thời” có
quá khứ, hiện tại, vị lai, “Không” có bốn phương, trên, dưới,
đều phát sanh từ những khái niệm trừu
tượng, [trong Bách Pháp Minh Môn Luận] chúng được
xếp vào Bất Tương Ứng Hành Pháp. Bách pháp (một
trăm pháp) được chia thành năm loại:
1. Tâm pháp, tức hiện tượng
tâm lý.
2. Tâm sở pháp, tức tác dụng
tâm lý.
3. Sắc pháp, tức vật chất.
4. Tâm bất tương ứng
hành pháp, tức những pháp chẳng thuộc về tâm, chẳng
phải là tâm sở, mà cũng chẳng phải là vật chất,
mà là những thứ trừu tượng.
5. Vô vi pháp, tức là những
pháp vô sanh vô diệt.
“Sư
tư đạo hợp”, tức là người dạy
và kẻ học giúp nhau tăng tấn, người dạy
và kẻ học khế hợp thì gọi là “đạo hợp”. “Giáo”
là những chỉ dạy từ tâm tánh lưu lộ, nhất
cử nhất động đều là những
phương tiện để dạy học, khiến cho
học trò thấu hiểu những ý nghĩa được
bao hàm trong lời chỉ dạy, nghe và nói xong xuôi, trọn
vẹn, cơ duyên tương hợp thì gọi là “nhất thời”. Thiện
Đạo đại sư nói: “Chín
phẩm vãng sanh nói chung là do gặp duyên khác nhau”. Ngày nay,
chúng ta có duyên gặp gỡ thù thắng khôn sánh, ai nấy
đều có phần Thượng Phẩm vãng sanh. Suốt
ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật
là người phước đức lớn bậc nhất.
Của cải, quyền lợi, tiếng tăm, địa
vị trong thế gian đều là giả, chỉ đến
khi lâm chung, A Di Đà Phật tới tiếp đón mới
là thật!
Đời người khổ
sở, ngắn ngủi, sanh tử nhọc nhằn, phải
gắng hết sức tự cứu, tối thiểu cũng
phải cứu độ người nhà, quyến thuộc.
Chỉ cần sanh về Tây Phương, bất luận
gia quyến, thân thuộc đang ở trong thế giới
nào, đọa vào đường nào, ta đều có thể
trông thấy, lại còn có năng lực giúp đỡ họ.
Nếu chẳng sanh về Tịnh Độ, đợi tới
khi cái thân nghiệp báo chấm dứt, ai nấy phải thuận
theo nghiệp lực mà lưu chuyển, mà cũng chẳng
ai giúp đỡ ai được.
Phật là dịch âm của từ
ngữ Phật-đà-da, người Hoa thích đơn giản,
nên gọi là Phật. Phật có nghĩa là Giác, tự giác,
giác tha, giác hạnh viên mãn. “Tự
giác” thuộc Tiểu Thừa, chỉ cầu tốt lành
cho riêng thân mình. “Giác tha” là Bồ
Tát, có tâm từ bi, tự động giáo hóa chúng sanh, làm bạn
chẳng thỉnh của họ. “Giác
hạnh viên mãn” là Phật. Chữ “viên mãn” không nói về số người
được độ, mà là luận theo tâm tánh. Tâm tánh của
chúng ta có ba thứ phiền não, một là Kiến Tư phiền
não, [hai thứ kia là Trần Sa và Vô Minh]. Người tự
giác đã đoạn được Kiến Tư phiền
não. Bậc giác tha có thể đoạn thêm Trần Sa, tự
hành, dạy người. Đoạn sạch Kiến,
Tư, Trần Sa, Vô Minh, liền viên mãn thành Phật.
Chữ Đại trong từ ngữ
“đại sư” có tánh chất
bình đẳng. Phật xưng là đại sư vì đối
đãi hết thảy chúng sanh bình đẳng giống hệt
như nhau. Bồ Tát chưa đoạn hết vô minh nên chẳng
thể xưng là “đại
sư”, chỉ có thể xưng là Đại Sĩ hoặc
Chánh Sĩ. Đối với người xuất gia lại
càng chớ nên gọi là đại sư, chỉ có thể
gọi là pháp sư. Trí Giả đại sư là do con cháu
tông Thiên Thai tôn kính gọi Ngài như thế. Nếu tổ
sư biết, nhất định sẽ quở trách bọn
họ.
“Xá Vệ” (Srāvastī) là tên một nước lớn ở Ấn Độ,
là dịch âm của tiếng Phạn, có nghĩa là Văn Vật,
tức là có rất nhiều danh nhân, trình độ văn
hóa cao, sản vật phong phú. Xá Vệ là thủ đô của
vua Ba Tư Nặc (Prasenajit). Thái Tử của
vua Ba Tư Nặc tên là Kỳ Đà (Jeta-Kumāra), Hán dịch là Chiến Thắng.
Xưa kia, vua cùng nước khác giao chiến, khi vua khải
hoàn thì Thái Tử hạ sanh. Vua Ba Tư Nặc có một
đại thần tên là Tu Đạt Đa (Sudatta), dịch
nghĩa thành Cấp Cô Độc (Anāthapindada)[6],
thích điều lành, ưa bố thí, thích cứu giúp kẻ
nghèo khổ. Trưởng giả Cấp Cô Độc nghe
Phật Thích Ca là một vị có học vấn, muốn mời
Ngài sang đại thành Xá Vệ để giảng kinh, thuyết
pháp. Đức Phật có một ngàn hai trăm năm
mươi lăm môn đệ, cần có một chỗ rộng
lớn [để dừng chân]. Cuối cùng, ông ta thấy
hoa viên của Thái Tử Kỳ Đà rất thích hợp,
nhà cửa cũng rất nhiều, bèn thương lượng
với Thái Tử để mua lại. Thái Tử liền
nói đùa với trưởng giả Cấp Cô Độc:
“Nghe nói nhà ông có rất nhiều vàng. Nếu ông đem vàng
lót khắp hoa viên của ta thì ta sẽ bán cho ông”. Trưởng
giả Cấp Cô Độc tin thật, liền sai thợ
chuyển vàng đến lót đất. Thái Tử lại hỏi
vì sao mua khu vườn này trịnh trọng đến
như thế? Ông ta nói: “Tôi thỉnh Phật Thích Ca sang
đây giảng kinh, thuyết pháp”. Thái Tử nghe nói liền
hết sức cảm động, bảo: “Công đức
này do hai người chúng ta cùng làm, đất trong vườn
tính là của ông, còn cây cối coi như của tôi”. Vì thế,
[khu vườn ấy] được gọi là Kỳ Thụ
Cấp Cô Độc Viên (Jetavane Anāthapindikassa
Ārāma: vườn của ông Cấp Cô
Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà). Đức
Phật cũng chẳng phụ lòng bọn họ, trụ ở
nơi ấy rất lâu, rất nhiều bộ kinh trọng
yếu của Đại Thừa đã được giảng
tại khu vườn này.
(Giải)
Thanh Văn cư thủ giả, xuất thế tướng
cố, thường tùy tùng cố, Phật pháp lại
Tăng truyền cố. Bồ Tát cư trung giả, tướng
bất định cố, bất thường tùy cố,
biểu Trung Đạo nghĩa cố. Thiên nhân liệt hậu
giả, thế gian tướng cố, phàm thánh phẩm tạp
cố, ngoại hộ chức cố.
(解) 聲聞居首者。出世相故。常隨從故。佛法賴僧傳故。菩薩居中者。相不定故。不常隨故。表中道義故。天人列後者。世間相故。凡聖品雜故。外護職故。
(Giải: Thanh
Văn được xếp lên đầu [trong hàng thính
chúng nghe pháp] vì mang hình tướng xuất thế, vì là những
người thường theo Phật, vì Phật pháp phải
nhờ vào Tăng để lưu truyền. Bồ Tát
được xếp vào giữa, vì hình tướng bất
định, vì chẳng thường theo Phật, vì nhằm
biểu thị ý nghĩa Trung Đạo. Trời người
được kể sau cùng, vì mang hình tướng thế
gian, vì phẩm vị thánh phàm xen tạp, vì mang chức trách
làm người bảo vệ bên ngoài).
Đoạn
văn chú giải này nhằm giảng rõ đại chúng tham
dự hội được xếp theo thứ tự thuận:
Thanh Văn được xếp vào vị trí thứ nhất,
vì là đệ tử Tiểu Thừa của Phật, đều
là hàng xuất gia, thường theo học với đức
Phật, họ còn được gọi là Thường
Tùy Chúng. Phật pháp nhờ vào Tăng đoàn để duy
trì, truyền thừa, nên đặc biệt tôn trọng
Tăng chúng; vì thế, xếp họ vào địa vị
thứ nhất. Các vị Bồ Tát thường thay thầy
giáo hóa tại một phương. Ở Trung Quốc, thờ
phụng bốn vị đại Bồ Tát: Văn Thù, Phổ
Hiền, Quán Âm, và Địa Tạng. Trong ấy, chỉ có
Địa Tạng Bồ Tát mang hình tướng xuất
gia, ba vị kia đều là hình tướng tại gia.
Người xuất gia ở Trung Quốc đại đa
số thọ Bồ Tát Giới, đầy đủ thân
phận Bồ Tát, khác với hàng tỳ-kheo [theo truyền
thống Phật giáo] Nam truyền. Bồ Tát cũng biểu thị
Trung Đạo, chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ
vào Niết Bàn, tùy duyên hóa độ chúng sanh. Lục đạo
phàm phu trụ trong sanh tử, không có cách gì thoát lìa luân hồi.
Bậc Tiểu Thừa chứng đến Tứ Quả A
La Hán, vượt thoát tam giới, trụ trong Niết Bàn.
Thiên nhân được xếp cuối cùng, là một trong tứ
chúng, phần nhiều là đệ tử tại gia quy y Phật,
phẩm loại rất tạp. Như trong năm
mươi ba lần tham học của kinh Hoa Nghiêm, chỉ
có năm vị trong số [các vị thiện tri thức]
là người xuất gia[7],
những vị còn lại đều là tại gia Bồ
Tát, thân phận, các ngành nghề, già, trẻ, trai, gái đều
có. Vì thế, học Phật chẳng trở ngại bất
cứ nghề nghiệp nào.
(Kinh) Dữ đại tỳ-kheo tăng, thiên nhị
bách ngũ thập nhân câu.
(Giải)
Đại tỳ-kheo, thọ Cụ Giới xuất gia nhân
dã. Tỳ-kheo Phạn ngữ, hàm tam nghĩa. Nhất khất
sĩ, nhất bát tư thân, vô sở súc tàng, chuyên cầu xuất
yếu. Nhị phá ác, chánh huệ quán sát, phá phiền não ác,
bất đọa ái kiến. Tam bố ma, phát tâm thọ giới,
yết-ma thành tựu, ma tức bố dã. Tăng giả, cụ
vân Tăng Già, thử phiên Hòa Hợp Chúng. Đồng chứng
vô vi giải thoát danh Lý Hòa. Thân đồng trụ, khẩu
vô tránh, ý đồng duyệt, kiến đồng giải,
giới đồng tu, lợi đồng quân, danh Sự
Hòa dã. Thiên nhị bách ngũ thập nhân giả, tam Ca Diếp,
sư tư cộng thiên nhân, Thân Tử, Mục Liên, sư
tư nhị bách nhân, Da Xá tử đẳng, ngũ thập
nhân, giai Phật thành đạo, tiên đắc độ
thoát, cảm Phật thâm ân, thường tùy tùng dã.
(經) 與大比丘僧。千二百五十人俱。
(解) 大比丘。受具戒出家人也。比丘梵語。含三義。一乞士。一缽資身。無
所蓄藏。專求出要。二破惡。正慧觀察。破煩惱惡。不墮愛見。三怖魔。發心受戒。羯磨成就。魔即怖也。僧者。具云僧伽。此翻和合眾。同證無為解脫名理和。身
同住。口無諍。意同悅。見同解。戒同修。利同均。名事和也。千二百五十人者。三迦葉。師資共千人。身子目連。師資二百人。耶舍子等。五十人。皆佛成道。先得度脫。感佛深恩。常隨從也。
(Chánh kinh: Cùng với các vị đại tỳ-kheo
một ngàn hai trăm năm mươi người nhóm họp.
Giải: Đại tỳ-kheo là hạng xuất
gia thọ Cụ Túc Giới. Tiếng Phạn tỳ-kheo
(Bhiksu) gồm ba nghĩa:
1. Khất Sĩ: Một bát nuôi thân, không tích
cóp gì, chuyên cầu pháp yếu xuất thế.
2. Phá Ác: Chánh huệ quán sát, phá ác phiền
não, chẳng đọa vào ái kiến.
3. Bố Ma (làm cho ma kinh sợ): Phát tâm
thọ giới, tác pháp Yết Ma thành tựu, ma liền kinh
sợ.
Tăng, gọi đủ
là Tăng Già (Sangha), cõi này dịch là Hòa Hợp Chúng. Cùng chứng
sự giải thoát vô vi thì gọi là Lý Hòa (hòa hợp về
mặt Lý). Thân cùng ở, miệng không tranh cãi, tâm ý cùng vui vẻ,
cùng hiểu biết giống như nhau,
cùng tu giới như nhau, chia sẻ quyền lợi đồng
đều thì gọi là Sự Hòa.
Một ngàn hai trăm
năm mươi người là thầy trò ba vị Ca Diếp
gồm một ngàn người, thầy trò hai vị Xá Lợi
Phất và Mục Liên gồm hai trăm người, nhóm ông
Da Xá gồm năm mươi người, đều là những
người được độ thoát trước nhất
sau khi Phật thành đạo, cảm kích ân Phật sâu
đậm, thường theo hầu).
Trước chữ tỳ-kheo, thêm vào chữ
Đại, tức là hàng tỳ-kheo Đại Thừa, cũng
tức là Đại Thừa Bồ Tát. Kinh này là kinh điển
Đại Thừa. Tỳ-kheo là người xuất gia thọ
Cụ Túc Giới. Chữ tỳ-kheo (bhiksu) có ba nghĩa:
1. Khất Sĩ: [“Khất” (乞) là] ôm bát xin thức ăn để sống,
Sĩ (士) là
người đọc sách. Ở Trung Quốc, người
xin xỏ để sống gọi là “khất cái” (ăn
mày) bị người khác coi thường. Tại Ấn
Độ, Khất Sĩ có học vấn, có đạo
đức, được người khác tôn kính, bối
cảnh văn hóa khác nhau. Đức Phật chế định
toàn bộ tài sản của người xuất gia là ba y một
bát. Tại Ấn Độ, khí hậu nóng, ba y là đủ
dùng. Vĩ độ của Trung Quốc nằm lệch về
phía Bắc địa cầu, ba y chẳng đủ để
chống rét. Do vậy, [tăng ni Phật giáo] mặc theo y
phục Trung Quốc, lúc bình thường liền mặc hải
thanh. Áo hải thanh chính là lối phục sức của
người có học thời Hán. Khi gặp pháp hội,
điển lễ, khoác thêm một tấm cà-sa ra ngoài. So với
y cà-sa Ấn Độ, y cà-sa theo kiểu Trung Quốc
được rút nhỏ, chỉ bằng một phần
ba, dùng vòng và móc để treo trên thân. Pháp sư Nhật Bản
mặc Âu phục, cà-sa[8]
lại còn nhỏ hơn, chỉ có một, hai tấc, cất
trong túi đựng Âu phục. Khi có pháp hội mới lấy
ra đeo vào, đủ thấy năng lực thích ứng của
Phật giáo hết sức viên dung, đạt đến mức
độ địa phương hóa và hiện đại
hóa.
Sau khi xuất
gia bèn không có nhà, không lo, không nghĩ, chẳng vướng mắc
gì, tâm mới an định, có thể đạt đến
tam-muội hiện tiền. “Chuyên
cầu xuất yếu”: “Xuất”
(出) là xuất
ly tam giới, “yếu” (要) là phương pháp tu học trọng yếu
nhất, chí hướng xuất gia nằm ở chỗ
này. Do vậy, đối với hết thảy pháp thế
gian đều chớ nên lưu luyến. Trong quá khứ, có
thể thực hiện điều này thuận lợi, chỉ
cần xuất gia, thọ giới, bất cứ tự viện,
am đường nào đều có thể quải
đơn (nhập chúng tu học). Mỗi một đạo
tràng có đạo phong, học phong đặc thù. Trung Quốc
có nhiều tông phái, người xuất gia muốn tu học
một pháp môn nào đó đều có thể đến tham
học. Phật pháp truyền sang Trung Quốc gần hai
ngàn năm, lâu ngày sanh ra thói tệ. Những thập
phương tùng lâm vào thời cổ về sau này biến
thành “tử tôn miếu”, tức là chỉ truyền lại
cho đồ tử, đồ tôn, đời đời
truyền cho nhau, hoàn toàn chẳng dung nạp người
ngoài. Đến nay, đạo phong thời cổ đã tan
sạch chẳng còn, bó buộc người xuất gia chẳng
thể không tích cóp, chẳng thể không có trụ xứ. Hiện
tại, người xuất gia đã gần giống
như người tại gia. Trong thời đại to lớn
này, người xuất gia tuy phải tích cóp để cầu
sinh tồn, về mặt Sự thì có thể chấp nhận
được, nhưng trong tâm chớ nên thường giữ
ý niệm ấy, mà cũng chớ nên tham nhiều. Nếu
không, lúc lâm chung A Di Đà Phật đến đón, quý vị
còn có nhà cửa, đất đai, cổ phiếu đầu
tư, đô-la Mỹ cả đống, chẳng bằng
lòng theo Phật về Tây Phương.
2. Phá Ác: Phá phiền não ác, chẳng đọa
trong ái kiến. Câu này chỉ chung hai thứ Kiến Hoặc
và Tư Hoặc. Trong phần sau sẽ giải thích tường
tận.
3. Bố Ma (làm cho ma sợ hãi): Chữ Ma thường
chỉ thiên ma giống như Ba Tuần (Māra-pāpman) Tự Tại Thiên Vương, tam giới
lục đạo đều bị ông ta thống trị.
Nếu có một người nào đó xuất gia tu đạo
thì dân chúng thuộc quyền cai quản của ông ta lại
bị hụt đi một người, ma vương cảm
thấy sợ hãi. “Yết-ma” (Kárma)
là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Tác Pháp, tức là cử
hành nghi thức, trịnh trọng tuyên thệ, tiếp nhận
lời răn dạy của đức Phật, y giáo phụng
hành, hòng lìa thoát tam giới. Hiện tại, có người
xuất gia tuy đã thọ giới trong giới đàn,
nhưng tâm chẳng xuất ly, chưa chắc ma đã sợ
hãi.
Ngẫu Ích đại sư sống vào cuối
đời Minh, tịch vào đầu đời Thanh. Thuở
trẻ, Ngài học giáo pháp Thiên Thai, nghiên cứu giới luật
rất sâu. Theo lời Ngài nói, ở Trung Quốc, từ sau
thời Nam Tống đã không còn người xuất gia nữa.
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni thọ giới thì tối thiểu
phải có năm vị tỳ-kheo truyền giới thì mới
được coi là “đắc
giới”. Bồ Tát Giới và những giới khác thì có
thể chính mình đối trước Phật tuyên thệ
liền đắc giới. Ngẫu Ích
đại sư sau khi thọ tỳ-kheo giới, hiểu
rõ sự thật này, tự mình trả lui giới, chẳng
dám xưng là tỳ-kheo, chỉ xưng là “Bồ Tát Giới sa-di”. Đồ đệ của
Ngài là pháp sư Thành Thời biên soạn toàn tập [các tác
phẩm] của đại sư, cũng chẳng dám sử
dụng cách xưng hô của thầy, mà xưng là “xuất gia ưu-bà-tắc”.
Hiện thời, thật sự giữ trọn Ngũ Giới,
Thập Thiện là đã hết sức đáng phục rồi.
“Tăng giả, cụ
vân Tăng Già” (Tăng, nói đầy đủ là
Tăng Già), còn dịch là “Hòa Hợp
Chúng”. Hòa Hợp Chúng phải tuân thủ bảy điều
răn. Thứ nhất là Lý Hòa (hòa hợp về mặt Lý),
tức là cùng chứng vô vi giải thoát. Có cùng một nguyện
vọng: Liễu sanh tử, thoát tam giới. Điều này
thuộc về Lý Hòa. Ngoài ra, còn có sáu điều thuộc về
mặt Sự:
1. Thân đồng trụ: Tức
cùng ở trong một đơn vị học tập
như tự viện hoặc học viện.
2. Khẩu vô tranh: Tức là trong
lời ăn tiếng nói không
có sự tranh chấp.
3. Ý đồng duyệt: Đối xử với
nhau một cách dung thông, hòa hợp, vẻ mặt vui vẻ.
4. Kiến đồng giải: Có cách nhìn giống
nhau, kiến lập một sự hiểu biết chung
đối với nguyên tắc, phương pháp, cảnh giới
tu học.
5. Giới đồng tu: Giới là quy ước,
mọi phương diện của cuộc sống đều
có những khuôn phép.
6. Lợi đồng quân: Cuộc sống vật
chất bình đẳng, không có đặc quyền, giai cấp.
Bốn vị
xuất gia cùng tu với nhau tại một chỗ thì gọi
là “Tăng đoàn”. Nếu
trong nhà có bốn người cùng tu với nhau ở một
chỗ thì cũng gọi là “Tăng đoàn”. “Tăng” có nghĩa
là đoàn thể, nghĩa gốc của từ ngữ
này không nhằm chỉ riêng người xuất gia. Tăng
đoàn xuất hiện trong thế gian, hy hữu, khó
được, nhất định được chư
Phật hộ trì, long thiên thủ hộ. Không những
Tăng đoàn có phước mà địa phương
nơi họ ở cũng được hưởng lây.
Người chân chánh tu hành chính là người có đại
phước đức. Kinh Dịch có câu: “Tam nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim”
(Ba người đồng lòng, sắc bén
cắt đứt vàng). Những vị minh quân khai quốc
của Trung Quốc bất quá là vài người ít ỏi,
đồng tâm hợp tác mà đoạt được thiên
hạ. Trong quá khứ, lão cư sĩ Triệu Mậu Lâm ở
Đài Bắc mời tôi dùng cơm tại Công Đức
Lâm, nói đến vấn đề Tăng đoàn, cụ
nói: “Con người hiện thời tạo tội nghiệp
phá hòa hợp Tăng, tương lai phải đọa vào
địa ngục A Tỳ, phải làm như thế nào
đây?” Tôi nói: “Cụ thấy ở đâu có hòa hợp
Tăng vậy?” Cụ nghe hỏi xong cũng cười
xòa.
Thường
Tùy Chúng của Phật có một ngàn hai trăm năm
mươi vị, ngoài ra còn có năm vị
nữa, nhưng bỏ đi con số lẻ [nên chỉ nói
là một ngàn hai trăm năm mươi]. Tam Ca Diếp là
ba anh em [họ Ca Diếp], họ đều là lãnh tụ
tôn giáo thuở ấy, chính họ có tín đồ. Người
lớn nhất tên là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (Uruvilvā-kāśyapa) và đệ
tử của Ngài là năm trăm người. Hai em trai của
Ngài là Ca Da Ca Diếp (Gayā-kāśyapa,
còn phiên âm là Già Da Ca Diếp) và Na Đề Ca Diếp
(Nadī-kāśyapa), mỗi vị
[kể cả thầy lẫn trò] gồm hai trăm năm
mươi người, tất cả là năm trăm
người. Gộp chung [số người của ba vị
Ca Diếp] thành một ngàn người. “Thân Tử” chính là ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên cùng với các đồ đệ,
tính chung là hai trăm người. Ngoài ra, lại thêm năm
mươi người thuộc nhóm Da Xá Tử (Yaśa)[9],
lại kể thêm năm vị tỳ-kheo đầu tiên (tức
nhóm ngài Kiều Trần Như), tổng cộng là một
ngàn hai trăm năm mươi lăm người. Các vị
này là Thường Tùy Chúng, suốt một đời đức
Phật, họ thường vây quanh bên Phật, mãi cho đến
khi Phật nhập Niết Bàn mới tách ra.
(Kinh) Giai thị đại A La
Hán, chúng sở tri thức.
(Giải)
A La Hán diệc hàm tam nghĩa: Nhất, ứng cúng, tức
khất sĩ quả. Nhị, sát tặc, tức phá ác quả.
Tam, vô sanh, tức bố ma quả. Phục hữu Huệ Giải Thoát, Câu Giải Thoát,
Vô Nghi Giải Thoát, tam chủng bất đồng. Kim thị Vô Nghi Giải Thoát, cố danh Đại. Hựu,
bổn thị Pháp Thân đại sĩ, thị tác Thanh
Văn, chứng thử Tịnh Độ bất tư nghị
pháp, cố danh Đại dã. Tùng Phật chuyển luân, quảng
lợi nhân thiên, cố danh “chúng sở tri thức”.
(經)
皆是大阿羅漢。眾所知識。
(解) 阿羅漢亦含三義。一應供。即乞士果。二殺賊。即破惡果。三無生。即怖魔果。復有慧解脫。俱解脫。無疑解脫。三種不同。今是無疑解脫。故名大。又。本是法身大士。示作聲聞。證此淨土不思議法。故名大也。從佛轉輪。廣利人天。故為眾所知識。
(Chánh kinh:
Đều là đại A La hán, được mọi
người hay biết.
Giải:
A La Hán cũng gồm ba nghĩa:
1. Ứng Cúng: là quả của
Khất Sĩ.
2. Sát Tặc: là quả của
Phá Ác.
3. Vô Sanh: là quả của Bố
Ma.
Lại có Huệ Giải Thoát,
Câu Giải Thoát, Vô Nghi Giải Thoát, ba thứ khác nhau. Những
vị được nói ở đây là Vô Nghi Giải Thoát,
nên gọi là Đại. Lại nữa, họ vốn là
Pháp Thân đại sĩ, thị hiện làm Thanh Văn
để chứng pháp môn Tịnh Độ chẳng thể
nghĩ bàn này, nên gọi là Đại. Theo Phật chuyển
pháp luân lợi lạc rộng khắp hàng nhân thiên nên
được đại chúng nhận biết).
Những
vị Thường Tùy Chúng ấy đều là Đại
A La Hán (Mahā-Arhat). Chữ
“Đại” này chỉ hàng
Đại Thừa A La Hán. “A”
là Vô, “La Hán” là “Học”, [A La Hán] được
gọi là Vô Học (không còn gì để học nữa),
mang ý nghĩa “đã tốt nghiệp”. Hàng Tiểu Thừa
đã đoạn xong Kiến Tư phiền não liền gọi
là Vô Học. Trong Đại Thừa, đạt đến
bậc Pháp Vân Địa thì mới học xong, cũng gọi
là Vô Học. Lên cao hơn nữa là Đẳng Giác Bồ
Tát, sau đó được bổ làm Phật, cũng gọi
là Bổ Xứ Bồ Tát.
“Tỳ-kheo” chính là nhân của
A La Hán, La Hán là quả địa. Từ ngữ A La Hán cũng
bao hàm ba nghĩa:
1.
Ứng Cúng: Xứng đáng tiếp nhận sự cúng
dường của đại chúng. Trong khi tu nhân, khi đạo
đức, học vấn chưa thành thục, xin ăn
để duy trì mạng sống của chính mình, xin pháp
để vun bồi huệ mạng của chính mình. Sanh mạng
là do cha mẹ mà có, huệ mạng nhờ thầy mà có. Khi
đã viên mãn quả vị, liền đáng nhận lãnh sự
cúng dường.
2.
Sát Tặc (giết giặc): Có người vừa trông thấy
điều này liền cho rằng giới thứ nhất của
nhà Phật là không sát sanh, vậy mà La Hán là Sát Tặc. Điều
này do tiên sinh Phương Hào nói, ông ta là linh mục Thiên Chúa
Giáo, là viện trưởng viện văn học Chánh
Đại, là hàng xóm của tôi. Có một hôm, ông ta hỏi
tôi câu này, ông ta chẳng biết chữ Tặc ở đây
là “phiền não tặc” (giặc
phiền não). Ba thứ phiền não Kiến Tư, Trần
Sa, Vô Minh chướng ngại trí huệ, đức
năng trong tự tánh, nên gọi là Tặc.
3.
Vô Sanh: Vĩnh viễn nhập Niết Bàn, chẳng còn mắc
quả báo sanh tử. Lục đạo phàm phu có sanh tử
luân hồi, khổ chẳng thể nói được. Chính
mình không có năng lực giải quyết cho xong vấn
đề sanh tử này. Do vậy, đức Phật vì một
đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời.
Trong đám chúng sanh đông đảo có một số
người nghĩ đến chuyện liễu sanh tử,
Phật liền dạy họ đạo xuất ly tam giới.
“A La Hán” lại còn có mức
độ cạn sâu khác nhau, chia thành ba loại lớn:
1.
Tạng Giáo A La Hán (Huệ
Giải Thoát La Hán): Nương theo Tứ Niệm Xứ
để tu, [tức là] quán thân bất tịnh, quán thọ
là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Đấy
là vũ trụ nhân sinh quan thuộc về pháp Tiểu Thừa.
Pháp Đại Thừa cũng chẳng ra ngoài những
điều này. Vì thế, Tứ Niệm Xứ chung cho
Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Tông Thiên Thai giảng
điều này hết sức tường tận, họ dựa
theo Tạng, Thông, Biệt, Viên để giải thích bốn
loại Tứ Niệm Xứ. Do vậy, ba mươi bảy
đạo phẩm đều là pháp chung cho cả Đại
Thừa lẫn Tiểu Thừa.
2.
Câu Giải Thoát La Hán:
Người tu học Thiền Định trong pháp Đại
Thừa, chế phục phiền não, dùng Thiền Định
rất sâu có thể đoạn được phiền
não. Tứ Thiền, Bát Định[10] được gọi là Thế Gian Thiền Định.
Công phu của bậc Tiểu Thừa La Hán tu đến mức
Cửu Thứ Đệ Định, liền có thể
vượt khỏi tam giới.
3.
Vô Nghi Giải Thoát La Hán: Hai
loại trước chẳng thể so sánh với công phu
Định lực, trí huệ, cảnh giới của các vị
A La Hán thuộc loại này được. Các vị này
đều đại khai viên giải, hết thảy mọi
vấn đề nghi nan đều có thể giải
đáp, vì thế gọi là Vô Nghi, họ chính là Pháp Thân Đại
Sĩ.
Một
vị Phật xuất thế, ngàn vị Phật ủng hộ.
Một mình đức Phật Thích Ca đóng vai chánh, còn những
vị khác đóng vai phụ. Trong những vai phụ, có rất
nhiều vị là cổ Phật tái lai, Phật Phật
đạo đồng, ủng hộ lẫn nhau, trọn
không tranh chấp danh phận. Hết thảy nhằm phá mê
khai ngộ cho chúng sanh, khiến họ lìa khổ, được
vui. Từ ngữ “Pháp Thân đại
sĩ” chỉ chung các vị đã phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân. Trong Biệt Giáo là từ
Sơ Địa Bồ Tát trở lên, trong Viên Giáo là từ
Sơ Trụ trở lên. Kinh này thuộc vào Viên Giáo, giống
như kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa. Pháp Thân đại sĩ có
bốn mươi mốt tầng cấp, tức Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, và Đẳng Giác. Họ thị hiện làm
Thanh Văn, hoặc làm quốc vương, đại thần,
như vua Ba Tư Nặc, Thái Tử Kỳ Đà, trưởng
giả Cấp Cô Độc đều là hàng Pháp Thân đại
sĩ biến hiện, tới biểu diễn, chứ phàm
phu chẳng thể làm được. Phật nói pháp chẳng
thể nghĩ bàn, những vị ấy đến làm chứng,
giúp đỡ Phật chuyển pháp luân. Những tiêu chí
(symbol) thường thấy nhất trong Phật giáo là ba thứ:
- Bánh xe (luân) tượng
trưng cho viên mãn.
- Hoa sen biểu thị
thanh tịnh.
-
Chữ Vạn (卍) biểu thị cát tường.
Phật
pháp giảng giải chân lý, tức là Thật Tướng của
các pháp. Chân tướng chẳng phải có, chẳng phải
không. Luân (bánh xe) tròn khắp nhưng tìm chẳng được
tâm, hiển thị Không - Hữu bất nhị, Không và Hữu
như một. Tác dụng của Luân là phải chuyển
động. “Chuyển pháp luân”
có ba nghĩa:
1.
Luân có ý nghĩa nghiền nát, giống như xe ủi lô (xe
hủ lô, road roller), sánh ví Phật pháp có khả năng cán
phẳng phiền não trong tâm.
2.
Luân có ý nghĩa chuyên chở. [Phật pháp] có thể chở
chúng sanh từ đường nẻo sanh tử sang cảnh
giới Niết Bàn bất sanh bất diệt. Chúng ta tu pháp
môn Tịnh Độ, pháp môn này có thể chuyên chở chúng
ta từ đời ác Ngũ Trược sang Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
3.
Luân mang ý nghĩa viên mãn vì bánh xe có căm, có trục, có vành.
Trong thuở đức
Phật Thích Ca thị hiện trong thế giới này, xét về
mặt hình tích, chẳng khác gì con người, cũng do cha
mẹ sanh ra, được hưởng sự giáo dục
tốt đẹp, xuất gia, tu hành, chứng đạo,
rồi mới đi các nơi hoằng pháp. Nhưng mọi
nơi đều cần đức Phật thuyết pháp,
giảng đạo, Phật có rất nhiều đệ tử,
các vị ấy có học vấn, có đạo đức,
đi các nơi giúp Phật hoằng hóa, nên quen thuộc với
hết thảy đại chúng.
(Kinh)
Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên,
Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu
Lỵ Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều
Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa,
Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu
Lâu Đà. Như thị đẳng chư đại đệ
tử.
(Giải) Đức lạp
câu tôn, cố danh “trưởng lão”. Thân Tử tôn giả,
Thanh Văn chúng trung, trí huệ đệ nhất. Mục
Liên tôn giả, thần thông đệ nhất. Ẩm Quang
tôn giả, thân hữu kim quang, truyền Phật tâm ấn,
vi Sơ Tổ, Đầu Đà hạnh đệ nhất.
Văn Sức tôn giả, Bà-la-môn chủng, luận nghị
đệ nhất. Đại Tất tôn giả, đáp vấn
đệ nhất. Tinh Tú tôn giả, vô đảo loạn
đệ nhất. Kế Đạo tôn giả, nhân căn
độn, cẩn trì nhất kệ, biện tài vô tận,
nghĩa trì đệ nhất. Hỷ tôn giả, Phật chi
thân đệ, nghi dung đệ nhất. Khánh Hỷ tôn giả,
Phật chi đường đệ, phục vi thị giả,
đa văn đệ nhất. Phú Chướng tôn giả,
Phật chi Thái Tử, mật hạnh đệ nhất.
Ngưu Ty tôn giả, túc thế ác khẩu, cảm thử
dư báo, thọ thiên cúng dường đệ nhất. Bất
Động tôn giả, cửu trụ thế gian, ứng mạt
thế cúng, phước điền đệ nhất. Hắc
Quang tôn giả, vi Phật sứ giả, giáo hóa đệ
nhất. Phòng Tú tôn giả, tri tinh tú đệ nhất. Thiện
Dung tôn giả, thọ mạng đệ nhất. Vô Bần
tôn giả, diệc Phật đường đệ, thiên
nhãn đệ nhất. Thử đẳng Thường Tùy
Chúng, bổn Pháp Thân đại sĩ, thị tác Thanh
Văn, vi Ảnh Hưởng Chúng. Kim văn Tịnh Độ,
nhiếp thọ công đức, đắc Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn chi ích, tăng đạo tổn sanh,
tự tịnh Phật độ. Phục danh
Đương Cơ Chúng hỹ.
(經) 長老舍利弗。摩訶目犍連。摩訶迦葉。摩訶迦旃延。摩訶拘絺羅。離婆多。周利槃陀伽。難陀。阿難陀。羅侯羅。憍梵波提。賓頭盧頗羅墮。迦留陀夷。摩訶劫賓那。薄拘羅。阿耨樓馱。如是等諸大弟子。
(解) 德
臘俱尊。故名長老。身子尊者。聲聞眾中。智慧第一。目連尊者。神通第一。飲光尊者。身有金光。傳佛心印。為初祖。頭陀行第一。文飾尊者。婆羅門種。論議第
一。大膝尊者。答問第一。星宿尊者。無倒亂第一。繼道尊者。因根鈍。僅持一偈。辯才無盡。義持第一。喜尊者。佛之親弟。儀容第一。慶喜尊者。佛之堂弟。復
為侍者。多聞第一。覆障尊者。佛之太子。密行第一。牛呞尊者。宿世惡口。感此餘報。受天供養第一。不動尊者。久住世間。應末世供。福田第一。黑光尊者。為
佛使者。教化第一。房宿尊者。知星宿第一。善容尊者。壽命第一。無貧尊者。亦佛堂弟。天眼第一。此等常隨眾。本法身大士。示作聲聞。為影響眾。今聞淨土。
攝受功德。得第一義悉檀之益。增道損生。自淨佛土。復名當機眾矣。
(Chánh kinh:
Trưởng
lão Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp,
Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lỵ Bàn Đà
Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba
Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu
Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà.
Các vị đại đệ tử như thế.
Giải:
Đức hạnh và tuổi hạ đều đáng tôn
trọng, nên gọi là Trưởng Lão. Tôn giả Thân Tử,
trong hàng Thanh Văn, trí huệ bậc nhất. Tôn giả Mục
Liên thần thông bậc nhất. Tôn giả Ẩm Quang thân
có ánh sáng vàng ròng, truyền tâm ấn của Phật, là
Sơ Tổ [Thiền Tông], hành Đầu Đà bậc nhất.
Tôn giả Văn Sức thuộc dòng Bà-la-môn, luận nghị
bậc nhất. Tôn giả Đại Tất trả lời
câu hỏi bậc nhất. Tôn giả Tinh Tú, không điên
đảo, không tán loạn bậc nhất. Tôn giả Kế
Đạo do căn cơ chậm lụt, chỉ trì một
bài kệ mà biện tài vô tận, nghĩa trì bậc nhất.
Tôn giả Hỷ là em ruột đức Phật, nghi dung bậc
nhất. Tôn giả Khánh Hỷ là em họ đức Phật,
lại còn là thị giả, đa văn bậc nhất.
Tôn giả Phú Chướng là Thái Tử của đức
Phật, mật hạnh bậc nhất. Tôn giả Ngưu
Ty, do đời trước ác khẩu, cảm lấy
dư báo này, được chư thiên cúng dường bậc
nhất. Tôn giả Bất Động, trụ dài lâu trong thế
gian, tiếp nhận cúng dường trong đời Mạt
Pháp, là phước điền bậc nhất. Tôn giả Hắc
Quang là sứ giả của Phật, giáo hóa bậc nhất.
Tôn giả Phòng Tú hiểu tinh tú bậc nhất. Tôn giả
Thiện Dung thọ mạng bậc nhất. Tôn giả Vô Bần
cũng là em họ của đức Phật, thiên nhãn bậc
nhất. Các vị Thường Tùy Chúng này vốn là Pháp Thân
đại sĩ, thị hiện làm Thanh Văn, nhằm làm
người tạo ảnh hưởng. Nay nghe pháp môn Tịnh
Độ, giữ lấy công đức, đắc lợi
ích Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn, tăng trưởng
đạo nghiệp, giảm thiểu sanh tử, tự tịnh
cõi Phật, còn gọi là Đương Cơ Chúng).
Thường Tùy Chúng của đức Phật gồm
một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị. Ở
đây, chỉ nêu đại lược mười sáu vị
đệ tử mang tánh chất đại biểu. Những
nhân vật đại biểu trong mỗi bộ kinh không
hoàn toàn giống nhau. Mỗi vị đại đệ tử
đều có sở trường, như vị đầu
tiên là ngài Xá Lợi Phất trí huệ bậc nhất, vị
thứ hai là Mục Kiền Liên thần thông bậc nhất,
không lẽ ngài Xá Lợi Phất chẳng có thần thông hay
sao? Ngài Mục Liên chẳng có trí huệ hay sao? Nhìn xem những
vị đệ tử nào được nêu tên ở đầu
một bộ kinh, ta liền biết hội giảng kinh ấy
mang tánh chất nào.
“Đức lạp câu tôn, cố
xưng Trưởng Lão” (Đức hạnh lẫn tuổi
hạ đều đáng tôn trọng, nên gọi là Trưởng
Lão). Mười sáu vị trưởng lão này đều thị
hiện thân phận A La Hán. Có người cho rằng pháp
môn Niệm Phật là pháp môn tu học của mấy bà cụ
già, chứ phần tử trí thức phải nên học
đại kinh, đại luận của Tướng Tông,
Tánh Tông! Nếu bây giờ họ xem đến kinh này, nhận
thấy bậc trí huệ đệ nhất là ngài Xá Lợi
Phất (Śāriputra)
còn tiếp nhận pháp môn này, khiến
cho những ý tưởng tự phụ thường ngày sẽ
bị khuất phục.
Vị thứ
hai là Mục Kiền Liên (Maudgalyāyana)
thần thông bậc nhất.
Thần thông hết sức gần giống với khoa học
kỹ thuật hiện thời, ngài Mục Liên là chuyên gia.
Vị thứ
ba là Ma Ha Ca Diếp (Mahā-Kāśyapa): “Ẩm Quang tôn giả, thân hữu
kim quang, truyền Phật tâm ấn” (Tôn giả Ẩm Quang,
thân có ánh sáng màu vàng ròng, truyền tâm ấn của Phật).
Trong Phật môn, Thiền Tông được người ta
biết đến nhiều nhất. Thoạt đầu,
đức Phật truyền pháp cho ngài Ca Diếp, ngài Ca Diếp
là Sơ Tổ Thiền Tông. A Nan là Nhị Tổ,
truyền đến đời thứ hai mươi tám là
Đạt Ma, truyền sang Trung Quốc, truyền đến
Lục Tổ Huệ Năng đại sư, Thiền Tông
mới được phát huy rực rỡ. Trước
kia, người xuất gia đều là mạnh ai nấy
tu, đến thời Mã Tổ kiến lập tùng lâm, ngài
Bách Trượng lập Thanh Quy, đề xướng “cộng tu” (tu chung với
nhau) thì cách dạy học trong Phật giáo mới được
“chế độ hóa” (hình thành một khuôn mẫu, quy củ
nhất định). Tùng lâm giống như đại học
Phật giáo. Thiền Tông nếu chẳng tu Tịnh Độ,
chỉ dựa vào một mình pháp tu Thiền sẽ rất
khó thành tựu. Do vậy, đến tuổi xế bóng, các
tổ sư Thiền Tông chuyên tu Tịnh Độ rất
nhiều. Tôn giả Ca Diếp khổ hạnh bậc nhất,
khổ hạnh là hạnh Đầu Đà.
Vị
thứ tư là Ma Ha Ca Chiên Diên (Mahā-Katyayana), tức
tôn giả Văn Sức[11], thuộc dòng Bà-la-môn, xuất thân là quý tộc, luận
nghị (bàn luận, biện bác) bậc nhất.
Vị thứ năm
là Ma Ha Câu Hy La (Mahā -
Kausthila), tức tôn giả Đại Tất (đầu gối
to), vấn đáp bậc nhất. Vị này học rộng,
nghe nhiều, là cậu của ngài Xá Lợi Phất. Khi chị
của Ngài mang thai Xá Lợi Phất, biện tài vô ngại.
Tôn giả mỗi lần tranh luận cùng chị đều
thua, trước kia không như vậy. Ngài nghĩ đứa
bé trong bụng chị ắt hẳn có đại trí huệ,
tương lai khi đứa cháu sanh ra, ta làm cậu nó mà biện
luận không thắng nổi nó, há chẳng ngượng lắm
ư? Vì thế, gắng sức đọc sách. Tất cả
sách vở tại Ấn Độ, gần như Ngài đọc
sạch. Do quá siêng khổ, ngay cả móng tay cũng chẳng
rảnh rỗi để cắt, nên lại còn được
gọi là Trường Trảo Phạm Chí (thầy tu Bà La
Môn móng tay dài).
Vị
thứ sáu là Ly Bà Đa (Revata), tức tôn giả Tinh Tú, là bậc
không điên đảo, không tán loạn bậc nhất. Cha
mẹ Ngài cầu đảo với tinh tú mà sanh ra Ngài. Vị
này tượng trưng cho Chánh Giác, chẳng mê.
Vị
thứ bảy là Châu Lỵ Bàn Đà Già (Śuddhipanthaka,
hoặc Cullapatka), tức
tôn giả Kế Đạo, do độn căn, chỉ
trì một bài kệ, biện tài vô tận, nghĩa trì[12]
đệ nhất. Vị tôn giả này bẩm tánh rất
chậm lụt, trí nhớ kém cỏi lạ lùng. Anh Ngài xuất
gia trước, Ngài cũng muốn xuất gia. Người
anh bảo hãy đọc bốn câu kệ, Ngài đọc suốt
ba tháng vẫn chẳng nhớ được. Người
anh liền bảo hãy về nhà, Ngài khóc lóc, chẳng chịu
đi. Đức Phật biết được bèn giữ
lại, dạy Ngài học hai câu kệ, niệm câu trên, quên
tuốt câu dưới. Niệm câu dưới, quên bẵng
câu trên. Đức Thế Tôn biết túc mạng, bảo các
đệ tử: “Người này đời trước
là Tam Tạng pháp sư, có thể thuyết pháp, nhưng keo
kiệt pháp. Vì thế, đời này mắc quả báo ngu
si”.
Vị thứ
tám là Nan Đà (Nanda), tức tôn giả Hỷ, là em ruột
đức Phật, là con của Tịnh Phạn
Vương (Śuddhodana),
hình dung tuấn tú bậc nhất. Đức Phật có ba
mươi hai tướng, vị này có ba mươi tướng.
Vị thứ chín là A Nan Đà (Ānanda),
tức tôn giả Khánh Hỷ, đa văn bậc nhất,
là em họ đức Phật, lại vừa là thị giả,
cũng là người chủ trì kết tập Kinh Tạng.
Vị thứ mười là La Hầu La (Rāhula),
tức tôn giả Phú Chướng, là Thái Tử của Phật,
mật hạnh bậc nhất. Ngài nhỏ tuổi, hằng
ngày chơi đùa bên ngoài, nhưng trong khi vui chơi thành tựu
Định - Huệ của chính mình. Ngài là người có hạnh
thật sự, chứ không phô trương ngoài miệng.
Vị thứ mười là Kiều Phạm Ba
Đề (Gavāmpati), tức tôn giả
Ngưu Ty (trâu nhơi). Phật nói trong quá khứ, khi ngài là
tiểu Sa-di, thấy một vị tỳ-kheo già tụng
kinh, môi mấp máy, bèn cười nhạo là trông giống
như một trâu già đang nhơi cỏ. Vị tỳ-kheo
già nói: “Ta đã chứng được quả A La Hán,
ngươi coi thường ta, tương lai ắt bị
quả báo”. Ngài vội sám hối, nhưng đến đời
thứ hai bèn sanh làm trâu suốt cả năm trăm đời.
Đời này may được mang thân người,
nhưng mồm vẫn còn tập khí nhai nhóp nhép. Đức
Phật dạy Ngài: “Ông đừng nên ra ngoài khất thực.
Ông đã chứng quả, nếu bị người khác
cười nhạo sẽ khiến kẻ ấy mắc tội.
Từ nay, ông hãy nên tiếp nhận sự cúng dường
của chư thiên”. Chư thiên có thiên nhãn, biết Ngài đắc
đạo, chẳng cười chê Ngài.
Vị thứ mười hai là Tân Đầu Lô
Phả La Đọa (Pindola Bharadvaja),
tức tôn giả Bất Động, trụ lâu dài trong thế
gian, tiếp nhận sự cúng dường trong đời
Mạt Pháp, là phước điền bậc nhất. Vị
tôn giả này thích hiển lộ thần thông, bị Phật
biết được, bèn trừng phạt bằng cách chẳng
cho Ngài nhập diệt, mà thường trụ trong thế
gian, làm phước điền cho người đời.
Vị tôn giả này đã hơn ba ngàn tuổi, chẳng lộ
thân phận[13].
Vị thứ mười ba là Ca Lưu Đà Di
(Kaludayin), tức tôn giả Hắc Quang, giỏi giáo hóa nhất,
là sứ giả của đức Phật, giáo hóa bậc
nhất.
Vị thứ mười bốn là Ma Ha Kiếp
Tân Na (Mahākapphina), tức tôn giả Phòng Tú (sao
Phòng)[14],
thông hiểu tinh tú bậc nhất. Cha mẹ Ngài cầu
đảo nơi tinh tú mà sanh ra Ngài. Ngài thông hiểu thiên
văn, là một nhà thiên văn.
Vị thứ mười lăm là Bạc Câu La
(Vakkula), tức tôn giả Thiện Dung, tuổi rất cao,
khi ấy đã một trăm sáu mươi tuổi. Trong
quá khứ, vào thời Tỳ Bà Thi Phật (Vipaśyin),
Ngài từng cúng dường một vị Tăng bị bệnh,
do xuất phát từ lòng chân thành, cảm được quả
báo: Trong chín mươi mốt kiếp
dung mạo đoan chánh, khỏe mạnh, trường thọ,
là bậc thọ mạng đệ nhất, hiển thị
thiện nhân, thiện quả.
Vị thứ mười sáu là A Nậu Lâu
Đà (Aniruddha), tức tôn giả Vô Bần, cũng là em họ
của đức Phật, thiên nhãn bậc nhất. Trong nhiều
kiếp lâu xa trước kia, nhằm thời đói kém, có
một vị Bích Chi Phật đi khất thực, xin không
được thức ăn. Thức ăn cung cấp
năng lượng cho thân thể. Sự tiêu hao năng
lượng của mỗi người khác nhau, nhưng
chín mươi phần trăm bị tiêu hao bởi vọng
tưởng. Người xuất gia tâm tịnh, vọng
tưởng ít, thường trụ trong Định thì mỗi
ngày ăn một bữa là đủ. Bậc La Hán mỗi
tuần khất thực một lần, Bích Chi Phật
Định lực càng sâu, nửa tháng mới đi khất
thực một lần. Khi vị Bích Chi Phật ấy
đi khất thực, tôn giả A Nậu Lâu Đà bèn
đem một phần lương thực của chính mình
cúng dường Bích Chi Phật. Do vậy, Ngài cảm
được quả báo chín mươi mốt kiếp chẳng
bị nghèo cùng. Đồng thời, Ngài lại là bậc
thiên nhãn đệ nhất. Sau khi xuất gia, Ngài rất giải
đãi, trong khi nghe Phật giảng kinh thường ngủ
gục, đức Phật trông thấy quở trách:
Như bạng cáp nhất loại,
Nhất thụy, nhất thiên
niên,
Bất văn Phật danh tự.
(Giống
như loài nghêu sò,
Ngủ một
giấc ngàn năm,
Chẳng nghe danh hiệu Phật).
Bị giáo huấn một chập, trong tâm Ngài cảm
thấy hết sức khó chịu, bèn liều mạng dụng
công, không ngủ suốt bảy ngày bảy đêm, khiến
mắt bị mù. Phật dạy Ngài tu một loại Định
gọi là Nhạo Kiến Quang Minh Định. Sau khi tu
thành, đắc Thiên Nhãn Thông, có thể thấy được
tam thiên đại thiên thế giới.
Ngẫu Ích đại
sư phán định kinh này gồm ba phần Tín - Nguyện
- Hạnh. Trong Tự Phần cũng có ba phần Tín - Nguyện
- Hạnh. Mười sáu vị tôn giả này chính là Chứng
Tín, các Ngài đều đáng nêu gương cho chúng ta.
Người tu Tịnh Độ thấy người hiền
liền mong được bằng. Nếu cậy mình thông
minh thì ngài Xá Lợi Phất càng thông minh hơn ta, Ngài vẫn
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta có lý
do nào mà chẳng chịu niệm Phật. Nếu nghĩ
mình quá ngu thì nói chung vẫn còn hơn ngài Châu Lỵ Bàn
Đà Già nhiều lắm, Ngài vẫn có thể thành tựu,
nên chúng ta tu học ắt cũng có thể thành tựu. Những
vị Thường Tùy Chúng khác không được nêu danh
đều là Pháp Thân đại sĩ. Mười sáu vị
này chẳng qua chỉ là đại diện mà thôi!
“Tăng đạo, tổn sanh”,
câu văn chú giải này đặc biệt tán thán pháp môn Tịnh
Độ. Do đây, có thể biết là những vị suốt
đời theo Phật này đều chuyên tu Tịnh Độ.
Trong những pháp hội khác, họ làm Ảnh Hưởng
Chúng (những người gây ảnh hưởng), trong Tịnh
Tông họ là Đương Cơ Chúng (người có
căn cơ thích hợp tiếp nhận pháp môn này). Pháp Thân
đại sĩ tri kiến thuần chánh, triệt để
hiểu rõ lý luận, sự thật, phương pháp, cảnh
giới, ngộ “duy tâm Tịnh
Độ”, thấy Tự Tánh Di Đà, không hoài nghi mảy
may nào, tăng trưởng đạo nghiệp, đoạn
sạch sanh tử luân hồi trong sáu nẻo. Đồng thời,
họ cũng đoạn được Biến Dịch
Sanh Tử ở ngoài tam giới. Nếu chẳng vãng sanh Tây
Phương thì từ địa vị La Hán cho đến
khi thành Phật vẫn còn Biến Dịch Sanh Tử, sanh về
Tây Phương rồi thì mới thật sự đạt
được vô lượng thọ.
(Kinh)
Tinh chư Bồ Tát Ma Ha Tát, Văn Thù Sư Lợi pháp
vương tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha
Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, dữ
như thị đẳng chư đại Bồ Tát.
(經) 並諸菩薩摩訶薩。文殊師利法王子。阿逸多菩薩。乾陀訶提菩薩。常精進菩薩。與如是等。諸大菩薩。
(Chánh kinh: Và các vị Bồ Tát Ma Hát, Văn Thù
Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ
Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn
Bồ Tát, cùng với các vị đại Bồ Tát như
thế).
Trong
Tự Phần có Tín - Nguyện - Hạnh, trong đoạn
trước là mười sáu vị Thanh Văn nhằm khuyến
tín (khuyên phát khởi lòng tin). Ở đây, trong hàng Bồ
Tát, hai vị Bồ Tát đầu tiên [được nêu
tên] nhằm khuyên chúng ta phát nguyện.
“Văn Thù Sư Lợi
Pháp Vương Tử”: Phật tử rất nhiều,
giống như đế vương cũng đông con, phải
chọn ra một người làm Thái Tử để kế
thừa ngôi vua trong tương lai. Nhà Phật dùng tỷ dụ
này nên có danh xưng Pháp Vương Tử. Trong các vị Bồ
Tát, Văn Thù Bồ Tát (Mañjuśrī) trí huệ
bậc nhất. Trong hội Hoa Nghiêm, phát nguyện niệm
Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
Ngài và Phổ Hiền Bồ Tát đồng thời phát nguyện.
Hai vị này là trợ thủ của Tỳ Lô Giá Na Phật
trong thế giới Hoa Tạng, [hai vị Bồ Tát này cùng
với Tỳ Lô Giá Na Phật] được gọi là Hoa
Nghiêm Tam Thánh. Trong phần trên, A La Hán phát nguyện cầu
sanh thế giới Cực Lạc. Sau khi sanh về Tây
Phương, đoạn dứt hai thứ sanh tử (Biến
Dịch và Phần Đoạn), tiếp nhận sự dạy
bảo của A Di Đà Phật, viên thành Phật đạo,
điều này chúng ta còn có thể hiểu được;
chứ Văn Thù và Phổ Hiền là bậc Đẳng
Giác Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm, đều là bậc bổ
xứ thành Phật sau này, các Ngài sanh về Tây Phương
để làm gì? Nếu Tây Phương thế giới chẳng
vượt trỗi thế giới Hoa Tạng, hai Ngài sanh về
đó sẽ chẳng có mảy may ý nghĩa chi cả! Do
đây, có thể biết rằng: Bất luận tu học
pháp môn nào trong Phật pháp, đến cuối cùng, chỗ
quy túc vẫn là thế giới Hoa Tạng. Sau khi sanh về
Hoa Tạng, gặp Văn Thù, Phổ Hiền, các Ngài lại
khuyên hành giả niệm Phật cầu sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Quý vị hãy suy nghĩ kỹ
càng: Chúng ta đi đường thẳng, không cần phải
đi vòng một khúc quanh lớn sang Hoa Tạng trước,
gặp bất cứ pháp môn nào cũng đều chẳng
phải bận tâm tới.
Có kẻ
hoài nghi, pháp môn đã tốt đẹp như thế, vì sao
Phật còn phải nói nhiều pháp môn như vậy? Phải
biết rằng: Pháp môn này nhằm nói với kẻ cơ
duyên chín muồi, sắp thành Phật! Nếu chưa đến
giai đoạn thành Phật, cũng chỉ đành học
các pháp môn Đại Thừa rộng lớn, tinh vi, sâu xa
khác. Trước kia, tôi nẩy sanh tín tâm đối với
pháp môn Niệm Phật này chính là vì đọc kinh Hoa Nghiêm,
thấy Văn Thù, Phổ Hiền cũng như Thiện
Tài đồng tử ai nấy đều phát nguyện cầu
sanh Tây Phương Tịnh Độ, tôi mới nghiêm túc phản
tỉnh, suy nghĩ cặn kẽ, quay đầu lại,
buông bỏ hết thảy kinh giáo, sốt sắng tu học
pháp môn này. Nếu chẳng phải là những vị ấy
đã ban cho tôi sự khải thị, dù thầy có buốt
lòng rát miệng khuyên dạy, tôi cũng rất khó thể tiếp
nhận.
A Dật Đa (Ajita) là Di Lặc Bồ Tát
(Maitreya)[15].
Trong Hiền Kiếp, Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật
thứ tư, Di Lặc Bồ Tát là vị Phật thứ
năm. Ngài là “hậu bổ Phật”
(vị Phật kế tiếp), hiện đang ở trong
Đâu Suất nội viện. Có kẻ bịa chuyện Phật Thích Ca đã thoái vị, Phật Di Lặc
đang cầm quyền, hoàn toàn là ăn nói nhảm nhí! Theo
kinh Di Lặc Hạ Sanh, tính theo thời gian của chúng ta
thì năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn (567.000.000)
năm sau, Di Lặc Bồ Tát mới giáng sanh thành Phật
trong nhân gian. Ngài hiện đang ở trên trời Đâu Suất
(Tusita).
Cõi trời Đâu Suất có thọ mạng là bốn ngàn
năm, một ngày trên trời Đâu Suất bằng bốn
trăm năm trong nhân gian. Đem bốn ngàn nhân với ba
trăm sáu mươi rồi nhân với bốn trăm (tức
là 576.000.000 năm)[16],
sẽ tính ra được thời gian Di Lặc Bồ
Tát giáng sanh trong nhân gian. Trong kinh Vô Lượng Thọ, nửa
bộ đầu, ngài A Nan là đương cơ, nửa
bộ sau ngài Di Lặc là đương cơ. Có người
mong sanh lên trời Đâu Suất, thân cận Di Lặc Bồ
Tát, tương lai ngài Di Lặc hạ sanh nhân gian, cũng
có thể theo Ngài hoằng hóa trong thế gian. Nhưng trời
Đâu Suất hoàn toàn chẳng dễ sanh về, phải có
công phu định lực. Đã thế, ngài Di Lặc là
chuyên gia về Duy Thức, môn đình rất cao, phải tu
Duy Tâm Thức Định, tu thành công thì mới sanh về
đó được! Hãy nên biết rằng: Sanh về Tây
Phương, làm đệ tử Phật Di Đà, Di Lặc
Bồ Tát cũng là đệ tử Di Đà, [người
vãng sanh Cực Lạc] mang thân phận là bạn học của
Di Lặc Bồ Tát, có thể đến thăm Đâu Suất
nội viện bất cứ lúc nào.
Danh hiệu Càn Đà Ha
Đề (Gandhahastin)
có nghĩa là Bất Hưu Tức (không ngơi nghỉ),
danh hiệu Thường Tinh Tấn cũng có nghĩa là
không gián đoạn, không xen tạp, không hoài nghi, tinh tấn
không lui sụt. [Nêu tên] hai vị Bồ Tát này nhằm khuyên
hãy nên hành trì.
(Giải) Bồ Tát Ma Ha Tát, thử
vân Đại Đạo Tâm, thành tựu chúng sanh, nãi Trí Bi
song vận, tự tha kiêm lợi chi xưng. Phật vi Pháp
Vương, Văn Thù thiệu Phật gia nghiệp, danh
Pháp Vương Tử. Bồ Tát chúng trung, trí huệ đệ
nhất. Phi dũng mãnh Thật Trí, bất năng chứng
giải Tịnh Độ pháp môn, cố cư sơ. Di Lặc
đương lai thành Phật, hiện cư Đẳng
Giác, dĩ cứu cánh nghiêm tịnh Phật quốc vi yếu
vụ, cố thứ liệt. Bất Hưu Tức giả,
khoáng kiếp tu hành, bất tạm đình cố. Thường
Tinh Tấn giả, tự lợi, lợi tha, vô bì quyện
cố. Thử đẳng thâm vị Bồ Tát, tất giai
cầu sanh Tịnh Độ, dĩ bất ly kiến Phật,
bất ly văn pháp, bất ly thân cận cúng dường
chúng tăng, nãi năng tốc tật viên mãn Bồ Đề
cố.
(解)菩薩摩訶薩。此云大道心。
成就眾生。 乃智悲雙
運。自他兼利之稱。佛為法王,文殊紹佛家業。名法王子。菩薩眾中。智慧第一。非勇猛實智。不能證解淨土法門。故居初。彌勒當來成佛。現居等覺。以究竟嚴淨
佛國為要務。故次列。不休息者。曠劫修行。不暫停故。常精進者。自利利他。無疲倦故。此等深位菩薩。必皆求生淨土。以不離見佛。不離聞法。不離親近供養眾
僧。乃能速疾圓滿菩提故。
(Giải: Bồ
Tát Ma Ha Tát, cõi này dịch là Đại Đạo Tâm, là từ
ngữ để gọi bậc “thành tựu chúng sanh, vận
dụng Bi và Trí, tự lợi, lợi tha”. Phật là Pháp
Vương, Văn Thù nối tiếp gia nghiệp của
Phật, nên gọi là Pháp Vương Tử. Trong các vị
Bồ Tát, Văn Thù trí huệ bậc nhất. Nếu không
có Thật Trí dũng mãnh, sẽ chẳng thể chứng giải
pháp môn Tịnh Độ, nên xếp Ngài vào đầu [danh
sách những vị Bồ Tát]. Ngài Di Lặc trong
tương lai sẽ thành Phật, hiện đang ở bậc
Đẳng Giác. Do rốt ráo nghiêm tịnh cõi Phật là nhiệm
vụ cần kíp, nên được nêu tên kế tiếp. Bất
Hưu Tức tu hành từ bao kiếp lâu xa, chẳng tạm
nghỉ. Thường Tinh Tấn tự lợi, lợi tha,
không mệt mỏi. Những vị Bồ Tát thuộc địa
vị sâu xa này đều cầu sanh Tịnh Độ, vì
chẳng lìa thấy Phật, vì chẳng lìa nghe pháp, vì chẳng
lìa thân cận cúng dường chúng tăng, để có thể
mau chóng viên mãn Bồ Đề vậy).
“Bồ
Tát” là tiếng Phạn, gọi tắt của Bồ
Đề Tát Đỏa (Boddhisattva). Người Hoa thích
đơn giản, văn tự và ngôn ngữ chú trọng
đơn giản, trọng yếu, rõ ràng. Huyền Trang
đại sư dịch là Giác Hữu Tình, dịch theo lối
cổ (cách dịch trước thời ngài Huyền Trang)
là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh, nhằm chỉ bậc
chân chánh phát nguyện tu học, muốn viên thành Vô Thượng
Đại Đạo. Ma Ha (Mahā) là Đại, những vị thuộc địa
vị Tam Hiền[17] gọi là
Bồ Tát, Đăng Địa Bồ Tát gọi là Bồ
Tát Ma Ha Tát. Thanh Văn, Duyên Giác chỉ có tâm tự lợi,
chẳng chủ động giúp đỡ chúng sanh, nên gọi
là Tiểu Thừa. Bồ Tát chủ động hóa độ
chúng sanh vô điều kiện, vận dụng cả Bi lẫn
Trí. [Trong kinh này], những nhân vật đại biểu
trong hàng Bồ Tát không nhiều, chỉ kể ra bốn vị.
“Phật vi Pháp Vương”:
Trong hết thảy pháp, Phật đắc đại tự
tại, nên gọi là Pháp Vương, đây là tiếng tôn
xưng với ý nghĩa tỷ dụ. Văn Thù trí huệ
bậc nhất, kế thừa sự nghiệp giáo hóa chúng
sanh của đức Phật, vì thế, gọi là “Pháp Vương Tử” (con
đấng Pháp Vương). Sự dạy học và truyền
thừa trong Phật pháp coi trí huệ là bậc nhất. Huệ
là mục tiêu cuối cùng, tột bậc của Phật
pháp. Giới và Định là phương thức,
phương pháp; vì thế, Phật học được
gọi là “trí huệ chi học”
(cái học trí huệ). Trí huệ, thần thông, đức
năng của mỗi một vị Bồ Tát đều giống
như nhau, bình đẳng, nhưng nhằm biểu thị
pháp, mỗi một vị Bồ Tát nêu gương về một
sở trường riêng, chẳng hạn như ngài Văn
Thù là trí huệ bậc nhất. Pháp môn Niệm Phật này cần
phải có trí huệ cao độ thì mới có thể tiếp
nhận được. Chúng ta nghe tới pháp môn này liền
sanh đại hoan hỷ, phát đại nguyện, y giáo phụng
hành, chính là chọn lựa theo trí huệ cao tột nhất,
chẳng khác gì Văn Thù Bồ Tát và ngài Xá Lợi Phất.
Trí huệ này là Thật Trí, không phải là trí huệ thông
minh của thế gian. Do vậy, ngài Văn Thù được
nên tên đầu tiên.
“Di Lặc” là tiếng
Phạn, có nghĩa là Từ Bi; vì thế, Ngài còn được
gọi là Từ Thị. Di Lặc là họ, A Dật Đa
là tên. Các vị đồng tu học Phật hằng ngày niệm
kệ hồi hướng có câu “nguyện
dĩ thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh
Độ” (nguyện đem công đức này, trang nghiêm
Phật Tịnh Độ), trang nghiêm như thế nào? Di Lặc
Bồ Tát lấy rốt ráo trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật
làm nhiệm vụ trọng yếu. A Di Đà Phật từ
bi hoan nghênh chúng ta sanh về Tây Phương thế giới,
còn có rất nhiều vị Bồ Tát ai nấy đều
thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật. Nếu chúng ta không thanh tịnh
sẽ biến cõi ấy thành ô nhiễm, thì làm sao cõi ấy
có thể dung nạp chúng ta? Hãy nên biết rằng: Trang
nghiêm cõi Phật phải được thực hiện
ngay trong hiện tại, tâm tịnh thì cõi tịnh. Vì sao niệm
Phật? Vì sao đọc kinh? Mục đích là muốn sửa
đổi cái tâm ô nhiễm thành tâm thanh tịnh. Thân là chánh
báo, cõi nước là y báo. Nếu tâm niệm Phật, đọc
kinh chẳng thanh tịnh, sẽ biến thành phước
báo, quả báo trong tương lai là ở trong lục đạo,
chẳng thể thoát khỏi tam giới. Từ Thị Bồ
Tát là vị Phật kế tiếp của thế giới
Sa Bà, hiện đang ở địa vị Đẳng
Giác, Ngài đại từ đại bi. Trong nhà Phật, từ
bi được thêm vào chữ Đại nhằm chỉ
rõ lòng từ bi ấy là bình đẳng, thanh tịnh. Tâm có
phân biệt sai khác là chẳng thanh tịnh. Hai thứ
phước và huệ trang nghiêm trọn đủ là điều
kiện tất yếu để vãng sanh Tịnh Độ.
Ngài Văn Thù tượng trưng cho trí huệ, ngài Di Lặc
tượng trưng cho phước đức trang nghiêm.
Hai vị Bồ Tát sau cùng nhằm
khuyến hành (khuyên hành trì). Bất Hưu Tức là tu hành chẳng
hề biếng nhác, bê trễ. Người Trung Quốc
thường nói: “Nhất nhật
bộc chi, thập nhật hàn chi” (Một ngày nóng, mười
ngày lạnh). Chẳng hạn như, mỗi ngày dụng
công bốn giờ thì vẫn còn có hai mươi giờ gián
đoạn. Ở Ấn Độ [vào thời cổ], thời
gian được chia thành đêm ba thời, ngày ba thời.
Ban ngày được chia thành Sơ Nhật Phần, Trung
Nhật Phần, Hậu Nhật Phần; ban đêm chia thành
Sơ Dạ Phần, Trung Dạ Phần, Hậu Dạ Phần.
Trước kia, tại Trung Quốc, thời gian được
chia thành mười hai đơn vị, dùng Tý, Sửu, Dần,
Mão (Mẹo), Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi
để phân định mười hai Thời Thần.
Hiện thời đã áp dụng quy cách “ngày đêm gồm
hai mươi bốn tiếng đồng hồ”. Một
Thời ở Ấn Độ bằng bốn giờ [hiện
thời] của Trung Quốc. Lúc đức Phật tại
thế, người xuất gia ngủ trong khoảng Trung Dạ
Phần, tức là mười giờ đêm đi ngủ,
hai giờ sáng phải thức dậy, họ chỉ ngủ
bốn tiếng đồng hồ thuộc Trung Dạ Phần,
có hai mươi giờ để tu hành. Nếu muốn có
thành tựu, chẳng thể không tận dụng thời
gian dũng mãnh dụng công. Ngoài ra, còn phải học theo
Thường Tinh Tấn Bồ Tát, tự mình tu là tự lợi,
còn phải giúp đỡ người khác, lợi người
chính là tự lợi. Trong tâm thanh tịnh chẳng nhiễm
mảy trần, không có chấp trước, được
- mất, ngạo nghễ, ngã mạn, đạt đến
mức “làm mà không làm, tam luân thể không[18]”, có
như thế thì mới có thể không mệt mỏi.
Bốn vị Đại Sĩ vừa được
nêu tên trên đây như Văn Thù v.v... đều là Đẳng
Giác Bồ Tát, đều phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ. Sanh về Tịnh Độ có mấy điều
tốt đẹp. Thứ nhất là chẳng lìa thấy Phật,
thứ hai là chẳng lìa nghe pháp, thứ ba là thân cận cúng
dường hải hội đại chúng, lại còn có thể
mau chóng viên mãn đạo Bồ Đề. Lấy Đẳng
Giác Bồ Tát để nói thì các Ngài có năng lực đến
mười phương cõi nước bất cứ lúc
nào, vì sao vẫn phải sanh về thế giới Cực Lạc?
Kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ đều theo Phổ Hiền Bồ
Tát cầu sanh Tịnh Độ, cho thấy Tây
Phương là một nơi có quang cảnh ngoạn mục
khôn sánh, cho thấy sanh về Tây Phương thấy Phật,
nghe pháp, thân cận chư thiện tri thức, không gián
đoạn một phút, một giây nào, nêu rõ Tây Phương
có hoàn cảnh đặc biệt thù thắng. Đẳng
Giác Bồ Tát tuy có năng lực đến mười
phương thế giới công đức chư Phật,
vẫn khó tránh khỏi có lúc bị gián đoạn. Thích Ca
Mâu Ni Phật chỉ trụ thế bảy mươi chín
năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn
mươi chín năm, thời gian trọn chẳng dài lắm.
Pháp vận của Ngài cũng chỉ có một vạn hai
ngàn năm. Sau thời gian đó sẽ không còn Phật pháp,
phải đợi năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn
năm sau Di Lặc Phật mới hạ sanh, mới có Phật
pháp. Thời gian gián đoạn giữa chừng dài quá!
Trong các cõi Phật khác cũng đều giống như thế.
Người trong cõi Tây Phương thọ mạng vô lượng,
dù nói theo mặt lý luận thì vẫn là hữu lượng[19]. Sau khi A
Di Đà Phật diệt độ, Quán Thế Âm Bồ Tát
kế thừa ngôi vị Phật, nhưng khi nào A Di Đà
Phật sẽ nhập diệt, kinh Vô Lượng Thọ
nói rất rõ ràng: Ngài Mục Liên thần thông rộng lớn,
có thể trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ
tính ra số lượng chúng sanh trong thế giới Sa Bà.
Giả sử chúng sanh trong mười phương thế
giới đều thành Duyên Giác, thọ đến vạn ức
năm, thần thông giống như ngài Mục Kiền Liên,
trọn hết tuổi thọ cùng nhau tính toán cũng không
có cách gì tính được thọ mạng của Vô Lượng
Thọ Phật. Do đây có thể biết rằng: Cõi Tây
Phương thọ mạng vô lượng, trên đường
Bồ Đề chẳng có mảy may chướng ngại
nào, Đẳng Giác Bồ Tát vì muốn mau chóng viên thành Phật
đạo nên đều nguyện vãng sanh Tây Phương.
(Kinh) Cập Thích Đề Hoàn
Nhân đẳng, vô lượng chư thiên đại chúng
câu.
(Giải) Thích Đề Hoàn Nhân, thử vân
Năng Vi Chủ, tức Đao Lợi thiên vương.
Đẳng giả, hạ đẳng tứ vương,
thượng đẳng Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc,
Tha Hóa, Sắc, Vô Sắc, vô lượng chư thiên dã. Đại
chúng câu, vị thập phương thiên nhân, bát bộ Tu La,
nhân, phi nhân đẳng, vô bất dự hội, vô phi Tịnh
Độ pháp môn sở nhiếp chi cơ dã. Thông Tự cánh.
(經) 及釋提桓因等。無量諸天大眾俱。
(解) 釋提桓因。此云能為主。即忉利天王。等者。下等四王。上等夜摩。兜率。化樂。他化。色。無色。無量諸天也。大眾俱。謂十方天人。八部修羅。人非人等。無不與會。無非淨土法門所攝之機也。通序竟。
(Chánh kinh:
Và Thích Đề Hoàn Nhân v.v... vô lượng chư thiên đại
chúng cùng nhóm họp.
Giải:
Thích Đề Hoàn Nhân, cõi này dịch là Năng Vi Chủ, tức
là vua cõi trời Đao Lợi. Chữ “đẳng”: Phía
dưới như trời Tứ Vương, phía trên
như các tầng trời Dạ Ma, Đâu Suất, Hóa Lạc,
Tha Hóa, Sắc, Vô Sắc, vô lượng chư thiên. “Đại
chúng câu” nghĩa là mười phương trời, người,
tám bộ [trời rồng], Tu La, nhân, phi nhân v.v... không ai chẳng
tham dự pháp hội, không ai chẳng là căn cơ
được nhiếp thọ bởi pháp môn Tịnh Độ.
Hết phần Thông Tự)
“Thích Đề Hoàn
Nhân” (Śakro-devānām Indrah) được
dịch là “Năng Vi Chủ”,
chính là vua cõi trời Đao Lợi (Trāyastrimśa), tức
tầng trời thứ hai trong Dục Giới. Ông này là chúa
trời của ba mươi ba vị trời, còn gọi là
Đế Thích Thiên, người Trung Quốc thường
gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế. Vị
được các tôn giáo khác gọi là Thiên Chúa chính là
Đao Lợi thiên vương. Chúng ta lắng lòng xem xét kinh
sách và lý luận, phương pháp tu hành của các tôn giáo
khác, sẽ thấy dường như họ chẳng tách rời
Đao Lợi thiên. Muốn tu lên cao hơn, ắt phải
có công phu Thiền Định, tu tâm thanh tịnh. Nếu tu
Thiền Định thành công sẽ sanh lên Tứ Thiền
Thiên (Caturdhyānabhūmi)[20] trong Sắc
Giới (Rūpadhātu). Nếu có cơ sở Thiền
Định nhưng chưa tu thành, tức là “chưa đắc
Định” thì chỉ sanh lên đến trời Dạ Ma
(Yāma), trời Đâu Suất (Tusita), trời Hóa Lạc
(Nirmānaratī), trời Tha Hóa Tự
Tại (Parinirmita-vaśavartin). Nếu muốn sanh
lên Tứ Thiền Thiên, trừ Thiền Định ra, còn phải
tu Tứ Vô Lượng Tâm, tức Từ, Bi, Hỷ, Xả
thì mới sanh lên Sắc Giới được. Xứ nào
duyên đã chín muồi, chư Phật, Bồ Tát liền
đến đó giáo hóa chúng sanh. Trong tam đồ và các cõi
trời đều có Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết
pháp. Chỉ có Tứ Không Thiên (Caturārūpyadhātu)[21]
chẳng tiếp
nhận Phật pháp vì họ tưởng mình đã chứng
đắc Đại Niết Bàn. Nếu các tôn giáo khác bài
xích Phật giáo thì chỉ là tạm thời, vì trong
tương lai, họ sanh lên trời, sẽ cùng với
Thiên Chúa đều được Phật, Bồ Tát giáo
hóa, mai sau sẽ biết học Phật. Trên đến bậc
Đẳng Giác, dưới đến chúng sanh trong địa
ngục đều được thâu nhiếp bởi pháp
môn Tịnh Độ, chín pháp giới bình đẳng tu
hành, bình đẳng thành Phật. Đức Phật thuyết
pháp bốn mươi chín năm, chỉ có một bộ
kinh này thích hợp trọn khắp ba căn, gồm thâu
độn căn lẫn lợi căn. Đến đây,
phần Chứng Tín Tự tức Thông Tự đã
được giảng xong. Tiếp theo đây là phần
Phát Khởi Tự, còn gọi là Biệt Tự.
4.1.2. Biệt Tự
(Giải)
Phát KhởiTự dã,Tịnh Độ diệu môn bất khả
tư nghị, vô nhân năng vấn, Phật tự xướng
y chánh danh tự vi phát khởi. Hựu Phật trí giám cơ
vô mậu, kiến thử đại chúng, ưng văn Tịnh
Độ diệu môn, nhi hoạch tứ ích, cố bất
sĩ vấn, tiện tự phát khởi, như Phạm
Võng Kinh hạ quyển, tự xướng vị hiệu
vân: “Ngã kim Lô Xá Na đẳng”, Trí Giả phán tác Phát Khởi
Tự, lệ khả tri dã.
(解) 發起序也。淨土妙門。不可思議。無人能問。佛自倡依正名字為發起。又佛智鑒機無謬。見此大眾。應聞淨土妙門。而獲四益。故不俟問。便自發起。如梵網經下卷。自倡位號云。我今盧舍那等。智者判作發起序。例可知也。
(Giải: Trong phần Phát Khởi Tự thì pháp môn
Tịnh Độ mầu nhiệm chẳng thể nghĩ
bàn, không ai có thể hỏi, đức Phật tự
xướng lên danh tự của y báo và chánh báo hòng phát khởi.
Lại
nữa, Phật trí soi xét căn cơ không sai lầm, thấy
đại chúng đáng được nghe pháp môn Tịnh
Độ mầu nhiệm, đạt được bốn
thứ lợi ích, nên chẳng đợi hỏi mà tự
phát khởi. Giống như trong quyển hạ của kinh
Phạm Võng, Ngài tự xướng danh hiệu nơi quả
vị như sau: “Ta nay là Lô Xá Na....” Ngài Trí Giả phán định
phần kinh văn ấy là Phát Khởi Tự, cứ dựa
theo đó sẽ biết [vì sao tôi phán định phần
này của kinh A Di Đà là Phát Khởi Tự]).
Vì sao gọi Tịnh Độ là “diệu môn”? Biết nó mầu
nhiệm ở chỗ nào thì mới thấu hiểu sự
thù thắng của nó. Mầu nhiệm ở chỗ
phương pháp đơn giản, chỉ cần thật
thà niệm Phật, chẳng cần biết hiểu hay
không hiểu, đều có thành tựu. Hiểu rõ ràng lý luận
thì sự Niệm Phật ấy được gọi là
Lý Niệm. Nếu chẳng hiểu, chỉ thật thà mà niệm
thì gọi là Sự Niệm. Công phu bình đẳng, do vậy,
pháp môn này phổ độ hết thảy chúng sanh trong một
đời đều bình đẳng thành Phật, gọi
là “diệu” là vì điểm
này. Chúng ta chọn lựa pháp môn này giống như các vị
Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền, phương pháp tu
hành cũng tương đồng, sanh về Tây
Phương đạt được quả vị
đương nhiên cũng tương đồng.
Pháp môn này sâu mầu cùng tột, chẳng những
người tầm thường chẳng thể hỏi
được, mà bậc Đại Trí Xá Lợi Phất
cho đến bậc Pháp Vương Tử trí huệ bậc
nhất là Văn Thù Bồ Tát cũng chẳng thể hỏi.
Phật nói pháp cần phải có người khải thỉnh,
nhưng pháp môn này sâu quá, ai cũng chẳng nghĩ tới
được. Do vậy, đức Phật quán sát cơ
duyên của đại chúng dự hội đã chín muồi,
chẳng cần đệ tử khải thỉnh, tự
động tuyên nói pháp môn “thành Phật viên mãn ngay trong một
đời này”. Trong mười hai phần giáo, thể loại
này được gọi là Vô Vấn Tự Thuyết (không
ai hỏi mà tự nói). Lúc đức Phật ở dưới
cội Bồ Đề, ban đêm thấy sao Mai, viên thành
Phật đạo, Ngài muốn tuyên nói với mọi
người pháp môn này, nhưng khi ấy, cơ duyên của
chúng sanh chưa chín muồi, do vậy, phải bắt đầu
nói từ các kinh Tiểu Thừa, Đại Thừa trước.
Đợi đến khi cơ duyên chín muồi, không ai hỏi,
tự nói, khiến cho chúng sanh đạt được bốn
thứ lợi ích, gọi là Tứ Tất Đàn (catur-siddhānta).
“Tất” là phổ biến, “đàn” là thí cho, [Tứ Tất
Đàn là]:
a. Thế giới
Tất Đàn: Tuyên nói với chúng sanh hết thảy
chân tướng sự thật trong thế gian, khiến cho
họ sanh lòng tin ưa. Phật pháp trước hết phải
làm cho chúng sanh sanh lòng hoan hỷ. Nếu chẳng thể làm
cho chúng sanh đối xử hòa thuận với nhau, ắt
sẽ khiến cho xã hội bất an. Vì thế, Phật
pháp lấy việc tạo lợi ích cho thế gian làm đầu.
b. Vị nhân Tất
Đàn: Quán sát cơ duyên của chúng sanh mà thuyết pháp
phù hợp căn cơ, khiến họ sanh được
lợi ích tốt lành. Như rắc rối to lớn trong
hiện thời là luân lý, đạo đức thiếu
sót, xã hội bất an, bèn vì họ nói Tứ Duy, Bát Đức[22]
khiến cho họ sanh khởi thiện nguyện, thiện
hạnh.
c. Đối trị
Tất Đàn: Thuyết pháp nhằm đối trị
những khuyết điểm của chúng sanh, khiến cho
họ đoạn ác.
d. Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn: Ba thứ trên thuộc về pháp
thế gian, loại thứ tư thuộc về pháp xuất
thế gian, khiến cho chúng sanh ngộ đạo chứng
quả.
Nay đức Phật giới thiệu tại
phương Tây quả thật có thế giới Cực Lạc
và cũng thật sự có A Di Đà Phật. Chúng sanh nghe
xong, sanh tâm hoan hỷ, phát nguyện cầu sanh. Đấy
chính là Thế Giới Tất Đàn. Nghe xong, chấp trì
danh hiệu, thiện căn, phước đức viên mãn
hiện tiền, được lợi ích sanh trưởng
điều thiện, đấy là Vị Nhân Tất Đàn. Dùng cái tâm chân thành, cung kính, ngày
đêm niệm một câu Phật hiệu không ngừng,
ác nghiệp nơi thân khẩu ý chẳng thể hiện
hành, đè nén phiền não, đấy là Đối Trị Tất
Đàn. Niệm Phật niệm đến mức “công phu
thành phiến”, chắc chắn sanh về Tây Phương,
muốn ra đi lúc nào sẽ đi trong lúc ấy, có thể
sanh tử tự tại, đấy là Đệ Nhất
Nghĩa Tất Đàn.
Ngẫu Ích đại sư phán định
đoạn kinh văn tiếp theo [phần Thông Tự], tức
đoạn “nhĩ thời, Phật
cáo trưởng lão Xá Lợi Phất, tùng thị Tây
Phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu
thế giới danh viết Cực Lạc. Kỳ độ
hữu Phật, hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết
pháp” thuộc phần Phát Khởi Tự. Đấy chính
là quan điểm độc đáo của đại
sư. Từ xưa, các vị đại đức đều
phán định đoạn này thuộc Chánh Tông Phần,
nhưng đại sư cũng có tiền lệ để
viện dẫn. Ngài nói Trí Giả đại sư vào đời
Tùy khi chú giải Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn
đã phán định phần kệ tụng trước
[phần kinh văn giảng về các giới] thuộc vào
Phát Khởi Tự. Đấy là căn
cứ để lập luận của Ngẫu Ích đại
sư, điều này cũng nhằm biểu thị lòng
khiêm hư của đại sư. Người xuất
gia Trung Quốc thọ Bồ Tát Giới đều lấy
Phạm Võng Kinh Giới Bổn làm y cứ, nhưng tại
Đài Loan, trong thời gần đây, cũng có người
sử dụng phần Anh Lạc Giới Bổn trong Ưu
Bà Tắc Giới Kinh, so với kinh Phạm Võng thì giới
điều ít hơn, chỉ có sáu giới trọng và hai
mươi tám giới khinh. Trước đó (tức
trước phần chánh thức tuyên giới trong kinh Phạm
Võng), có bốn câu kệ:
Ngã kim Lô Xá Na,
Phương tọa liên hoa
đài,
Châu táp thiên hoa thượng,
Phục hiện thiên Thích Ca.
(Nay ta, Lô
Xá Na,
Ngồi
trên đài hoa sen,
Trên ngàn
hoa vây quanh,
Hiện ngàn Thích Ca Phật).
Trí Giả
đại sư phán định đoạn kinh văn này
thuộc Tự Phần. Đức Phật chưa
được khải thỉnh mà đem danh hiệu và
địa vị của chính mình tự nói ra, phương
thức rất giống như trong kinh này, nên Ngẫu Ích
đại sư phán định đoạn [kinh A Di Đà]
này thuộc về Phát Khởi Tự.
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo trưởng lão Xá Lợi Phất:
“Tùng thị Tây Phương, quá thập vạn ức Phật
độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc,
kỳ độ hữu Phật, hiệu A Di Đà, kim hiện
tại thuyết pháp”.
(經) 爾時。佛告長老舍利弗。從是西方。過十萬億佛土。有世界名曰極樂。其土有佛。號阿彌陀。今現在說法。
(Chánh kinh:
Lúc bấy giờ, Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất: “Từ đây đi
qua phương Tây mười vạn ức cõi Phật, có
thế giới tên là Cực Lạc, trong cõi ấy có Phật,
hiệu là A Di Đà, nay hiện đang thuyết pháp).
Trong đoạn kinh văn này có ba sự thật:
a. Từ thế giới Sa Bà đi qua Tây
Phương, trải qua mười vạn ức cõi Phật,
có thế giới Cực Lạc.
b. Trong cõi ấy, quả thật có A Di Đà Phật.
c. A Di
Đà Phật hiện đang thuyết pháp nơi đó.
(Giải) Tịnh Độ pháp môn, tam căn phổ
nhiếp, tuyệt đãi viên dung, bất khả tư nghị.
Viên thâu, viên siêu nhất thiết pháp môn, thậm thâm nan tín.
Cố đặc cáo đại trí huệ giả. Phi đệ
nhất trí huệ, bất năng trực hạ vô nghi dã.
“Tây Phương” giả, hoành cắng trực Tây, tiêu thị
hiện xứ dã. “Thập vạn ức” giả, thiên vạn
viết ức, kim tích ức chí thập vạn dã. “Phật
độ” giả, tam thiên đại thiên thế giới,
thông vi nhất Phật sở hóa. Thả dĩ thử độ
ngôn chi, nhất Tu Di sơn, Đông, Tây, Nam, Bắc các nhất
châu, đồng nhất nhật nguyệt sở chiếu,
nhất Thiết Vy sơn sở nhiễu, danh nhất “tứ
thiên hạ”. Thiên tứ thiên hạ, danh tiểu thiên thế
giới. Thiên tiểu thiên, danh trung thiên thế giới.
Thiên trung thiên, danh đại thiên thế giới. Quá như
thử Phật độ, thập vạn ức chi Tây, thị
Cực Lạc thế giới dã.
Vấn:
Hà cố Cực Lạc tại Tây Phương?
Đáp:
Thử phi thiện vấn. Giả sử Cực Lạc tại
Đông, nhữ hựu vấn hà cố tại Đông, khởi
phi hý luận? Huống tự thập nhất vạn ức
Phật độ thị chi, hựu tại Đông hỹ.
Hà túc trí nghi?
“Hữu
thế giới danh viết Cực Lạc”, tự y báo quốc
độ chi danh dã, thụ ước tam tế, dĩ biện
thời kiếp; hoành ước thập phương, dĩ
định cương ngung, cố xưng “thế giới”.
“Cực Lạc” giả, Phạn ngữ Tu Ma Đề, diệc
vân An Dưỡng, An Lạc, Thanh Thái đẳng. Nãi vĩnh
ly chúng khổ, đệ nhất an ổn chi vị. Như
hạ quảng thích. Nhiên Phật độ hữu tứ,
các phân tịnh uế. Phàm Thánh Đồng Cư độ,
ngũ trược trọng giả uế, ngũ trược
khinh giả tịnh. Phương Tiện Hữu Dư
độ, tích không chuyết độ chứng nhập giả
uế, thể không xảo độ chứng nhập giả
tịnh. Thật Báo Vô Chướng Ngại độ, thứ
đệ Tam Quán chứng nhập giả uế, Nhất
Tâm Tam Quán chứng nhập giả tịnh.
(解) 淨
土法門。三根普攝。絕待圓融。不可思議。圓收圓超一切法門。甚深難信。故特告大智慧者。非第一智慧。不能直下無疑也。西方者。橫亘直西。標示現處也。十萬
億者。千萬曰億。今積億至十萬也。佛土者。三千大千世界。通為一佛所化。且以此土言之。一須彌山。東西南北各一洲。同一日月所照。一鐵山圍所繞。名一四天
下。千四天下。名小千世界。千小千。名中千世界。千中千。名大千世界。過如此佛土。十萬億之西。是極樂世界也。問。何故極樂在西方。答。此非善問。假使極
樂在東。汝又問何故在東。豈非戲論。況自十一萬億佛土視之。又在東矣。何足致疑。有世界名曰極樂。序依報國土之名也。豎約三際。以辨時劫。橫約十方。以定
疆隅。故稱世界。極樂者。梵語須摩提。亦云安養。安樂。清泰等。乃永離衆苦。第一安穩之謂。如下廣釋。然佛土有四。各分淨穢。凡聖同居土。五濁重者穢。五
濁輕者淨。方便有餘土。析空拙度證入者穢。體空巧度證入者淨。實報無障礙土。次第三觀證入者穢。一心三觀證入者淨。
(Giải: Pháp môn Tịnh
Độ nhiếp trọn ba căn, dứt bặt đối
đãi một cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Gồm
thâu trọn vẹn, nhưng vượt thoát trọn vẹn
hết thảy pháp môn, rất sâu, khó tin. Vì thế, đặc
biệt nói với bậc đại trí huệ, vì nếu
không phải là người trí huệ bậc nhất sẽ
chẳng thể nào hiểu được ngay mà không nghi.
“Tây Phương” là đi thẳng mãi suốt theo chiều
ngang sang phía Tây, [từ ngữ này] nhằm chỉ ra chỗ
Phật thị hiện. “Thập vạn ức”: Mười
vạn là một ức, nay dồn số ức ấy
đến mười vạn ức. “Phật độ”
(cõi Phật): Cả tam thiên đại thiên thế giới
là khu vực hóa độ của một đức Phật.
Hãy lấy cõi này để giảng thì một núi Tu Di, bốn
phía Đông, Tây, Nam, Bắc mỗi phía đều có một
châu, cùng được một mặt trời, một mặt
trăng chiếu, một rặng núi Thiết Vy bao quanh thì gọi
là Tứ Thiên Hạ. Một ngàn Tứ Thiên Hạ gọi là
một tiểu thiên thế giới. Một ngàn tiểu
thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một
ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế
giới. Đi về phương Tây, qua khỏi mười
vạn ức cõi Phật như vậy là tới thế giới
Cực Lạc.
Hỏi: Vì sao Cực
Lạc ở phương Tây?
Đáp: Đây chẳng phải là câu hỏi hay ho
gì. Giả sử Cực Lạc ở phương Đông,
ông lại hỏi vì sao nó ở phương Đông, há chẳng
phải là nói giỡn hay sao? Huống chi, nếu nhìn từ
mười một vạn ức cõi Phật, Cực Lạc
lại thuộc phương Đông mất rồi, có gì
đáng để nghi ngờ nữa ư?
“Có thế giới tên là Cực
Lạc”: Nêu ra cái tên cõi nước trong y báo. [“Thế’ là]
theo chiều dọc suốt cả ba đời, nhằm luận
về thời kiếp. [“Giới” là] theo chiều ngang thì trọn
cả mười phương, nhằm phân định ranh
giới. Vì thế gọi là thế giới. “Cực Lạc”:
Tiếng Phạn là Tu Ma Đề (Sumatī, Sukhāvatī),
còn dịch là An Dưỡng, An Lạc, Thanh Thái v.v... nghĩa
là cõi vĩnh viễn lìa khỏi các khổ, an ổn bậc
nhất. Từ ngữ này sẽ được giải
thích chi tiết trong phần sau. Cõi Phật có bốn loại,
với mỗi loại đều chia thành tịnh và uế.
Phàm Thánh Đồng Cư độ: Ngũ Trược nặng
nề là cõi uế, Ngũ Trược nhẹ nhàng là cõi tịnh.
Phương Tiện Hữu Dư độ: Dùng
phương pháp phân tích cái Không vụng về để chứng
nhập thì là uế. Dùng phương pháp thấu hiểu
cái Không để khéo léo chứng nhập thì là tịnh. Thật
Báo Vô Chướng Ngại độ: Chứng nhập bằng
cách tu Tam Quán theo thứ tự là uế, chứng nhập bằng
Nhất Tâm Tam Quán là tịnh).
Pháp môn Tịnh Độ quả thật là pháp
rất sâu khó tin. Trong kinh này, đức Phật có nói: “Bất khả dĩ thiểu thiện
căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ
quốc” (Chẳng thể do chút thiện căn, phước
đức, nhân duyên mà sanh về cõi ấy được).
Bậc đại trí huệ thiện căn, phước
đức viên mãn trọn đủ, có thể gánh vác ngay lập
tức, tin sâu, chẳng nghi. Hết thảy chúng sanh bất
luận căn tánh như thế nào, pháp môn Tịnh Độ
đều có thể bao dung, khiến cho họ thành tựu.
Trên là các vị thượng thượng căn Đẳng
Giác Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v..., dưới
thì cho đến chúng sanh Ngũ Nghịch, Thập Ác sắp
đọa địa ngục A Tỳ đều có phần.
Đối tượng được độ thoát của
các kinh khác chẳng giống như vậy. Như Hoa Nghiêm,
Pháp Hoa chỉ có thể độ bậc thượng
thượng căn, hàng trung hạ chẳng có phần. Kinh
A Hàm độ căn cơ trung hạ, chẳng khế
cơ (phù hợp căn cơ) bậc thượng thượng
căn. Chỉ có kinh này thích hợp trọn khắp ba
căn, dứt bặt đối đãi một cách viên dung.
Các vị tổ sư nói một câu A Di Đà Phật trọn
đủ bốn câu tông chỉ:
1) “Duy tâm là tông”:
Tất cả hết thảy kinh điển Đại Thừa,
Tiểu Thừa đều lấy duy tâm làm tông.
2) “Duy Phật là
tông”: Chữ Phật ở đây chỉ A Di Đà Phật,
chỉ cần xưng niệm A Di Đà Phật liền có
thể thành tựu.
3). “Dứt bặt
đối đãi một cách viên dung là tông”: Như các
kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa có thể thực hiện điều
này, mà kinh này cũng không nằm ngoài lệ ấy, là kinh
Đại Thừa bậc nhất trong các kinh Đại Thừa,
là Nhất Thừa bậc nhất trong các pháp Nhất Thừa.
4) “Vượt thoát
tình kiến là tông”.
Dựa
trên lời các vị cổ đức đã giảng về
tông chỉ để xét, thì biết pháp môn này vượt trỗi hết thảy đại
kinh, đại luận, căn cứ trên sở đắc
của lịch đại tổ sư đại đức
thì lời kết luận của các vị gần như giống
hệt nhau. Trong cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Giải
(chú giải kinh Vô Lượng Thọ), lão cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ đã trích dẫn những câu nói của
các vị cổ đức thời Tùy - Đường,
trong hết thảy các kinh điển thâu nhiếp trọn
vẹn, vượt thoát trọn vẹn thì kinh Hoa Nghiêm là bậc
nhất. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Phổ Hiền
Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn
về Cực Lạc thì mới được tính là viên
mãn. So sánh giữa Hoa Nghiêm và kinh Vô Lượng Thọ thì
kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất, kinh Hoa Nghiêm kém
hơn. Kinh Vô Lượng Thọ là do
lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập năm bản
dịch gốc để tạo thành bản hoàn chỉnh,
trong ấy, chia ra thành bốn mươi tám chương.
Chương thứ sáu nói về bốn mươi tám nguyện
là bậc nhất. Trong bốn mươi tám nguyện, cổ
đức công nhận nguyện thứ mười tám là bậc
nhất. Phật nói kinh A Di Đà nhằm giải thích nguyện
thứ mười tám, nguyện thứ mười tám là “mười nguyện ắt
sanh”. Do đây, có thể biết là danh hiệu có công
đức chẳng thể nghĩ bàn. Do từ điều
này, sanh khởi tín tâm chân thành thì là kẻ có đại thiện
căn và đại phước đức. Niệm một
câu Phật hiệu là cảm ứng đạo giao với
A Di Đà Phật. Tin sâu một câu Phật hiệu bao gồm
cả Tam Học Giới - Định - Huệ. Nhất tâm
trì danh hiệu không có tạp niệm, chính là “đừng làm các điều
ác”. Một câu Phật hiệu, vô lượng công đức
đều nằm trong ấy, chính là “vâng làm các điều thiện”, trọn đủ
Đại Thừa Bồ Tát Giới. Nhất
tâm xưng niệm, nhất tâm là Định, Định Học
trọn đủ. Tín, nguyện, trì danh, là trí huệ
bậc nhất, Huệ Học trọn đủ! Tam Học
ấy chính là Tam Học rốt ráo viên mãn. Cổ đức
nói: “Đây chính là con đường
tu học thành Phật gần nhất”.
So sánh giữa
Đại Thừa và Tiểu Thừa, Đại Thừa
đi theo đường gần. So sánh giữa các pháp môn
Đại Thừa với Thiền Tông thì Thiền Tông lại
gần hơn rất nhiều. So sánh giữa Thiền và Tịnh,
Tịnh lại càng gần hơn nữa. Trong kinh dạy từ
một ngày đến bảy ngày liền có thể vãng sanh.
Trong Vãng Sanh Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục
chẳng thiếu những trường hợp như thế,
chứng minh những điều kinh nói là chân thật, chẳng
dối. Hiểu rõ đạo lý, vừa nghe liền tin
tưởng, đúng như pháp tu trì, hoàn toàn chẳng hoài
nghi, người như vậy thuộc căn tánh Bồ
Tát.
Chữ “Tây
Phương” nhằm trình bày nơi chốn hiện thời
của thế giới Cực Lạc, cách thế giới
Sa Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật.
Nhìn thì có vẻ xa, nhưng thật ra, khi lâm chung Phật
đến tiếp dẫn, vãng sanh chỉ là chuyện trong
khoảng sát-na, đừng nên khởi vọng tưởng.
Khi đại sư La Thập dịch kinh này, nghĩ tưởng
chúng ta đều là kẻ đới nghiệp, phàm tình
chưa đoạn, khó thể tránh khỏi có lúc nhớ nhà.
Người trong cõi Tây Phương thiên nhãn thấy thấu
suốt, thiên nhĩ nghe thông suốt, có thể thấy
người nhà, quyến thuộc đang ở trong
đường nào. Nếu muốn quan tâm đến họ,
trong sát-na liền có thể quay về thế giới Sa Bà.
Câu “tùng thị Tây Phương” chỉ
phía Tây của tam thiên đại thiên thế giới này, chứ
không phải là phía Tây của địa cầu. Hiện thời,
Thiên Văn Học có khái niệm gọi là Hoàng Cực (Ecliptic pole),
địa cầu của chúng ta có Nam Cực và Bắc Cực.
Hệ Ngân Hà cũng chuyển động, hai đầu trục
chuyển động của hệ Ngân Hà gọi là Hoàng Cực.
Trước kia, người ta thường suy đoán một
tam thiên đại thiên thế giới như đức Phật
đã nói, đại khái là một hệ Ngân Hà (Milky Way).
Pháp vận của đức Phật bất quá là một vạn
hai ngàn năm, góc xoay của hệ Ngân Hà chỉ có thể
chuyển dịch chừng một, hai độ. Cách nói này nghe cũng khá hợp lý.
Nếu
chiếu theo cách lập luận của lão cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ thì kinh Phật gọi
một hệ Ngân Hà là một đơn vị thế giới.
Do vậy, một tam thiên đại thiên thế giới có
mười ức hệ Ngân Hà. Căn cứ theo kinh văn
đã dạy, một núi Tu Di (Sumeru), bốn phía Đông, Tây,
Nam, Bắc, mỗi phía có một châu[23],
cùng được một mặt trời, mặt trăng
chiếu soi, được một núi Thiết Vy (Cakravāda-parvata) bao quanh, thì gọi là một Tứ Thiên Hạ. Một ngàn Tứ
Thiên Hạ gọi là một Tiểu Thiên Thế Giới, một
ngàn Tiểu Thiên Thế Giới gọi là một Trung Thiên
Thế Giới. Một ngàn Trung Thiên Thế Giới gọi
là một Đại Thiên Thế Giới.
Nếu có người hỏi,
vì sao thế giới Cực Lạc ở phương Tây? Nếu
như thế giới Cực Lạc ở phương
Đông, ắt sẽ lại hỏi vì sao ở
phương Đông? Hỏi như vậy tức là giỡn
chơi. Huống chi, nếu ở tại mười một
vạn ức cõi Phật, quay đầu nhìn lại Cực
Lạc thì Cực Lạc đã thuộc về phương
Đông rồi, phương vị đâu có nhất định.
Thân thể là chánh báo, những
gì để thân thể nương vào mà tồn tại
như thức ăn, quần áo, hoàn cảnh cư trú và thế
giới được gọi là “y báo”. Thế giới này
có tên là Sa Bà, dịch nghĩa là Kham Nhẫn. Hai chữ “thế giới” xét theo Lục
Thư[24]
thì thuộc về loại Hội Ý. Ba mươi năm là
một Thế (世)[25],
đời quá khứ, đời hiện tại, đời
vị lai là thời gian. Theo chiều ngang trọn khắp
mười phương, nhằm định ranh giới là
không gian. Hợp nhất thời gian và không gian là “thế giới”.
“Cực Lạc”,
tiếng Phạn là Tu Ma Đề, còn gọi là An Dưỡng,
An Lạc, Thanh Thái v.v... có nghĩa là vĩnh viễn lìa khỏi
các khổ, an ổn bậc nhất. Tây Phương thế
giới chia thành bốn cõi:
1) Phàm Thánh Đồng
Cư độ: Là chỗ ở của kẻ đới
nghiệp vãng sanh. Do đới nghiệp (mang theo nghiệp)
nặng hay nhẹ khác nhau, nên chia thành ba bậc chín phẩm.
Tu hành phải nên tận hết sức tiêu trừ nghiệp
chướng, sẽ có thể nâng cao phẩm vị khi sanh
về Tây Phương. Ở đây, tôi chỉ giảng
đại lược từ ngữ Ngũ Trược (pañca-kasāyāh).
- Kiếp Trược (Kalpa-kasāyāh): Trược (濁) là ô nhiễm, Kiếp (劫) chỉ thời
gian. Chúng sanh tội ác sâu nặng chiêu cảm đời loạn,
nhân dân bệnh tật, khốn khổ, trong lịch sử
thường gọi là “thời đại hắc ám”.
- Kiến Trược (Drsti-kasāyāh): Tức là chúng sanh quan sát nhân sinh và vũ
trụ, nẩy sanh những cách nhìn sai lầm, mà tự cho
là đúng.
- Phiền Não Trược (Klesa-kasāyāh): Hoài nghi giáo huấn của chư Phật,
Bồ Tát, cổ thánh, tiên hiền, trái nghịch lời
răn dạy, chẳng chịu vâng giữ, làm theo. Sách Hành
Sự Sao Tư Trì Ký còn giảng: “Phiền Não Trược chính là Ngũ Độn Sử”[26].
- Chúng Sanh Trược (Sattva-kasāyāh): Là quả báo của Kiến Trược
và Phiền Não Trược, tức là sự ô nhiễm trong
hoàn cảnh sống. Chẳng hạn như không khí, nguồn
nước và những hoàn cảnh khác bị ô nhiễm, khí
hậu biến đổi dị thường, đều
thuộc về loại Trược này.
- Mạng Trược (Āyu-kasāyāh): Thọ mạng giảm ngắn, chẳng
thể hưởng hết tuổi trời, là chướng
ngại lớn nhất cho sự tu hành.
Hôm nay,
đọc đến đoạn kinh văn này, nhận biết
sâu xa đức Phật đã có tiên kiến, gần như
hoàn toàn nói trực tiếp đến thời đại hiện
tại. Phật dạy: “Hết
thảy pháp từ tâm tưởng sanh”. Lại nói: “Hết thảy pháp chỉ do tâm
hiện, chỉ do thức biến”, đủ biết rằng:
Đoạn trừ các điều ác, khôi phục sự
thanh tịnh, ắt phải dốc công nơi tâm địa,
tâm tịnh thì cõi nước tịnh. Thân và tâm là chánh báo,
hoàn cảnh là y báo. Đức Phật thường nói: “Y báo chuyển theo chánh báo”, vì
thế, tu tâm là bậc nhất.
2) Phương Tiện
Hữu Dư độ: Là nơi ở của Quyền
Giáo Bồ Tát và A La Hán, Bích Chi Phật. Tây Phương thế
giới không có Nhị Thừa, thuần là Bồ Tát. Những
người đới nghiệp vãng sanh, chưa đoạn
phiền não, Hạ Hạ phẩm vãng sanh, sanh sang Tây
Phương cũng mang thân phận Bồ Tát, chẳng phải
là Tiểu Thừa. Bất quá, Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Tín là học trò lớp Một, nếu học
đến lớp Bảy (tức địa vị Thất
Tín), đã đoạn Kiến Tư phiền não, thật sự
đạt được thân tâm thanh tịnh, liền
đạt đến Phương Tiện Hữu Dư
Độ. Niệm Phật mà niệm đến mức Sự
nhất tâm bất loạn, liền sanh về Phương
Tiện Hữu Dư Độ. Tiểu Thừa A La Hán,
Bích Chi Phật và Quyền Giáo Bồ Tát chấp trước
nặng nề, dùng phương pháp phân tích, giác ngộ thân
tâm thế giới đều chẳng phải là tướng
chân thật, biết vạn vật là “nhất hiệp tướng”. Bất luận
động vật, thực vật, hay khoáng vật đều
cùng do một loại vật chất cơ bản kết hợp
thành. Dùng Tích Không Quán (quán sát theo cách lần lượt phân
tích sự vật cho đến khi thấy bản chất
của chúng là Không) để khế ngộ Thật Tướng
thì phương pháp ấy là vụng về. Ngoài ra, còn có một
hạng người thông minh, vừa nghe đức Phật
nói liền có thể ngộ đến mức thấu hiểu,
nhập vào Không Quán, đấy gọi là Thể Không Xảo
Độ, so ra khéo léo hơn. Nếu dùng Tứ Giáo của
tông Thiên Thai, tức Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên
Giáo, để so sánh thì căn tánh nhạy bén nhất là Viên
Giáo, kế đến là Biệt Giáo, rồi mới đến
Thông Giáo và Tạng Giáo. Những điều vừa nói trên
đây có lẽ khá phức tạp, chỉ dựa theo lời
đại sư giải thích, thì mỗi cõi Phật gồm
có bốn cõi, mỗi cõi đều chia thành tịnh và uế.
“Phương Tiện Hữu
Dư độ, nếu dùng phép Quán phân tích cái Không vụng
về để chứng nhập thì là Uế, còn thể nhập
Không Quán một cách khéo léo thì là tịnh”. Tuy cùng trong một
cõi Phật, trong ấy vẫn có đẳng cấp tịnh
và uế khác nhau, mong quý vị hãy khéo thấu hiểu.
3) Thật Báo Vô Chướng Ngại
độ: Còn gọi là Thật Báo Trang Nghiêm Độ,
tức cảnh giới “Lý Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại” như kinh Hoa Nghiêm
đã nói, là chỗ của bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ. Sơ Trụ Bồ Tát trong
Viên Giáo, Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo, phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân thì mới có
thể đạt đến cảnh giới này, đấy
là địa vị kiến tánh. Nói theo Tịnh Tông thì là Lý
nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm sẽ sanh về
Phương Tiện Hữu Dư Độ, Lý nhất tâm
bèn sanh về Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Bí quyết
chính là một câu Phật hiệu niệm đến tột
cùng, chẳng cần phải bận tâm, nước chảy
mãi sẽ thành suối. Nếu muốn hỏi “như thế
nào thì mới được coi là Lý nhất tâm”, sẽ chẳng
có hy vọng gì đâu! Vì tâm chẳng thanh tịnh. Bà cụ
già trong làng quê chuyện gì cũng chẳng hiểu, bà ta có
thể niệm đến Sự nhất tâm hoặc Lý nhất
tâm, lâm chung biết trước lúc mất, tự tại
vãng sanh. “Thứ Đệ Tam
Quán” và “Nhất Tâm Tam Quán”
đều là những danh từ trong tông Thiên Thai. Thiên Thai đại sư dạy
phương pháp tu hành gồm “Tam
Chỉ, Tam Quán”[27].
Trước hết là quán Không rồi đến quán Giả,
cuối cùng là quán Trung. Đấy là “Thứ Đệ Tam Quán” (thực hành Tam Quán theo
thứ tự), khế hợp với căn cơ trung hạ.
Bậc lợi căn trong một niệm liền chính là
Không, Giả, Trung, viên mãn Tam Không, Tam Quán, không có giới hạn.
“Trong một niệm mà tu trọn Tam Quán” nằm ngay trong một
câu Phật hiệu. Cái tâm để niệm Phật nằm
ở chỗ nào? Chẳng thể được! Đức
Phật được niệm ở chỗ nào? Cũng chẳng
thể được! Quán sát trên mặt Thể, đều
trọn chẳng thể được, chính cái Thể ấy
là Không. Trên mặt Sự thì giả có, vì sự tướng
vẫn rành rành. Nhưng Không và Giả là một, Không chẳng
trở ngại Giả, Giả chẳng trở ngại
Không, Không và Giả giống hệt như một thì chính là
Trung Đạo. Trong một niệm, Không, Giả, Trung
đều đầy đủ. Sau khi hiểu rõ Lý và Sự,
điều gì cũng buông xuống, chẳng quan tâm đến
nữa, một câu Phật hiệu ấy tương ứng
với Nhất Tâm Tam Quán, thật sự niệm thành công,
Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh đều chẳng còn nữa,
bèn đoạn trọn vẹn ba Hoặc (Kiến Tư Hoặc,
Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc), chứng trọn vẹn
ba đức (Pháp Thân, Giải Thoát, Bát Nhã) thì kiến tánh,
trí huệ Bát Nhã hiện tiền, thông đạt hết thảy
pháp, quá khứ, hiện tại, vị lai đều hiện
trước mắt, đắc đại tự tại.
Đạt đến cảnh giới ấy, tức là
đắc Niệm Phật tam-muội, cũng chớ nên
sanh tâm hoan hỷ. Hễ hoan hỷ thì cảnh giới ấy
sẽ chẳng còn nữa.
Phật Thuyết A Di
Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
Phần 3 hết
[1] Ngũ Quan: Thông thường, Ngũ Quan
được hiểu là mắt, mũi, tai, miệng,
lưỡi.
[2] Bộ luận này có tên gọi đầy
đủ là Phật Địa Kinh Luận (Buddhabhūmi-sūtra-sāstra) do các vị như Thân Quang v.v... trước
tác, ngài Huyền Trang dịch ra tiếng Hán. Ngài Thân Quang (Bandhu-prabha) là học giả thuộc Duy Thức Học
của Ấn Độ, đệ tử của đại
luận sư Hộ Pháp (Dharmapāla). Nội dung luận này giải thích những
khái niệm trọng yếu trong kinh Hoa Nghiêm như thanh tịnh
pháp giới, đại viên kính trí, bình đẳng tánh trí,
diệu quán sát trí, thành sở tác trí v.v...
[3] Chữ “nước” ở đây không hẳn
là một quốc gia mà phải hiểu gần như là “quận
quốc” tức nước phong của vua chư hầu tại
Trung Hoa, hoặc các nước nhỏ ở Trung Hoa thời
Xuân Thu Chiến Quốc. Xá Vệ vừa là tên của một
vương triều lớn (tức vương triều Kiều
Tát La - Kasi Kosala) ở Ấn Độ, vừa là tên của
đô thành vương triều ấy. Tại Ấn Độ
thuở ấy có nhiều vương triều tồn tại, đồng thời, lãnh thổ của
mỗi vương triều ấy thường được
kinh điển gọi là Quốc, và người thời ấy
có thói quen thường đồng nhất tên kinh đô với
tên quốc gia. Do vậy, chữ “Xá Vệ Quốc” ở
đây nếu nói tỉ mỉ thì là kinh thành Xá Vệ của
vương quốc Xá Vệ.
[4] Lý Thể có thể tạm hiểu là bản
thể của một pháp xét theo mặt Lý. Các pháp thiên hình vạn
trạng, nhưng Thể của chúng là Không nếu xét theo mặt
Lý, đừng nhìn theo hình tướng. Do vậy, ta thường
nói Lý Thể của các pháp là Không.
[5] Tăng Quốc Phiên (1811-1872), tự Bá
Hàm, hiệu Địch Sanh, thụy hiệu Văn Chánh, quê
ở phủ Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, cháu bảy mươi đời của
Tăng Sâm, vừa là chính trị gia, quân sự gia, Lý Học
gia và văn học gia đời Thanh. Ông được
coi là công thần trung hưng bậc nhất của nhà
Thanh, làm quan đến chức Anh Vũ Điện Đại
Học Sĩ, Lưỡng Giang Tổng Đốc, tước
phong Nhất Đẳng Nghị Dũng Hầu, đời
đời tập ấm. Công lao lớn nhất của ông
là dẹp yên loạn Thái Bình Thiên Quốc, ông cũng
được coi là đại biểu xuất sắc nhất
của Đồng Thành Học Phái (một trường
phái văn chương cuối đời Thanh, có ảnh
hưởng rất rộng đến mọi trào lưu
văn học thời ấy).
[6] Cấp Cô Độc có nghĩa là nuôi
dưỡng, châu cấp kẻ trẻ mồ côi và không con,
không nơi nương tựa). Anāthapindada là tiếng Bắc Phạn
(Sankrit), thông thường, tên ông thường được
các sách vở ghi theo tiếng Nam Phạn (Pali) là Anathapindika. Đôi
khi kinh sách Hán Truyền còn gọi ông là trưởng giả
Cấp Cô, hoặc trưởng giả A Na Bân. Theo kinh chép,
ông sang thành Vương Xá (Rājagrha) để thăm chị.
Chị ông ta cũng là vợ của một vị trưởng
giả nổi tiếng tại Vương Xá. Thấy cả
nhà anh rể bận bịu chuẩn bị tiệc tùng, ông
ngỡ họ làm đám cưới, hỏi ra, mới biết
họ chuẩn bị vật thực để cúng dường
cho Phật và tăng đoàn vào hôm sau. Nghe đến tên Phật,
ông sanh hỷ tâm vô lượng, đang đêm đi đến
vườn Sitāvana
nơi Phật ngự. Do tín tâm đường đi sáng ngời,
trên đường, ông thấy miếu thờ trời, vào
lễ bái, trời lại tối om như cũ, kinh sợ
muốn trở về. Dạ xoa Sīvaka bèn nói kệ
khuyến khích, ông tiếp tục đi, trời lại tỏa
sáng như cũ. Đến nơi, thấy Phật đang
đi kinh hành thiền định trong vườn. Đức
Phật từ bi thuyết pháp khiến Tu Đạt Đa
pháp hỷ sung mãn, liền đắc quả Tu Đà Hoàn.
Ông bèn cung thỉnh Phật sang Xá Vệ thuyết pháp độ
sanh.
[7] Năm vị xuất gia là tỳ-kheo
Đức Vân, tỳ-kheo Hải Vân, tỳ-kheo Thiện Trụ,
tỳ-kheo Hải Tràng, và tỳ-kheo Thiện Hiện.
[8] Thật ra, ở Nhật Bản lưu
hành hai loại cà-sa chánh yếu:
1. Loại nhỏ, đeo ở cổ
như hòa thượng vừa nhắc đến, gọi
là Rakusu (絡子: Lạc tử) hoặc Ô-Kuwara
(大掛絡: Đại quải lạc). Loại này
trông như một cái túi nhỏ hình chữ nhật, có quai
đeo vào cổ, thân túi được kết bằng 16 miếng
vải may chằm lại, viền quanh mép, có cả khoen và
móc đeo, kết cấu giống như một tấm
ca-sa thu nhỏ. Tùy theo từng tông phái mà Rakusu có màu sắc
và may bằng chất liệu khác nhau. Có những tông phái,
tăng sĩ đeo những tấm Rakusu may bằng vải
lụa gấm rực rỡ, thêu thùa rất công phu. Riêng tín
đồ Tào Động tông tại Nhật Bản khi thọ
giới, được trao truyền một tấm Rakusu
màu xanh dương. Thông thường, mặt trước tấm
Rakusu trông giống như cà-sa thu nhỏ, mặt sau có thêu biểu
hiện của một tông phái, chẳng hạn tông Lâm Tế
thêu hình ba ngọn núi, tông Hoàng Bá thêu ngôi sao sáu cánh. Người
Nhật tin rằng: Khi hoàng đế
Trung Hoa hủy diệt đạo Phật, bắt Tăng sĩ
hoàn tục, phá chùa chiền, chư Tăng bèn lén lút chế
ra một bức cà-sa thu nhỏ như vậy để
đeo dưới lớp áo thường nhằm nhắc
nhở mình vẫn là tu sĩ và do vậy, thiền sư
Đạo Nguyên (Dogen) của Nhật Bản sang Trung Hoa cầu
pháp vào năm 1224 đã mang Rakusu
về nước.
2. Thứ hai là loại y cà-sa (thường
gọi là Kesa) nhỏ hơn y cà-sa của Trung Hoa màu sắc
và chất liệu cũng thay đổi tùy theo từng tông
phái. Thông thường các thiền phái mặc y àa-sa gần
giống Trung Quốc, màu sắc thường xám, xanh đậm,
đen, hoặc vàng úa. Trong các tông phái khác, y cà-sa chỉ nhỏ
bằng một phần ba y Trung Quốc, bằng lụa là,
gấm vóc rực rỡ, nhất là trong các tông Tịnh
Độ, Thiên Đài, Hoa Nghiêm, Chân Ngôn. Trong một số
pháp hội, y cà-sa thường may bằng gấm hay lụa,
hoặc các thứ vật liệu rực rỡ khác, có hoa
văn tròn to, đeo lên vai bằng một sợi dây lớn
chéo qua vai phải, chỉ che khoảng nửa lưng đến
trên đầu gối, chứ không choàng lên vai như loại
ca-sa truyền thống. Loại này còn chia ra thành hàng chục
loại nữa như luân cà-sa, điệp ngũ điều,
oai nghi tế, huyền linh, bình cà-sa, giáp cà-sa, nạp cà-sa,
viễn sơn cà-sa v... Nói chung là do kích thước lớn
nhỏ, cách may “điều” và số lượng điều
cũng như chất liệu sử dụng khác nhau mà có
nhiều loại như thế.
Các tăng sĩ Nhật thuộc các phái
Thiền, Thiên Đài, và Chân Ngôn Tông vẫn mặc áo tràng.
Thông thường, họ chỉ mặc áo tràng và đeo
Rakusu khi tụng kinh, thuyết pháp, khi nào có pháp hội mới
đắp cà-sa. Các tăng sĩ thuộc các phái khác như
Tịnh Độ Tông, Tịnh Độ Chân Tông, Nhật
Liên Tông thường không cạo tóc, chỉ cắt tóc ngắn,
luôn mặc đồ tây, đeo cà vạt, khi lên làm lễ mới
khoác áo tràng ra ngoài và đeo Rakusu hay đắp cà-sa. Đôi
khi, họ chỉ đeo Rakusu, không mặc áo tràng.
[9] Ngài Da Xá đôi khi còn được ghi
là Yaśoda
(do vậy, còn phiên âm là Gia Thâu Đa), dịch nghĩa là Danh
Văn hoặc Thiện Xưng, người xứ Ba La Nại
(Vārānasī), là con của
trưởng giả Thiện Giác. Do chán nhàm thế tục,
Ngài đến xin xuất gia với Phật, trở thành vị
đại đệ tử thứ sáu (sau năm anh em ngài
Kiều Trần Như). 49 người kia là bạn bè thân thiết
của ngài Da Xá. Khi Ngài xuất gia, cha mẹ buồn phiền,
yêu cầu các bạn bè hãy đến khuyên giải. Khuyên
không được, họ bèn giả vờ xuất gia
để tìm cách dụ Ngài hoàn tục, nhưng sau khi nghe Phật
thuyết giảng, tất cả đều chứng Sơ
Quả.
[10] Tứ Thiền (Catvāri-dhyānāni ) còn gọi là Tứ Tịnh Lự, Tứ
Sắc Giới Định, tức các món Thiền Định
trong Sắc Giới. Hợp bốn món Thiền của Sắc
Giới với bốn món Thiền của Vô Sắc Giới
sẽ thành Bát Định.
[11] Văn Sức (文飾) có nghĩa là lời nói văn nhã, đẹp
đẽ, bóng bẩy, thanh tao.
[12] Gọi là “nghĩa trì bậc nhất” vì
từ một câu kệ rất ngắn ngủi, Ngài có thể
ngộ ra bao nhiêu nghĩa lý. Kinh chép đức Phật thấy
Ngài học trước quên sau, không thể nào nhớ
được một bài kệ nào, bèn dạy Ngài hãy dạy
niệm hai chữ “tảo chửu” (cây chổi để
quét dọn). Phật sai Ngài quét dọn tinh xá, vừa dọn
vừa niệm hai chữ ấy. Thế mà chật vật
mãi Ngài mới nhớ được. Sau một thời
gian Ngài ngộ được vô biên nghĩa lý từ hai chữ
ấy, chứng quả A La Hán. Khi được cử
đi thuyết pháp cho chư ni, các vị ni cười cợt
vì nghĩ Ngài nổi tiếng dốt nát, biết gì mà nói.
Ngài lên tòa chỉ nói ngắn gọn: “Thưa các vị! Tôi
độn căn u tối, không biết nói gì. Đức Phật
dạy tôi học hai chữ ‘tảo chửu’. Từ đó,
tôi nghĩ quét dọn bụi bặm bên ngoài không quan trọng
bằng quét dọn bụi bặm trong tự tâm. Tất cả
các pháp môn tu học trong Phật pháp không ngoài quét sạch phiền
não trong tự tâm”. Chư ni giật mình, cúi lạy sám hối, hết
sức kính phục vì Ngài đã nắm được tinh tủy
của Phật pháp. Do vậy, Ngài được tôn
xưng là bậc Nghĩa Trì đệ nhất.
[13] Do lý do này, mỗi khi trai tăng, các tự
viện Trung Hoa thường để trống một ghế
giữa bàn chủ tọa, nhằm cung thỉnh ngài Tân Đầu
Lô chứng giám. Cũng như khi tác bạch thỉnh
tăng thọ trai, luôn niệm danh xưng của trưởng
lão Tân Đầu Lô Phả La Đọa.
[14] Sao Phòng (Phòng Tú, gọi đầy đủ
là Phòng Nhật Thố) là một trong Nhị Thập Bát Tú.
Nhị Thập Bát Tú không phải là 28 ngôi sao riêng lẻ mà
là hai mươi tám chòm sao (tinh cung) theo Chiêm Tinh Học Trung
Hoa. Người Hán chia bầu trời thành bốn khu vực,
gọi là Thanh Long (phương Đông), Huyền Vũ
(phương Bắc), Bạch Hổ (phương Tây), và
Châu Tước (phương Nam). Trong mỗi khu, lại chia thành 7 tinh
cung. Do vậy, có khái niệm Nhị Thập Bát Tú. Phòng Tú là
tinh cung thứ tư trong bảy tinh cung thuộc
phương Đông, được coi là “bụng rồng”
vì nằm chính giữa vị trí Thanh Long. Chòm sao này
được gọi tên theo ngôi sao chánh là sao Phòng (Phòng tinh). Phòng Tú Tinh Cung gồm bảy
ngôi sao là Phòng, Câu Linh, Kiện Bế, Phạt, Đông Hàm,
Tây Hàm, Nhật Tinh và Tùng Cung.
[15] Theo Wikipedia, từ ngữ Maitreya phát xuất
từ Maitrī
(từ ái). Sở dĩ chữ Maitreya bị phiên âm thành Di Lặc
là dựa trên cách phát âm của những nhà dịch kinh thời
Hậu Hán, đa số những vị này đến từ
Nhục Chi và Quý Sương (thuộc vùng Bactria, miền Bắc
Afghanistan ngày nay), ngôn ngữ được sử dụng
thời đó tại các nước này là tiếng Tocharian.
Trong tiếng Tocharian, chữ Maitreya được đọc
thành Metrak, nên mới bị phiên thành tiếng Hán là Di Lặc.
Ngài Huyền Trang từng dịch danh hiệu này theo âm tiếng
Phạn là Mai Đát Lỵ Da. Trong kinh Pháp Hoa, có đôi chỗ,
ngài La Thập phiên chữ này thành Di Đa La Ni khi ghi tên ngài
Phú Lâu Na là Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (Purna
Maitrayani-putra), nhưng do
thói quen, cách phiên âm là Di Lặc vẫn phổ biến nhất.
[16] [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa
Phù] Theo cách tính nói trên, dùng thọ mạng của trời
Đâu Suất để tính toán thì kết quả là năm
ức bảy ngàn sáu trăm vạn (576.000.000) năm, không
khớp với con số năm mươi sáu ức bảy
ngàn vạn năm như kinh đã nói. Ấy là vì trong
đơn vị tính toán của Ấn Độ, một Ức
là bao nhiêu lại có nhiều cách giải thích:
1. Mười vạn là một Ức.
2. Trăm vạn là một Ức.
3. Ngàn vạn là một Ức.
4. Vạn vạn là một Ức.
Chúng ta chỉ có thể hình dung là trong
tương lai rất lâu nữa, Di Lặc Bồ Tát mới
giáng sanh trong nhân gian, có ấn tượng thời gian rất
dài là được rồi!
[17] Tam Hiền là từ ngữ chỉ những
vị chưa thuộc vào Thập Địa Bồ Tát, tức
Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng.
Đăng Địa là những vị Bồ Tát đã chứng
từ Sơ Địa trở lên.
[18] “Tam luân thể không” (tức Thí Không, Thọ
Không, Thí Vật Không) vốn là từ ngữ nói về sự
bố thí, có nghĩa là khi bố thí hoàn toàn phá trừ chấp
tướng, chẳng thấy ta là người thí, chẳng
thấy có kẻ nhận sự bố thí mà cũng chẳng
thấy có vật để bố thí. Từ ngữ này về
sau được áp dụng rộng rãi chỉ cho sự
không chấp trước khi làm bất cứ việc gì.
[19] Do không thể tính kể nên gọi là vô
lượng. Nhưng A Di Đà Phật có nhập diệt
(thân Phật hiện trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư độ)
là Ứng Thân. Chúng sanh trong cõi Cực Lạc có lúc nhập
diệt để làm Phật nơi phương khác, nên xét
theo lý luận thông thường thì do có thời điểm
từ thế giới khác sanh về Cực Lạc và thời
điểm nhập diệt nên vẫn là hữu lượng
(có hạn lượng). Nói hữu lượng hay vô lượng
ở đây chỉ là luận theo hoàn cảnh của Phàm
Thánh Đồng Cư độ.
[20] Tứ Thiền Thiên gồm bốn tầng
trời: Sơ Thiền (gồm Phạm Phụ, Phạm
Chúng, Đại Phạm Thiên), Nhị Thiền (gồm Thiểu
Quang, Vô Lượng Quang, Cực Quang Tịnh), Tam Thiền
(gồm Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh và Biến
Tịnh), Tứ Thiền (Phước Sanh, Vô Vân, Quảng
Quả, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện
Hiện, Sắc Cứu Cánh và Vô Tưởng Thiên).
[21] Tứ Không Thiên là bốn cõi trời thuộc
Vô Sắc Giới, tính từ dưới lên trên như sau:
1. Không Vô Biên Xứ Thiên (Ākāśānantyāyatana).
2. Thức Vô Biên Xứ
Thiên (Vijñānānantyāyatana).
3. Vô Sở Hữu Xứ Thiên (Ākimcanyāyatana).
4. Phi Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ
Thiên (Naivasamjñānāsamjñāyatana).
Bốn cõi trời này không có sắc thân, chỉ có tâm
tưởng, chư thiên chìm đắm trong Không Định.
[22] Tứ Duy là lễ, nghĩa, liêm, sỉ.
Bát Đức là trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa, bình.
Đây là những nguyên tắc đạo đức
được đề xướng vào năm Dân Quốc
23 (1934) trong công cuộc vận động nếp sống
mới do ủy viên trưởng Tưởng Trung Chánh của
Quốc Dân Chánh Phủ Quân Sự Ủy Viên Hội khởi
xướng. Những điều này lấy ý tưởng
từ bài giảng thứ sáu về Tam Dân Chủ Nghĩa của
Tôn Văn và quan điểm Tứ Duy trong sách Quản Tử.
[23] Tức là bốn đại bộ châu:
Nam Thiệm Bộ Châu (Jambudīpa), Đông Thắng
Thần Châu (Pubbavideha), Tây Ngưu Hóa Châu (Aparagoyāna) và Bắc
Câu Lô Châu (Uttarakuru, còn gọi là Uất Đan Việt).
[24] Lục Thư (六書) là sáu phương thức kết
cấu và sử dụng chữ Hán. Khái niệm này
được hình thành từ thời Hán (tài liệu trình
bày khái niệm Lục Thư sớm nhất là thiên Nghệ
Văn Chí trong Hán Thư). Lục Thư gồm:
1. Tượng hình: Mô phỏng
hình dạng của sự vật, như chữ Nhật (日) , Nguyệt (月), Thủy (水), Nhân (人), Sơn (山), Khẩu (口) chẳng hạn.
2. Chỉ sự: Tức là nhìn từ
mặt chữ, có thể nhận biết được sự
vật mà chữ ấy muốn miêu tả, như Thượng
(上), Hạ (下), Nhất (一),
Nhị (二) chẳng
hạn.
3. Hình thanh: Mô phỏng âm thanh của
sự vật. Chữ Giang (江) thuộc loại này. Sách Thuyết
Văn Giải Tự giảng: “Giang
là nước, mô phỏng tiếng nước rơi khi chảy
từ sông Tiên ở đất Thục, vượt qua rặng
Hôn Sơn, đổ vào biển”.
4. Hội ý: Ghép hai hoặc nhiều
chữ đơn thành một chữ để diễn tả
một ý. Chẳng hạn chữ Tửu (酒) dùng cái bình ủ rượu (Dậu: 酉)
phối hợp với dịch thể (nước 水).
Chữ Minh (鳴: có nghĩa gốc là chim kêu),
ghép chữ Khẩu (口) với Điểu (鳥:
chim), Hiếu (孝)
gồm Lão (老)
và Tử (子) ghép lại,
hội ý người con cõng cha mẹ già.
5. Chuyển chú: Có nhiều cách
giải thích, một là hình chuyển (chữ cùng bộ thủ,
ý nghĩa tương đồng có thể dùng lẫn cho
nhau), hai là nghĩa chuyển (chữ có ý nghĩa giống
nhau thì có thể dùng lẫn cho nhau), ba là âm chuyển (thanh âm
giống nhau thì có thể dùng lẫn cho nhau), nhưng đến
hiện thời, vẫn chưa có ý kiến thống nhất
những chữ như thế nào sẽ được coi
là Chuyển Chú.
6. Giả tá: Mượn để
dùng tạm, tức là vốn không phải là chữ ấy,
nhưng có thanh âm giống nhau nên mượn để dùng.
Cách này thường áp dụng khi viết tắt. Chẳng
hạn, Thuyết (說) và Duyệt (悅) thời cổ đọc cùng một âm nên
được dùng lẫn cho nhau.
[25] Chữ Thế (世) do ba chữ Thập (十) ghép lại.
[26] Ngũ Độn Sử: Năm món phiền
não sai khiến con người, do tác dụng của nó không
mạnh mẽ lắm, nên gọi là Độn (chậm lụt),
gồm: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
[27] Tam Chỉ là ba Chỉ Hạnh (những
hạnh tu tập để dứt trừ phiền não, vọng
tưởng) được lập ra bởi tông Thiên Thai dựa
trên Tam Quán “Không, Giả, Trung”:
1. Thể Chân Chỉ: Tương ứng
với Không Quán. Thấu hiểu vô minh điên đảo là
vọng, chính là thấu hiểu Thật Tướng là chân.
Thấu hiểu các pháp do nhân duyên hòa hợp, không có tự
tánh, sẽ có thể dứt được vọng niệm
nắm níu nơi trần cảnh, kiến giải, ý kiến
phân biệt v.v... chứng đắc Lý Không. Do vậy sẽ
thành tựu Chân Đế tam-muội.
2. Phương Tiện Tùy Duyên Chỉ
(Phương Tiện Chỉ): Tương ứng với Giả
Quán. Tiếp xúc các trần cảnh, thấu hiểu, nhận
biết rõ ràng, nhưng tâm yên ổn không lay động bởi
Tục Đế, không chấp trước, biết các pháp
đều giả có, biết Không chẳng phải là Không.
Do pháp Chỉ này sẽ mở mang pháp Nhãn, thành tựu Tục
Đế tam-muội.
3. Tức Nhị Biên Phân Biệt Chỉ
(Chế Tâm Chỉ): Tương ứng với Trung Quán, chẳng
phân biệt sanh tử và Niết Bàn, có và không v.v... Bởi lẽ,
hai phép Chỉ trên đây thiên trọng Chân Đế và Tục
Đế, nên phải có phép Chỉ này để dứt bặt
sự thấy có hai Đế. Biết Chân chẳng phải
là Chân, Tục chẳng phải là Tục, dứt bặt kiến
chấp thấy có hai bên. Đạt cảnh giới này sẽ
đắc Trung Đạo Định, mở Phật nhãn,
thành tựu Trung Đạo tam-muội.
Tam Quán dựa theo giáo nghĩa được
giảng trong phẩm Hiền Thánh Học Quán của Bồ
Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh mà lập ra, gồm:
1. Không Quán (Nhị Đế Quán): Không có
nghĩa là lìa cả Tánh và Tướng. Do quán thấy một
niệm tâm chẳng phải ở trong, ngoài, khoảng giữa,
nên gọi là Không. Hễ một thứ không, thì hết thảy
mọi thứ đều không. Nói đơn giản, nhận
biết quan điểm của thế tục là Giả (vì
không khế hợp chân tướng sự thật), tiến
nhập sự thấy biết đúng với chân lý (Không),
thấy thấu suốt bản thể của các pháp là
Không, nên gọi là Không Quán.
2. Giả Quán (Bình Đẳng Quán): Quán một
niệm tâm đầy đủ hết thảy pháp, chẳng
dừng nơi Không, tiến nhập Phật trí chiếu khắp
hết thảy cảnh giới thuộc Tục Đế.
3. Trung Quán (Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa Quán): dứt bặt mọi đối đãi, chẳng
chấp vào Không Quán lẫn Giả Quán, Không Quán và Giả
Quán cùng viên dung.
Như vậy, theo thứ tự thông
thường: Dùng Không Quán để phá kiến chấp Tục
Đế, chứng nhập Chân Đế. Rồi từ
đó, dùng Giả Quán để từ Chân chiếu Tục,
quay trở lại Tục Đế, tùy duyên mà hóa độ,
không chấp trước, hiểu rõ Tục Đế là giả,
nhưng chẳng chấp trước vào Không, chẳng bỏ
bi nguyện độ sanh. Từ Không Quán và Giả Quán tiến
lên Trung Quán để chứng nhập chân lý rốt ráo. Tu tập
theo kiểu này gọi là Thứ Đệ Tam Quán.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment