"Người đời do tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng thì lành tâm thì ác, tham sân
tật đố, siểm nịnh, ngã mạn, xâm phạm người hại vật, tự khai tri kiến chúng
sanh..."
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543
Phẩm
Thứ Bảy: Cơ Duyên
DỊCH
Tổ từ được pháp ở Huỳnh Mai, về đến
Thiều Châu, thôn Tào Hầu, mọi người đều không biết. Có một nho sĩ là Lưu Chí
Lược kính trọng Ngài lắm. Chí Lược có người cô làm Ni tên là Vô Tận Tạng,
thường tụng kinh Đại Niết-bàn, Tổ nghe qua liền biết được diệu nghĩa, mới vì cô
Ni giải nói. Ni cầm quyển kinh hỏi chữ. Tổ bảo:
Chữ thì không biết,
nghĩa tức mời hỏi.
Cô Ni nói:
Chữ còn không biết, sao
có thể hiểu nghĩa?
Tổ bảo:
Diệu lý của Chư Phật chẳng có quan hệ đến văn tự.
Cô Ni kinh lạ mới bảo khắp hàng kỳ đức(1) trong thôn rằng:
Đây là hàng tu sĩ
có đạo, nên thỉnh cúng dường.
Khi ấy có cháu
bốn đời của Ngụy Võ Hầu tên là Tào Thúc Lương và dân cư trong làng đua nhau đến
chiêm lễ Tổ. Khi ấy chùa cổ Bảo Lâm, từ cuối đời Tùy bị binh lửa làm tàn phế,
mới y nơi nền cũ dựng lại ngôi chùa, mời Tổ trụ trì ở đó, không bao lâu thành
một ngôi chùa rất trang nghiêm. Tổ ở đó hơn chín tháng lại bị bọn ác đuổi theo,
Tổ bèn trốn đến trước núi, bị họ phóng hỏa, đốt cỏ cây, Tổ ẩn thân vào trong kẹt
đá được khỏi, trên đá ngày nay dấu Tổ ngồi kiết-già và vết nếp y của Tổ vẫn còn,
nhân đó gọi là hòn đá tị nạn. Tổ nhớ Ngũ Tổ dạy đến Hoài và Hội dừng ẩn, Ngài
mới ẩn ở hai ấp ấy.
]
Tăng Pháp Hải, người quê ở Khúc Giang, Thiều Châu, ban đầu đến tham vấn Tổ, hỏi
rằng:
Tức tâm tức Phật, cúi
xin Ngài chỉ dạy.
Tổ bảo:
Niệm trước chẳng sanh
tức tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật; thành tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả
tướng tức Phật, nếu tôi nói cho đủ, cùng kiếp cũng không hết, hãy lắng nghe tôi
nói kệ:
Tức tâm là tuệ,
Tức Phật là định,
Định tuệ bình đẳng,
Trong ý thanh tịnh.
Ngộ pháp môn này,
Do ông tập tánh,
Dụng vốn không sanh,
Song tu là chánh.
Tức Phật là định,
Định tuệ bình đẳng,
Trong ý thanh tịnh.
Ngộ pháp môn này,
Do ông tập tánh,
Dụng vốn không sanh,
Song tu là chánh.
(Tức tâm danh tuệ,
Tức Phật nãi định,
Định tuệ đẳng đẳng,
Ý trung thanh tịnh.
Ngộ thử pháp môn,
Do nhữ tập tánh,
Dụng bản vô sanh,
Song tu thị chánh.)
Tức Phật nãi định,
Định tuệ đẳng đẳng,
Ý trung thanh tịnh.
Ngộ thử pháp môn,
Do nhữ tập tánh,
Dụng bản vô sanh,
Song tu thị chánh.)
Ngài Pháp Hải ngay lời
đó liền đại ngộ, làm bài kệ tán thán:
Tức tâm nguyên là Phật,
Chẳng ngộ mà tự khinh,
Con biết nhân định tuệ,
Đồng tu lìa các vật.
Chẳng ngộ mà tự khinh,
Con biết nhân định tuệ,
Đồng tu lìa các vật.
(Tức tâm nguyên thị Phật,
Bất ngộ nhi tự khuất,
Ngã tri định tuệ nhân,
Song tu ly chư vật.)
Bất ngộ nhi tự khuất,
Ngã tri định tuệ nhân,
Song tu ly chư vật.)
]
Tăng tên là Pháp Đạt, người ở Hồng Châu, xuất gia lúc bảy tuổi, thường tụng
kinh Pháp Hoa, đến lễ Tổ mà đầu không sát đất. Tổ mới quở:
Lễ mà đầu không sát
đất, chi bằng đừng lễ, trong tâm ông ắt có một vật, vậy ông chứa chất sự nghiệp
gì?
Pháp Đạt thưa:
Tôi tụng kinh Pháp Hoa
đã đến ba ngàn bộ.
Tổ bảo:
Nếu ông tụng đến muôn
bộ, được ý kinh mà chẳng cho là hơn, ắt cùng với ta sánh vai, nay ông mang sự
nghiệp này, trọn không biết lỗi, nghe ta nói kệ:
Lễ cốt chặt cờ mạn,
Sao đầu không sát đất?
Có ngã tội liền sanh,
Quên công phước vô tỉ.
Sao đầu không sát đất?
Có ngã tội liền sanh,
Quên công phước vô tỉ.
(Lễ bản chiết mạn tràng,
Đầu hề bất chí địa,
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phúc vô tỉ.)
Đầu hề bất chí địa,
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phúc vô tỉ.)
Tổ lại hỏi: Ông tên gì?
Pháp Đạt thưa: Tên Pháp
Đạt.
Tổ bảo: Ông tên Pháp
Đạt mà đâu từng đạt pháp.
Lại nói bài kệ:
Nay ông tên Pháp Đạt,
Chuyên tụng chưa từng thôi,
Tụng rỗng chỉ theo tiếng,
Sáng tâm hiệu Bồ-tát.
Nay ông vì có duyên,
Nay tôi vì ông nói,
Chỉ tin Phật không lời,
Hoa sen từ miệng phát.
Chuyên tụng chưa từng thôi,
Tụng rỗng chỉ theo tiếng,
Sáng tâm hiệu Bồ-tát.
Nay ông vì có duyên,
Nay tôi vì ông nói,
Chỉ tin Phật không lời,
Hoa sen từ miệng phát.
(Nhữ kim danh Pháp Đạt,
Cần tụng vi hưu yết,
Không tụng đãn tuần thanh,
Minh tâm hiệu Bồ-tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tùng khẩu phát.)
Cần tụng vi hưu yết,
Không tụng đãn tuần thanh,
Minh tâm hiệu Bồ-tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tùng khẩu phát.)
Ngài Pháp Đạt nghe kệ
hối hận, tạ lỗi thưa:
Từ nay về sau con sẽ
khiêm cung đối với tất cả. Đệ tử tụng kinh Pháp Hoa mà chưa hiểu được nghĩa
kinh, tâm thường có nghi, Hòa thượng là bậc trí tuệ rộng lớn, cúi mong lược nói
nghĩa lý trong kinh.
Tổ bảo:
Pháp Đạt, pháp tức rất
thâm đạt mà tâm ông chẳng đạt, kinh vốn là không nghi mà tâm ông khởi nghi. Ông
tụng kinh này, lấy cái gì làm tông?
Pháp Đạt thưa:
Học nhân căn tánh ám
độn, từ trước đến nay chỉ y văn mà tụng niệm, đâu có biết tông thú.
Tổ bảo:
Tôi không biết chữ, ông
thử lấy kinh tụng một biến, tôi sẽ vì ông giải nói.
Pháp Đạt liền to tiếng
tụng kinh, đến phẩm Thí Dụ, Tổ bảo:
Dừng! Kinh này nguyên
lai lấy nhân duyên ra đời làm tông, dù nói nhiều thứ thí dụ cũng không vượt qua
chỗ này. Sao là nhân duyên? Kinh nói chư Phật Thế Tôn chỉ có một đại sự nhân
duyên mà xuất hiện ở đời, một đại sự đó là Tri kiến Phật. Người đời do mê bên
ngoài nên chấp tướng, mê bên trong nên chấp không. Nếu hay nơi tướng mà lìa tướng,
nơi không mà lìa không thì trong ngoài chẳng mê, nếu ngộ được pháp này, một niệm
tâm khai, ấy là khai Tri kiến Phật. Phật tức là giác, phân làm bốn môn: Khai
giác tri kiến, Thị giác tri kiến, Ngộ giác tri kiến, Nhập giác tri kiến. Nếu
nghe khai thị liền hay ngộ nhập tức là giác tri kiến, chân tánh xưa nay mà được
xuất hiện. Ông dè dặt chớ hiểu lầm ý kinh, nghe trong kinh nói khai thị ngộ
nhập rồi tự cho là Tri kiến của Phật, chúng ta thì vô phần. Nếu khởi cái hiểu
này tức là chê bai kinh, hủy báng Phật vậy. Phật kia đã là Phật rồi, đã đầy đủ
tri kiến, cần gì phải khai nữa. Nay ông phải tin Phật tri kiến đó chỉ là Tự tâm
của ông, lại không có Phật nào khác; vì tất cả chúng sanh tự che phủ cái quang
minh, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên (với ngoại cảnh), trong tâm thì lăng
xăng, cam chịu lôi cuốn, liền nhọc đức Thế Tôn kia từ trong tam-muội mà dậy,
dùng bao nhiêu phương tiện nói đến đắng miệng, khuyên bảo khiến các ông buông
dứt chớ hướng ra ngoài tìm cầu thì cùng Phật không hai, nên nói khai Phật tri kiến.
Tôi cũng khuyên tất cả người nên thường khai Tri kiến Phật ở trong tâm của
mình. Người đời do tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng thì lành tâm thì ác, tham sân
tật đố, siểm nịnh, ngã mạn, xâm phạm người hại vật, tự khai tri kiến chúng
sanh. Nếu hay chánh tâm, thường sanh trí tuệ, quán chiếu tâm mình, dừng ác làm
lành, ấy là tự khai Tri kiến Phật. Ông phải mỗi niệm khai Tri kiến Phật, chớ
khai tri kiến chúng sanh, khai Tri kiến Phật tức là xuất thế, khai tri kiến
chúng sanh tức là thế gian. Nếu ông chỉ nhọc nhằn chấp việc tụng niệm làm công
khóa thì nào khác con trâu ly mến cái đuôi của nó!
Pháp Đạt thưa:
Nếu vậy thì chỉ được
hiểu nghĩa, chẳng cần phải tụng kinh chăng?
Tổ bảo:
Kinh có lỗi gì? Đâu có
chướng ngại ông tụng, chỉ vì mê ngộ là tại người, tổn giảm hay lợi ích là do
mình, miệng tụng tâm hành tức là chuyển được kinh, còn miệng tụng mà tâm không
hành tức là bị kinh chuyển. Hãy nghe ta nói kệ đây:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng lâu không rõ nghĩa,
Cùng nghĩa trở thành thù.
Không niệm niệm là chánh,
Có niệm niệm là tà,
Có không đều chẳng chấp,
Hằng ngồi xe bạch ngưu.
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng lâu không rõ nghĩa,
Cùng nghĩa trở thành thù.
Không niệm niệm là chánh,
Có niệm niệm là tà,
Có không đều chẳng chấp,
Hằng ngồi xe bạch ngưu.
(Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp hoa,
Tụng kinh cửu bất minh,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà,
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.)
Tâm ngộ chuyển Pháp hoa,
Tụng kinh cửu bất minh,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà,
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.)
Pháp Đạt nghe kệ rồi bất giác rơi lệ dầm dề, ngay lời nói
liền đại ngộ và thưa với Tổ:
Pháp Đạt từ xưa đến nay thật chưa từng chuyển Pháp Hoa mà
bị Pháp Hoa chuyển.
Lại thưa:
Kinh nói các vị Đại Thanh văn cho đến Bồ-tát đều đem hết
khả năng suy nghĩ cùng chung nghĩ lường cũng không thể nào đo được trí của
Phật, ngày nay khiến kẻ phàm phu chỉ ngộ được Tự tâm liền gọi là Tri kiến Phật,
tự chẳng phải là hàng thượng căn nên chưa khỏi nghi báng. Lại kinh nói ba xe:
xe dê, xe nai, xe trâu cùng với xe trâu trắng khác nhau như thế nào? Cúi xin
Hòa thượng rủ lòng từ khai thị cho.
Tổ bảo:
Ý kinh rõ ràng,
ông tự mê trái. Các hạng người Tam thừa không thể đo lường được Trí tuệ Phật,
đó là lỗi tại chỗ đo lường. Dù ông đem tất cả sự suy nghĩ mà suy xét lại càng
thêm xa vời. Phật vốn vì phàm phu mà nói, chẳng phải vì Phật mà nói, lý này nếu
chẳng tin chắc thì sẽ như những vị Thanh văn trong hội Pháp Hoa thối tịch vậy.
Đâu chẳng biết đã ngồi trên xe bạch ngưu lại tìm ba xe ngoài cửa; huống là kinh
văn rõ ràng nhằm ông mà nói, chỉ một Phật thừa, không có thừa nào khác; hoặc là
hai, hoặc là ba cho đến vô số phương tiện, bao nhiêu nhân duyên thí dụ, ngôn từ
nói về pháp ấy đều vì một Phật thừa. Ông sao chẳng tỉnh, ba xe là giả, là việc
thuở xưa, một xe là thật, là việc hiện nay, chỉ dạy ông dẹp giả trở về thật,
sau khi trở về thật, thật cũng không tên. Nên biết có những của báu trọn thuộc
về ông, do ông thọ dụng, lại không khởi tưởng của cha, cũng không khởi tưởng
của con, cũng không khởi tưởng dùng, ấy gọi là trì kinh Pháp Hoa, từ kiếp này
đến kiếp khác, tay không rời quyển kinh, từ sáng đến tối không lúc nào chẳng
tụng kinh.
Pháp Đạt nhờ chỉ dạy,
vui mừng nhảy nhót liền nói kệ khen rằng:
Kinh tụng ba ngàn bộ,
Tào Khê một câu quên,
Chưa rõ ý xuất thế,
Đâu hết cuồng nhiều đời.
Dê, nai, trâu quyền lập,
Trước, giữa, sau khéo bày,
Ai biết trong nhà lửa,
Nguyên là vị vua Pháp.
Tào Khê một câu quên,
Chưa rõ ý xuất thế,
Đâu hết cuồng nhiều đời.
Dê, nai, trâu quyền lập,
Trước, giữa, sau khéo bày,
Ai biết trong nhà lửa,
Nguyên là vị vua Pháp.
(Kinh tụng tam thiên bộ,
Tào Khê nhất cú vong,
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh yết lụy sanh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thiết,
Sơ trung hậu thiện dương,
Thùy tri hỏa trạch nội,
Nguyên thị pháp trung vương.)
Tào Khê nhất cú vong,
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh yết lụy sanh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thiết,
Sơ trung hậu thiện dương,
Thùy tri hỏa trạch nội,
Nguyên thị pháp trung vương.)
Tổ bảo:
Từ nay về sau ông
mới đáng gọi là Tăng tụng kinh.
Pháp Đạt từ đây lãnh
hội huyền chỉ, cũng không ngừng tụng kinh.
]
Tăng Trí Thông, người quê ở An Phong thuộc Thọ Châu, ban đầu xem kinh Lăng-già
đến hơn một ngàn lần nhưng không hiểu được Tam thân Tứ trí, đến lễ Tổ cầu giải
nghĩa này. Tổ bảo:
Ba thân là Thanh tịnh
Pháp thân, đó là tánh của ông, Viên mãn Báo thân là trí của ông, Thiên bá ức
Hóa thân là hạnh của ông vậy. Nếu lìa Bản tánh riêng nói ba thân tức gọi có
thân mà không trí, nếu ngộ được ba thân không có Tự tánh tức là rõ bốn trí
Bồ-đề. Hãy lắng nghe tôi nói kệ:
Tự tánh đủ ba thân,
Phát minh thành tứ trí,
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Siêu nhiên lên quả Phật.
Nay tôi vì ông nói,
Tin chắc hằng không mê,
Chớ học người tìm cầu,
Trọn ngày nói Bồ-đề.
Phát minh thành tứ trí,
Chẳng lìa duyên thấy nghe,
Siêu nhiên lên quả Phật.
Nay tôi vì ông nói,
Tin chắc hằng không mê,
Chớ học người tìm cầu,
Trọn ngày nói Bồ-đề.
(Tự tánh cụ tam thân,
Phát minh thành tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết Bồ-đề.)
Phát minh thành tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết Bồ-đề.)
Ngài Trí Thông lại
thưa:
Về nghĩa Tứ trí có thể
nghe được chăng?
Tổ bảo:
Đã hiểu ba thân
liền rõ Tứ trí, sao lại hỏi ư? Nếu lìa ba thân riêng nói Tứ trí, đây gọi là có
trí mà không thân, tức đây có trí lại thành vô trí.
Ngài nói kệ:
Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm không bệnh,
Diệu quan sát trí thấy không công,
Thành sở tác trí đồng Viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển,
Chỉ dùng danh ngôn không Thật tánh,
Nếu ngay chỗ chuyển không dấy niệm,
Ngay nơi ồn náo hằng đại định.
Bình đẳng tánh trí tâm không bệnh,
Diệu quan sát trí thấy không công,
Thành sở tác trí đồng Viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển,
Chỉ dùng danh ngôn không Thật tánh,
Nếu ngay chỗ chuyển không dấy niệm,
Ngay nơi ồn náo hằng đại định.
(Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí kiến phi công,
Thành sở tác trí đồng Viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển,
Đãn dụng danh ngôn vô Thật tánh,
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình,
Phồn hưng vĩnh xử na-già định.)
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí kiến phi công,
Thành sở tác trí đồng Viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển,
Đãn dụng danh ngôn vô Thật tánh,
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình,
Phồn hưng vĩnh xử na-già định.)
(Như trên nói chuyển thức thành trí, trong kinh nói: Chuyển
năm thức trước làm Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm Diệu quan sát trí,
chuyển thức thứ bảy làm Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm Đại viên
cảnh trí. Tuy thức thứ sáu, thức thứ bảy là ở trong nhân chuyển, còn năm thức
trước và thức thứ tám là trên quả chuyển, chỉ chuyển tên mà không chuyển thể.)
Trí Thông liền đốn ngộ
được tánh trí nên trình kệ rằng:
Ba thân nguyên thể ta,
Tứ trí vốn tâm sáng,
Thân trí dung không ngại,
Ứng vật mặc tùy hình.
Khởi tu đều vọng động,
Giữ trụ trái chân tinh,
Diệu chỉ nhân Thầy rõ,
Trọn quên tên nhiễm ô.
Tứ trí vốn tâm sáng,
Thân trí dung không ngại,
Ứng vật mặc tùy hình.
Khởi tu đều vọng động,
Giữ trụ trái chân tinh,
Diệu chỉ nhân Thầy rõ,
Trọn quên tên nhiễm ô.
(Tam thân nguyên ngã thể,
Tứ trí Bản tâm minh,
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhiệm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chân tinh,
Diệu chỉ nhân Sư hiểu,
Chung vong nhiễm ô danh.)
Tứ trí Bản tâm minh,
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhiệm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chân tinh,
Diệu chỉ nhân Sư hiểu,
Chung vong nhiễm ô danh.)
] Tăng tên Trí Thường, người ở Quí Khê,
Tín Châu, thuở nhỏ xuất gia, chí cầu thấy tánh, một hôm đến tham lễ, Tổ hỏi:
Ông từ đâu đến, muốn cầu việc gì?
Sư thưa:
Học nhân gần đây
đến núi Bạch Phong ở Hồng Châu lễ Hòa thượng Đại Thông nhờ chỉ nghĩa kiến tánh
thành Phật, nhưng chưa giải quyết được hồ nghi, từ xa đến đây lễ Hòa thượng,
mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy.
Tổ bảo:
Kia có ngôn cú gì ông
thử nhắc lại xem.
Trí Thường thưa:
Trí Thường đến
nơi kia, trải qua ba tháng, chưa được chỉ dạy, vì lòng tha thiết vì pháp nên
một hôm riêng vào trượng thất thưa hỏi:
Thế nào là Bản
tâm, Bản tánh của con?
Ngài Đại Thông
nói rằng:
Ông thấy hư không
chăng?
Trí Thường đáp: Thấy!
Hòa thượng Đại
Thông hỏi:
Ông thấy hư không
có tướng mạo chăng?
Trí Thường đáp:
Hư không vô hình
mà có tướng mạo gì?
Ngài Đại Thông
bảo:
Bản tánh của ông
ví như hư không, trọn không một vật có thể thấy, ấy gọi là chánh kiến, không
một vật có thể biết ấy gọi là chân tri, không có xanh, vàng, dài, ngắn, chỉ
thấy bản nguyên thanh tịnh, giác thể tròn sáng tức gọi là thấy tánh thành Phật,
cũng gọi là Như Lai tri kiến.
Học nhân tuy nghe lời
này vẫn chưa giải quyết xong (điều nghi), cúi xin Hòa thượng chỉ dạy.
Tổ bảo:
Lời thầy kia nói vẫn
còn kiến tri nên khiến ông chưa rõ, nay tôi chỉ ông một bài kệ:
Chẳng thấy một pháp còn thấy không,
Giống như mây nổi che mặt nhật,
Chẳng biết một pháp giữ biết không,
Lại như hư không sanh điện chớp.
Tri kiến này bỗng nhiên dấy lên,
Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện,
Ông phải một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Giống như mây nổi che mặt nhật,
Chẳng biết một pháp giữ biết không,
Lại như hư không sanh điện chớp.
Tri kiến này bỗng nhiên dấy lên,
Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện,
Ông phải một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
(Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến,
Đại tợ phù vân già nhật diện,
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hoàn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện,
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.)
Đại tợ phù vân già nhật diện,
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hoàn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện,
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.)
Trí Thường nghe bài kệ rồi tâm ý hoát nhiên, bèn nói kệ
rằng:
Vô cớ khởi tri kiến,
Chấp tướng cầu Bồ-đề,
Tình còn một niệm ngộ,
Đâu vượt mê ngàn xưa.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu luống đổi dời,
Chẳng vào thất Tổ sư,
Mờ mịt chạy hai đầu.
Chấp tướng cầu Bồ-đề,
Tình còn một niệm ngộ,
Đâu vượt mê ngàn xưa.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu luống đổi dời,
Chẳng vào thất Tổ sư,
Mờ mịt chạy hai đầu.
(Vô đoan khởi tri kiến,
Trước tướng cầu Bồ-đề,
Tình tồn nhất niệm ngộ,
Ninh việt tích thời mê.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên lưu,
Bất nhập Tổ sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng đầu.)
Trước tướng cầu Bồ-đề,
Tình tồn nhất niệm ngộ,
Ninh việt tích thời mê.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên lưu,
Bất nhập Tổ sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng đầu.)
Trí Thường một hôm hỏi
Tổ:
Phật nói pháp ba thừa,
lại nói Tối thượng thừa, đệ tử chưa hiểu, cúi mong Ngài vì chỉ dạy.
Tổ bảo:
Ông xem nơi Bản
tâm mình, chớ có chấp Pháp tướng bên ngoài. Pháp không có bốn thừa, tâm người
tự có những sai biệt. Thấy nghe tụng đọc là Tiểu thừa, ngộ pháp hiểu nghĩa là
Trung thừa, y pháp tu hành là Đại thừa, muôn pháp trọn thông, muôn pháp đầy đủ,
tất cả không nhiễm, lìa các Pháp tướng, một cũng không được, gọi là Tối thượng
thừa. Thừa là nghĩa hành, không phải ở miệng tranh, ông phải tự tu chớ có hỏi
tôi, trong tất cả thời, Tự tánh tự như.
Trí Thường liền lễ tạ
và hầu Tổ đến trọn đời.
]
Tăng Chí Đạo, người quê ở Nam
Hải, Quảng Châu đến thưa hỏi, thưa rằng:
Học nhân từ xuất gia,
xem kinh Niết-bàn hơn mười năm chưa rõ được đại ý, cúi mong Hòa thượng thương
xót chỉ dạy.
Tổ bảo: Chỗ nào ông
chưa rõ?
Thưa rằng:
“Chư
hạnh vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”, nơi
đây con nghi ngờ.
Tổ hỏi: Ông nghi như
thế nào?
Thưa rằng:
Tất cả chúng sanh đều
có hai thân gọi là Sắc thân và Pháp thân. Sắc thân vô thường có sanh có diệt,
Pháp thân có thường không tri không giác. Kinh nói: “sanh diệt diệt rồi, tịch
diệt là vui”, chẳng biết thân nào tịch diệt, thân nào thọ vui? Nếu là Sắc thân,
khi Sắc thân tịch diệt, bốn đại phân tán, toàn là khổ, khổ không thể nói vui; nếu
Pháp thân tịch diệt tức đồng cỏ cây gạch đá, ai sẽ thọ vui? Lại Pháp tánh là thể
của sanh diệt, năm uẩn là dụng của sanh diệt, một thể năm dụng, sanh diệt là
thường, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì từ dụng nhiếp về thể, nếu cho lại
sanh tức là loài hữu tình không đoạn không diệt, nếu chẳng cho lại sanh tức là
hằng trở về tịch diệt thì đồng với vật vô tình, như thế ắt tất cả pháp bị sự
ngăn cấm của Niết-bàn, còn chẳng được sanh, có gì là vui?
Tổ quở:
Ông là Thích tử sao lại
tập theo ngoại đạo về đoạn kiến và thường kiến mà luận nghị về pháp Tối thượng
thừa. Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài Sắc thân riêng có Pháp thân, lìa sanh
diệt để cầu tịch diệt, lại suy luận Niết-bàn thường lạc nói có thân thọ dụng,
đây là chấp lẫn về sanh tử, đắm mê cái vui thế gian; nay ông nên biết, Phật vì tất
cả người mê nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả
pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét chết, niệm niệm đổi dời, không biết
là mộng huyễn hư giả, luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành
tướng khổ, trọn ngày tìm cầu. Phật vì thương những người này, mới chỉ dạy
Niết-bàn chân lạc, trong sát-na không có tướng sanh, trong sát-na không có
tướng diệt, lại không có sanh diệt có thể diệt, ấy là tịch diệt hiện tiền.
Chính ngay khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường
lạc. Vui này không có người thọ, cũng không có người chẳng thọ, há có tên một
thể năm dụng, huống là lại nói Niết-bàn ngăn cấm các pháp khiến hằng chẳng
sanh. Đây là ông chê Phật hủy pháp. Hãy nghe ta nói kệ:
Đại Niết-bàn vô thượng,
Tròn sáng thường lặng soi,
Phàm ngu gọi là chết,
Ngoại đạo chấp là đoạn.
Những người cầu Nhị thừa,
Cho đó là vô tác,
Trọn thuộc chỗ tình chấp,
Gốc sáu mươi hai chấp.
Dối lập tên hư giả,
Sao đạt nghĩa chân thật,
Chỉ có người vượt qua,
Thông suốt không thủ xả.
Do biết pháp năm uẩn,
Và ngã ở trong uẩn,
Ngoài hiện các sắc tượng,
Mỗi mỗi tướng âm thanh.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Không khởi chấp phàm Thánh,
Không khởi hiểu Niết-bàn,
Hai bên, ba mé dứt.
Thường hiện dụng các căn,
Mà chẳng khởi tưởng dụng,
Phân biệt tất cả pháp,
Không khởi tưởng phân biệt.
Kiếp hỏa đốt biển cả,
Gió thổi núi chạm nhau,
Chân thường tịch diệt vui,
Tướng Niết-bàn như thế.
Nay tôi gắng gượng nói,
Khiến ông bỏ tà kiến,
Ông chớ theo lời hiểu,
Nhận ông biết ít phần.
Tròn sáng thường lặng soi,
Phàm ngu gọi là chết,
Ngoại đạo chấp là đoạn.
Những người cầu Nhị thừa,
Cho đó là vô tác,
Trọn thuộc chỗ tình chấp,
Gốc sáu mươi hai chấp.
Dối lập tên hư giả,
Sao đạt nghĩa chân thật,
Chỉ có người vượt qua,
Thông suốt không thủ xả.
Do biết pháp năm uẩn,
Và ngã ở trong uẩn,
Ngoài hiện các sắc tượng,
Mỗi mỗi tướng âm thanh.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Không khởi chấp phàm Thánh,
Không khởi hiểu Niết-bàn,
Hai bên, ba mé dứt.
Thường hiện dụng các căn,
Mà chẳng khởi tưởng dụng,
Phân biệt tất cả pháp,
Không khởi tưởng phân biệt.
Kiếp hỏa đốt biển cả,
Gió thổi núi chạm nhau,
Chân thường tịch diệt vui,
Tướng Niết-bàn như thế.
Nay tôi gắng gượng nói,
Khiến ông bỏ tà kiến,
Ông chớ theo lời hiểu,
Nhận ông biết ít phần.
(Vô thượng Đại Niết-bàn,
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn.
Chư cầu Nhị thừa nhân,
Mục dĩ vi vô tác,
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bản.
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chân thật nghĩa,
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả.
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Bất khởi phàm Thánh kiến,
Bất tác Niết-bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn.
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Kiếp hoả thiêu hải để,
Phong cổ sơn tương kích,
Chân thường tịch diệt lạc,
Niết-bàn tướng như thị.
Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.)
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn.
Chư cầu Nhị thừa nhân,
Mục dĩ vi vô tác,
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bản.
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chân thật nghĩa,
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả.
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Bất khởi phàm Thánh kiến,
Bất tác Niết-bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn.
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Kiếp hoả thiêu hải để,
Phong cổ sơn tương kích,
Chân thường tịch diệt lạc,
Niết-bàn tướng như thị.
Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.)
Chí Đạo nghe kệ đại
ngộ, vui mừng nhảy nhót, làm lễ rồi lui.
]
Thiền sư Hành Tư sanh tại An Thành, Kiết Châu, họ Lưu, nghe pháp tịch Tào Khê
giáo hóa thạnh hành, Ngài thẳng đến tham lễ, bèn hỏi:
Phải làm việc gì
mà không rơi vào giai cấp?
Tổ hỏi: Ông từng làm
việc gì đến?
Ngài thưa: Thánh đế
cũng không làm.
Tổ bảo: Rơi vào giai
cấp nào?
Ngài thưa:
Thánh đế còn chẳng làm
thì có giai cấp nào?
Tổ thầm nhận đó, khiến
ngài Hành Tư thủ chúng. Một hôm Tổ bảo ngài Hành Tư:
Ông nên phân hóa một
nơi, không khiến cho đoạn dứt.
Ngài Hành Tư đã được
pháp bèn trở về Kiết Châu, trên núi Thanh Nguyên hoằng pháp, nối tiếp giáo hóa.
Sau Ngài tịch, thụy là Hoằng Tế thiền sư.
]
Thiền sư Hoài Nhượng quê ở Kim Châu, con nhà họ Đỗ, ban đầu đến yết kiến Quốc
sư An ở Tung Sơn. Quốc sư An mới khuyến khích Sư đến Tào Khê tham vấn. Khi Ngài
đến lễ bái Tổ, Tổ hỏi:
Ở đâu lại?
Ngài thưa: Ở Tung Sơn.
Tổ bảo: Đem được vật gì
lại?
Ngài thưa:
Nói giống một vật tức
chẳng trúng.
Tổ bảo: Lại có tu chứng
chăng?
Ngài thưa:
Tu chứng tức chẳng
không, nhiễm ô tức chẳng được.
Tổ bảo:
Chỉ cái chẳng nhiễm ô
này là chỗ chư Phật hộ niệm; ông đã như thế, ta cũng như thế. Tây thiên Tổ
Bát-nhã Đa-la sấm rằng: “dưới chân ông có một con ngựa tơ đạp chết người trong
thiên hạ”, ứng ở nơi tâm ông, không cần phải nói ra.
Ngài Hoài Nhượng hoát nhiên
khế hội, liền hầu hạ Tổ mười lăm năm, mỗi ngày càng thâm được sự huyền áo. Sau Ngài
đến núi Nam Nhạc, xiển dương Thiền tông, khi tịch Ngài được sắc ban hiệu Đại Tuệ
thiền sư.
]
Thiền sư Huyền Giác ở Vĩnh Gia, họ Đới, quê ở Ôn Châu, thuở nhỏ tập kinh luận, chuyên
về pháp môn chỉ quán của tông Thiên Thai, nhân xem kinh Duy-ma-cật phát minh
được tâm địa; chợt gặp đệ tử của Tổ là Huyền Sách thăm hỏi, cùng bàn chuyện sôi
nổi mà mỗi lời nói ra đều thầm hợp với chư Tổ. Huyền Sách hỏi:
Nhân giả được
pháp nơi Thầy nào?
Huyền Giác đáp:
Tôi nghe kinh luận
Phương đẳng mỗi vị đều có thầy truyền thừa, sau nơi kinh Duy-ma-cật ngộ được
Phật tâm tông mà chưa có người chứng minh.
Huyền Sách bảo:
Từ đức Phật Oai Âm
Vương về trước tức được, từ Phật Oai Âm Vương về sau, không thầy mà tự ngộ trọn
là thiên nhiên ngoại đạo.
Huyền Giác nói:
Xin nhân giả vì tôi
chứng minh.
Huyền Sách bảo:
Lời tôi nhẹ, ở Tào Khê
có Lục Tổ đại sư bốn phương nhóm họp về đều là những người thọ pháp. Nếu ông
chịu đi thì cùng tôi đồng đi.
Huyền Giác bèn đồng với
Huyền Sách đến tham vấn. Khi đến, Huyền Giác nhiễu Tổ ba vòng, chống tích
trượng mà đứng. Tổ bảo:
Phàm là Sa-môn phải đủ
ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ phương nào đến, sanh đại ngã mạn?
Huyền Giác thưa:
Sanh tử là việc lớn, vô
thường mau chóng.
Tổ bảo:
Sao chẳng thể nhận cái
vô sanh, liễu không mau ư?
Huyền Giác thưa:
Thể tức là vô sanh,
liễu vốn không có mau.
Tổ bảo: Như thế, như
thế!
Huyền Giác mới đầy đủ
oai nghi lễ bái, trong chốc lát liền cáo từ. Tổ bảo:
Trở về chóng vậy?
Huyền Giác thưa:
Vốn tự không động, há
có mau ư?
Tổ bảo: Ai biết chẳng
động?
Huyền Giác thưa:
Nhân giả tự sanh phân
biệt.
Tổ bảo: Ông rất được
cái ý vô sanh.
Huyền Giác thưa: Vô
sanh há có ý sao?
Tổ bảo: Nếu không ý thì
ai biết phân biệt?
Huyền Giác thưa:
Phân biệt cũng không
phải ý.
Tổ bảo: Lành thay! Hãy
dừng lại một đêm.
Thời nhân gọi là
Nhất túc giác. Sau Ngài có trước tác bộ Chứng Đạo Ca, thạnh hành ở đời. Thụy là
Vô Tướng đại sư, người đương thời xưng là Chân Giác.
]
Thiền giả Trí Hoàng, ban đầu tham học nơi Ngũ Tổ, tự cho đã được chánh thọ, mới
cất am ngồi thiền mãi trải qua hai mươi năm. Đệ tử của Tổ là Huyền Sách du phương
đến Hà Sóc nghe danh ngài Trí Hoàng, liền đến am hỏi:
Ông ở đây làm gì?
Trí Hoàng nói: Nhập
định.
Huyền Sách hỏi:
Ông nói nhập định là có tâm nhập hay không tâm nhập? Nếu
không tâm nhập thì tất cả vô tình cỏ cây ngói đá nên được định; nếu có tâm nhập
thì tất cả loài hữu tình hàm thức cũng nên được định.
Trí Hoàng bảo:
Tôi chính khi nhập định chẳng thấy có cái có tâm và không
tâm.
Huyền Sách nói:
Chẳng thấy có tâm và không tâm tức là thường định, sao lại
(nói) có xuất nhập, nếu có xuất nhập tức là không
phải Đại định.
Hoàng không trả lời được. Giây lâu mới hỏi:
Thầy kế thừa ai?
Huyền Sách nói:
Thầy tôi là Lục Tổ ở
Tào Khê.
Trí Hoàng hỏi:
Lục Tổ lấy gì làm Thiền
định?
Huyền Sách đáp:
Thầy tôi nói: “Diệu
trạm viên tịch, thể dụng như như, năm ấm vốn không, sáu trần chẳng phải có,
chẳng ra chẳng vào, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền không trụ, lìa trụ thiền
tịch, tánh thiền không sanh, lìa sanh thiền tưởng, tâm như hư không cũng không
có cái lượng của hư không.”
Trí Hoàng nghe lời nói
ấy bèn đi thẳng đến yết kiến Lục Tổ.
Lục Tổ hỏi: Nhân giả từ
đâu đến?
Trí Hoàng liền thuật
lại đầy đủ duyên trước.
Lục Tổ bảo:
Thật như lời đã nói.
Ông chỉ tâm như hư không mà chẳng có kiến chấp không, ứng dụng không ngăn ngại,
động và tịnh đều không tâm, tình phàm Thánh đều quên, năng sở đều dứt, tánh
tướng như như, không có lúc nào mà chẳng định.
Trí Hoàng ngay nơi đây
liền đại ngộ, hai mươi năm đã được tâm, trọn không ảnh hưởng. Đêm ấy ở Hà Bắc,
dân chúng nghe trong hư không có tiếng nói: “Thiền sư Hoàng ngày nay được đạo.”
Trí Hoàng sau đó lễ từ trở về Hà Bắc, khai hóa bốn chúng.
]
Có vị Tăng hỏi Tổ:
Ý chỉ Huỳnh Mai người
nào được?
Tổ đáp: Người hiểu Phật
pháp được!
Tăng thưa: Hòa thượng
lại được chăng?
Tổ bảo: Ta chẳng hiểu
Phật pháp.
Một hôm Tổ muốn
giặt lá y đã được truyền trao nhưng không có suối tốt để giặt, nhân Ngài đến
sau chùa khoảng năm dặm, thấy trên núi cây cối um tùm, khí tốt xoay quanh, Ngài
liền cắm cây tích trượng sâu xuống đất, nước liền phún lên theo tay Ngài, chứa
lại thành cái ao, Ngài liền quì gối giặt y trên đá. Chợt có một vị Tăng đến lễ
bái thưa rằng:
Phương Biện là người
Tây Thục, vừa rồi ở nước Nam Thiên Trúc, thấy ngài Đạt-ma đại sư dạy Phương
Biện phải chóng đến nước Đường là nơi tôi truyền Chánh pháp nhãn tạng và y
tăng-già-lê của Tổ Ca-diếp, thấy truyền đến đời thứ sáu nơi Thiều Châu ở Tào
Khê, ông nên đến đó chiêm lễ. Phương Biện từ xa đến, cúi mong được thấy y bát
đã được truyền.
Tổ bèn đưa ra cho ông
xem, liền hỏi:
Thượng nhân làm nghề gì?
Phương Biện đáp: Chuyên
nghề đắp tượng.
Tổ nghiêm sắc mặt lại
bảo: Ông thử đắp xem.
Phương Biện mờ mịt
không biết. Qua mấy ngày, ông đắp được tượng của Tổ, cao bảy tấc, rất đẹp đẽ.
Tổ cười, bảo:
Ông chỉ giỏi tánh đắp
mà chẳng giỏi tánh Phật.
Tổ đưa tay xoa đầu
Phương Biện nói:
Ông hằng vì người, trời
làm phước điền.
Tổ liền lấy y đền công,
Phương Biện lấy y chia làm ba phần: một phần đắp vào tượng, một phần thì ông
lưu lại, còn một phần thì gói chôn xuống đất, thề rằng: “Sau này, người nào đào
được y này là tôi tái sanh để trụ trì nơi đây dựng lập lại chùa chiền.”
(Đến đời Tống, niên
hiệu Gia Hựu năm thứ tám, có vị Tăng tên là Duy Tiên, khi sửa chùa, đào đất
được y như mới, còn tượng của Phương Biện đắp thì để ở chùa Cao Tuyền, cúng
kính cầu nguyện đều được như ý.)
]
Có vị Tăng đọc bài kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:
Ngọa Luân có tài năng,
Hay đoạn trăm tư tưởng,
Đối cảnh tâm chẳng khởi,
Bồ-đề ngày ngày lớn.
Hay đoạn trăm tư tưởng,
Đối cảnh tâm chẳng khởi,
Bồ-đề ngày ngày lớn.
(Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ-đề nhật nhật trưởng.)
Năng đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ-đề nhật nhật trưởng.)
Tổ nghe qua liền nói:
Bài kệ này chưa rõ được tâm địa, nếu y đây mà tu,
ấy là thêm trói buộc.
Nhân đó Tổ nói một bài kệ:
Huệ
Năng không có tài,
Chẳng đoạn trăm tư tưởng,
Đối cảnh tâm thường khởi,
Bồ-đề làm gì lớn.
Chẳng đoạn trăm tư tưởng,
Đối cảnh tâm thường khởi,
Bồ-đề làm gì lớn.
(Huệ
Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm sổ khởi.
Bồ-đề tác ma trưởng.)
Bất đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm sổ khởi.
Bồ-đề tác ma trưởng.)
(1)
Kỳ đức: Người lớn tuổi có đức.
GIẢNG 1
VÔ
TẬN TẠNG
Phẩm thứ bảy nói về
Cơ Duyên tức là cơ duyên của Tổ hóa độ.
Tổ từ được pháp ở Huỳnh
Mai, về đến Thiều Châu, thôn Tào Hầu, mọi người đều không biết. Có một nho sĩ
là Lưu Chí Lược kính trọng Ngài lắm. Chí Lược có người cô làm Ni tên là Vô Tận
Tạng, thường tụng kinh Đại Niết-bàn, Tổ nghe qua liền biết được diệu nghĩa, mới
vì cô Ni giải nói. Ni mới cầm quyển kinh hỏi chữ. Tổ bảo:
Chữ thì không biết,
nghĩa tức mời hỏi.
Cô Ni nói:
Chữ còn không biết, sao
có thể hiểu nghĩa?
Tổ bảo:
Diệu lý của chư Phật
chẳng có quan hệ đến văn tự.
Cô Ni kinh lạ mới bảo
khắp hàng kỳ đức (người lớn tuổi có đức) trong thôn rằng:
Đây là hàng tu sĩ có
đạo, nên thỉnh cúng dường.
Khi ấy có cháu bốn đời
của Ngụy Võ Hầu tên là Tào Thúc Lương và dân cư trong làng đua nhau đến chiêm
lễ Tổ. Khi ấy chùa cổ Bảo Lâm, từ cuối đời Tùy bị binh lửa làm tàn phế, mới y
nơi nền cũ dựng lại ngôi chùa, mời Tổ trụ trì ở đó, không bao lâu thành một
ngôi chùa rất trang nghiêm. Tổ ở đó hơn chín tháng lại bị bọn ác đuổi theo, Tổ bèn
trốn đến trước núi, bị họ phóng hỏa, đốt cỏ cây, Tổ ẩn thân vào trong kẹt đá được
khỏi, trên đá ngày nay dấu Tổ ngồi kiết-già và vết nếp y của Tổ vẫn còn, nhân
đó gọi là hòn đá tị nạn. Tổ nhớ Ngũ Tổ dạy đến Hoài và Hội dừng ẩn, Ngài mới ẩn
ở hai ấp ấy.
Đó là giai đoạn Ngài còn
đang lánh nạn, người ta theo đuổi kiếm để tiêu diệt Ngài, cũng là lúc Ngài nói
kinh Đại Niết-bàn cho Ni cô Vô Tận Tạng nghe.
GIẢNG 2
PHÁP
HẢI
Đến giai đoạn Tổ vào ở chùa và công khai truyền bá.
Thiền sư Pháp Hải:
Tăng Pháp Hải, người
quê ở Khúc Giang, Thiều Châu, ban đầu đến tham vấn Tổ, hỏi rằng:
Tức tâm tức Phật, cúi
xin Ngài chỉ dạy.
Tổ bảo:
Niệm trước chẳng sanh
tức tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật, thành tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả
tướng tức Phật, nếu tôi nói cho đủ, cùng kiếp cũng không hết.
Niệm trước đã chẳng sanh
thì làm sao có niệm sau, mà nói niệm sau chẳng diệt. Đúng ra phải hiểu như thế này:
Tâm trước không sanh, sau không diệt, tâm đó tức là Phật. Còn tâm niệm niệm
sanh diệt, đó không phải là Phật. Tâm nghĩ lành, tâm nghĩ thiện, thì niệm thiện
đó có phải là Phật chăng? Nên biết đến chỗ cứu kính niệm thiện còn phải bỏ, cho
nên nói tâm mà trước sau không dấy niệm, tâm đó tức là Phật vậy. “Thành tất cả
tướng tức là tâm, lìa tất cả tướng tức là Phật.” Chữ tâm trong câu này khác hơn
chữ tâm trong câu trước. Tỉ dụ như tôi nói: đây là cái ly, đây là chai dầu, đây
là đồng hồ v.v... như vậy thì thành tướng cái ly, thành tướng chai dầu, thành
tướng đồng hồ: tức là tâm vậy. Khi nói cái ly người ta biết tướng cái ly, khi
nói chai dầu người ta biết tướng chai dầu, khi nói đồng hồ người ta biết tướng
đồng hồ; cái gì đặt tên ly, tên chai dầu, tên đồng hồ? Đó là tâm. Tâm này là
tâm sanh diệt là tâm an danh cho tất cả tướng, nên nói “thành tất cả tướng tức
là tâm”. “Lìa tất cả tướng tức là Phật.” Tâm mà không dính các tướng, tâm đó
mới là Phật. Cho nên nói: Thành tất cả tướng là tâm, đó là tâm sanh diệt, còn
lìa tất cả tướng thì tâm đó mới là Phật.
Hãy lắng nghe tôi nói
kệ:
Tức tâm danh tuệ,
Tức Phật nãi định,
Định tuệ đẳng đẳng,
Ý trung thanh tịnh.
Ngộ thử pháp môn,
Do nhữ tập tánh,
Dụng bản vô sanh,
Song tu thị chánh.
Tức Phật nãi định,
Định tuệ đẳng đẳng,
Ý trung thanh tịnh.
Ngộ thử pháp môn,
Do nhữ tập tánh,
Dụng bản vô sanh,
Song tu thị chánh.
Tức tâm là tuệ, tức là cái tâm không sanh không diệt mà liễu
tri, tâm đó là tuệ. Tâm liễu tri đó không bị dấy động, không chạy theo cảnh, đó
là định. Tâm hằng định hằng tuệ, tâm đó tức là Phật. Tâm hằng liễu tri mà không
động, tâm đó là Phật: Tức tâm tức Phật là vậy. Hằng liễu tri mà không động gọi
là định tuệ song tu. Nếu ngồi chú tâm vào một cảnh nào cho được định, rồi từ
định phát sáng ra gọi là tuệ, đó là định tuệ khác biệt. Còn ở đây Lục Tổ dạy định
và tuệ đồng thời không có hai, không có cách biệt.
Ngài Pháp Hải ngay lời
đó liền đại ngộ, làm bài kệ tán thán:
Tức tâm nguyên thị Phật,
Bất ngộ nhi tự khuất,
Ngã tri định tuệ nhân,
Song tu ly chư vật.
Bất ngộ nhi tự khuất,
Ngã tri định tuệ nhân,
Song tu ly chư vật.
Bài kệ này cho chúng ta thấy ngài Pháp Hải đã ngộ.
Tức tâm nguyên là Phật, vì không ngộ nên tự thối khuất, tự lui, tự khinh mình, cho
mình là dở nên nói: Thôi mình là chúng sanh, bao giờ thành Phật! Nhưng không
ngờ chính tâm mình là Phật. Bây giờ con hiểu được cái nhân định tuệ rồi, định
là tâm không động, tuệ là hằng liễu tri; con hiểu được điều này rồi, nên đồng
tu định tuệ lìa các vật. Như vậy là Ngài đã ngộ, đã được vào nhà của Tổ rồi.
GIẢNG 3
PHÁP
ĐẠT
Thiền sư Pháp Đạt:
Tăng tên là Pháp Đạt,
người ở Hồng Châu, xuất gia lúc bảy tuổi, thường tụng kinh Pháp Hoa, đến lễ Tổ
mà đầu không sát đất. Tổ mới quở:
Lễ mà đầu không sát
đất, chi bằng đừng lễ, trong tâm ông ắt có một vật, vậy ông chứa chất sự nghiệp
gì?
Pháp Đạt thưa:
Tôi tụng kinh Pháp Hoa
đã đến ba ngàn bộ.
Nếu chúng ta tụng kinh
Pháp Hoa đến ba ngàn bộ chắc lạy đầu không sát đất! Tại sao lạy đầu không sát
đất, vì là lễ gượng chớ không tin người mình lạy có phước hơn mình, cho nên lễ
mà chưa thật kính.
Tổ bảo:
Nếu ông tụng đến muôn
bộ, được ý kinh mà chẳng cho là hơn, ắt cùng với ta sánh vai, nay ông mang sự
nghiệp này, trọn không biết lỗi, nghe ta nói kệ:
Lễ bản chiết mạn tràng,
Đầu hề bất chí địa,
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phúc vô tỉ.
Đầu hề bất chí địa,
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phúc vô tỉ.
Lễ là cốt chặt cờ ngã mạn, tại sao đầu không sát đất? Có ngã thì tội liền
sanh, quên công thì phước vô tỉ. Tổ dạy: Nếu ông tụng kinh đến muôn bộ, hiểu rõ
ý kinh mà không thấy mình hơn thiên hạ, đó là bằng với ta. Nếu ông tụng kinh
đến ba ngàn bộ mà thấy hơn người, là ông mang sự nghiệp lỗi lầm mà không biết.
Như vậy chúng ta mới thấy người ngồi nhận cho người ta lễ là vì người học đạo,
muốn cho họ tăng trưởng phước đức, dẹp trừ bản ngã, vì ngã là gốc của tội lỗi.
Vì vậy trước người có đức hạnh hơn mình mà không kính không lễ, tỏ ra mình ngã
mạn thì tội lỗi khi nào mới hết! Người ngồi nhận lễ là tạo cơ duyên cho người
học đạo dẹp trừ bản ngã, chớ có sung sướng lợi ích chi đâu. Nhiều người không
hiểu nói ngồi cho người ta lễ coi bộ hãnh diện, sự thật đó chỉ là vì người mà
thôi. Lại nữa trong khi người ta lễ, nếu mình sanh tâm tự cao tự đại đó là tổn đức,
là mình có tội rồi. Cho nên khi nhận lễ mình phải nhiếp tâm nhiếp niệm, chỉ vì
lợi ích cho người học đạo mà thôi. Vì thế Tổ bảo: Lạy là cốt chặt cờ ngã mạn,
nếu lạy mà đầu không sát đất tức là lạy mà còn thấy mình hơn, thì lạy làm chi!
Tổ dạy tiếp: “Có ngã thì tội liền sanh, quên công thì phước vô tỉ.” Người
tu vừa có ngã là có tội, nếu quên công của mình thì phước không biết bao nhiêu
mà kể. Nhưng người tu hiện nay nếu được chút công liền khoe: Năm nay tôi ăn
chay trong một tháng được mười ngày, hay là mỗi đêm tôi tụng được một phẩm Pháp
Hoa, như vậy trong mấy năm nay tôi tụng tất cả là bao nhiêu quyển v.v... Như
vậy có gọi là quên công chăng? Cho nên chúng ta tu mà vướng vào hình thức, càng
vướng hình thức chừng nào thì ngã càng to chừng nấy; người tu nhiều, ngã lớn,
là tại chỗ đó. Tu niệm Phật cũng vậy, tính chuỗi để hơn người. Mỗi ngày niệm
được bao nhiêu chuỗi thì ghi vào sổ, đến cuối năm đem hoa sen đến để thầy phết
đỏ, rồi so sánh với bạn bè xem ai được nhiều phết đỏ hơn v.v... Người tu mà
nặng về hình thức cho mình tu cao hơn người, nên càng tu thì ngã càng to. Có
ngã là si, bởi vì thân là tướng duyên hợp hư giả, các tâm niệm là bóng dáng của
sáu trần hư giả, thân và tâm đều là hư giả, mà chúng ta tô điểm cho nó to lên, chẳng
phải si là gì? Ví dụ như có một khúc gỗ mục, có người chạm giống hình người,
lại phết sơn lên cho dễ coi, có người đi ngang thấy và khen: chà người này đẹp
quá, rồi đem vòng vàng đến đeo vào để tô điểm cho người đẹp, đó là tỉnh hay mê?
Khúc gỗ mục mà không biết, lại cho là người, đó là cái lầm thứ nhất. Lại tô
điểm vòng vàng cho nó, đó là cái lầm thứ hai. Cũng như vậy, thân là tướng duyên
hợp hư giả mà không biết, là lỗi thứ nhất. Còn chấp tu nhiều phước lớn hơn
người, là lỗi thứ hai... Cho nên người tu phải hiểu thật rõ thì việc tu mới
không vướng kẹt. Chúng ta tu cũng giống như ngài Pháp Đạt vậy, chỉ nhớ mình
tụng được rất nhiều bộ kinh, nên đến với ai cũng ngưỡng đầu. Như ngài Pháp Đạt
biết Tổ là lớn thì ráng lạy, chớ ngầm trong bụng không nhận Tổ hơn mình, cho
nên bị Tổ quở.
Tổ lại hỏi: Ông tên gì?
Pháp Đạt thưa: Tên Pháp Đạt.
Tổ bảo:
Ông tên Pháp Đạt mà đâu từng đạt pháp.
Lại nói bài kệ:
Nhữ kim danh Pháp Đạt,
Cần tụng vị hưu yết,
Không tụng đãn tuần thanh,
Minh tâm hiệu Bồ-tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tùng khẩu phát.
Cần tụng vị hưu yết,
Không tụng đãn tuần thanh,
Minh tâm hiệu Bồ-tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tùng khẩu phát.
Phật là chỗ vô ngôn, tin được như vậy thì hoa sen từ miệng phát. Tâm mà
trước không sanh, sau không diệt, tâm đó có nói gì đâu, vừa có lời nói là duyên
theo tâm sanh diệt rồi. Cho nên không dấy niệm thì không có ngôn từ, có dấy
niệm thì thành tiếng nói thì thầm bên trong, hoặc phát ra thành ngôn từ nơi
miệng. Vì vậy tất cả ngôn thuyết là do dấy niệm mà ra, nên Tổ nói: Nếu tin Phật
vô ngôn thì hoa sen từ miệng phát. Chúng ta hiện nay lấy việc tụng bằng ngôn
ngữ cho là đạo, như vậy tụng kinh chỉ theo tiếng suông thôi, thì bao giờ thấy
được tâm thật của mình!
Ngài Pháp Đạt nghe kệ hối hận, tạ lỗi thưa:
Từ nay về sau con sẽ khiêm cung đối với tất cả. Đệ tử tụng kinh Pháp
Hoa mà chưa hiểu được nghĩa kinh, tâm thường có nghi, Hòa thượng là bậc trí tuệ
rộng lớn, cúi mong lược nói nghĩa lý trong kinh.
Tổ bảo:
Pháp Đạt, pháp tức rất thâm đạt mà tâm ông chẳng đạt, kinh vốn là
không nghi mà tâm ông khởi nghi. Ông tụng kinh này, lấy cái gì làm tông?
Pháp Đạt thưa:
Học nhân căn tánh ám độn, từ trước đến nay chỉ y văn mà tụng niệm, đâu
có biết tông thú.
Tổ bảo:
Tôi không biết chữ, ông thử lấy kinh tụng một biến, tôi sẽ vì ông giải
nói.
Pháp Đạt liền to tiếng tụng kinh, đến phẩm Thí Dụ, Tổ bảo:
Dừng!
Thôi nghe bao nhiêu đó đủ rồi! Tổ nghe đến phẩm Thí Dụ là được ba phẩm:
phẩm Tự, phẩm Phương Tiện và phẩm Thí Dụ.
Kinh này nguyên lai lấy nhân duyên ra đời làm tông, dù nói nhiều thứ
thí dụ cũng không vượt qua chỗ này. Sao là nhân duyên? Kinh nói chư Phật Thế
Tôn chỉ có một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời, một đại sự đó là Tri kiến
Phật. Người đời do mê bên ngoài nên chấp tướng, mê bên trong nên chấp không.
Vì mê bên ngoài cho sự vật là thật, sự vật do duyên hợp không thật mà
thấy là thật nên chấp tướng này đẹp, tướng kia xấu, tướng này lớn, tướng kia
nhỏ; mê bên trong nên chấp không, vì không hiểu được tâm tánh của mình cho rằng
tâm tánh không có, nghĩa là không có cái Tâm chân thật.
Nếu hay nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không thì trong ngoài
chẳng mê, nếu ngộ được pháp này, một niệm tâm khai, ấy là khai Tri kiến Phật.
Phật là gì?
Phật tức là giác, phân làm bốn môn:
- Khai giác tri kiến (hay khai Phật tri kiến) tức là khai cái tri
kiến giác của mình.
- Thị giác tri kiến tức là chỉ cái giác tri kiến.
- Ngộ giác tri kiến.
- Nhập giác tri kiến.
Nếu nghe khai thị liền hay ngộ nhập tức là giác tri kiến, chân tánh
xưa nay mà được xuất hiện. Ông dè dặt chớ hiểu lầm ý kinh, nghe trong kinh nói
khai thị ngộ nhập rồi tự cho là Tri kiến của Phật, chúng ta thì vô phần. Nếu
khởi cái hiểu này tức là chê bai kinh, hủy báng Phật vậy. Phật kia đã là Phật
rồi, đã đầy đủ tri kiến, cần gì phải khai nữa. Nay ông phải tin Phật tri kiến
đó chỉ là Tự tâm của ông, lại không có Phật nào khác.
Khai thị là Phật khai thị tức là mở chỉ cái giác tri kiến, ngộ nhập là
chúng ta ngộ nhập cái giác tri kiến. Bản tánh của mình sẵn có từ xưa đến nay,
cái Chân tánh đó liền được xuất hiện. Ông dè dặt chớ hiểu lầm ý kinh, nghe
trong kinh nói “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” rồi nói khai tri kiến của
Phật, thị tri kiến của Phật, ngộ tri kiến của Phật, nhập tri kiến của Phật, còn
chúng ta thì vô phần, không biết gì hết. Nếu ông hiểu như vậy là chê bai kinh,
hủy báng Phật, vì Phật kia đã là Phật rồi, tức là đầy đủ tri kiến cần gì phải
khai nữa. Nay ông phải tin Phật tri kiến đó chỉ là Tự tâm của ông lại không có
Phật nào khác. Vì chúng ta không nhận ra cái Tri kiến Phật sẵn có nơi mình, cho
nên Phật mới khai thị cho chúng ta ngộ và nhập cái Tri kiến Phật của chúng ta; còn
Phật đã đầy đủ tri kiến rồi, cần gì phải khai thị nữa. Cho nên chúng
ta phải hiểu cho rõ là khai thị ngộ nhập Tri kiến Phật của chính mình vậy.
Vì tất cả chúng sanh tự che phủ cái quang minh, tham ái trần cảnh,
ngoài thì duyên (với ngoại cảnh), trong tâm thì lăng xăng, cam chịu lôi cuốn,
liền nhọc đức Thế Tôn kia từ trong tam-muội mà dậy, dùng bao nhiêu phương tiện
nói đến đắng miệng, khuyên bảo khiến các ông buông dứt chớ hướng ra ngoài tìm
cầu thì cùng Phật không hai, nên nói khai Phật tri kiến.
Vì chúng ta bên ngoài thì duyên theo cảnh, trong tâm thì rối loạn lăng
xăng, nên ánh sáng quang minh của chính mình bị che khuất. Vì vậy Phật dùng các
phương tiện nói đến đắng miệng khô môi, khuyên dứt chúng ta không chạy ra ngoài
tìm cầu, như vậy mới cùng Phật không hai, đó là khai Phật tri kiến.
Tôi cũng khuyên tất cả người nên thường khai Tri kiến Phật ở trong tâm
của mình. Người đời do tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng thì lành tâm thì ác, tham
sân tật đố, siểm nịnh, ngã mạn, xâm phạm người hại vật, tự khai tri kiến chúng
sanh. Nếu hay chánh tâm, thường sanh trí tuệ, quán chiếu tâm mình, dừng ác làm
lành, ấy là tự khai Tri kiến Phật.
Như vậy khai tri kiến chúng sanh là miệng lành mà tâm dữ, rồi tham lam,
tật đố, siểm nịnh, ngã mạn, hại người hại vật v.v... Còn khai Tri kiến Phật là
dứt ác làm lành, biết chánh tâm, thường hành trí tuệ, quán chiếu Tự tâm mình.
Ông phải mỗi niệm khai Tri kiến Phật, chớ khai tri kiến chúng sanh,
khai Tri kiến Phật tức là xuất thế, khai tri kiến chúng sanh, tức là thế gian.
Nếu ông chỉ nhọc nhằn chấp việc tụng niệm làm công khóa thì nào khác con trâu
ly mến cái đuôi của nó!
Tổ bảo: Nếu ông chỉ chấp tụng kinh nhiều làm công khóa thì khác nào con
trâu ly thích cái đuôi của nó. Trong sử nói: Có con trâu tên ly ngưu có cái
đuôi thật dài và đẹp. Con trâu thường hay dùng cái đuôi để đuổi ruồi và muỗi,
riêng con trâu ly cuốn cái đuôi nó lên mình, không dám dùng đuôi để đuổi ruồi
muỗi vì sợ quất đuôi lên mình rụng lông làm mất vẻ đẹp của cái đuôi đi, vì vậy
cái đuôi của nó trở thành vô dụng. Chúng ta tu cũng vậy, nếu chấp tụng kinh là
công khóa cho rằng tụng tức là tu, mà không tìm hiểu ý nghĩa của kinh để ứng
dụng tu hành, cũng giống con trâu ly kia vì yêu đuôi nên quấn nó trên mình,
không biết dùng đuôi vào việc hữu ích.
Pháp Đạt thưa:
Nếu vậy thì chỉ được hiểu nghĩa, chẳng cần phải tụng kinh chăng?
Tổ bảo:
Kinh có lỗi gì? Đâu có chướng ngại ông tụng, chỉ vì mê ngộ là tại
người, tổn giảm hay lợi ích là do mình, miệng tụng tâm hành tức là chuyển được
kinh, còn miệng tụng mà tâm không hành tức là bị kinh chuyển.
Chúng ta hiện nay là chuyển được kinh, hay là bị kinh chuyển? Nếu chúng
ta tụng kinh câu nào hiểu nghĩa câu nấy để ứng dụng tu hành, nhận được ý kinh
để dùng trong các hành động và tâm niệm của mình, đó là chuyển được kinh. Còn
nếu tụng kinh mà mê kinh, tụng bộ này qua bộ khác đến bỏ ăn bỏ ngủ, nghĩ rằng
tụng thật nhiều là có phước, đó là bị kinh chuyển. Đa số người thời nay bị kinh
chuyển mà không chuyển được kinh, cũng giống như con trâu ly yêu thích cái đuôi
của nó, rồi cái đuôi trở thành vô dụng vậy.
Hãy nghe ta nói kệ
đây:
Tâm
mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng kinh cửu bất minh,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà,
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng kinh cửu bất minh,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà,
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.
Tâm mê bị Pháp Hoa
chuyển, tâm ngộ chuyển được Pháp Hoa. Tụng kinh lâu mà không hiểu rõ nghĩa,
cùng với nghĩa trở thành thù, vì kinh nói một đàng, chúng ta làm một ngả. Phật
nói kinh Pháp Hoa để phá tan si mê ngã chấp, và dứt hết những tham sân si. Nhưng
hiện giờ kinh Pháp Hoa lại dễ làm cho người ta sanh lòng tham, lúc nào hết tiền
đem kinh ra tụng, tụng cho có phước có tiền nhiều, như vậy chẳng lẽ kinh Pháp
Hoa làm tăng trưởng lòng tham chúng ta sao? Chẳng phải cùng với nghĩa trở thành
thù là gì? Thành ra kinh dạy một đàng chúng ta làm một ngả, chẳng phải là thù
sao? Thật ra vì không hiểu được nghĩa nên cùng với kinh trở thành thù.
“Không niệm, niệm là chánh, có niệm, niệm là tà.”
Nghĩa là mỗi niệm dấy lên chúng ta duyên theo niệm là tà, niệm dấy lên buông được
nó là chánh, thành ra vô niệm đó là chánh, có niệm tức là tà, đến cứu kính cả
hai có và không đều chẳng chấp, mới hằng ngồi trên xe bạch ngưu. Xe bạch ngưu
là gì? Khi buông cả niệm lành niệm dữ mà hằng tri hằng giác, đó tức là Viên mãn
Báo thân Phật. Có niệm và không niệm đều buông hết chẳng chấp, mới hằng ngồi xe
bạch ngưu.
Pháp Đạt nghe kệ rồi
bất giác rơi lệ dầm dề, ngay lời nói liền đại ngộ và thưa với Tổ:
Pháp Đạt từ xưa đến
nay thật chưa từng chuyển Pháp Hoa mà bị Pháp Hoa chuyển.
Ngài Pháp Đạt bấy giờ
mới thú tội từ trước đến nay tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa mà chưa từng chuyển Pháp
Hoa, lại rõ ràng là bị Pháp Hoa chuyển, Ngài thấy rõ cái lầm mê của mình.
Lại thưa:
Kinh nói các vị Đại
Thanh văn cho đến Bồ-tát đều đem hết khả năng suy nghĩ cùng chung nghĩ lường
cũng không thể nào đo được trí của Phật, ngày nay khiến kẻ phàm phu chỉ ngộ
được Tự tâm liền gọi là Tri kiến Phật, tự chẳng phải là hàng thượng căn nên
chưa khỏi nghi báng.
Ngài Pháp Đạt thưa con
thấy rõ trong kinh nói, đem tất cả trí của Thanh văn như ngài Xá-lợi-phất và
tất cả trí Bồ-tát chung họp lại để suy nghĩ đo lường trí tuệ của Phật cũng
không bao giờ đo được. Hiện nay con là phàm phu, nếu nói con khai Tri kiến
Phật, con liền được Tri kiến Phật, như vậy con hơn những vị Thanh văn Bồ-tát
hay sao?
Lại kinh nói ba xe:
xe dê, xe nai, xe trâu cùng với xe trâu trắng khác nhau như thế nào? Cúi xin
Hòa thượng rủ lòng từ khai thị cho.
Tổ bảo:
Ý kinh rõ ràng, ông
tự mê trái. Các hạng người Tam thừa không thể đo lường được Trí tuệ Phật, đó là
lỗi tại chỗ đo lường. Dù ông đem tất cả sự suy nghĩ mà suy xét lại càng thêm xa
vời.
Chúng ta học kinh bị lầm nhiều chỗ,
trong kinh nói dù cho trăm ngàn muôn ức người cùng dồn tất cả trí tuệ như Xá-lợi-phất
để so lường trí Phật cũng không tới được, và dồn tất cả trí tuệ Bồ-tát so lường
trí Phật cũng không tới được! Chúng ta cứ nghĩ trí Phật là cao tột, trí của
Bồ-tát Thanh văn không thể tới được, chớ không ngờ lỗi tại chỗ so lường. Dù trí
của tất cả Bồ-tát Thanh văn hay trí của Phật đi nữa mà so lường cũng đều không
đúng với Tri kiến Phật, muốn đúng với Tri kiến Phật tất phải dừng những suy
nghĩ so lường đó. Vì vậy Tổ bảo phải buông cả hai niệm thiện và ác mới ngồi
trên xe bạch ngưu, tức là phải lặng tất cả niệm mới thấy Tri kiến Phật, càng suy
lường thì cách Phật càng xa.
Phật vốn vì phàm phu
mà nói, chẳng phải vì Phật mà nói, lý này nếu chẳng tin chắc thì sẽ như những
vị Thanh-văn trong hội Pháp Hoa thối tịch vậy. Đâu chẳng biết đã ngồi trên xe
bạch ngưu lại tìm ba xe ngoài cửa; huống là kinh văn rõ ràng nhằm ông mà nói,
chỉ một Phật thừa, không có thừa nào khác; hoặc là hai, hoặc là ba cho đến vô số
phương tiện, bao nhiêu nhân duyên thí dụ, ngôn từ nói về pháp ấy đều vì một
Phật thừa. Ông sao chẳng tỉnh, ba xe là giả, là việc thuở xưa, một xe là thật, là
việc hiện nay, chỉ dạy ông dẹp giả trở về thật, sau khi trở về thật, thật cũng
không tên. Nên biết có những của báu trọn thuộc về ông, do ông thọ dụng, lại
không khởi tưởng của cha, cũng không khởi tưởng của con, cũng không khởi tưởng
dùng, ấy gọi là trì kinh Pháp Hoa, từ kiếp này đến kiếp khác, tay không rời
quyển kinh, từ sáng đến tối không lúc nào chẳng tụng kinh.
Tổ bảo: Ông hỏi tôi ba
xe khác nhau chỗ nào để làm chi. Chủ yếu Phật nói trong kinh Pháp Hoa là một
Phật thừa, là một xe bạch ngưu thôi, còn nói ba xe là quyền, là phương tiện. Ba
xe là chuyện cũ thời xưa tạm lập, còn Nhất thừa là chuyện hiện giờ, trong kinh
Pháp Hoa Phật muốn chỉ dạy. Ông nên bỏ cái giả, trở về cái thật, cái thật cũng
nguyên không có tên, chỉ nên biết lúc đó tất cả của báu từ ông nhận dùng, đừng khởi
tưởng của cha của con, cũng không khởi tưởng dùng nữa. Bởi vì tưởng của cha là
có nhân, tưởng của con là có ngã; còn có ngã có nhân, rồi còn có dùng nữa tức
là còn cái thứ ba, như vậy là chưa hợp với kinh Pháp Hoa, bỏ được ba tưởng đó
mới đúng với kinh Pháp Hoa. Được như vậy mới gọi ông là người trì kinh Pháp Hoa.
Pháp Đạt nhờ chỉ dạy,
vui mừng nhảy nhót liền nói kệ khen rằng:
Kinh
tụng tam thiên bộ,
Tào Khê nhất cú vong,
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh yết lụy sanh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thiết,
Sơ trung hậu thiện dương,
Thùy tri hỏa trạch nội,
Nguyên thị pháp trung vương.
Tào Khê nhất cú vong,
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh yết lụy sanh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thiết,
Sơ trung hậu thiện dương,
Thùy tri hỏa trạch nội,
Nguyên thị pháp trung vương.
Kinh tụng đến ba ngàn bộ, đến Tào Khê một câu liền quên hết, không còn
chấp một bộ nào. Nếu chưa hiểu được ý chỉ xuất thế, thì đâu có hết được cái
điên cuồng nhiều đời. Xe dê, xe nai, xe trâu là quyền lập; trước, giữa, sau là
khéo nêu bày. Ai biết ngay ở trong nhà lửa nguyên là vị vua pháp. Ngay trong
nhà lửa tức là ngay trong thân tứ đại, ngũ uẩn đã có ông vua pháp ngồi sẵn
trong đó mà không ai biết. Chúng ta cứ tưởng khai thị Tri kiến Phật là Phật ở
ngoài, không ngờ ngay trong nhà lửa tức là ngay trong thân vô thường này có ông
vua chánh pháp tức là ông Phật ngồi ở trong sẵn sàng, không phải tìm kiếm nơi
đâu xa.
Tổ bảo:
Từ nay về sau ông mới đáng gọi là Tăng tụng kinh.
Pháp Đạt từ đây lãnh
hội huyền chỉ, cũng không ngừng tụng kinh.
GIẢNG 4
TRÍ
THÔNG
Thiền sư Trí
Thông:
Tăng Trí Thông, người
quê ở An Phong thuộc Thọ Châu, ban đầu xem kinh Lăng-già đến hơn một ngàn lần
nhưng không hiểu được Tam thân Tứ trí, đến lễ Tổ cầu giải nghĩa này. Tổ bảo:
Ba thân là Thanh tịnh
Pháp thân, đó là tánh của ông, Viên mãn Báo thân là trí của ông, Thiên bá ức
Hóa thân là hạnh của ông vậy.
Tổ dạy: Thanh tịnh Pháp
thân tức là Tự tánh thanh tịnh của mình, Viên mãn Báo thân tức là trí tuệ bất sanh
bất diệt của mình, Thiên bá ức Hóa thân tức là những hạnh lành của mình.
Nếu lìa Bản tánh riêng
nói ba thân tức gọi có thân mà không trí, nếu ngộ được ba thân không có Tự tánh
tức là rõ bốn trí Bồ-đề. Hãy lắng nghe tôi nói kệ:
Tự tánh cụ tam thân,
Phát minh thành tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết Bồ-đề.
Phát minh thành tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết Bồ-đề.
Tự tánh
đầy đủ ba thân, phát minh ra thành tứ trí. Chẳng lìa duyên thấy nghe hiện tại
này, siêu nhiên bước lên quả vị Phật. Nay tôi vì ông mà nói, tin chắc chắn hằng
không mê lầm, chớ học người tìm cầu bên ngoài, trọn ngày nói Bồ-đề mà chẳng
hiểu Bồ-đề là gì, trọn ngày nói ba thân tứ trí mà không biết ba thân tứ trí là
gì. Đến đây Tổ chỉ thẳng ba thân tứ trí có đủ nơi mình, nghĩa là ngộ được ba
thân liền phát minh thành tứ trí (vì ba thân là gốc của tứ trí), mà ba thân tứ
trí không rời cái thấy cái nghe hiện hữu nơi mình, nếu nhận được như vậy là
mình bước lên Phật địa.
Ngài Trí Thông lại
thưa:
Về nghĩa Tứ trí có thể
nghe được chăng?
Tổ bảo:
Đã hiểu ba thân liền rõ
Tứ trí, sao lại hỏi ư? Nếu lìa ba thân riêng nói Tứ trí, đây gọi là có trí mà
không thân, tức đây có trí lại thành vô trí.
Ngài nói kệ:
Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí kiến phi công,
Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển,
Đãn dụng danh ngôn vô Thật tánh,
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình,
Phồn hưng, vĩnh xử na-già định.
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí kiến phi công,
Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển,
Đãn dụng danh ngôn vô Thật tánh,
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình,
Phồn hưng, vĩnh xử na-già định.
Tổ bảo: Đại viên cảnh trí tức là Tánh thanh tịnh của mình, Bình đẳng tánh
trí là tâm không bệnh tức là tâm không duyên theo bên này bên kia, Diệu quan
sát trí là làm tất cả mà không chấp ngã, không chấp công, cũng không chấp những
việc mình làm nhiều hay ít, Thành sở tác trí là đồng với Đại viên cảnh trí. Năm
thức trước với thức thứ tám, thức thứ sáu với thức thứ bảy là trên quả và nhân
chuyển, chỉ dụng danh ngôn mà không có Thật tánh. Nếu ngay chỗ chuyển mà không
dấy niệm, không có lưu tình, thì ngay nơi chỗ phồn hưng (là ồn náo) mà chúng ta
vẫn ở trong đại định Na-già.
(Như trên nói chuyển thức thành trí, trong kinh nói: Chuyển năm thức
trước làm Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm Diệu quan sát trí, chuyển
thức thứ bảy làm Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm Đại viên cảnh trí.
Tuy thức thứ sáu, thức thứ bảy là ở trong nhân chuyển, còn năm thức trước và
thức thứ tám là trên quả chuyển, chỉ chuyển tên mà không chuyển thể.)
Vì sao nói thức thứ sáu và thức thứ bảy là chuyển trong nhân, còn năm
thức trước và thức thứ tám là chuyển trên quả? Bởi vì khi chúng ta tu là tu
thức thứ sáu và thức thứ bảy, tức là chuyển trong nhân. Tỉ dụ khi mắt chúng ta
thấy sắc, ý liền chạy theo sắc mà phân biệt, cho nên có niệm yêu ghét. Muốn
chuyển ý thức phải làm sao? Tức phải xoay nó trở về, không để nó duyên theo
trần cảnh, gọi là phản quan hay là soi trở lại, đó là chuyển thức thứ sáu. Còn
thức thứ bảy cũng vậy, thức này hằng chấp ngã, muốn chuyển nó tức phải phá ngã
chấp. Khi chuyển thức thứ sáu và thức thứ bảy rồi, thì năm thức trước (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân thức) và thức thứ tám cũng theo đó mà chuyển, đó gọi là
chuyển trên quả, tức là tất cả chủng tử trong thức thứ tám lần lần tiêu sạch và
thức này chuyển thành Đại viên cảnh trí. Như vậy chủ yếu của sự tu hành là tu
ngay nơi thức thứ sáu và thức thứ bảy gọi là chuyển nhân, còn năm thức trước và
thức thứ tám không tu mà được chuyển gọi là chuyển quả.
Trí Thông liền đốn ngộ được tánh trí nên trình kệ rằng:
Tam thân nguyên ngã thể,
Tứ trí Bản tâm minh,
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhiệm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chân tinh,
Diệu chỉ nhân Sư hiểu,
Chung vong nhiễm ô danh.
Tứ trí Bản tâm minh,
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhiệm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chân tinh,
Diệu chỉ nhân Sư hiểu,
Chung vong nhiễm ô danh.
Khi ngộ rồi thấy ba thân
nguyên là thể của ta, tứ trí vốn là tâm sáng của ta, thân và trí dung nhau
không có ngại. Nếu nhận được ba thân tứ trí rồi thì ứng vật tùy hình tha hồ
không vướng mắc. Khởi niệm tu hành đều là vọng động, còn giữ trụ tức là kềm đè
nó xuống là không hợp với chân tinh. Nhân thầy mà hiểu rõ được diệu chỉ, tên
nhiễm ô cũng trọn quên. Qua bài kệ này chúng ta thấy ngài Trí Thông đã ngộ đạo.
GIẢNG 5
TRÍ
THƯỜNG
Thiền sư Trí
Thường:
Tăng tên Trí Thường,
người ở Quí Khê, Tín Châu, thuở nhỏ xuất gia, chí cầu thấy tánh, một hôm đến
tham lễ, Tổ hỏi:
Ông từ đâu đến, muốn
cầu việc gì?
Sư thưa:
Học nhân gần đây đến
núi Bạch Phong ở Hồng Châu lễ Hòa thượng Đại Thông nhờ chỉ nghĩa kiến tánh
thành Phật, nhưng chưa giải quyết được hồ nghi, từ xa đến đây lễ Hòa thượng,
mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy.
Tổ bảo:
Kia có ngôn cú gì ông
thử nhắc lại xem.
Trí Thường thưa:
Trí Thường đến nơi kia,
trải qua ba tháng, chưa được chỉ dạy, vì lòng tha thiết vì pháp nên một hôm
riêng vào trượng thất thưa hỏi:
Thế nào là Bản tâm, Bản
tánh của con?
Ngài Đại Thông nói
rằng:
Ông thấy hư không
chăng?
Trí Thường đáp: Thấy!
Hòa thượng Đại Thông
hỏi:
Ông thấy hư không có
tướng mạo chăng?
Trí Thường đáp: Hư
không vô hình mà có tướng mạo gì?
Ngài Đại Thông bảo:
Bản tánh của ông ví như
hư không, trọn không một vật có thể thấy, ấy gọi là chánh kiến, không một vật
có thể biết ấy gọi là chân tri, không có xanh, vàng, dài, ngắn, chỉ thấy bản
nguyên thanh tịnh, giác thể tròn sáng tức gọi là thấy tánh thành Phật, cũng gọi
là Như Lai tri kiến.
Học nhân tuy nghe lời
này vẫn chưa giải quyết xong (điều nghi), cúi xin Hòa thượng chỉ dạy.
Tổ bảo:
Lời thầy kia nói vẫn
còn kiến tri nên khiến ông chưa rõ, nay tôi chỉ ông một bài kệ:
Chẳng thấy một pháp còn thấy không,
Giống như mây nổi che mặt nhật,
Chẳng biết một pháp giữ biết không,
Lại như hư không sanh điện chớp.
Tri kiến này bỗng nhiên dấy lên,
Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện,
Ông phải một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Giống như mây nổi che mặt nhật,
Chẳng biết một pháp giữ biết không,
Lại như hư không sanh điện chớp.
Tri kiến này bỗng nhiên dấy lên,
Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện,
Ông phải một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Trí Thường nghe bài kệ
rồi tâm ý hoát nhiên, bèn nói kệ rằng:
Vô cớ khởi tri kiến,
Chấp tướng cầu Bồ-đề,
Tình còn một niệm ngộ,
Đâu vượt mê ngàn xưa,
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu luống đổi dời,
Chẳng vào thất Tổ sư,
Mờ mịt chạy hai đầu.
Chấp tướng cầu Bồ-đề,
Tình còn một niệm ngộ,
Đâu vượt mê ngàn xưa,
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu luống đổi dời,
Chẳng vào thất Tổ sư,
Mờ mịt chạy hai đầu.
Chúng tôi giải thích
lại đoạn văn trên cho quí vị nhận rõ: Ngài Trí Thường đến hỏi đạo với Lục Tổ.
Tổ hỏi: Ông từng hỏi đạo nơi nào rồi? Ngài Trí Thường thưa: Đã từng tới Hòa
thượng Đại Thông ở núi Bạch Phong Hồng Châu, hỏi về nghĩa thấy tánh thành Phật.
Tổ hỏi: Hòa thượng dạy ông như thế nào? Ngài Trí Thường thưa: Một hôm vì lòng
thiết tha cầu đạo cho nên Trí Thường vào trong thất hỏi Hòa thượng: Thế nào là
Bản tâm Bản tánh của con? Hòa thượng Đại Thông mới hỏi: Ông thấy hư không
chăng? Đây là dùng hình thức cụ thể để hỏi. Ngài Trí Thường đáp: Dạ thấy. Hỏi:
Hư không có tướng mạo gì? Đáp: Hư không không có tướng mạo. Hòa thượng liền nói:
“Bản tánh của ông cũng không tướng mạo như là hư không vậy, thấy được như vậy
gọi là chánh kiến, biết được như vậy gọi là chân tri. Bản tánh nguyên nó là
thanh tịnh, không dài, không ngắn, không xanh, không vàng v.v... đó là cái thể
giác ngộ viên minh của ông, đó gọi là Phật, là Tri kiến Như Lai”. Tuy nói rõ
như vậy mà ngài Trí Thường cũng không ngộ, như vậy là Hòa thượng Đại Thông có
chỉ hay là không chỉ? Chúng ta thấy rõ là Hòa thượng đã chỉ một cách thật thà
đầy đủ hết lòng hết dạ rồi. Ngài nói: Thể tánh đó không tướng mạo giống như hư
không, Thể tánh đó thanh tịnh, không dài, không ngắn, không xanh, không vàng
v.v... thấy như vậy, biết như vậy là chánh kiến, là chân tri. Hòa thượng Đại
Thông tuy chỉ hết tình rồi, nhưng còn cái lỗi là lập chánh kiến và chân tri,
thành ra bỏ danh từ này lập danh từ khác chớ không buông sạch được, do đó mà
ngài Trí Thường vẫn hồ nghi chưa nhận được Bản tánh. Tổ liền nói bài kệ:
Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến,
Đại tợ phù vân già nhật diện,
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hoàn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện,
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Đại tợ phù vân già nhật diện,
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hoàn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện,
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Chẳng thấy một pháp mà còn
cái thấy không, tức là cái không tướng mạo, nếu còn thấy cái không tướng mạo là
chánh kiến đó là bệnh rồi, giống như có một đám mây nổi che khuất mặt trời. Vừa
dấy niệm cho là chánh kiến hay cho cái không tướng mạo là đúng, chẳng khác nào
mặt trời đang sáng tỏ bị một đám mây che phủ vậy, đó là cái lỗi thứ nhất. Kế
đến lỗi thứ hai là: chẳng biết một pháp mà giữ cái biết không, như trong hư
không có làn điện chớp. Nếu trong hư không trống rỗng bỗng dưng có làn điện
chớp thì hư không đã mất tánh cách hư không rồi. Ở đây cũng vậy trong chỗ chân
thật không danh tự, không tên họ mà lập là chánh kiến là chân tri thì rơi vào
ngôn ngữ rồi. Cho nên ngài Đại Thông tuy thật lòng chỉ dạy, nhưng vô tình Ngài
bị kẹt trong ngôn ngữ và danh tự nên cái chân thật bị che lấp đi. Cái tri kiến
chấp là chánh kiến là chân tri bỗng dưng dấy lên, đó là lầm nhận, đâu từng hiểu
biết được phương tiện. Ông nên một niệm biết được lỗi ấy, tự nhiên cái linh
quang của ông thường hiển hiện. Lỗi ấy là lỗi lập chánh kiến và chân tri, nếu buông
được cái kiến tri này thì cái sáng suốt linh diệu của ông hiển bày. Nghe đến
đây ngài Trí Thường hoát nhiên đại ngộ, và làm kệ trình Tổ:
Vô đoan khởi tri kiến,
Trước tướng cầu Bồ-đề,
Tình tồn nhất niệm ngộ,
Ninh việt tích thời mê.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên lưu,
Bất nhập Tổ sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng đầu.
Trước tướng cầu Bồ-đề,
Tình tồn nhất niệm ngộ,
Ninh việt tích thời mê.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên lưu,
Bất nhập Tổ sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng đầu.
Không có lý do mà khởi thấy biết, đó là chấp tướng mà cầu
giác ngộ. Nếu trong tâm còn một niệm nghĩ rằng phải ngộ, phải thành Thánh
v.v... thì đâu có vượt khỏi cái mê của thuở xưa. Tự tánh là nguồn giác của
chính mình, tùy chiếu liền bị đổi dời tức là cái thể đó là tánh hằng tri hằng
giác, nhưng vừa dấy niệm để chiếu soi hay phân biệt liền bị đổi dời mất đi. Nếu
không vào được thất của Tổ sư, thì mờ mịt chạy theo hai đầu hay là hai bên, tức
là bên này là thật bên kia là giả, đây là chân kia là vọng, đây là chánh kia là
tà v.v...
Ngài Trí Thường tuy thấy được
như vậy, nhưng vẫn còn một vài điểm nghi nhỏ nên hỏi thêm.
Trí Thường một hôm hỏi
Tổ:
Phật nói pháp ba thừa,
lại nói Tối thượng thừa, đệ tử chưa hiểu, cúi mong Ngài vì chỉ dạy.
Tổ bảo:
Ông xem nơi Bản tâm
mình, chớ có chấp Pháp tướng bên ngoài. Pháp không có bốn thừa, tâm người tự có
những sai biệt. Thấy nghe tụng đọc là Tiểu thừa, ngộ pháp hiểu nghĩa là Trung
thừa, y pháp tu hành là Đại thừa, muôn pháp trọn thông, muôn pháp đầy đủ, tất
cả không nhiễm, lìa các Pháp tướng, một cũng không được, gọi là Tối thượng thừa.
Tổ giải nghĩa Tứ thừa:
Người học đạo mà còn kẹt ở cái thấy nghe đọc tụng, đó là Tiểu thừa; người học
đạo mà ngộ pháp hiểu nghĩa, gọi là Trung thừa; người học đạo y theo pháp tu
hành gọi là Đại thừa; người học đạo thông suốt được tất cả pháp mà không nhiễm
tất cả pháp, lìa tất cả pháp tướng, rời tất cả pháp chấp, gọi là Tối thượng
thừa.
Thừa là nghĩa hành,
không phải ở miệng tranh, ông phải tự tu chớ có hỏi tôi, trong tất cả thời, Tự
tánh tự như.
Thừa là nghĩa thực hành,
vì vậy chữ thừa có nghĩa là di chuyển từ nơi này đến nơi kia. Nói Tiểu thừa, Trung
thừa, Đại thừa chẳng qua là chỉ sự di chuyển. Chữ thừa có chỗ đọc là thặng,
thặng là cỗ xe. Ví dụ chúng ta hiện giờ đang ở Vũng Tàu muốn về thành phố Hồ
Chí Minh, thì phải ra bến xe, lên xe đi thành phố Hồ Chí Minh, thì xe đó đưa
mình tới thành phố Hồ Chí Minh; muốn về Bà Rịa thì lên xe đi Bà Rịa, nó đưa
mình tới Bà Rịa v.v... Chúng ta muốn đến nơi nào thì phải lựa xe mà đi. Trên
đường tu cũng vậy, nếu chúng ta thích hợp pháp môn nào thì chọn pháp môn đó,
pháp môn ấy sẽ đưa mình tới đích mong muốn, cho nên nói thừa là chở chuyên, là
đi, hay là hành. Phần nhiều chúng ta có cái lỗi hay xưng tôi là Đại thừa, rồi
chê người kia là Tiểu thừa, đó là sai lầm, bởi vì Tổ dạy chữ thừa này là chỉ sự
tu hành của mình, chớ không phải sự tranh hơn tranh thua. Nói mình là Đại thừa
để chê người ta là Tiểu thừa, đó là tranh hơn tranh thua, nên chưa phải là Đại
thừa. Còn tranh hơn tranh thua tức là còn tâm bỉ thử, chưa xứng đáng là đạo,
huống nữa là Đại thừa.
Trí Thường liền lễ tạ
và hầu Tổ đến trọn đời.
Trong
đoạn ngài Trí Thường hỏi đạo với Lục Tổ, chúng ta thấy có hai phần. Phần trước
là sau khi hỏi đạo với Hòa thượng Đại Thông, Ngài còn nghi ngờ, nên xin Lục Tổ
giải nghi cho. Nhờ Tổ chỉ dạy thấu đáo nên Ngài ngộ. Phần sau là Ngài hỏi thêm
về nghĩa Tứ thừa để hiểu cho rành rẽ, khỏi bị lầm lẫn.
GIẢNG 6
CHÍ
ĐẠO
Thiền sư Chí Đạo:
Tăng Chí Đạo, người quê
ở Nam Hải, Quảng Châu đến thưa hỏi, thưa rằng:
Học nhân từ xuất gia,
xem kinh Niết-bàn hơn mười năm chưa rõ được đại ý, cúi mong Hòa thượng thương
xót chỉ dạy.
Tổ bảo: Chỗ nào ông
chưa rõ?
Thưa rằng:
Chư hạnh vô thường, là
pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui, nơi đây con nghi ngờ.
Tổ hỏi: Ông nghi như
thế nào?
Thưa rằng:
Tất cả chúng sanh đều
có hai thân gọi là Sắc thân và Pháp thân. Sắc thân vô thường có sanh có diệt,
Pháp thân có thường không tri không giác. Kinh nói: “sanh diệt diệt rồi tịch
diệt là vui”, chẳng biết thân nào tịch diệt, thân nào thọ vui?
Đây là ngài Chí Đạo hỏi Tổ
ý nghĩa bài kệ trong kinh Niết-bàn:
Chư hạnh vô thường,
Thị sanh diệt pháp,
Sanh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.
Thị sanh diệt pháp,
Sanh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.
Tịch diệt là vắng lặng, là mất hết. Ngài Chí Đạo
hỏi: Nếu Sắc thân chết rồi thì làm sao vui? Còn nếu Pháp thân tịch diệt thì Pháp
thân là vô tri, lấy cái gì mà vui? Vì sao nói: tịch diệt là vui?
Nếu là Sắc thân, khi Sắc thân tịch diệt, bốn đại
phân tán, toàn là khổ, khổ không thể nói vui; nếu Pháp thân tịch diệt tức đồng
cỏ cây gạch đá, ai sẽ thọ vui? Lại Pháp tánh là thể của sanh diệt, năm uẩn là
dụng của sanh diệt, một thể năm dụng, sanh diệt là thường, sanh thì từ thể khởi
dụng, diệt thì từ dụng nhiếp về thể, nếu cho lại sanh tức là loài hữu tình
không đoạn không diệt.
Nếu từ thể khởi dụng, từ dụng trở về thể, như vậy
mãi thì sanh lại sanh tức là gặp cái lỗi vô cùng.
Nếu chẳng cho lại sanh tức là hằng trở về tịch
diệt thì đồng với vật vô tình, như thế ắt tất cả pháp bị sự ngăn cấm của Niết-bàn,
còn chẳng được sanh, có gì là vui?
Khi dấy lên là sanh, khi lặng xuống là diệt; khi
lặng xuống không sanh trở lại nữa tức là Niết-bàn, đó là bị cấm chỉ không cho sanh,
còn gì mà vui, sao kinh lại nói tịch diệt là vui?
Tổ quở:
Ông là Thích tử sao lại tập theo
ngoại đạo về đoạn kiến và thường kiến mà luận nghị về pháp Tối thượng thừa. Cứ
theo lời ông nói, tức là ngoài Sắc thân riêng có Pháp thân, lìa sanh diệt để cầu
tịch diệt, lại suy luận Niết-bàn thường lạc nói có thân thọ dụng, đây là chấp lẫn
về sanh tử, đắm mê cái vui thế gian; nay ông nên biết, Phật vì tất cả người mê
nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là
tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét chết, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng
huyễn hư giả, luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành tướng khổ,
trọn ngày tìm cầu. Phật vì thương những người này, mới chỉ dạy Niết-bàn chân
lạc, trong sát-na không có tướng sanh, trong sát-na không có tướng diệt, lại
không có sanh diệt có thể diệt, ấy là tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi hiện
tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Vui này không có
người thọ, cũng không có người chẳng thọ, há có tên một thể năm dụng, huống là
lại nói Niết-bàn ngăn cấm các pháp khiến hằng chẳng sanh. Đây là ông chê Phật hủy
pháp.
Chúng tôi giải thích phần trên để quí vị hiểu
rõ. Ngài Chí Đạo có chỗ nghi: Theo như Ngài hiểu thì con người chúng ta có hai thân,
Sắc thân và Pháp thân. Sắc thân là tướng sanh diệt, còn Pháp thân là không sanh
diệt, cho nên Sắc thân là vô thường mà Pháp thân là thường, Sắc thân có tri
giác mà Pháp thân là vô tri giác. Vì ngài Chí Đạo hiểu như vậy nên khi nghe nói
“tịch diệt là vui”, Ngài liền nghi: Nếu nói “tịch diệt là vui” là Sắc thân này
đến khi lặng mất là vui, lặng mất tức là hoại rồi, làm sao gọi là vui được! Còn
nếu tịch diệt là vui là nói về Pháp thân, thì Pháp thân là vô tri thì làm sao
biết vui? Như vậy trong kinh nói “tịch diệt” là “vui” là cái nào vui? Đó là cái
nghi thứ nhất.
Đến cái nghi thứ hai: Ngài Chí Đạo nghĩ thân của
mình đây là thân năm uẩn, nó là cái dụng, Pháp tánh là thể. Từ Pháp tánh khởi ra
ngũ uẩn, tức là từ thể dấy dụng, rồi ngũ uẩn diệt trở về Pháp tánh. Trở về Pháp
tánh là chỗ lặng yên, nếu cho sanh nữa tức nhiên diệt rồi sanh, sanh rồi diệt
không cùng. Nếu đến chỗ lặng yên đó ngăn không cho sanh nữa gọi là Niết-bàn,
tức là từ chỗ diệt rồi yên lặng, bị cấm chỉ không cho sanh nữa, làm sao vui
được? Cho nên ngài Chí Đạo nói diệt rồi sanh mới vui, nếu diệt rồi diệt luôn,
kềm giữ cái diệt đó mãi thì khổ, đâu có gì là vui, vì sao trong kinh lại nói
“tịch diệt là vui”, nghĩa đó không thể được.
Tổ quở ngài Chí Đạo, nếu hiểu như vậy là chấp
có hai mặt rõ ràng, một là Sắc thân là vô thường, hai là Pháp thân là thường,
tức là chấp hai bên, chấp cái thường ngoài cái vô thường nên nói cái tịch diệt ngoài
cái sanh diệt, như vậy là chấp lầm lẫn. Phật thấy tất cả chúng sanh, ngay nơi
thân sanh diệt có cái vô sanh, nhưng chúng ta không nhận được điều đó nên mãi
chịu luân hồi. Phật bảo thân năm uẩn là hư giả để chúng ta nhận ra cái chân
thật ngay trong năm uẩn, chớ không phải rời năm uẩn mà riêng có Pháp thân. Ngay
trong năm uẩn này nhận ra được Pháp thân bất sanh bất diệt, mà Pháp thân là cái
lặng lẽ thường vui, chớ không phải diệt hết Sắc thân này rồi mới gọi là vui.
Ngay nơi Sắc thân này mà nhận được cái tịch diệt lặng lẽ thường hằng của mình,
đó gọi là “tịch diệt là vui” tức là vui ngay khi nhận được cái tịch diệt, chớ
không phải đợi hoại thân này rồi mới riêng có cái vui Niết-bàn. Nếu chúng ta cứ
mải chạy theo sanh tử rồi chấp sanh tử là thật, đó là chúng ta quên đi cái chân
thật của mình, vì vậy Phật mới bảo thân sanh tử này là tướng năm uẩn hư giả,
đừng lầm nó, phải bỏ cái giả để hướng về cái thật. Nhưng thật ra cái giả với cái
thật không phải là hai, nó không rời nhau, không chạy theo cái giả thì cái thật
hiện tiền; cho nên nói rằng sanh diệt khi diệt rồi tức là tâm niệm sanh diệt
của mình được lặng rồi, thì tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi nó hiện tiền
cũng không khởi niệm tịch diệt hiện tiền, tức là không có cái lượng tịch diệt
hiện tiền thì ngay đó tịch diệt là vui. Nói một cách khác là sống với cái hiện
lượng nghĩa là sống ngay trong hiện tại mà không có niệm nghĩ đến hiện tại, hay
nói theo ngài Vĩnh Gia ngay nơi chỗ đó (đương xứ) mà không có niệm ngay đó, đó
mới gọi là chân thật. Sống được như vậy mới gọi là thường lạc. Nếu còn một niệm
chen vào đều không phải là thường lạc.
Tổ lại bảo rằng nếu chấp riêng có cái sanh ở
ngoài cái vô sanh, hay có cái sanh diệt ở ngoài cái tịch diệt, là chấp hai bên,
gọi là chấp thường chấp đoạn, đó là ngoại đạo chớ không phải Phật pháp. Chúng ta
ngày nay học đạo vẫn còn lầm lẫn, cứ nghĩ ngoài Sắc thân này còn có thân Phật,
cho nên khi ngồi tu mà mong thấy thân Phật mình phóng quang v.v... đó là quan
niệm sai lầm.
Hãy nghe ta nói kệ:
Vô
thượng Đại Niết-bàn,
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn.
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn.
Đại Niết-bàn vô
thượng tròn sáng, thường lặng lẽ mà chiếu soi, phàm ngu gọi đó là chết, còn
ngoại đạo chấp là đoạn, tức ngang đó là hết, chớ không ngờ chính ngay nơi mình
có Đại Niết-bàn tròn sáng và thường chiếu soi, ai ai cũng đều sẵn có không
riêng người nào.
Chư cầu Nhị thừa nhân,
Mục dĩ vi vô tác,
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bản.
Mục dĩ vi vô tác,
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bản.
Những người cầu Nhị thừa cho đó là vô tác, vô tác là chỗ
không có tạo tác, trọn thuộc về chỗ tình chấp, đó là cái gốc của sáu mươi hai
kiến chấp ngoại đạo.
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chân thật nghĩa,
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả.
Hà vi chân thật nghĩa,
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả.
Dối lập ra tên hư giả, hư giả làm sao đạt được nghĩa chân
thật. Chỉ có người quá lượng tức là người vượt qua những cái tầm thường, mới
thông suốt được mà không có thủ và xả.
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng.
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng.
Do biết pháp năm uẩn, và
cái ngã ở trong uẩn, ngoài hiện các sắc tượng, mỗi mỗi tướng âm thanh.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Bất khởi phàm Thánh kiến,
Bất tác Niết-bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn.
Bất khởi phàm Thánh kiến,
Bất tác Niết-bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn.
Khi biết rõ rồi thì bình
đẳng, thấy những cái đó đều như mộng như huyễn, không khởi chấp là phàm là
Thánh, cũng không khởi hiểu là Niết-bàn. Như vậy hai bên và ba mé đều dứt.
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Đến đây Tổ chỉ thẳng
Đại Niết-bàn thường ứng hiện ra dụng nơi các căn mà chẳng khởi tưởng dụng. Tỉ
dụ trong khi ứng dụng, cảnh đến thì mắt tự thấy chớ không có tưởng là mình phải
thấy; tiếng đến thì tai tự nghe chớ không có tưởng là mình phải nghe. Không dấy
niệm không khởi tưởng mà hằng thấy hằng nghe, đó mới là chân thật; dấy niệm khởi
tưởng mới biết, đó không phải là chân thật. Phân biệt tất cả pháp mà không khởi
tưởng phân biệt. Tỉ dụ tôi nhìn tất cả quí vị, tôi biết mặt mày hình sắc của
tất cả mà tôi không dấy niệm, đó gọi là phân biệt tất cả quí vị mà không khởi
niệm phân biệt người hay người dở, người tốt người xấu v.v... Phân biệt tất cả
pháp mà không khởi tưởng phân biệt, ngay đó là Niết-bàn hiện hữu. Vừa khởi niệm
tìm Niết-bàn là mất Niết-bàn. Hiện nay chúng ta đang sống trong Niết-bàn mà
không biết, nên phải chịu trầm luân sanh tử, cho nên Phật thường nói là đáng
thương xót. Nếu chúng ta sống được với cái lượng thật, đó là Niết-bàn, nếu sống
với thân ngũ uẩn, đó là sanh tử. Nhưng không phải bỏ thân ngũ uẩn riêng kiếm
Niết-bàn, mà ngay nơi thân ngũ uẩn đã có sẵn Niết-bàn.
Kiếp hỏa thiêu hải để,
Phong cổ sơn tương kích,
Chân thường tịch diệt lạc,
Niết-bàn tướng như thị.
Phong cổ sơn tương kích,
Chân thường tịch diệt lạc,
Niết-bàn tướng như thị.
Dầu cho kiếp hỏa đốt cháy tất cả biển lớn đều khô cạn, gió
thổi các núi chạm nhau tan vỡ cả thế giới, nhưng chân thường tịch diệt vui là
tướng Niết-bàn vẫn như thế, không đổi thay. Đây là dẫn trong kinh nói rằng thế
giới chúng ta thường trải qua những giai đoạn từ không kiếp tức là lúc chưa có,
đến thành kiếp khi được dựng lập, đến trụ kiếp thời gian an trụ, rồi đến hoại
kiếp cuối cùng bị tan hoại. Trong hoại kiếp có chia ra thời thủy tai (hồng
thủy) nước tràn lan cùng khắp, đến thời hỏa tai trái đất bị cháy, nước bể đều
khô cạn, đến phong tai gió thổi, đất rung, các núi va chạm nhau vỡ tan cả thế
giới. Trải qua những kiếp ấy, quả đất phải tan hoại mà cái chân thường chân lạc
này chưa bao giờ bị đổi thay, huống nữa là bị hoại.
Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.
Nay tôi gắng gượng nói với
ông khiến ông bỏ tà kiến. Ông chớ theo lời tôi nói mà hiểu, thì tôi nhận ông
biết được một ít phần. Nếu ông chấp theo lời tôi nói, thì ông bị kẹt trong lời
nói của tôi mà không biết gì hết.
Chí Đạo nghe kệ đại
ngộ, vui mừng nhảy nhót, làm lễ rồi lui.
GIẢNG 7
HÀNH
TƯ
Thiền sư Hành Tư:
Dòng thiền được truyền bá
đến ngày nay chưa dứt là do ngài Hành Tư và ngài Hoài Nhượng. Phái thiền của
ngài Hành Tư được truyền đến nay là tông Tào Động, của ngài Hoài Nhượng là tông
Lâm Tế. Hai vị là đệ tử cự phách của Lục Tổ, và hai dòng thiền này được truyền
dài lâu nhất, còn mãi cho đến ngày nay.
Thiền sư Hành Tư sanh
tại An Thành, Kiết Châu, họ Lưu, nghe pháp tịch Tào Khê giáo hóa thạnh hành, Ngài
thẳng đến tham lễ, bèn hỏi:
Phải làm việc gì mà
không rơi vào giai cấp?
Tổ hỏi: Ông từng làm
việc gì đến?
Ngài thưa: Thánh đế
cũng không làm.
Tổ bảo: Rơi vào giai
cấp nào?
Ngài thưa:
Thánh đế còn chẳng làm
thì có giai cấp nào?
Tổ thầm nhận đó, khiến
Ngài Hành Tư thủ chúng.
Qua sự đối đáp trên, chúng
ta thấy câu hỏi đầu tiên của ngài Hành Tư là “phải làm việc gì mà không
rơi vào giai cấp”. Phần nhiều chúng ta tu thường nói là tu theo Đại thừa hay
Tiểu thừa, nếu còn thấy có đại có tiểu là còn có giai cấp. Khi hỏi: làm sao
khỏi rơi vào giai cấp, thì Tổ không trả lời, Tổ hỏi lại: Ông đang làm việc gì?
Ngài thưa Thánh đế con còn không làm, huống làm việc gì! Trong kinh nói Thánh
đế đệ nhất nghĩa là nghĩa tột cùng, nghĩa tột cùng đó Ngài còn không làm nữa, huống
là giai cấp nào? Cho nên Tổ nói: Nếu Thánh đế còn không làm, thì ông rơi vào
giai cấp nào? Ngài mới thưa: Còn có giai cấp nào mà rơi nữa? Ngay nơi đó Tổ
liền nhận. Như vậy chỗ cứu kính là không còn danh ngôn, dầu cho tên gọi là
Thánh đế đệ nhất nghĩa hay là tên Tối thượng thừa đi nữa, nếu còn mang một danh
hiệu thì chưa phải là cứu kính. Thánh đế cũng không làm, thì đâu còn kẹt trong
giai cấp, nên Tổ thầm nhận.
Một hôm Tổ bảo ngài
Hành Tư:
Ông nên phân hóa một
nơi, không khiến cho đoạn dứt.
Sau cùng Tổ dạy Ngài nên
đến phân hóa một phương, không khiến đoạn tuyệt, tức là Ngài đã ngộ rồi nên đến
nơi khác truyền bá, chớ để cho Phật pháp đoạn tuyệt.
Ngài Hành Tư đã được
pháp bèn trở về Kiết Châu, trên núi Thanh Nguyên hoằng pháp, nối tiếp giáo hóa.
Sau Ngài tịch, thụy là Hoằng Tế thiền sư.
Ngài
Hành Tư vâng lời trở về quê ở trên núi Thanh Nguyên, người ta thường gọi Ngài
là Thanh Nguyên Hành Tư.
GIẢNG 8
HOÀI
NHƯỢNG
Thiền sư Hoài
Nhượng:
Thiền sư Hoài Nhượng
quê ở Kim Châu, con nhà họ Đỗ, ban đầu đến yết kiến Quốc sư An ở Tung Sơn. Quốc
sư An mới khuyến khích Sư đến Tào Khê tham vấn. Khi Ngài đến lễ bái Tổ, Tổ hỏi:
Ở đâu lại?
Ngài thưa: Ở Tung Sơn.
Tổ bảo: Đem được vật gì
lại?
Ngài thưa: Nói giống
một vật tức chẳng trúng.
Có chỗ khác nói rằng khi
Tổ hỏi “đem được vật gì lại”, Ngài không đáp được. Tổ bảo vào trong chúng ở,
mãi đến tám năm sau, một hôm Ngài phát minh được, mới thưa với Tổ con trả lời
được rồi. Ngài thưa: “Nói giống một vật tức chẳng trúng.”
Tổ bảo: Lại có tu chứng
chăng?
Ngài thưa:
Tu chứng tức chẳng
không, nhiễm ô tức chẳng được.
Tổ bảo:
Chỉ cái chẳng nhiễm ô
này là chỗ chư Phật hộ niệm; ông đã như thế, ta cũng như thế. Tây thiên tổ
Bát-nhã Đa-la sấm rằng: “dưới chân ông có một con ngựa tơ đạp chết người trong
thiên hạ”, ứng ở nơi tâm ông, không cần phải nói ra.
Tổ nhận cho là đúng và nói
ông như vậy ta cũng như vậy, tức là ông cũng bằng ta rồi. Câu “nói một vật tức
chẳng trúng” phù hợp với câu “bản lai vô nhất vật” (xưa nay không một vật) của
Lục Tổ. Nếu Lục Tổ hỏi chúng ta: “ngươi có mang được vật gì đến”, chắc chúng ta
sẽ thưa: dạ con đến có mang cái bị, dao cạo v.v... nhưng ngài Hoài Nhượng không
đáp được, Ngài biết Ngài đến, còn vật gì đến nữa làm sao biết được! Ngài phải ở
chúng tám năm trời mới thưa: con đáp được, “nói một vật tức không trúng”. Tại
sao? Vì Tổ thấy “bản lai vô nhất vật”. Nếu nói một vật tức là có tướng mạo, mà
có tướng mạo là sanh diệt, cho nên nói một vật là trật. Chúng ta hiện giờ
thường lầm lẫn, nếu có người hỏi: “ông có Chân tâm không”, thì đáp: “có”, hỏi:
“Chân tâm ông ở đâu”, thì chúng ta sẽ lúng túng không biết làm sao trả lời! Nếu
nói có, thì phải biết ở đâu, nếu không biết ở đâu tại sao dám nói có? Câu hỏi
của Tổ: ông có mang được vật gì đến hay không, vật gì là để thầm chỉ Chân tâm
hay Phật tánh, ngài Hoài Nhượng không biết làm sao trả lời, khi ngộ rồi Ngài
mới thấy rõ: nếu nói một vật là không trúng. Nếu có người hỏi: “Chân tâm ở đâu”
là hỏi sai rồi, vì Chân tâm không phải là vật, làm sao nói chỗ nơi. Tỉ dụ tôi
hỏi: “bao kiếng để ở đâu”, đáp: “ở trên bàn”. Vì bao kiếng là vật nên có chỗ
nơi, còn Chân tâm hay Phật tánh không phải là vật, làm sao nói chỗ nơi, cho nên
Ngài đáp: “nói một vật tức không trúng” là đã có thầm ý nó không có chỗ nơi.
Cái thấy của Ngài rất phù hợp với cái thấy “xưa nay không một vật” của Lục Tổ
khi xưa.
Cái thấy “nói một vật tức
không trúng” chỉ mới vào cửa thiền thôi, chưa đạt đến cứu kính, cho nên Tổ mới
hỏi thêm: “Lại có thể tu chứng hay không?” Không có một vật, ngang đó là đủ
rồi, không còn tu chứng nữa phải không? Ngài liền đáp: “Tu chứng tức chẳng
không, mà nhiễm ô tức không thể được.” Đây là một câu hay đáo để, đa số người
học tu chúng ta không đến được chỗ này thường bị mắc kẹt chỗ “rỗng không”. Tỉ
dụ như chúng ta đang ngồi thiền, tâm khởi vọng, mà tâm vọng là tướng sanh diệt,
là gốc của luân hồi, chúng ta thường nghe dạy như vậy. Cho nên muốn hết luân
hồi, tâm vọng phải lặng xuống, khi lặng xuống thì thấy rỗng không. Cái thể rỗng
không đó có phải là chỗ chân thật hay chưa? Nếu thấy cái rỗng không cho là cứu
kính là đã kẹt ở cái không rồi! Cho nên: “nói một vật tức không trúng”, đó là
vào cửa thôi chớ chưa đạt cứu kính, nếu ngưng ngang đó là mắc kẹt. Khi xưa lúc
Lục Tổ trình kệ “bản lai vô nhất vật” thì được vào cửa, nhưng phải nghe kinh
Kim Cang rồi mới nói: “đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh, đâu ngờ tánh
mình vốn tự đầy đủ v.v...” Đến lúc đó mới gọi là xong việc. Nếu thấy chỗ lặng
lẽ rỗng không cho là cứu kính là lầm, là còn mắc kẹt, vì vậy có câu “vô tâm du
cách nhất trùng quan” tức là vô tâm còn cách một lớp rào. Thấy không có tâm dấy
động tưởng là đủ, đó là lầm, cần phải đi đến giác ngộ viên mãn. Vì vậy Tổ mới
hỏi thêm: “lại có tu chứng hay không”, Ngài thưa: “tu chứng tức chẳng phải
không”, nghĩa là trên phương diện tu chứng không phải là không, nhưng mà nhiễm
ô không thể được. Bởi nó không có tướng mạo, làm sao bị nhiễm ô? Nhưng cái không
nhiễm ô đó chưa phải là cứu kính mà còn phải giác ngộ viên mãn mới được. Tỉ dụ tâm
mình như cái gương, bị bụi phủ mờ trăm ngàn vết, chúng ta phải lau chùi sạch
hết những vết bụi, rồi mới gọi là gương trong, nhưng chưa đủ, mặt gương còn
phải phản chiếu ánh sáng nữa mới được viên mãn. Chúng ta tu cũng như vậy, khi
những vọng tưởng lặng hết rồi, tâm lặng lẽ gọi là tịch diệt, hay là “không một
vật”. Đến khi đó chúng ta phải nhận được Tánh giác hằng hữu của mình, đó gọi là
tu chứng hay là giác ngộ thành Phật. Cho nên nói “tu chứng chẳng phải không, mà
nhiễm ô không thể được”. Tổ mới bảo: “Cái không nhiễm ô này là chỗ chư Phật hộ
niệm”, tức là chỗ chư Phật hằng nhớ, hằng giữ. “Ông như vậy ta cũng như vậy”,
tức là giống nhau, đó là câu Tổ đã ấn chứng cho Ngài làm Tổ sau này. Ấn chứng
không phải là làm lễ gì, mà chính câu “ông như vậy, ta cũng như vậy”, gọi là ấn
chứng, tức là cái thấy biết của ông ngang bằng cái thấy biết của ta, cũng như
ngang bằng cái thấy biết của chư Phật.
Ngài Hoài Nhượng hoát
nhiên khế hội, liền hầu hạ Tổ mười lăm năm, mỗi ngày càng thâm được sự huyền
áo. Sau Ngài đến núi Nam Nhạc, xiển dương Thiền tông, khi tịch Ngài được sắc
ban hiệu Đại Tuệ thiền sư.
Ngài ở lại hầu hạ Tổ mười
lăm năm, và sau về núi Nam Nhạc xiển dương Thiền tông.
Người
học đạo chúng ta ngày nay ở gần thầy năm, ba năm rồi ngán, muốn ra lãnh đạo một
phương để trụ trì giáo hóa thiên hạ, tưởng như ở lâu gần thầy không có lợi, nhưng
không ngờ chính càng lâu càng thêm thâm thúy, càng tăng thêm chỗ huyền áo.
GIẢNG 9
VĨNH
GIA HUYỀN GIÁC
Thiền sư Vĩnh Gia
Huyền Giác:
Thiền sư Huyền Giác ở
Vĩnh Gia, họ Đới, quê ở Ôn Châu, thuở nhỏ tập kinh luận, chuyên về pháp môn chỉ
quán của tông Thiên Thai, nhân xem kinh Duy-ma-cật phát minh được tâm địa; chợt
gặp đệ tử của Tổ là Huyền Sách thăm hỏi, cùng bàn chuyện sôi nổi, mà mỗi
lời nói ra đều thầm hợp với chư Tổ. Huyền Sách hỏi:
Nhân giả được pháp nơi
Thầy nào?
Huyền Giác đáp:
Tôi nghe kinh luận
Phương đẳng mỗi vị đều có Thầy truyền thừa, sau nơi kinh Duy-ma-cật ngộ được
Phật tâm tông mà chưa có người chứng minh.
Huyền Sách bảo:
Từ đức Phật Oai Âm
Vương về trước tức được, từ Phật Oai Âm Vương về sau, không Thầy mà tự ngộ trọn
là thiên nhiên ngoại đạo.
Huyền Giác nói:
Xin nhân giả vì tôi
chứng minh.
Huyền Sách bảo:
Lời tôi nhẹ, ở Tào Khê có Lục Tổ đại sư bốn phương nhóm họp về đều là
những người thọ pháp. Nếu ông chịu đi thì cùng tôi đồng đi.
Huyền Giác bèn đồng với
Huyền Sách đến tham vấn.
Đoạn trên đây là câu
chuyện đối đáp giữa ngài Huyền Giác và ngài Huyền Sách. Ngài Huyền Giác trình
bày chỗ sở ngộ của mình, do đọc kinh Duy-ma-cật mà ngộ. Ngài Huyền Sách nói trước
đức Phật Oai Âm Vương thì được, còn sau đức Phật Oai Âm Vương thì không được,
không thầy mà tự ngộ là thiên nhiên ngoại đạo. Bởi vì theo kinh nói ở thế gian
chúng ta, tức là thế giới Ta-bà này, đức Phật đầu tiên là Phật Oai Âm Vương,
trước Ngài thì chưa có đức Phật nào hết. Nếu chưa có Phật, không thầy mà tự ngộ
thì được, nếu có Phật rồi mà ngộ thì phải có thầy.
Đến đây chúng tôi muốn nói
rộng hơn một chút. Hiện giờ tôi đang dạy thiền, có người công kích hỏi thầy tôi
là ai? Theo lời ngài Huyền Sách, trước Phật Oai Âm Vương không thầy tự ngộ là
được, còn sau Phật Oai Âm Vương không thầy tự ngộ, đó là thiên nhiên ngoại đạo.
Như hiện giờ tôi đang truyền thiền mà không có thầy có phải là thiên nhiên ngoại
đạo hay không? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời. Nếu căn cứ theo sự truyền
thừa từ thầy đến trò thì đây là một khuyết điểm, còn nếu căn cứ trên những kinh
luận hay ngữ lục v.v... thì lại khác. Đương thời ngài Huyền Giác có Lục Tổ, nếu
ngộ rồi mà không đến với Tổ để ấn chứng đó là ngã mạn, vì bất cần hệ thống Phật
pháp. Thời Lục Tổ hoặc về sau có những vị được kế thừa, ngộ đạo hẳn hoi, nếu
biết mà không đến trình là phạm lỗi. Còn trường hợp chúng tôi hiện giờ, nếu
muốn trình là phải trình cho ai? Không có ai để trình thì phải làm sao? Chùa
nào cũng bảo niệm Phật hay trì chú, vì vậy chúng tôi không trình được với ai.
Tất nhiên chúng tôi phải căn cứ vào kinh luận và ngữ lục của chư Tổ để làm
chứng cứ. Chúng tôi hiện giờ hiểu mà không có thầy truyền riêng nên bị nghi
ngờ, vì vậy khi nói Thiền chúng tôi phải lấy kinh, luận, sử của chư Phật chư Tổ
làm chứng. Còn các vị trước đắc truyền có thầy, đâu cần giảng kinh, các đệ tử muốn
hỏi gì cứ hỏi, các ngài dùng diệu thuật nhà thiền hoặc đánh, hoặc hét để chỉ
dạy. Thành thử hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác, nếu bắt phải có thầy ấn chứng là một
đòi hỏi quá đáng, không thể thực hiện được. Hiểu như vậy rồi, mới thông cảm với
chúng tôi.
Chúng tôi nương kinh luận mà ngộ, tất nhiên phải đem kinh
luận làm bằng chứng để chỉ dạy cho người khỏi lầm lạc. Nếu không được truyền
thừa, mà còn bỏ kinh bỏ luận để dạy Thiền tức thành ma thuyết, vì nói theo ý
riêng của mình nên dễ lạc đường, đó là tai họa. Vì chúng tôi không được truyền
cho nên đem kinh, luận, sử để giảng dạy, vì kinh luận sử là cái gương để soi
đúng và sai, lấy kinh luận sử làm căn bản để giải các mối nghi ngờ.
Đến giai đoạn hai là ngài
Huyền Giác tham vấn Lục Tổ.
Khi đến, Huyền Giác
nhiễu Tổ ba vòng, chống tích trượng mà đứng. Tổ bảo:
Phàm là Sa-môn phải đủ
ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ phương nào đến, sanh đại ngã mạn?
Huyền Giác thưa:
Sanh tử là việc lớn, vô
thường mau chóng.
Tổ bảo:
Sao chẳng thể nhận cái
vô sanh, liễu không mau ư?
Huyền Giác thưa:
Thể tức là vô sanh,
liễu vốn không có mau.
Tổ bảo: Như thế, như
thế!
Huyền Giác mới đầy đủ
oai nghi lễ bái, trong chốc lát liền cáo từ. Tổ bảo:
Trở về chóng vậy?
Huyền Giác thưa:
Vốn tự không động, há có mau ư?
Tổ bảo: Ai biết chẳng
động?
Huyền Giác thưa: Nhân
giả tự sanh phân biệt.
Tổ bảo: Ông rất được
cái ý vô sanh.
Huyền Giác thưa: Vô
sanh há có ý sao?
Tổ bảo: Nếu không ý thì
ai biết phân biệt?
Huyền Giác thưa: Phân
biệt cũng không phải ý.
Tổ bảo: Lành thay! Hãy
dừng lại một đêm.
Thời nhân gọi là Nhất
túc giác. Sau Ngài có trước tác bộ Chứng Đạo Ca, thạnh hành ở đời. Thụy là Vô
Tướng đại sư, người đương thời xưng là Chân Giác.
Đến giai đoạn này chúng ta
sẽ lấy làm lạ, vì sao người đến hỏi đạo với Tổ, biết Tổ được truyền y bát mọi
người đều quí kính, lại không chịu nghiêm chỉnh lễ bái? Ngài đi vòng giường
thiền của Tổ rồi chống gậy đứng nghiễm nhiên có vẻ ngạo mạn. Tổ liền quở: “Phàm
Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ phương nào đến mà
sanh đại ngã mạn như vậy?” Ngài bèn thưa: “sanh tử là việc lớn, vô thường mau gấp”,
như vậy có rảnh đâu mà phải đầy đủ lễ nghi. Vì phải giải quyết sanh tử, vô thường
gấp lắm rồi, không còn thì giờ đâu mà hình thức lễ nghi nữa. Ngay lời nói đó Tổ
liền bảo: “Tại sao không ngay đó mà thể nhận cái vô sanh đi, liễu chẳng mau
chăng?” Ngài liền đáp: “Thể tức vô sanh, liễu không có mau.” Cái thể là vô
sanh, còn liễu ngộ không có mau chậm, đó là Ngài bẻ lại ý của Tổ. Tổ liền khen:
“Như thế, như thế!” Ngài Huyền Giác mới đầy đủ oai nghi lễ bái Tổ.
Người
xưa đi hỏi đạo có những cái đặc biệt, vì gấp giải quyết sanh tử, nên không theo
nghi thức. Đến khi giải quyết xong, mới đầy đủ oai nghi, lễ bái rồi cáo từ ra
về. Tổ bảo: “như thế, như thế” là đã ấn chứng rồi, ngài Huyền Giác xin ra về.
Tổ thấy Ngài ra về mau quá sợ không thấu đáo, nên bảo: “Sao trở về mau vậy?”
Ngài liền bẻ: “Thể vốn tự không động, há có mau chậm.” Tổ liền gạn lại: “Ai
biết chẳng động?” Ngài thưa: “Ngài tự sanh phân biệt.” Tổ nói: “Ông rất là được
ý vô sanh.” Ngài bẻ lại Tổ: “Vô sanh có ý sao?” Tổ liền nói: “Không ý thì cái
gì phân biệt?” Ngài liền trả lời: “Phân biệt cũng chẳng phải ý.” Câu này hay
đáo để! Như trước đã nói, chúng tôi thấy tất cả quí vị mà không dụng ý gì hết,
thấy nam biết nam, thấy nữ biết nữ, thấy cái nào rõ cái nấy mà không dụng ý, đó
gọi là “phân biệt mà không phải ý”. Như vậy hằng ngày cái đó lồ lộ ở mắt tai
đâu có giấu giếm. Tổ mới khen: “Lành thay, lành thay, hãy ở lại một đêm.” Thời nhân
gọi là Nhất túc giác; nhất túc là một đêm, giác là giác ngộ, tức là ở lại một
đêm mà được giác ngộ.
GIẢNG 10
TRÍ
HOÀNG
Thiền sư Trí
Hoàng:
Thiền giả Trí Hoàng,
ban đầu tham học nơi Ngũ Tổ, tự cho đã được chánh thọ (tức là chánh định),
mới cất am ngồi thiền mãi, trải qua hai mươi năm. Đệ tử của Tổ là Huyền Sách du
phương đến Hà Sóc nghe danh ngài Trí Hoàng, liền đến am hỏi:
Ông ở đây làm gì?
Trí Hoàng nói: Nhập
định.
Huyền Sách hỏi:
Ông nói nhập định là có
tâm nhập hay không tâm nhập? Nếu không tâm nhập thì tất cả vô tình cỏ cây ngói
đá nên được định; nếu có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình hàm thức cũng nên
được định.
Ngài Huyền Sách đưa ra hai
câu hỏi rồi tự Ngài khóa cửa luôn, như vậy biết làm sao trả lời! Có tâm nhập
cũng không được, không tâm nhập cũng không được.
Trí Hoàng bảo:
Tôi chính khi nhập định
chẳng thấy có cái có tâm và không tâm.
Huyền Sách nói:
Chẳng thấy có tâm và
không tâm tức là thường định, sao lại (nói) có xuất nhập, nếu có xuất nhập tức
là không phải Đại định.
Hoàng không trả lời
được. Giây lâu mới hỏi:
Thầy kế thừa ai?
Huyền Sách nói: Thầy
tôi là Lục Tổ ở Tào Khê.
Trí Hoàng hỏi: Lục Tổ lấy gì làm Thiền định?
Huyền Sách đáp:
Thầy tôi nói: Diệu trạm
viên tịch, thể dụng như như, năm ấm vốn không, sáu trần chẳng phải có, chẳng ra
chẳng vào, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền không trụ, lìa trụ thiền tịch,
tánh thiền không sanh, lìa sanh thiền tưởng, tâm như hư không cũng không có cái
lượng của hư không.
Trí Hoàng nghe lời nói
ấy bèn đi thẳng đến yết kiến Lục Tổ.
Ngài Trí Hoàng, sau khi
ngài Huyền Sách chinh phục được rồi, đến tham vấn Lục Tổ.
Lục Tổ hỏi: Nhân giả từ
đâu đến?
Trí Hoàng liền thuật
lại đầy đủ duyên trước.
Lục Tổ bảo:
Thật như lời đã nói.
Ông chỉ tâm như hư không mà chẳng có kiến chấp không, ứng dụng không ngăn ngại,
động và tịnh đều không tâm, tình phàm Thánh đều quên, năng sở đều dứt, tánh
tướng như như, không có lúc nào mà chẳng định.
Trí Hoàng ngay nơi đây
liền đại ngộ, hai mươi năm đã được tâm, trọn không ảnh hưởng. Đêm ấy ở Hà Bắc,
dân chúng nghe trong hư không có tiếng nói: “Thiền sư Hoàng ngày nay được đạo.”
Trí Hoàng sau đó lễ từ trở về Hà Bắc, khai hóa bốn chúng.
Trong đoạn trên, ngài Trí
Hoàng đến tham vấn Lục Tổ. Tổ không gạn hỏi nhiều, chỉ thẳng cho Ngài thấy cái
chân thật. Tổ bảo: “ông chỉ tâm như hư không”, đó là giai đoạn đầu, tâm như hư
không tức là bản lai vô nhất vật, mà chẳng chấp cái thấy không. Tuy tâm như hư
không mà đừng bám vào cái không đó thì ứng dụng liền không ngăn trệ, động tịnh
đều là vô tâm. Trong khi động tịnh đều như như, tình chấp phàm Thánh đều quên, năng
sở đều bặt, khi đó tánh tướng như như, không có lúc nào chẳng phải định. Đây là
Lục Tổ muốn chỉ thẳng chỗ chân thật là tâm, không dấy động, rỗng rang không còn
mắc kẹt ở hai bên, tức là lúc nào cũng định. Vừa có niệm kẹt bên này bên kia là
động, là mất định rồi. Ngài Trí Hoàng đã tu lâu năm, nên khi được Tổ chỉ thẳng
liền đại ngộ.
GIẢNG 11
PHƯƠNG
BIỆN
Có vị Tăng hỏi
Tổ:
Ý chỉ Huỳnh Mai người
nào được?
Tổ đáp: Người hiểu Phật
pháp được!
Tăng thưa: Hòa thượng
lại được chăng?
Tổ bảo: Ta chẳng hiểu
Phật pháp.
Vì sao Tổ lại phủ nhận như
vậy? Ý chỉ Huỳnh Mai tức là ý chỉ Ngũ Tổ, người nào được? Lục Tổ là người được
truyền y mà Ngài không nói vậy, chỉ trả lời: Người nào hiểu Phật pháp thì được.
Tăng lại hỏi: Hòa thượng hiểu hay không? Được hay không? Tổ đáp: Ta chẳng hiểu
Phật pháp. Tại sao Tổ lại đáp như vậy, có phải là Ngài chối bỏ chỗ truyền y của
Ngũ Tổ hay không? Chúng ta nên nhớ trong kinh Kim Cang đức Phật nói: “Nếu ta
thấy có pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký
cho ta thành Phật.” Vừa thấy có pháp để được, đó là không được. Còn ở đây vừa
khởi hiểu thì không phải là người được truyền y, vừa dấy niệm hiểu là đã sai
rồi, bởi vì chỗ đó cho mình nhận mà không cho mình hiểu. Cho nên Tổ nói Ta
không hiểu Phật pháp.
Một hôm Tổ muốn giặt lá
y đã được truyền trao nhưng không có suối tốt để giặt, nhân Ngài đến sau chùa
khoảng năm dặm, thấy trên núi cây cối um tùm, khí tốt xoay quanh, Ngài liền cắm
cây tích trượng sâu xuống đất, nước liền phún lên theo tay Ngài, chứa lại thành
cái ao, Ngài liền quì gối giặt y trên đá. Chợt có một vị Tăng đến lễ bái thưa rằng:
Phương Biện là người
Tây Thục, vừa rồi ở nước Nam Thiên Trúc, thấy ngài Đạt-ma đại sư dạy Phương
Biện phải chóng đến nước Đường là nơi tôi truyền Chánh pháp nhãn tạng và y
tăng-già-lê của Tổ Ca-diếp, thấy truyền đến đời thứ sáu nơi Thiều Châu ở Tào
Khê, ông nên đến đó chiêm lễ. Phương Biện từ xa đến, cúi mong được thấy y bát
đã được truyền.
Tổ bèn đưa ra cho ông
xem, liền hỏi:
Thượng nhân làm nghề gì?
Phương Biện đáp: Chuyên
nghề đắp tượng.
Tổ nghiêm sắc mặt lại
bảo: Ông thử đắp xem.
Phương Biện mờ mịt
không biết. Qua mấy ngày, ông đắp được tượng của Tổ, cao bảy tấc, rất đẹp đẽ.
Tổ cười, bảo:
Ông chỉ giỏi tánh đắp
mà chẳng giỏi tánh Phật.
Tổ đưa tay xoa đầu
Phương Biện nói:
Ông hằng vì người, trời
làm phước điền.
Như vậy khi Tổ nghiêm
sắc mặt bảo: “ông thử đắp xem”, lý đáng Phương Biện phải thấy được cái gì Tổ muốn
chỉ, đó là đúng ông nhận được Phật tánh; nhưng ông không biết, về nhà chỉ nhớ
hình Tổ, ông đắp thành tượng, cho nên Tổ bảo: “ông chỉ giỏi tánh đắp, mà chẳng
giỏi tánh Phật”.
Tổ liền lấy y đền
công, Phương Biện lấy y chia làm ba phần: một phần đắp vào tượng, một phần thì
ông lưu lại, còn một phần thì gói chôn xuống đất, thề rằng: “Sau này, người nào
đào được y này là tôi tái sanh để trụ trì nơi đây dựng lập lại chùa chiền.”
(Đến đời Tống, niên
hiệu Gia Hựu năm thứ tám, có vị Tăng tên là Duy Tiên, khi sửa chùa, đào đất được
y như mới, còn tượng của Phương Biện đắp thì để ở chùa Cao Tuyền, cúng kính cầu
nguyện đều được như ý.)
Có vị Tăng đọc bài kệ
của Thiền sư Ngọa Luân rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ-đề nhật nhật trưởng.
Năng đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ-đề nhật nhật trưởng.
Tổ nghe qua liền nói:
Bài kệ này chưa rõ được tâm địa, nếu y đây mà
tu, ấy là thêm trói buộc.
Nhân đó Tổ nói một bài kệ:
Huệ Năng
một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm sổ khởi,
Bồ-đề tác ma trưởng.
Bất đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm sổ khởi,
Bồ-đề tác ma trưởng.
Đối chiếu
hai bài kệ trên, chúng ta thấy chỗ thâm sâu khác nhau, nếu không khéo thì không
làm sao thấy được. Bài kệ trước của ngài Ngọa Luân thật ra không phải dở, đối
với chúng ta Ngài rất giỏi, Ngài có khả năng dẹp hết tư tưởng. Nhưng “hay đoạn
trăm tư tưởng”, đó là bệnh, tại sao? Vì còn thấy tư tưởng là thật để đoạn; như
vậy năng sở rõ ràng; tư tưởng là cái bị đoạn, Ngài là hay đoạn, có năng có sở
là có hai rồi, đó là cái bệnh thứ nhất. Đến cái bệnh thứ hai là “Bồ-đề càng
ngày càng lớn”. Nói lớn nhỏ là còn hình tướng, đó là bệnh rồi, vì còn kẹt trên
hình thức. Cho nên Tổ nói nếu tu mà kẹt trên hình thức là bị trói buộc. Đây
thật là tế nhị, mới nghe qua bài kệ thấy dường như thật hay, nhưng xét kỹ một
chút thì thấy bệnh, cho nên khi đọc bài kệ bài thơ, mình biết trình độ người làm
thơ đang đến đâu.
Đến bài kệ của Tổ: Huệ Năng không có tài nghệ gì
hết, cũng chẳng đoạn trăm tư tưởng, vì tư tưởng có thật đâu mà đoạn! Tư tưởng là
hư giả như khói như mây, biết nó hư giả là nó hết, có gì mà đoạn. Đó là không
còn năng sở, tức đâu còn hai thứ đối đãi. “Đối cảnh tâm thường khởi”, tại sao?
Nếu thấy cảnh thật thì tâm mới thật, nếu biết cảnh giả tâm giả, cả hai đều giả
dối thì không thành vấn đề, cho nên không thành bệnh. “Bồ-đề làm gì lớn”: Bồ-đề
là thể không sanh không diệt, không tướng mạo, nói gì có lớn nhỏ! Khi thấy đến
tột cùng thì chỗ nói mới tột cùng. Khi chưa thấy tột cùng, thì bài kệ của ngài
Ngọa Luân dường như hay mà sự thật Ngài đang chết chìm trong chỗ đè cho nó
lặng, chớ chưa thấy được Thật thể. Nếu nói “Bồ-đề càng ngày càng lớn” là còn
hình tướng, tức chưa phải thật sự đạt đạo vậy.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment