Do vậy, thâm nhập một môn,
trường thời huân tu là gì vậy? Là đoạn phiền
não; dùng một bộ kinh, dùng phương pháp này để
đoạn phiền não. Đối với tám vạn bốn
ngàn pháp môn, dùng kinh giáo này, quý vị đọc mỗi ngày,
giảng mỗi ngày, dùng biện pháp này, tâm quý vị sẽ
định.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần
5
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
TẬP 09
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin ngồi xuống. Xin hãy xem bản kinh, trang thứ
bảy, dòng thứ sáu từ dưới đếm lên: “Hựu khế cơ giả, diệc
ngụ phù hợp thời cơ chi nghĩa” (Lại nữa,
khế cơ còn ngụ ý phù hợp thời đại và
căn cơ). Cụ Niệm Tổ sau khi giới thiệu
sự khế cơ thù thắng độc đáo, mà cũng
là chỗ đặc biệt thù thắng của bản kinh
này xong, lại cho chúng ta biết: Bản kinh này không chỉ
là thích hợp khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn
lợi căn lẫn độn căn, mà nó còn thích hợp
với thời đại. Chữ “thời đại” này bao gồm những ý
nghĩa: Các thời đại khác nhau, các nơi khác nhau, các
bối cảnh văn hóa khác nhau, thảy đều thích hợp.
Một bộ kinh [hội tụ các ưu điểm]
như vậy, đích xác là chẳng dễ gì kiếm
được, nhưng kinh này chính là một bộ kinh như
vậy. Tiếp đó, cụ viết: “Như Lai thùy Từ” (đức Như Lai rủ
lòng Từ), ở đây là nói Thích Ca Mâu Ni Phật, mà
cũng là nói A Di Đà Phật vô cùng từ bi. “Độc lưu thử kinh ư
chư kinh diệt tận chi tối hậu bách niên”
(riêng lưu lại kinh này một trăm năm cuối cùng
khi các kinh khác đều bị diệt mất). Trong Pháp Diệt
Tận Kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói về tình hình Phật
pháp suy diệt trong tương lai: Hết thảy các kinh
đều bị diệt mất, đều chẳng tồn
tại, tới cuối cùng, kinh Vô Lượng
Thọ còn được lưu truyền một trăm năm,
đó là một trăm năm cuối cùng [trong pháp vận của
Thích Ca Mâu Ni Phật]. Bản nào của kinh Vô Lượng
Thọ sẽ được lưu lại? Cũng theo các
bậc đại đức thuở ấy, họ không sống
cùng thời chúng ta, mà thuộc thời đại của
lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, còn sớm hơn tôi một
thế hệ, cùng vai vế với thầy tôi, cùng khẳng
định bản hội tập này của Hạ lão
cư sĩ [sẽ được lưu lại trong một
trăm năm cuối khi pháp diệt tận]. Vì sao? Trong phần
trước, tôi đã giới thiệu cùng quý vị, bản
này thật sự là bản kinh tiêu chuẩn bậc nhất
trong Tịnh Tông, là bản tổng hợp hoàn chỉnh của
năm bản dịch gốc, quả thật là bản tốt
nhất của bộ kinh bậc nhất trong Tịnh Tông. Chúng
ta nghe xong cũng chẳng hoài nghi tí nào! Kinh này thật sự
là như thế. Hạ lão cư sĩ xuất hiện trong
thời đại này, chúng ta tin cụ là bậc tái lai
để làm chuyện này. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
xuất thế cũng nhằm chú giải bản này. Họ
tới thế gian này với nhiệm vụ đặc thù
và đều đã hoàn thành. Do điều này, có thể biết:
Thời Mạt Pháp hãy còn chín ngàn năm nữa; vì thế, chúng
ta nói: Đối với các nơi khác nhau, thời gian khác
nhau, văn hóa khác nhau, kinh này đều có thể thích ứng.
“Chánh biểu thử kinh năng
khế ư đương tiền cập vị lai chi xã
hội dã” (Điều này cho thấy kinh này có thể khế
hợp xã hội trong hiện tại và tương lai): Bất
luận nơi nào cần đến, bản kinh này đều
[đáp ứng]. “Đương
tiền khoa học phát đạt, nhân loại ưng cụ
chi tri thức di quảng” (Nay nhằm lúc khoa học phát triển, kiến thức
cần phải có của nhân loại càng rộng), kiến thức
mà chúng ta cần phải có ngày càng nhiều, đó có phải
là chuyện tốt đẹp hay không? Nói thật ra, đây
chẳng phải là chuyện tốt, người thật sự
tu đạo không cần phải học những thứ ấy.
Tổ tiên, cổ thánh tiên hiền đã sớm dạy chúng
ta [điều này] như Đạo gia đã nói: “Vị đạo nhật tổn,
vị học nhất ích” (vì đạo ngày càng hao tổn,
vì học vấn mà ngày càng tăng thêm), “vị học” là như ở đây [cụ Hoàng]
đã nói: “Hiện tại khoa học
kỹ thuật phát triển”, đó là “vị học”. Mỗi ngày quý vị phải
tăng trưởng những thứ ấy (kiến thức
khoa học), đó là về phương diện tri thức;
nhưng “vị đạo”
(vì đạo) thì mỗi ngày phải buông xuống, tất thảy
đều phải buông xuống thì đạo mới thành
tựu. Đạo là gì? Đạo là thứ mà bản thân quý
vị sẵn có. Hiện thời, đạo của quý vị
chẳng thể hiện tiền do quý vị có chướng
ngại, có phiền não, nhà Phật gọi nó là “nghiệp
chướng”. Chướng ngại nhiều vô lượng,
vô biên, vô tận, vô số, nhưng quy nạp lại, sẽ
không ngoài hai loại lớn: Phiền Não Chướng và Sở
Tri Chướng. Hai loại lớn này chướng ngại
quý vị kiến tánh, chướng ngại cái tâm thanh tịnh,
tâm bình đẳng của quý vị. “Thanh tịnh bình đẳng giác” là đạo, là tựa
đề của bộ kinh này, chúng ta tu đạo là tu thứ
này. Nếu tâm địa mỗi năm một thanh tịnh
hơn, tức là đạo nghiệp của quý vị tăng
trưởng. Bất luận tu học pháp môn hay tông phái nào
trong mười tông phái của Đại Thừa Phật
pháp Trung Quốc, trong chữ “pháp
môn”, “pháp” (法) là phương pháp, “môn” là môn đạo (門道: đường nẻo), “môn kính” (門徑: cửa nẻo, đường lối),
[do vậy, “pháp môn”] là cửa ngõ để trở về tự
tánh, trong kinh nói tám vạn bốn ngàn [pháp môn]. Tám vạn bốn
ngàn pháp môn nhằm đối trị tám vạn bốn ngàn
phiền não. Bồ Tát vô cùng tuyệt vời, có thể triển
khai Thập Thiện Nghiệp Đạo thành tám vạn bốn
ngàn tế hạnh (hạnh vi tế), công đức viên
mãn, thành Phật.
Đạt
đến “thanh tịnh, bình đẳng, giác” là cảnh giới
như thế nào? Nửa phần trước của tựa
đề kinh này nói về quả, nửa phần sau là nói
tới nhân, tu nhân chứng quả. Quả bậc nhất là
Đại Thừa, Đại Thừa là trí huệ, tức
trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có trong tự tánh hiện tiền.
Trí huệ không do học mà có, tri thức thì học
được. Trí huệ chẳng do học được,
mà sanh từ cái tâm thanh tịnh “Vô
Lượng Thọ” là đức, “Trang Nghiêm” là tướng hảo. Quý vị thấy
đấy chẳng phải là như kinh Hoa Nghiêm đã nói hay
sao? “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai”! Tựa đề kinh này chính là trí huệ và đức
tướng của Như Lai. “Đại
Thừa” là trí huệ, “Vô Lượng
Thọ” là đức, “Trang Nghiêm”
là tướng, quý vị đạt được [những
điều này]. Vào lúc nào? Trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật Như Lai, quý vị tu thành tựu cái tâm thanh
tịnh bình đẳng, trở về cõi Thật Báo Trang
Nghiêm. Tựa đề kinh này hay lắm, nhưng chẳng
phải do người hội tập tự lập một
đề mục như cư sĩ Vương Long Thư đặt
tên cho bản hội tập của mình là Đại A Di
Đà Kinh, bản của Ngụy Mặc Thâm có tựa đề
là Vô Lượng Thọ Kinh, họ đều tự mình lập
ra đề mục. Chỉ riêng đề mục [bản
hội tập] của cụ Hạ Liên Cư là hội tập,
thật sự chẳng thêm vào một chữ nào. Đấy
mới gọi là bản hội tập tiêu chuẩn, ngay cả
đề mục cũng là hội tập. Phân nửa
trước của đề mục là tựa đề
kinh của bản dịch đời Tống, nửa dưới
tức là “thanh tịnh, bình
đẳng, giác” lấy từ bản dịch đời
Hán, [tên gọi của kinh] do được hội tập
từ [tên gọi của] các bản dịch gốc mà thành,
nên ý nghĩa càng rõ ràng.
Tiếp
đó, sách viết: “Xã hội
tiến bộ, mỗi nhân sở kiên chi trách nhiệm bội
tăng, cố hàm ưng quảng học đa năng, cúc
cung tận tụy, tham gia kiến
thiết, tạo phước nhân dân, thực hiện nhân
gian Tịnh Độ” (Xã hội tiến bộ, trách nhiệm
của mỗi cá nhân tăng lên gấp bội. Vì thế, ai
nấy đều nên học rộng, biết nhiều, một
lòng tận tụy, tham gia xây dựng [xã hội] nhằm tạo
phước cho nhân dân, thực hiện cõi Tịnh Độ
trong nhân gian). Chúng ta đọc câu này, phải biết Như
Lai, Bồ Tát không đâu chẳng ứng hóa, biến hiện,
đúng như phẩm Phổ Môn đã nói “nên hiện thân gì để độ được,
bèn hiện thân ấy”, nên dùng phương thức nào để
có thể giúp đỡ, thành tựu chúng sanh, bèn dùng phương
pháp ấy, chẳng có một phương pháp nhất định.
Do vậy, đối với chuyện đức Phật
giảng kinh, thuyết pháp, chớ nên chấp trước,
hễ chấp trước là trật! Nếu quý vị chấp
trước, đức Phật nói Ngài không thuyết pháp,
chẳng thừa nhận Ngài thuyết pháp. Trong kinh Kim Cang
có ý nghĩa ấy. Đức Phật bảo: Nếu quý vị
nói đức Phật thuyết pháp, quý vị đã báng Phật.
Quý vị hủy báng Ngài, đức Phật chẳng thuyết
pháp, một chữ cũng không nói! Chẳng thuyết pháp mà
nói suốt bốn mươi chín năm, chúng ta phải hiểu
như thế nào đây? Thanh Lương đại sư đã
giảng rất hay, lời Phật nói là thật, chẳng giả.
Trong khi giảng tựa đề bộ kinh Tứ Thập
Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đã nói một
câu như thế này: “Hết thảy
các pháp do đức Thế Tôn đã nói trong bốn
mươi chín năm toàn là do cổ Phật đã nói”.
Đối với kinh giáo do cổ Phật đã nói, Thích Ca
Mâu Ni Phật chẳng thêm vào một chữ nào! Đức Phật
nói còn nghiêm cẩn hơn câu nói của Khổng lão phu tử:
“Thuật nhi bất tác, tín nhi
hiếu cổ” (thuật lại, chứ không trước
tác, tin tưởng, chuộng cổ). Phu tử chỉ nói “thuật lại, chứ không
trước tác”, còn đức Phật nói “chẳng thêm một chữ nào
vào kinh điển do cổ Phật đã nói”, tuyệt vời
lắm! Vì sao người ta có thể thành Phật, thành Bồ
Tát? Mấu chốt ở ngay chỗ này! Con người hiện
thời tâm ý bộp chộp, hời hợt, do nguyên nhân nào?
Nguyên nhân là nếu học thì phải sáng tạo, phải
phát minh, chính mình phải có thứ gì đó, chẳng phục
cổ nhân!
Cổ nhân
quả thật khác với chúng ta. Cổ nhân bội phục,
ngưỡng mộ, học theo cổ nhân, chưa từng
có ý nghĩ sáng chế cái mới, đi ngược với
lối tư duy khoa học hiện thời. Cách nghĩ này
của cổ nhân là đúng, hay cách nghĩ của người
hiện thời là đúng? Nếu chúng ta học thấu triệt
bộ Hoàn Nguyên Quán, sẽ biết thái độ của cổ
nhân là đúng, còn quan niệm của khoa học hiện thời
là sai lầm. Vì sao? Cổ nhân chứng đắc viên mãn, chứng
đắc giống như một khối cầu. Trên khối
cầu, quý vị chẳng thể thêm vào một điểm;
thêm vào một điểm nó sẽ chẳng tròn đều
nữa, mà cũng chẳng thể thiếu một điểm,
thiếu một điểm cũng chẳng tròn. Viên mãn, bất
tăng, bất giảm! Cổ Phật chứng điều
này, mà kim Phật cũng chứng đúng điều này. Do
vậy, “kim Phật như cổ
Phật chi tái lai” (Phật hiện tại giống
như cổ Phật trở lại), chúng ta hiểu rõ: Hết
thảy các pháp do đức Phật hiện thời nói ra
giống hệt như cổ Phật đã nói, bất
tăng, bất giảm. Người hiện thời có thể
hiểu ý nghĩa và chân tướng sự thật này không
nhiều. Vì thế, tôi cũng thường nói thái độ
tu học của các bậc đại thánh thế gian và xuất
thế gian là tấm gương tốt nhất cho hàng hậu
học chúng ta. Sở dĩ, chúng tôi đặc biệt chọn
bản chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
để học tập lần này, quý vị hãy đọc
kỹ bản chú giải của cụ Hoàng, có đúng là “thuật nhi bất tác” hay
chăng? Mỗi khi cụ giải thích một đoạn
kinh văn hay một câu kinh văn, đều dẫn kinh điển
làm chứng. Nếu không, lại dẫn lời giải
thích của các vị cổ đại đức. Cổ
đại đức cũng căn cứ trên kinh điển,
chính mình chẳng phát minh hay sáng tạo [nghĩa lý nào], chúng ta
phải hiểu điều này! Chúng ta phiền não tập
khí nặng nề như thế, phân biệt, chấp
trước nặng như thế, phải biết mình là hạng
phàm phu chính cống, làm thế nào để có thể chuyển
phàm thành thánh? Hãy học tập thánh nhân, thật thà, ngoan ngoãn
học, thật sự nghe lời. [Đối với những
giáo huấn trong] kinh giáo, chúng ta có làm được hay không?
Có thể giảng kinh hay chăng? Chẳng có điều kiện
này thì trí huệ và đức năng đều chẳng
phù hợp!
Xưa
kia, tôi đến Đài Trung thân cận thầy Lý, theo Ngài
học Phật, nhằm đúng lúc cụ mở khóa “kinh học”
để bồi dưỡng môn đệ học cách giảng
kinh. Cụ muốn tôi tham gia, tôi tự xét mình: Thiếu trí
huệ, thiếu năng lực! Tôi chẳng dám, tôi nói: “Con nghe
kinh, nghe lão nhân gia giảng kinh để học tập, con
nghĩ con chẳng có năng lực giảng kinh”. Thầy
cho tôi đến xem lớp học ấy, đến xem thì
đương nhiên là được rồi! “Hãy đến
xem thử một lần”, thầy dùng phương pháp thiện
xảo phương tiện ấy để dẫn tôi nhập
môn. Tôi thưa với thầy là chúng tôi chẳng thể giảng,
kết quả là nhận thấy phương pháp dạy giảng
kinh của thầy vốn là giảng chú giải của cổ
nhân. Đọc chú giải của cổ nhân không hiểu
thì giảng chú giải của người hiện thời,
xem chú giải bằng văn Bạch Thoại, cách giảng
như vậy đó! Tôi hỏi thầy: “Vì sao học theo
cách ấy?” [Thầy trả lời]: “Không còn cách nào, bất
đắc dĩ phải chọn lấy cái kém hơn”. Hiện
thời không có ai giảng kinh, chúng ta chẳng phát tâm thì làm
thế nào đây? Ai sẽ ra tay? Không có ai cả! Kinh giảng
sai, sai một chữ là không được rồi! Cổ
đại đức đã nói về chuyện giảng sai
một chữ; đây vốn là một công án trong Thiền
Tông: “Thác hạ nhất cá tự
chuyển ngữ, đọa ngũ bách thế dã hồ thân”
(Hạ lầm một chữ chuyển ngữ, đọa
làm thân chồn hoang năm trăm đời). Quý vị phải
gánh trách nhiệm. Quý vị giảng bậy một chữ,
sẽ đọa làm thân súc sanh năm trăm đời,
đáng sợ quá! Thầy bảo tôi: “Chúng ta chẳng có
tư cách giảng thì hãy giảng chú giải, giảng chú giải
của cổ nhân. Chú giải của cổ nhân viết bằng
văn chương Văn Ngôn, nay chúng ta dịch sang văn
Bạch Thoại, dùng biện pháp này. Hễ sai thì là lỗi
của tác giả, chứ ta không sai! Nếu văn
chương viết bằng Văn Ngôn đọc không hiểu,
chúng ta hãy xem văn Bạch Thoại hiện thời, chiếu
theo đó để giảng. Bỏ sót cũng chẳng sao,
chớ nên tự thêm những thứ gì của mình vào, hãy
để cổ nhân chịu trách nhiệm”. Chúng tôi bắt
đầu học giảng kinh từ chỗ này. Đến
khi nào quý vị có thể tự mình giảng? Khai ngộ! Chưa
khai ngộ thì hãy giảng [lời chú giải của]
người khác.
Phật
khai ngộ, trong các vị tổ sư đại đức,
có rất nhiều vị khai ngộ. Tuy khai ngộ, họ
vẫn chẳng rời khỏi Phật, Bồ Tát, hoàn toàn
dựa theo di giáo của Phật, Bồ Tát, chẳng có một
tí ý nghĩa mới mẻ nào! “Tín
nhi hiếu cổ, thuật nhi bất tác” là thái độ
chúng ta nên học theo, hãy nên sốt sắng học tập.
Học tập có thể thành tựu hay không? Tùy thuộc vào
tâm thái học tập của quý vị! Tâm thái như thế
nào mới có thể học thành công? Ấn Quang đại
sư nói rất hay: “Thành kính!” Ngài dạy: “Một phần thành kính được một phần
lợi ích, mười phần thành kính được
mười phần lợi ích”. Thành là gì? “Tôi rất
thành kính, tôi mười hai phần thành kính”; đó là tiêu chuẩn
của chính kẻ ấy, chẳng phải là tiêu chuẩn của
Phật, Bồ Tát, thánh hiền. Theo tiêu chuẩn của Phật,
Bồ Tát và thánh hiền, Thành là gì? Trong Độc Thư
Bút Ký (bút ký đọc sách), tiên sinh Tăng Quốc Phiên[1]
đã định nghĩa chữ “Thành”, ông ta giải thích như thế nào? “Nhất niệm bất sanh thị
vị thành” (Một niệm chẳng sanh được
gọi là Thành). Người ta có học vấn, có đức
hạnh, giảng tuyệt lắm, “niệm” [trong câu nói của Tăng Quốc Phiên] là
gì? Vọng niệm đấy! Hễ quý vị còn có vọng
niệm sẽ chẳng Thành! Nói theo Phật pháp, quý vị vẫn
khởi tâm động niệm; khởi tâm động niệm
là vô minh phiền não, Thành ở chỗ nào? Phân biệt, chấp
trước chính là gió to, sóng cả, phiền não nghiêm trọng.
Do vậy, đức Phật dạy chúng ta: Quý vị có thể
chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian; đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, mà quý vị chắc
chắn chẳng chấp trước, thì xin chúc mừng quý
vị, quý vị đã chứng quả A La Hán, đã vượt
thoát lục đạo luân hồi. Nếu lại tiến
thêm một bước nữa, lục căn tiếp xúc cảnh
giới lục trần, phân biệt cũng buông xuống, chẳng
còn phân biệt nữa. Thưa quý vị, buông chấp
trước xuống, đạt được tâm thanh tịnh,
tâm thanh tịnh sanh ra trí huệ; buông phân biệt xuống, đạt
được tâm bình đẳng. Tâm thanh tịnh là tâm Bồ
Tát, tâm bình đẳng là tâm Phật. Cuối cùng là khởi
tâm động niệm, tức là vọng niệm cũng
buông xuống, chẳng sanh ý niệm, chúc mừng quý vị,
quý vị đã thành Phật. “Vì
đạo ngày càng tổn giảm”, vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy
đều phải buông xuống! Mỗi năm [vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước] một nhẹ hơn thì
đạo nghiệp của quý vị đang tiến bộ.
Nếu mỗi năm một nghiêm trọng hơn, quý vị
đã hoàn toàn tương phản, quý vị đang học đạo,
nhưng đạo ấy chẳng phải là Phật đạo,
mà là đạo gì? Phải biết đấy là lục
đạo, quý vị đang tu luân hồi trong lục đạo!
Tu luân hồi trong lục đạo có thiện, có ác; nếu
là thiện, sẽ là ba thiện đạo; nếu bất
thiện thì quý vị đang tu ba ác đạo, đều là
tu đạo, đều gọi là Đạo, chớ nên
không biết điều này! Chúng ta phải thấu hiểu
cẩn thận vì sao Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, hãy
khéo học tập, nâng cao cảnh giới của chính mình. Thật
đấy! Đức Phật đã nói hai câu mà ai cũng
đọc được, nhưng quý vị chưa làm
được: “Cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si),
đó là công phu thật sự.
Nay chúng ta
phải nghiêm túc tự hỏi chính mình: Tịnh Nghiệp Tam
Phước không chỉ là nguyên tắc chỉ đạo tối
cao trong Tịnh Tông, mà còn là nguyên tắc chỉ đạo
của toàn thể Phật pháp. Điều thứ nhất là:
“Hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu Thập Thiện Nghiệp” . Chúng ta có làm được
hay không? Đó là gì? Là điều kiện cơ bản
để học Phật. Nếu chúng ta không trọn đủ,
sẽ chẳng có tư cách tiến nhập Phật môn. Tiến
nhập Phật môn đòi hỏi điều kiện, hạng
người nào vậy? Thiện nam tử, thiện nữ nhân.
Thiện là bốn câu [trên đây], bốn câu này là ba món căn
bản của Nho, Thích, Đạo. Hiếu thân tôn sư (hiếu
thuận cha mẹ, tôn trọng thầy) ở trong Đệ
Tử Quy, từ tâm chẳng giết trong Cảm Ứng
Thiên. Do vậy, quý vị có thể thật sự thực
hiện Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, và Thập
Thiện Nghiệp, thật sự làm được, sẽ
hội đủ tiêu chuẩn “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”. Có điều kiện này mới có thể tiến
nhập Phật môn, thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Phước
thứ hai chính là đệ tử Phật môn chân chánh: “Thọ trì Tam Quy, đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, chẳng
đủ điều kiện trên đây sẽ chẳng có tư
cách thọ lãnh [giới pháp]; nhưng nay thì sao? Nay chúng ta
không đủ điều kiện mà vẫn thọ!
Chương Gia đại sư bảo tôi: Thọ giới
để làm gì? Thọ để học! Ngàn vạn phần
chớ nên nghĩ mình đã thọ giới, đã đắc
giới, không thể nói như vậy! Nói như vậy
chính là gì? Đại vọng ngữ. Đại vọng ngữ
vì quý vị chưa đạt được mà tưởng
đã đạt được!
Người
nói câu này sớm nhất chính là Ngẫu Ích đại sư.
Ngẫu Ích đại sư sống vào cuối đời
Minh, Minh mạt Thanh sơ (cuối đời Minh, đầu
đời Thanh), tuy là Tổ Sư Tịnh Độ Tông, tức
Tổ Sư đời thứ chín, nhưng Ngài có công phu rất
sâu nơi giới luật. Giống như Hoằng Nhất
đại sư trong thời cận đại, mọi
người đều biết Hoằng Nhất đại
sư nghiên cứu giới luật. Vào thời ấy, Ngẫu
Ích đại sư nghiên cứu giới luật, Ngài
cũng trước tác về giới luật rất nhiều.
Ngài bảo: “Tại Trung Quốc, từ triều đại
Nam Tống trở đi không có tỳ-kheo!” Tỳ-kheo là tỳ-kheo
trên danh tự, hữu danh vô thực! Không giữ được
giới tỳ-kheo, nên chẳng có tỳ-kheo. Muốn truyền
giới xuất gia, tức là truyền xuất gia tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni giới, tối thiểu phải có năm vị
tỳ-kheo mới có thể truyền. Do chẳng có năm tỳ-kheo
truyền giới, nên người thọ giới chẳng
thể đắc giới. Ngài nói từ triều đại
Nam Tống về sau chẳng có [tỳ-kheo], danh tự tỳ-kheo
chẳng phải là thật sự có. Do vậy, khuyên mọi
người: Quý vị có thể đến thọ giới,
nhưng biết đó là hình thức, thọ rồi phải
học. Thật sự học một điều sẽ
đắc một điều vì quý vị làm được.
Người thọ Ngũ Giới rất nhiều, rất
phổ biến, người thọ Tại Gia Bồ Tát giới
cũng không ít, nhưng Ngũ Giới có giữ được
hay chăng? Đừng nói chi khác! “Chẳng nói dối” có làm
được hay chăng? Thường nói những câu nhảm
nhí, dù hữu ý hay vô ý, tức là chẳng giữ [giới “bất
vọng ngữ”]! Không sát sanh, không trộm cắp, chẳng
tà dâm, quý vị hãy suy nghĩ đã làm được điều
nào hay chưa? Vẫn cứ nói tôi thọ Mãn Phần Ngũ
Giới (thọ đủ năm giới), Mãn Phần Ưu
Bà Tắc, Ưu Bà Di! Ngũ Giới làm không được,
Bồ Tát Giới càng khỏi cần phải nói nữa. Do
vậy, hữu danh vô thực, chúng ta phải biết điều
này. Kiếm đủ mọi cách lừa gạt chư Phật,
Bồ Tát, [mà vẫn ra rả]: “Tôi chuyện gì xấu cũng
đều chẳng làm!” Quý vị thọ giới mà làm không
được, tội ấy rất nặng. Cách kết tội
ra sao? Đã phạm tội gì? Phá hoại hình tượng Phật
giáo, quý vị có thừa nhận hay chăng? Người ta
nhìn vào Phật giáo, quý vị thấy Phật giáo đồ
giống như vậy, người ta đâu có chửi quý
vị, mà chửi toàn bộ Phật giáo, ngay cả chư Phật,
Bồ Tát đều bị chửi lây, phải hiểu
điều này!
Tín đồ
tại gia không giữ được Thập Thiện! Thập
Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới đều làm không được.
Các đệ tử xuất gia không giữ được
Sa Di Luật Nghi! Không chỉ Sa Di Luật Nghi, mà Tam Quy, Ngũ
Giới, Thập Thiện cũng làm không được. Quý
vị nói xem: Phật giáo lẽ nào chẳng suy? Phật giáo
suy ở chỗ nào? Chẳng có giới luật! Quý vị thấy
Phật pháp là “tín, giải, hành, chứng”; quý vị có tín, có
giải, nhưng chẳng có hành, khoan bàn tới chứng. Không
có hành, làm sao có chứng? Chỉ có tín giải, tín giải biến
thành học thuật, biến thành Phật học. Có hành và có
chứng mới biến thành học Phật. Học Phật
và Phật học khác nhau! Phật học là có thể nói,
nhưng chẳng thể hành; học Phật là có thể nói
và có thể hành. Vì thế, trong thời đại hiện
tại, tìm một thiện tri thức phải đến
nơi đâu để tìm? Tìm không ra! Vì thế, thầy mới
dạy tôi, thuở thầy Lý tại thế, lão nhân gia hết
sức khiêm hư, tôi bái sư, hành lễ bái sư để
xin học với Ngài. Lão nhân gia bảo tôi: “Tôi chỉ có thể
dạy anh năm năm”. Sau năm năm sẽ làm như
thế nào? Cụ giới thiệu một vị thầy,
thầy của Ngài là Ấn Quang đại sư. Ấn
Quang đại sư đã khuất, Văn Sao vẫn còn. Hằng
ngày, quý vị đọc Văn Sao là thân cận Ấn Quang
đại sư. Ghi nhớ giáo huấn của Ấn Quang
đại sư, sốt sắng nỗ lực thực hiện
thì quý vị sẽ là học trò của pháp sư Ấn
Quang. Mở ra một cửa, vì hiện thời tìm không
được một vị thiện tri thức chân chánh,
nhưng cổ nhân thì có, hãy làm tư thục đệ tử
của cổ nhân. Thầy giới thiệu tôi làm tư thục
đệ tử của Ấn Quang đại sư. Tôi giảng
kinh, dạy học tại các nơi ở hải ngoại
nhiều năm như thế, chẳng dám tự nhận
mình là thầy, chưa đủ tư cách, tôi cũng học
theo phương pháp của thầy, giới thiệu một
vị thầy cho mọi người. Tôi giới thiệu
ai vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật là hai vị
thầy tốt đẹp, theo các Ngài chắc chắn tốt
đẹp lắm!
Thầy ở nơi đâu? Trong Vô
Lượng Thọ Kinh và A Di Đà Kinh. Thâm nhập một
môn, trường thời huân tu. Xem kinh không hiểu thì hãy
tìm trợ giáo (tutor), tìm người giúp đỡ! Trợ
giáo là ai? Người chú giải kinh là trợ giáo. Xem kinh Hoa
Nghiêm không hiểu, hãy tìm Thanh Lương đại sư, tìm
Lý Trưởng Giả, chú giải của các Ngài giúp chúng ta
học tập. Xem Di Đà không hiểu, tìm Liên Trì đại
sư, Ngài có bộ Sớ Sao, Ngẫu Ích đại sư có
bộ Yếu Giải, U Khê đại sư có Viên Trung Sao. Trước
khi bản [hội tập] này ra đời, thông thường
người học kinh Vô Lượng Thọ đều học
theo bản dịch của Khang Tăng Khải. So trong
năm bản dịch gốc, bản của ngài Khang
Tăng Khải hay nhất, lưu thông cũng rất rộng.
Đời Tùy, Huệ Viễn đại sư[2]
có chú giải. Sư có pháp danh hoàn toàn giống với Sơ
Tổ Tịnh Độ Tông. Lô Sơn Huệ Viễn đại
sư là tổ sư đời thứ nhất của Tịnh
Độ Tông Trung Quốc. Do Huệ Viễn đại
sư đời Tùy trùng tên, trong Phật môn gọi Ngài là Tiểu
Huệ Viễn. Nghe nói Tiểu Huệ Viễn liền biết
ngay là Huệ Viễn đại sư đời Tùy, hãy
đọc bản chú giải của Ngài. Khi chúng tôi học
kinh Vô Lượng Thọ tại Đài Trung, nhằm lúc bản
này vẫn chưa truyền đến Đài Trung, thầy
Lý giảng Vô Lượng Thọ Kinh bằng bản chú giải
của ngài Tiểu Huệ Viễn. Chú sớ của cổ
nhân giúp đỡ các đồng học. Hiện thời có
nhiều công cụ hơn, dùng máy thâu âm hay máy thâu hình để
giảng giải nhằm giúp đỡ người đời
sau, quá sức thuận tiện! Chúng ta
thành lập một đạo tràng, quý vị phải ghi nhớ,
Ấn Quang đại sư là một vị nhất đại
tổ sư có đức hạnh, có trí huệ, lão nhân gia dạy
chúng ta: Trong tình hình xã hội hiện thời, kiến lập
đạo tràng hãy trọng phẩm chất, đừng coi
trọng số lượng, tức là “trọng thực chất,
đừng coi trọng hình thức”. Đạo tràng chớ
nên to lớn; thảo am nhỏ là lý tưởng nhất.
Chúng thường trụ không nên hơn hai mươi người,
dễ duy trì. Các đồng học chí đồng đạo
hợp ở cùng một chỗ cộng tu, một
phương hướng, một mục tiêu, quyết định
cầu sanh Tịnh Độ. Thảo am nhỏ ở
được hai mươi người, người
trong ấy tâm đều thanh tịnh. Nếu dựng một
ngôi chùa lớn, giàu có, lộng lẫy, nguy nga, có bao nhiêu
người sẽ dòm ngó, nghĩ cách tranh đoạt!
Thích Ca
Mâu Ni Phật thấy rõ ràng, cho nên, thuở Phật tại
thế, Ngài giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi
chín năm, chẳng dựng một đạo tràng nào, ngay
cả thảo am nhỏ cũng chưa hề dựng. Vì
sao? Nay chúng ta hiểu rõ: Lập đạo tràng sẽ có kẻ
khởi ý niệm ác. Cái gì cũng đều chẳng có, ba
y một bát, trưa ăn một bữa, đêm nghỉ
dưới cội cây, quý vị còn tranh đoạt gì nữa?
Vì thế, mỗi cá nhân đều thanh tịnh, chẳng tranh
chấp. Thị hiện hay quá! Thị hiện từ bi đến
cùng cực, Ngài thật sự chịu khổ thay cho chúng
sanh. Vì sao làm như vậy? Nêu gương cho người đời sau xem. Nói thật ra, thân thể chúng
ta trong hiện thời chẳng thể sánh với thân Phật,
ngay cả đệ tử Phật, chúng ta cũng chẳng
thể sánh bằng. Người ta là năm này qua tháng khác,
đêm ngồi dưới cội cây, chẳng ngán gió táp,
mưa tạt. Kinh bảo là “kim
cang bất hoại thân”, người ta có đức
hạnh. Nay chúng ta không làm được, nay chúng ta nghỉ
một đêm dưới gốc cây, nói chung là ngày hôm sau phải
nằm phòng cấp cứu, chẳng có đức hạnh
như người ta! Tướng chuyển theo tâm, tâm
người ta thanh tịnh, chúng ta chưa đạt đến
mức độ thanh tịnh ấy. Vì vậy, chớ nên
không biết điều này! Trong xã hội hiện thời,
chúng ta càng chẳng thể rời khỏi xã hội, mỗi
ngày nghiêm túc học tập trong tiểu đạo tràng, đem
công đức học tập hồi hướng cho xã hội,
hồi hướng cho hết thảy chúng sanh khổ nạn,
tiêu tai miễn nạn, chuyện này có thật hay không? Thật
đấy! Trong kinh, đức Phật đã nói rất tuyệt:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Có một nhóm người như thế,
dùng cái tâm thanh tịnh hằng ngày cầu nguyện, chân
thành cầu nguyện sẽ sanh ra hiệu quả; đấy
là đối với xã hội. Trong xã hội có kẻ không
tin, xưa nay, trong ngoài nước có rất nhiều sự
tích linh nghiệm, hiện tại có hay không? Hiện tại
vẫn có. Dần dần khoa học cũng chậm chạp
ấn chứng cho chúng ta, chứng tỏ cảnh chuyển
theo tâm, chứng minh tướng do tâm sanh, kẻ thật sự
có đức hạnh sẽ thật sự có cảm ứng.
Chẳng có đức hạnh thì sao? Chẳng có đức
hạnh thì cũng phải tham dự các sự nghiệp phước
lợi xã hội. Các tôn giáo ngoại quốc rất coi trọng
việc này, họ lập viện dưỡng lão, cô nhi viện,
dục ấu viện (preschool), bệnh viện, làm rất
nhiều, tôi cũng thấy rất nhiều,
họ nhiệt tâm thực hiện các sự nghiệp từ
thiện phước lợi xã hội. Trong Phật môn, những
chuyện này là làm kèm thêm, chuyện thật sự phải
làm là tự nâng cao cảnh giới của chính mình, thành tựu
đạo đức và trí huệ, quý vị mới có thể
thật sự giúp chúng sanh khổ nạn,
thật sự có năng lực hóa giải tai nạn.
“Vãn cận, Thái Hư pháp sư
đề xướng nhân gian Tịnh Độ” (gần
đây, pháp sư Thái Hư đề xướng nhân gian Tịnh
Độ), vị này cũng là người sống trước
chúng tôi một thế hệ, có khá nhiều cống hiến
đối với Phật giáo Trung Quốc, cũng có không
ít trước tác. “Tằng
tường dẫn Vô Lượng Thọ Kinh văn cú”
(từng trích dẫn cặn kẽ nhiều câu trong kinh Vô
Lượng Thọ). Trong khi diễn giảng, Sư trích dẫn
kinh văn từ kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều. “Cái dĩ
thử kinh song chiếu thế xuất thế gian” (ấy
là vì kinh này soi rọi cả thế gian lẫn xuất thế
gian), trong bộ kinh này, đức Phật
giảng về pháp thế gian không ít, mà giảng pháp xuất
thế gian cũng rất nhiều. “Tường thị Chân Tục nhị đế”
(chỉ bày cặn kẽ Chân Đế và Tục Đế),
đức Phật nương theo Nhị Đế để
thuyết pháp, đó là một tổng nguyên tắc của giảng
kinh, giáo học. “Đế”
(諦) là gì?
Nói theo cách phổ thông hiện thời, Đế là chân lý,
chân thật, thực tại. Có hai thứ [chân lý]: Một là
Tục Đế, hai là Chân Đế. Tục Đế là pháp
thế gian, Chân Đế là Phật pháp, thế gian và xuất
thế gian đều quan tâm. Chân Đế là sau khi minh tâm
kiến tánh, quý vị đã thấy được Thật
Tướng của các pháp, những người tầm thường trong thế gian
chúng ta rất khó lý giải điều này. Thật Tướng
là thật, nhưng chúng ta chưa tu học đến trình
độ ấy, nên đức Phật chẳng nói chuyện
này. Ngài giảng về pháp thế gian, cũng có nghĩa là
đức Phật rất thông hiểu những kiến thức
thông thường. Đức Phật nói về những kiến
thức thông thường của người thế gian, chúng
ta rất dễ tiếp nhận, rất dễ hiểu.
Ngài dạy “cha nhân từ, con hiếu thảo, anh nhường,
em kính”, chúng ta nghe rất vui vẻ. Đó là Thế Tục Đế,
chẳng phải là Chân Đế. Chân Đế giảng “vạn pháp đều không”, chúng
ta sẽ không hiểu, chúng ta thấy rõ hết thảy các
pháp hiện tiền, cớ sao là không? Lẽ nào Phật là
không? Tôi không hiểu điều này! Đó là Chân Đế,
thuộc về Triết Học cao cấp, người bình
thường chẳng thể hiểu. Đức Phật nhìn
vào căn tánh của chúng sanh, thấy quý vị thuộc trình
độ nào bèn thuyết pháp [đến mức đó]. Vì
thế, trong toàn bộ Phật pháp, Tiểu Thừa toàn giảng
về Tục Đế, Chân Đế cũng nói, nhưng rất
ít. Trong pháp Đại Thừa, Chân Đế và Tục
Đế đều giảng, ngay cả trong pháp Nhất
Thừa [cũng như thế]. Pháp Nhất Thừa là Pháp
Hoa và Hoa Nghiêm, trong ấy vừa có Tục Đế, vừa
có Chân Đế, không hoàn toàn giảng Chân Đế.
“Phù Tịnh Tông chi diệu, tại
ư bất ly Phật pháp, nhi hành thế pháp, bất phế
thế pháp, nhi chứng Phật pháp” (Điều hay tuyệt
của Tịnh Tông là chẳng lìa Phật pháp mà hành pháp thế
gian, chẳng bỏ pháp thế gian mà chứng Phật pháp).
Đây là chỗ thù thắng của Tịnh Tông, đúng là xảo
diệu. Tiếp đó, sách viết: “Nhân trì danh chi pháp, tối vi phương tiện, tùy
địa khả tu” (do pháp trì danh thuận tiện nhất,
chỗ nào cũng có thể tu được), có thể tu
bất cứ lúc nào, tu ở bất cứ chỗ nào, một
câu Phật hiệu trong tâm, phải thật sự làm
được tiêu chuẩn “nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” như
Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói, thật sự, chẳng
giả. Giữ vững lục căn chẳng cho chúng rong
ruổi theo bên ngoài, “phi lễ
vật thị, phi lễ vật thính” (phi lễ chớ
nhìn, phi lễ chớ nghe), khống chế được!
Lục căn chẳng chạy theo cảnh giới lục
trần. Đối với phàm phu, cảnh giới lục
trần bên ngoài dẫn dụ lục căn, quý vị bèn tạo
nghiệp; thật sự có thể khống chế nó, thì có
thấy cảnh giới bên ngoài hay không? Thấy chứ!
Nhưng thấy ra sao? Chẳng để trong lòng, thấy
mà như không thấy, nghe mà chẳng nghe, chẳng bận
lòng, đó gọi là công phu. Trong tâm là gì? Trong tâm là A Di Đà
Phật, trừ A Di Đà Phật ra, cái gì cũng đều
chẳng có. Trò chuyện trao đổi với quý vị,
đó là pháp thế gian, nhưng Phật hiệu trong tâm chẳng
gián đoạn. Chẳng phải là nói tôi có chuyện phải
làm, tôi buông niệm Phật xuống, đó
là gì? Đó là công phu vẫn chưa đủ, chưa đạt,
người mới học mới phải làm như vậy.
Đặc biệt là khi phải dùng đến đầu óc
suy nghĩ, quý vị tạm thời buông Phật hiệu xuống
để làm việc. Sau khi làm xong xuôi, lại niệm
Phật. Nếu đã đạt Niệm Phật tam-muội,
sẽ chẳng có chướng ngại, trong mười hai
thời Phật hiệu chẳng gián đoạn, làm
được, chứ chẳng phải là không làm
được!
Xưa kia,
tôi ở Đài Loan, vào dịp Tết năm nọ, có một
vị lão cư sĩ đến chúc Tết tôi, cụ
cũng là tín đồ đã lâu của Hoa Tạng Đồ
Thư Quán. Bà cụ đến bảo tôi: “Bạch pháp
sư! Nay trong lòng tôi rất thanh tịnh, chuyện gì tôi
cũng đều buông xuống, nhưng không thể bỏ
cháu nội được!” Công phu niệm Phật của
bà cụ rất tốt, không buông cháu nội xuống
được, tôi nói với cụ: “Bà hãy tưởng A Di
Đà Phật là cháu bà, bà sẽ thành công!” Bà cụ chẳng
nghĩ đến cháu, chẳng nghĩ tới, nhưng
trong tâm thật sự có cháu, thời thời khắc khắc
đều có bóng dáng của đứa cháu, A Di Đà Phật
thường treo nơi miệng, trong tâm là cháu. Do vậy, tôi
dạy bà cụ một phương pháp để thay đổi:
“Hãy đem cháu bà đổi thành A Di Đà Phật, bà sẽ
thành công!” Trong lòng thật sự có [A Di Đà Phật]! Đó
là niệm Phật! “Ức Phật,
niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất
định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật,
hiện tiền, tương lai, nhất định thấy
Phật), Đại Thế Chí Bồ Tát nói như thế. Nếu
chúng ta một lòng một dạ nghĩ tới thế giới
Cực Lạc, mong vãng sanh, chẳng vãng sanh sẽ phiền
phức lớn lắm, chẳng vãng sanh sẽ phải luân
hồi trong lục đạo. Luân hồi trong lục đạo
đúng là khổ quá, chẳng muốn luân hồi nữa! Chẳng
còn tiêm nhiễm những thứ trong lục đạo, tâm
quý vị bèn định, cái gì cũng đều chẳng
nghĩ tới. Mỗi ngày ăn no ba bữa là được
rồi, chuyện gì cũng không phải truy tìm, có thể ăn
đủ no, quần áo có thể chống lạnh là
được rồi, có một chỗ nhỏ bé để
ngủ là đủ rồi, cần chi nữa? Quý vị
đã biết đủ, biết đủ thường vui.
Tâm chẳng có mảy may gánh nặng nào, thân lẫn tâm đều
chẳng có áp lực, quý vị nói có tự tại lắm
hay không? Trong tâm thật sự có Phật, công phu như vậy
nhanh là một năm, chậm thì tối đa là ba năm, quý
vị sẽ đạt được Niệm Phật tam-muội.
Niệm Phật tam-muội là gì? Tâm thanh tịnh. Trong tựa
đề của kinh Vô Lượng Thọ có “thanh tịnh”, quý vị đã
đạt được. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, chẳng
còn sanh phiền não nữa. Khi nào sẽ vãng sanh? Trong cảnh
giới ấy, muốn vãng sanh lúc nào sẽ vãng sanh khi ấy;
quý vị vừa nghĩ, A Di Đà Phật liền đến.
Có thọ mạng, nhưng chẳng cần thọ mạng nữa,
đi ngay bây giờ được chăng? Được!
Thông tin của quý vị gởi sang A Di Đà Phật, ở
nơi đây vừa khởi niệm, A Di Đà Phật liền
biết ngay, Phật đến tiếp dẫn. Chẳng có
công phu ấy sẽ không được, nghĩ cách nào Phật
cũng chẳng đến, vì sao nghĩ mà Phật không
đến? Do quý vị vọng tưởng, nên Phật
không đến, vẫn chưa buông những thứ tạp
nhạp trong thế gian xuống được! Thật sự
buông xuống sẽ có thể ra đi bất cứ lúc nào!
Thế giới này khổ ngần ấy,
chịu khổ nhiều năm ngần ấy, còn có gì tốt
đẹp để lưu luyến nữa? Sanh về thế
giới Cực Lạc vĩnh viễn lìa khổ, được
vui. Vì sao chẳng làm? Nói thật ra là vì tham sống sợ
chết! Nếu có Niệm Phật Đường nào mở
ở đây, bảo mọi người: “Đến chỗ
tôi niệm Phật, chắc chắn bảy ngày sẽ vãng sanh”,
quý vị thấy có ai dám tới hay không? Không dám tới! Mỗi
ngày cầu vãng sanh, nhưng bảy ngày chắc chắn vãng sanh
thì chẳng ai dám tới Niệm Phật Đường ấy!
Giả trất, chẳng thật! Miệng đúng, tâm sai!
Sau khi chúng ta hiểu rõ, phải thật sự làm, các đạo
lý đều hiểu rõ ràng, minh bạch.
Quả
thật là chẳng lìa Phật pháp mà hành pháp thế gian. Pháp
thế gian và Phật pháp chẳng có một chút chướng
ngại nào! Bất luận làm việc gì, trong tâm Phật hiệu
chẳng gián đoạn, đó là “công phu thành phiến”, sanh
vào Phàm Thánh Đồng Cư Độ của Tây
Phương Cực Lạc thế giới; nhưng [sanh vào
cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng] chẳng sao cả!
Đức Thế Tôn đã nói minh bạch: Sanh đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới liền viên chứng
bốn cõi. Quả đức thù thắng này đến
đâu để cầu? Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn,
chỉ có một môn này là có, những môn khác chẳng có. Vì
thế, gặp gỡ pháp môn rất khó có này, rất chẳng
dễ dàng! Đã gặp mà không chịu tu, ở ngay trước
mặt mà bỏ lỡ, tội ấy rất nặng, có lỗi
với chính mình, có lỗi với chư Phật, Bồ Tát,
có lỗi với cha mẹ, tổ tiên; bởi lẽ, quý vị
vãng sanh sẽ thành Phật, người nhà của quý vị
sẽ đắc độ. Bất luận họ ở
trong đường nào, quý vị đều thấy rõ
ràng, họ gặp khổ nạn, quý vị có thể giúp họ.
Họ có duyên với quý vị, cho nên họ có cảm, quý vị
sẽ có ứng. Họ đang chịu khổ, chịu nạn,
mong mỏi có người giúp đỡ. Đó chính là Cảm.
Quý vị có duyên với họ, lập tức nhận
được tin tức ấy, thật sự có thể giúp
đỡ họ. Chẳng phế pháp thế gian, mà chứng
Phật pháp. “Chẳng phế” và “chẳng lìa” có cùng một
ý nghĩa. Thế pháp (pháp thế gian) là gì? Thưa cùng quý vị,
Đệ Tử Quy là thế pháp, Cảm Ứng Thiên là thế
pháp, Thập Thiện Nghiệp cũng là thế pháp. Quý vị
thấy đó, vận dụng ba thứ này ngay trong cuộc
sống hằng ngày của chính mình, vận dụng ngay vào
công việc của chính mình, dùng ngay trong sự đãi
người tiếp vật của chính mình, thế pháp
đấy! Nêu gương tốt cho người thế
gian. Trong tâm là A Di Đà Phật thì sẽ thành công. Thế
pháp không chỉ chẳng chướng ngại quý vị, mà
quý vị còn tích lũy công đức nơi ấy, nâng cao
phẩm vị khi sanh về thế giới Cực Lạc.
Quý vị làm bao nhiêu chuyện tốt, nêu gương rất
tốt trong xã hội. Tâm quý vị thanh tịnh, người
ta nhìn không thấy, nhưng Đệ Tử Quy, Cảm Ứng
Thiên, Thập Thiện Nghiệp của quý vị người
ta sẽ thấy, để thay đổi phong thái xã hội
hiện thời cần phải có những điều này!
Tổ tiên để lại cho chúng ta những thứ tốt
đẹp, yêu thương con cháu dường ấy, ân sâu
đại đức khôn sánh! Nay chúng ta là con cháu bất hiếu
trong đời này, chẳng hiểu lòng yêu thương của
tổ tiên, gạt bỏ giáo huấn của họ sang một
bên, lại còn chê họ lỗi thời, tâm thái như vậy,
quý vị nói xem: Có tránh khỏi chẳng bị báo ứng
hay chăng? Chúng ta đúng là khó có, trong thời đại
này và trong lứa tuổi như vậy mà được gặp
gỡ [pháp môn này], mới giác ngộ, mới hiểu rõ, nhanh
chóng quay đầu sốt sắng học tập, tự lợi,
lợi tha, lợi tha là tự lợi. Bản thân quý vị
chẳng sốt sắng học tập, sẽ không có cách
nào lợi tha. Chính mình thật sự học, sẽ thật
sự đạt được lợi ích, người
khác trông thấy sẽ học theo, [do thấy chúng ta có] biểu
hiện tốt đẹp mà!
Tôi nhớ
năm xưa chúng tôi ở Mỹ, hàng xóm gần đó đều
là người Mỹ. Tôi sống trong một căn nhà nhỏ
đối diện nhà Hàn Quán Trưởng. Những người
hàng xóm rất hâm mộ chúng tôi. Có một buổi sáng, chúng
tôi ra ngoài tản bộ, bên ngoài là công viên; những người
hàng xóm trông thấy tôi, bèn nói họ thấy chúng tôi mỗi
ngày đều vui vẻ dường ấy, khuôn mặt tràn
đầy dáng vẻ tươi cười, hỏi: “Các vị
làm nghề gì vậy? Vì sao vui sướng ngần ấy?” Chúng
tôi bảo họ: “Chúng tôi niệm Phật”. Họ hỏi:
“Niệm Phật là gì?” Có cơ hội giáo dục rồi! “Niệm
Phật đích thực là học điều gì?” Chúng tôi bảo
họ: “Niệm Phật chính là học trí huệ”. Họ
nghe xong, [bèn nói] điều này cần thiết, tôi cũng
muốn học. Tôi nói: “Thứ hai là trường thọ,
thứ ba là vui sướng”. Họ nói: “Chúng tôi cần [những
điều ấy]” Bọn họ đều là tín đồ
Cơ Đốc, mỗi Chủ Nhật đều đi
nhà thờ, tôi bèn khuyên họ: “Ngày thứ Bảy các vị
hãy đến Phật đường của chúng tôi để
học trí huệ, học trường thọ, học vui
sướng. Ngày Chủ Nhật, quý vị đi nhà thờ,
chẳng vi phạm [luật đạo]. Ở chỗ quý vị
có Chúa, còn chúng tôi ở đây có thầy”. Đức Phật
là thầy của chúng ta, Ngài chẳng phải là thần. Đúng
là sau đấy, dần dần người ta đến
đông hơn, những vùng phụ cận đều đến.
Bởi lẽ, họ quan sát trước, quan sát mấy
tháng rồi mới tiếp cận chúng tôi, từ từ họ
hiểu biết. Vì lẽ đó, tôi nói: Tín ngưỡng tôn
giáo và học Phật chẳng xung đột. Quý vị tín
ngưỡng tôn giáo, thần là cha của quý vị, có quan hệ
cha con hoặc chủ tớ với quý vị. Quý vị đến
chỗ chúng tôi, có quan hệ thầy trò với Thích Ca Mâu Ni
Phật. Ở nhà, quý vị có cha mẹ, ở trường
có thầy, làm sao xung đột cho được? Họ nghe
nói rất vui thích, chẳng xung đột mà!
Tiếp
đó, cụ Hoàng nhắc nhở chúng ta: “Tùy địa khả tu, hà đãi độn nhập
sơn lâm, tùy thời khả niệm, bất lao bế quan
yến tọa” (tu ở bất cứ chỗ nào cũng
được, chẳng cần phải trốn vào núi rừng;
niệm bất cứ lúc nào cũng được, chẳng
nhọc công bế quan, ngồi yên), ý nói: Chẳng cần phải
tìm một A Lan Nhã. A Lan Nhã (Aranya) là tiếng Phạn, tức
là tìm một nơi thanh tịnh. [Pháp môn Tịnh Độ]
có thể tu trong bất cứ lúc nào. Hương Cảng là
nơi phồn hoa nhất, có thể tu được hay
chăng? Có thể! Chẳng bị trở ngại gì, [pháp
môn Tịnh Độ] thuận tiện hơn các pháp môn khác.
Thí dụ như học Thiền, học Mật sẽ chịu
ảnh hưởng rất lớn từ hoàn cảnh, đều
phải tìm một nơi thanh tịnh, [nơi ấy] gọi
là Lan Nhã, [Lan Nhã] có nghĩa là thanh tịnh, rất an
tĩnh. Tiêu chuẩn như thế nào? Vào thời cổ,
[chỗ ấy] phải là nơi không nghe tiếng trâu kêu, lấy
đó làm tiêu chuẩn. Tại nông thôn nuôi trâu, tiếng trâu
kêu lớn nhất. Chỗ quý vị [tu Thiền hay tu Mật]
phải là nơi không nghe thấy tiếng trâu kêu trong thôn
trang, nơi đó gọi là đạo tràng thanh tịnh. Niệm
Phật phải có phước báo; nhưng khi tôi thiếu phước
báo thì ở chốn náo nhiệt vẫn tu được, vẫn
có thể học thành công. Do vậy, không cần phải
lánh vào rừng núi, cũng không cần phải bế quan, yến
tọa, “yến tọa” (宴坐) là tĩnh tọa. Tiểu gia đình
trong xã hội hiện thời, công việc vô cùng bận bịu,
lấy đâu ra thời gian để tĩnh tọa? Do vậy,
pháp môn này thù thắng, pháp môn này chẳng có một tí chướng
ngại nào!
“Đản phát quảng đại giác tâm, nhất hướng chuyên
niệm danh hiệu, hạ chí thập niệm, nhất
niệm, diệc đắc vãng
sanh. Bất ngộ thế gian công tác, y cựu đốn thoát sanh tử. Ký năng tự giác, giác tha, quảng độ chúng sanh ư vị lai, diệc phục
tự tha câu lợi, tạo phước xã hội ư đương thế” (chỉ cần phát khởi giác tâm rộng
lớn, một mực chuyên niệm danh hiệu, tối thiểu
là mười niệm, hay một niệm cũng được
vãng sanh, chẳng trở ngại công việc trong thế
gian, mà vẫn nhanh chóng thoát khỏi sanh
tử y như thế. Đã có thể tự giác, giác tha, rộng
độ chúng sanh trong thời vị lai, lại còn khiến
cho mình lẫn người đều được lợi
lạc, tạo phước cho xã hội trong đời hiện
tại). Đây là sự thật, nói rõ pháp môn này thích hợp
bất luận thời đại nào; đặc biệt là
trong xã hội hiện tại, khoa học kỹ thuật
phát triển, những người công việc bận rộn,
phải tranh thủ từng phút, từng giây, khoa học kỹ
thuật thay đổi hằng ngày, hằng tháng, nếu quý
vị không nỗ lực học tập, sẽ trở thành
lạc hậu! Nhất là những người làm việc
trong lãnh vực khoa học kỹ thuật, chúng ta thấy họ
có lớp huấn luyện bổ túc, cứ mỗi nửa
năm lại phải tái giáo dục. Những thứ mới
mẻ hơn ra đời, họ phải đi học từ
một tuần cho đến hai tuần, nhằm tiếp
nhận những thứ mới mẻ. Đôi khi mỗi ba
tháng lại phải học huấn luyện bổ túc một
lần. Mỗi năm, chẳng thể thiếu hai hoặc
ba lần [huấn nghiệp như vậy]. Quả thật
cuộc sống trong xã hội này rất bận rộn, nếu
quý vị muốn thành tựu đạo nghiệp sẽ chẳng
dễ dàng. Nhưng Tịnh Độ đã tạo
phương tiện cho quý vị, hóa giải vấn đề
khó khăn này!
Tiếp
theo là: “Thị cố kinh vân,
đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận,
ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ
trụ bách tuế, kỳ hữu chúng sanh, trị tư kinh
giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ”
(Vì thế, kinh dạy: “Trong đời tương lai, khi
kinh đạo diệt hết, ta do lòng từ bi, thương
xót, đặc biệt lưu lại kinh này tồn tại
một trăm năm. Có chúng sanh nào gặp được
kinh này, tùy theo sở nguyện đều có thể đắc
độ”). Đây là kinh văn ở phần sau kinh Vô
Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ giới thiệu:
“Đương lai chi thế,
kinh đạo diệt tận” (trong đời
tương lai, kinh đạo diệt hết), khẳng
định chẳng phải là hiện tại. Do trên thế
giới có nhiều nhà tiên tri nói đến ngày tận thế,
các tôn giáo ngoại quốc cũng nói tới tận thế;
có đúng là thế giới sẽ có ngày tận thế hay không?
Đều có vấn đề! Phật pháp chẳng có cách nói
như thế! Phật pháp nói “pháp
vận”. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật là một
vạn hai ngàn năm. Thưa cùng quý vị, chư Phật
xuất thế pháp vận khác nhau; nói thật ra, Phật đâu
có pháp vận! “Vận” là do chúng
sanh [mà có]; Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp đều do
chúng sanh. Chúng ta sốt sắng chịu học, đấy chính
là Chánh Pháp. Sau khi nghe xong, chẳng muốn thực hành, đó
chính là Tượng Pháp. Nghe mà cũng chẳng muốn nghe, đó
chính là Mạt Pháp. Do vậy, ba thứ pháp vận là nói theo phía
chúng sanh, chứ không nói theo Phật pháp, Phật chẳng có
vấn đề, mà Pháp cũng không có vấn đề, thật
sự là con người có vấn đề. Chúng ta có tâm
ưa thích Phật pháp mạnh mẽ như vậy, đó
là Chánh Pháp. Nay chúng ta học tập như vậy có khác gì
[thái độ] học tập của mọi người
thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế hay không? Chẳng
khác gì cả! Họ theo Thích Ca Mâu Ni Phật có thể thành tựu
trong một đời; nay chúng ta gặp pháp môn này, bảo
đảm cũng thành tựu trong một đời này, đấy
là Chánh Pháp. Nhưng đức Phật thấy căn tánh
con người, đời sau đúng là kém hơn đời
trước. Đến chín ngàn năm sau, nay chúng ta dần
dần nghĩ đến chuyện này: Nghiệp do chúng sanh
đã tạo tích lũy lại, tích lũy ác nghiệp càng
nhiều, vận may của con người chẳng còn, hoàn
cảnh cư trụ biến đổi theo, Phong Thủy
luân lưu xoay chuyển. “Phước
nhân cư phước địa” (người có phước
ở cuộc đất có phước). Chỗ Phong Thủy
chẳng tốt, nhưng người có phước báo đến
ở nơi ấy; hai ba năm sau, Phong Thủy sẽ biến
thành tốt, sẽ biến chuyển. Nơi ấy trở
thành đất báu trong Phong Thủy. Kẻ thiếu đạo
đức, tạo tác ác nghiệp, đến ở đó ba
năm, Phong Thủy đều biến thành xấu, cảnh
chuyển theo tâm mà! Địa cầu là một khối bảo
địa, người trên địa cầu đều
có thể tùy thuận Tánh Đức, tu Thập Thiện, chẳng
tạo Thập Ác, cả một khối bảo địa
sẽ chẳng có tai nạn gì, sẽ trở thành giống
như thế giới Cực Lạc.
Quý vị
thấy đức Thế Tôn giới thiệu thế giới
Cực Lạc, kinh Di Đà nói người nơi ấy đều
là bậc thượng thiện cùng ở một chỗ, chẳng
phải là thiện tầm thường, mà là thượng
thiện! Tiêu chuẩn thượng thiện cũng không cao
lắm; đức Phật bảo chúng ta tu Thượng Phẩm
Thập Thiện mà không muốn đến thế giới Cực
Lạc thì sẽ sanh vào đâu? Sẽ sanh trong thiên đạo,
từ Đao Lợi Thiên trở lên là Thượng Phẩm
Thập Thiện. Vãng sanh Phàm Thánh Đồng Cư Độ
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là thượng
thiện, nơi ấy chẳng có tai nạn gì. Trung Phẩm
Thập Thiện là nhân đạo, Hạ Phẩm Thập
Thiện là A Tu La đạo; đó là tam thiện đạo.
Người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới không chỉ là thượng thiện, ngoài thượng
thiện ra, người ấy còn giác ngộ, chẳng mê.
Trong lục đạo, kẻ thượng thiện sanh lên
cõi trời vẫn là mê, chẳng giác, chưa ngộ. Vì sao biết
là ngộ? Trong kinh đã nói rất rõ ràng: Một người
thật sự phát Bồ Đề tâm là giác ngộ. Phát tâm
quyết định muốn cầu sanh về Tây
Phương Tịnh Độ, ý niệm ấy là giác ngộ.
Vì sao? Quý vị muốn rời khỏi lục đạo
luân hồi. Không chỉ muốn rời khỏi lục
đạo luân hồi, mà còn muốn thoát ly mười pháp
giới. Thoát ly mười pháp giới là ai vậy? Bồ
Tát! A La Hán chưa thoát được, A La Hán chỉ thoát ly
lục đạo luân hồi, chẳng thoát ly mười
pháp giới. Quý vị phát cái tâm này, muốn sanh về thế
giới Cực Lạc, dẫu là hạ hạ phẩm vãng
sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng thoát ly mười
pháp giới. Tuy chưa phải là đại triệt đại
ngộ, nhưng đã đạt được quả báo
giống như người đại triệt đại
ngộ, đây là pháp môn hy hữu. Thật sự phát tâm, chẳng
còn lưu luyến thế giới này. Không chỉ chẳng
lưu luyến thế giới này, mà thế giới Hoa Tạng
cũng chẳng lưu luyến. Quý vị hướng tới
thế giới Hoa Tạng, sẽ không sanh về đó được!
Nếu quý vị thật sự không khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước
thì mới có thể sanh về thế giới Hoa Tạng, quý
vị nói xem có khó khăn lắm hay không? Nhưng tới thế
giới Cực Lạc là tới thế giới Hoa Tạng,
chỗ bảo địa thù thắng nhất trong thế
giới Hoa Tạng là thế giới Cực Lạc. Trước
kia, tôi giảng kinh này tại Tân Gia Ba, đã nêu một tỷ
dụ cho các đồng học, họ nghĩ Hoa Tạng
và Cực Lạc là hai chỗ. Tôi bảo họ: Chẳng phải
là hai chỗ, mà là một chỗ. Tôi nói thế giới Hoa Tạng
giống như Tân Gia Ba, còn thế giới Cực Lạc giống
như con đường Ô Tiết (Jalan Orchard). Con
đường Ô Tiết là nơi phồn hoa nhất trong
xứ họ, [Cực Lạc] là chỗ tinh hoa nhất trong
thế giới Hoa Tạng. Sanh về thế giới Cực
Lạc là sanh vào Hoa Tạng, sanh vào Hoa Tạng vẫn
chưa đến thế giới Cực Lạc, nhưng cũng
có người có thể đến! Văn Thù, Phổ Hiền
dùng mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, vẫn có thể đến, nhưng chẳng
trực tiếp vãng sanh thỏa đáng như vậy! Do vậy,
chúng ta phải hiểu rõ điều này thì mới thật
sự buông xuống vạn duyên, nhất tâm quy y Di Đà Tịnh
Độ.
Trong đoạn này đã dẫn một
đoạn kinh văn trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích
Ca Mâu Ni Phật nói: “Đương
lai chi thế, kinh đạo diệt tận” (trong đời
tương lai, kinh đạo diệt hết), có cùng một
ý nghĩa như đã nói trong phần trên: “Ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử
kinh chỉ trụ bách tuế” (ta do lòng từ bi
thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này tồn
tại một trăm năm). Chúng ta phải biết: Thuở
đức Thế Tôn tại thế, Ngài đã nhiều lần
tuyên giảng bộ kinh này, nhất định phải ghi
nhớ điều này. Thuở Phật tại thế, bất
luận kinh điển nào cũng chỉ giảng một lần,
chẳng nhắc lại, chỉ riêng bộ kinh này
được tuyên giảng nhiều lần, vì sao? Là do
mong mỏi kinh này có thể tồn tại đến khi pháp
diệt tận, sẽ là bộ kinh bị diệt cuối
cùng. “Kỳ hữu chúng sanh trị
tư kinh giả” (có chúng sanh nào gặp được
kinh này), “trị” (值) là gặp gỡ, cũng có nghĩa là đến
khi pháp gần như bị diệt hết, kinh đạo
đều chẳng còn, chỉ còn lại một bộ
kinh, mà nếu quý vị được gặp. “Tùy ý sở nguyện, giai khả
đắc độ” (tùy theo sở nguyện, đều
có thể đắc độ). Quý vị nghĩ đến
thế giới Cực Lạc là được rồi! Quý
vị niệm Phật bèn có thể vãng sanh. Quý vị muốn
sanh lên trời cũng được, muốn sanh trong loài người
cũng được, thuận theo lòng mong mỏi, đều
có thể mãn nguyện. “Lương
dĩ thử kinh phù hợp xã hội chi thật huống”
(ấy là vì kinh này phù hợp với tình huống thật sự
trong xã hội). Đúng như kinh Hoa Nghiêm đã nói “Lý Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại”, pháp môn này là pháp môn vô
chướng ngại. “Chân Tục
tịnh chiếu, Lý Sự song dung, phàm thánh tề thâu, tâm Phật
bất nhị” (Chân và Tục cùng chiếu, Lý và Sự
đều viên dung, gồm thâu phàm lẫn thánh, tâm và Phật
chẳng hai), tâm Phật bất nhị là Thật Đế.
Trong phần trước, tôi đã nói với quý vị: “Phàm thánh tề thâu” là Tục Đế,
đến phần sau sẽ nhắc lại ý nghĩa này,
trong kinh nói đến điều này rất nhiều. “Cố năng trường tồn
nhi độc lưu ư mạt thế” (Vì thế, có
thể trường tồn, một mình được
lưu lại trong đời Mạt), “mạt thế” là thời đại Mạt Pháp.
“Lương dĩ thử kinh bất
đản vi Tịnh Độ quần kinh chi cương
yếu, nhất Đại Tạng giáo chi chỉ quy, thật
diệc vi thử giới tha phương, hiện tại,
vị lai nhất thiết hữu tình ly khổ đắc lạc
cứu cánh Bồ Đề chi pháp yếu” (Ấy là vì
kinh này không chỉ là cương yếu của các kinh Tịnh
Độ, là chỗ chỉ quy của toàn bộ giáo pháp
trong Đại Tạng Kinh, mà còn là pháp trọng yếu
để hết thảy hữu tình trong cõi này,
phương khác, hiện tại, tương lai, lìa khổ
được vui, đạt đến Bồ Đề
rốt ráo), kỳ diệu như vậy ư? Thật vậy,
chẳng giả tí nào. Kinh này không chỉ là cương lãnh
và tinh yếu của Tịnh Tông, mà Tịnh Độ còn là
chỗ chỉ quy cuối cùng của hết thảy các kinh
do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong bốn
mươi chín năm. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng là
Tịnh Độ, mười đại nguyện vương
dẫn về Cực Lạc. Trong kinh Pháp Hoa, long nữ tám
tuổi thành Phật cũng là do nghe Văn Thù Bồ Tát giảng
kinh Pháp Hoa, nghe hiểu rồi bèn phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, thành Phật. Trong hết thảy các kinh, đức
Phật chuyên giảng Tịnh Độ trong ba bộ kinh,
tức là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật, kinh A Di Đà, những kinh này là chuyên giảng.
Trong ba bộ kinh ấy, kinh Vô Lượng Thọ được
tuyên giảng nhiều lần, còn hết thảy các kinh khác
giảng kèm thêm về Tịnh Độ có hơn một
trăm bộ. Do vậy, cổ đại đức bảo:
“Thiên kinh vạn luận, xứ
xứ chỉ quy” (ngàn kinh vạn luận, đâu đâu
cũng chỉ về). Đặc biệt lịch đại
tổ sư đại đức, chư đại Bồ
Tát, bất luận tuyên giảng pháp môn như thế nào,
đều khuyên thêm mọi người hãy niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ. Chỉ có mình pháp môn này Lý Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại, bất luận căn tánh
nào cũng đều có thể tu, đều có thể thành
tựu, giống như Thiện Đạo đại
sư đã nói: “Vạn tu, vạn
nhân khứ” (vạn người tu, vạn người
về). Muôn người căn tánh khác nhau, không một ai chẳng
thành tựu. Do vậy, đúng là “thử
giới, tha phương”; chữ “thử giới” chỉ thế giới Sa Bà, chữ
“tha phương” chỉ cõi
nước của hết thảy chư Phật, “hiện tại, vị lai” là
hiện tại và tương lai trong thế giới này và
các phương khác. Pháp yếu để hết thảy hữu
tình lìa khổ được vui, đạt được
Bồ Đề rốt ráo, Bồ Đề rốt ráo là thành
Phật viên mãn, “pháp” là
phương pháp, “pháp yếu”
là phương pháp quan trọng nhất, chẳng dễ gì
đạt được!
Tiếp
theo đó, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ phát nguyện,
hồi hướng: “Niệm Tổ
cảm ân đồ báo, phát vô thượng tâm, kính chú thử
kinh, tục Phật huệ mạng” (Niệm Tổ cảm
ơn, mong báo đáp, phát tâm vô thượng, kính cẩn chú
giải kinh này nhằm duy trì huệ mạng của Phật).
Báo ân, gặp được pháp môn này, tri ân, báo ân, vì sao mọi
người chẳng thể dũng mãnh phát khởi như
vậy? Do không biết ân đức. Thuở ấy, Thích Ca
Mâu Ni Phật đã nhiều lần tuyên giảng là vì ai? Khi
chúng ta gặp được, chịu tin tưởng, có thể
lý giải, phát nguyện cầu vãng sanh, đó chính là [đức
Phật đã] vì ta [mà giảng]. Nếu quý vị hiểu
rõ, có thể tiếp nhận, tức là Phật đã vì quý
vị giảng kinh này. Ngay lập tức gánh vác mới là tri
ân, [đức Phật] chẳng phải giảng cho ai khác,
mà là giảng cho tôi, Hoàng lão cư sĩ gánh vác như thế
đó! Dùng phương pháp nào để báo ân? Chú giải
kinh này. Thầy phó chúc, sau khi Hạ lão cư sĩ hội tập
thành công bộ kinh này, đã tự giảng, cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ là học trò của cụ Hạ, đã
nghe từ đầu, chẳng sót buổi giảng nào, cụ
nghe rất nghiêm túc, thầy có thể nhìn thấy: Đứa
học trò này đối với pháp môn này mười phần
thành kính, nó sẽ được mười phần lợi
ích; vì thế, để cho trò chú giải, thầy tin tưởng
trò. Đệ tử thật sự của đức Phật
phải báo ơn Phật. Câu tiếp theo là “tục Phật huệ mạng”, niệm niệm
mong cho chánh pháp của Thích Ca Như Lai tồn tại lâu dài
trong cõi đời. [Muốn cho] chánh pháp tồn tại lâu
dài trong cõi đời phải dùng đến phương
cách nào? Chính mình phải nghiêm túc học tập, đời
đời truyền thừa. Chúng ta học từ chỗ thầy,
đạt được lợi ích thù thắng, phải truyền
cho đời tiếp theo, Phật môn gọi chuyện này
là “truyền đăng”, chớ
để ngọn đèn sáng ấy bị tiêu diệt. Chúng
ta chẳng truyền thì chẳng truyền là tiêu diệt. Hễ
bị tiêu diệt tức là có tội, tội ấy rất
nặng!
Làm
thế nào để thực hiện tốt đẹp công
tác này, làm rất đúng pháp, khiến cho chư Phật Như
Lai đều thỏa ý? Đầu tiên là đức hạnh,
đấy là điều kiện đầu tiên và trọng
yếu nhất trong “tục Phật
huệ mạng”; đây chính là ba hay bốn món căn bản
như chúng tôi đã nói trong hiện thời. Nếu quý vị
chẳng nghiêm túc và thật sự thực hiện Đệ
Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo, Sa Di Luật Nghi, quý vị sẽ chẳng
thể nối tiếp huệ mạng của Phật.
Điều kiện đầu tiên là thành tựu đức
hạnh, sau đó mới là học vấn. Học vấn là
thâm nhập một môn, trường thời huân tu. Nho và Phật
đều dạy chúng ta như vậy, chẳng dạy chúng
ta học rộng nghe nhiều. Học rộng nghe nhiều
khi nào? Sau khi khai ngộ. Khi chưa khai ngộ, mục tiêu đặt
chắc nơi khai ngộ, chẳng phải là học rộng
nghe nhiều. Học rộng nhất định chướng
ngại khai ngộ, vì sao? Tâm quý vị chẳng thanh tịnh,
quá tạp, quá nhiều thứ. Quý vị phải biết:
Thâm nhập một môn là [dốc sức nơi] một bộ
kinh. Tôi nói với mọi người: Tôi giảng ở
đây, giảng xong một bộ kinh, sẽ làm như thế
nào? Chẳng coi như đã xong, giảng lần thứ hai.
Giảng xong lần thứ hai, bèn giảng lần thứ
ba. Cổ nhân giảng kinh Di Đà, trong một đời
giảng hơn hai trăm lượt, thính chúng nghe có hứng
thú hay chăng? Họ giảng mỗi biến mỗi khác, cảnh
giới khác nhau, càng nghe càng hoan hỷ, cảnh giới của
người giảng không ngừng nâng cao, người nghe
cũng tiến lên không ngừng, giảng tràn đầy ý vị,
thật sự thực hiện, thật sự tu, được
Tam Bảo gia trì. Trong quá khứ, tôi ở Đài Trung, thầy
Lý cho tôi biết: Cụ giảng kinh Di Đà sáu lần, biểu
hiện sáu cách [khác nhau], thật đấy, chẳng giả
đâu! Tôi học kinh Lăng Nghiêm từ cụ, tôi giảng
kinh Lăng Nghiêm bảy lần, kinh ấy quá dài, phải tốn
rất nhiều thời gian. Tôi nhớ đã giảng viên
mãn từ đầu đến cuối chỉ có hai lượt,
năm lần giảng khác đều chưa viên mãn.
Tứ Hoằng
Thệ Nguyện là cương lãnh chỉ đạo tu học
tối cao của chúng ta. Quý vị thấy điều thứ
nhất là dạy chúng ta phát Bồ Đề tâm: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, phát Bồ Đề tâm, vì chúng sanh, chứ
không phải vì chính mình. Thực hiện từ chỗ nào? “Phiền não vô tận thệ nguyện
đoạn” là đức hạnh. Trước hết,
quý vị phải đoạn hết phiền não, sau đấy
mới có thể học pháp môn. Nếu phiền não chưa
đoạn, quý vị tu học pháp môn sẽ xen tạp phiền
não, rất khó thành tựu. Do vậy, thâm nhập một môn,
trường thời huân tu là gì vậy? Là đoạn phiền
não; dùng một bộ kinh, dùng phương pháp này để
đoạn phiền não. Đối với tám vạn bốn
ngàn pháp môn, dùng kinh giáo này, quý vị đọc mỗi ngày,
giảng mỗi ngày, dùng biện pháp này, tâm quý vị sẽ
định. Một bộ, tâm sẽ định, càng giảng,
càng thuần thục, tâm càng định. Định sanh Huệ,
từ một bộ kinh mà đắc tâm thanh tịnh và tâm
bình đẳng. Chỉ cần đạt được
hai thứ ấy sẽ khai ngộ. Sau khi ngộ sẽ
như thế nào? Hết thảy các pháp môn hễ tiếp
xúc bèn thông suốt.
Vì thế,
Long Thọ Bồ Tát đã nêu gương cho chúng ta: Lão nhân
gia chứng đắc Sơ Địa Bồ Tát. Sơ
Địa trong Biệt Giáo giống Sơ Trụ trong Viên Giáo.
Tại Trung Quốc, nói tới những vị đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì vị
đại biểu trọn vẹn nhất của Trung Quốc
là Huệ Năng đại sư, Long Thọ Bồ Tát chứng
đắc cùng một cảnh giới như thế đó.
Thuở đức Thế Tôn tại thế, giảng kinh bốn
mươi chín năm, Long Thọ Bồ Tát dùng bao nhiêu thời
gian để học xong toàn bộ hết thảy các kinh
do đức Phật đã nói? Ba tháng! Đối với cái
gọi là Đại Tạng Kinh hiện thời, Ngài học
xong trong ba tháng. Vì sao Ngài học nhanh như vậy? Quý vị
đọc Lục Tổ Đàn Kinh sẽ hiểu rõ. Quý vị
thấy Lục Tổ Đàn Kinh có chép một câu chuyện,
trong Phật môn gọi là “công
án”, tức là thí dụ điển hình. Thiền sư Pháp
Đạt học kinh Pháp Hoa, đến gặp Lục Tổ,
khi lễ bái đầu chẳng chạm đất. Lục
Tổ thấy Sư lạy Tam Bảo mà đầu vẫn
chẳng chạm sát đất, bèn đứng dậy hỏi
Sư: “Ông có điều gì đáng để kiêu ngạo vậy?”
Nói theo cách hiện thời, ngươi có cái gì đáng để
ngông nghênh như thế? Lễ bái mà đầu chẳng chạm
sát đất. Sư thưa: “Đã niệm tới ba ngàn bộ
kinh Pháp Hoa”. Kinh Pháp Hoa rất dài, ba ngàn bộ tối thiểu
là ba ngàn ngày. Nói cách khác là mười năm, mười
năm niệm một bộ kinh, đáng nên kiêu ngạo lắm
chứ! Lục Tổ bèn khảo Sư: “Kinh Pháp Hoa giảng
những gì?” Nói không được, bèn quay sang thỉnh giáo
Lục Tổ. Lục Tổ nói: “Ta không biết chữ, nên
chưa đọc kinh ấy, mà cũng chưa nghe qua”. Ngài
bảo: “Nếu ông đã niệm thuần thục như vậy,
hãy đọc cho ta nghe”. Kinh Pháp Hoa gồm hai mươi tám
phẩm, Sư đọc đến phẩm thứ hai là
phẩm Phương Tiện. Đọc đến phẩm
thứ hai, Lục Tổ nói: “Được rồi, chẳng
cần niệm nữa, ta biết hết rồi”. Ngài giảng
cho Sư nghe, Sư bèn khai ngộ, khi lễ bái, đầu
bèn dập sát đất. Quý vị hiểu: Người
khai ngộ có cần phải đọc toàn bộ hay
chăng? Không cần! Xem một quyển, đọc một
đoạn, bèn hiểu toàn bộ giảng về pháp nào,
hoàn toàn thông suốt! Vì thế, ba tháng đọc hết một
bộ Đại Tạng Kinh là thật, chẳng giả!
Thiền
Tông nói “ngộ hậu khởi
tu” (sau khi ngộ bắt đầu tu tập). Vì sao Tông
Môn và Giáo Hạ khác nhau? Giáo Hạ vừa
bắt đầu bèn học tập kinh giáo, còn Tông Môn thì chắc
chắn là chưa khai ngộ sẽ không cho quý vị xem
kinh, cũng không cho quý vị nghe gì khác, nhằm khiến cho
quý vị buông xuống, buông phân biệt xuống, buông chấp
trước xuống, khi ngộ sẽ là thanh tịnh, bình
đẳng, giác. Giác là giác ngộ; giác ngộ ắt phải
đoạn hết vô thỉ vô minh phiền não. Vô thỉ vô
minh phiền não là khởi tâm động niệm, lục
căn tiếp xúc cảnh giới lục trần chẳng
khởi tâm, không động niệm. Khởi tâm động
niệm còn chẳng có, đương nhiên chẳng có phân
biệt, chấp trước, đạt đến cảnh
giới này. Giác tánh, tức tự tánh giác hiện tiền;
hễ hiện tiền thì lục căn tiếp xúc cảnh
giới, vừa tiếp xúc bèn thông đạt, hiểu rõ, học
nhanh lắm! Lục Tổ chẳng biết chữ, chưa
từng nghe kinh. Nếu nói Ngài nghe kinh thì chính là lúc canh ba nửa
đêm, hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn giảng kinh
Kim Cang cho Ngài tại phương trượng thất, đương
nhiên là giảng đại ý. Giảng đến câu “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ
tâm” (đừng nên trụ vào đâu để sanh tâm),
Ngài bèn kiến tánh, nói ra cảnh giới gồm năm câu: “Hà kỳ tự tánh bổn tự
thanh tịnh, bổn bất sanh diệt, bổn tự cụ
túc, bổn bất dao động, năng sanh vạn pháp”
(nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng
sanh diệt, vốn tự trọn đủ, vốn chẳng
dao động, có thể sanh ra vạn pháp). Hòa thượng
Ngũ Tổ Nhẫn nói: “Được rồi, những
điều sau đó không cần phải nói nữa!” Trao y
bát cho Ngài, giục Ngài hãy đi cho nhanh, vì sao phải đi?
[Sẽ bị] người khác ganh ghét, chướng ngại,
chẳng phục. Người khác hằng ngày nghe kinh tại
giảng đường, hằng ngày tọa Thiền trong Thiền
Đường, đều chẳng được truyền
y bát. Thế mà gã này đến đây, chưa từng vào Thiền
Đường một ngày nào, cũng chẳng tới giảng
đường bữa nào. Ngũ Tổ chỉ giao cho hắn
giã gạo, bửa củi trong phòng xay xát, làm suốt tám
tháng, kết quả là y bát bị hắn ôm đi. Cho nên chẳng
có ai phục. Đến hôm sau, họ truy tìm khắp
nơi, toan bắt Ngài về. Phật, Bồ Tát gia hộ, Ngài
ẩn núp trong phường thợ săn mười
lăm năm. Mười lăm năm khiến mọi
người quên dần chuyện này, lúc ấy mới xuất
hiện.
Trên
đường lánh nạn, tại thôn Tào Hầu, Sư gặp
tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng, bà này thọ trì kinh Đại
Bát Niết Bàn. Kinh Đại Bát Niết Bàn có phân lượng
lớn, có hai phiên bản, một bản là bốn
mươi quyển, bản kia gồm ba mươi sáu quyển.
Huệ Năng đại sư lúc ấy hai mươi bốn
tuổi, khi mới vừa bỏ trốn, còn chưa đến
chỗ phường thợ săn, tại thôn Tào Hầu gặp
vị tỳ-kheo-ni này, nghe bà ta niệm kinh Niết Bàn. Nghe
xong, bèn giảng giải cho bà ta nghe, vị tỳ-kheo-ni ấy
bội phục năm vóc sát đất. Giảng quá hay, giảng
đến mức bà ta khai ngộ. Bà ta cũng là “nhất
tâm thọ trì, thâm nhập một môn, trường thời
huân tu”, nên đắc tam-muội, khi Tổ vừa giảng
bèn khai ngộ. Cầm kinh điển hướng về Lục
Tổ thỉnh giáo, Lục Tổ nói: “Ta không biết chữ”.
Bà ta hỏi: “Ngài không biết chữ, sao có thể giảng
được ý nghĩa?” Tổ nói: “Chẳng dính dáng gì đến
văn tự!” Chúng ta chớ nên không hiểu, đúng là chẳng
dính dáng! Vì thế, cổ nhân thâm nhập một môn, trường
thời huân tu, ở đây có đạo lý to lớn! Tại
Trung Quốc, không chỉ học Phật là như thế, mà
học Đạo, học Nho cũng đều là như thế.
Thời cổ, trường tư thục dạy học
trò, điều quan trọng là khơi gợi, phát khởi ngộ
tánh của trò, coi đó là điều quan trọng nhất,
những điều khác đều là hạng hai, hạng
ba! Xếp ngộ tánh vào bậc nhất, chớ nên ngăn
lấp ngộ tánh của người ta. Con người hiện
thời không hiểu [chuyện này]. Hôm nay đã hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment