"Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề. Một niệm ngu tức phàm phu, một niệm trí tức Phật..."
LGT: Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những
người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong
những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ. Hơn nữa, Lục Tổ ngộ đạo từ
kinh Kim Cang, nên những lời Ngài dạy rất gần gũi với kinh. Người tu
Thiền học kỹ quyển sách này, sẽ không còn nghĩ Thiền là cái gì xa lạ với
kinh điển. Vì thế, trong các Thiền viện, chúng tôi đều bắt buộc Thiền
sinh phải học kỹ quyển sách này.
Phần dịch và giảng của chúng tôi khó tránh khỏi nhiều
khuyết điểm, vì dịch trong khi giảng; lại tùy chỗ nhận hiểu đến đâu,
chúng tôi giảng đến đấy. Vì thế, đây chưa phải là chân lý tối hậu, mong
quí độc giả thông cảm cho.
THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU
Mùa Xuân năm Nhâm Thân (1992)
THÍCH THANH TỪ
PHÁP BẢO ĐÀN KINH
LƯỢC KHẢO
Tên quyển
sách, nói đủ là LỤC TỔ ĐẠI SƯ PHÁP BẢO ĐÀN KINH, nói gọn là PHÁP BẢO ĐÀN
KINH. Thông thường, theo Phật giáo, Kinh là chỉ những lời dạy của đức
Phật do đệ tử ghi lại. Nếu chư vị Bồ-tát hay chư Tổ sau này viết sách
thì gọi là Luận, còn những vị Thiền sư thuyết giảng rồi đệ tử ghi chép
lại thì gọi là Ngữ lục.
Lục Tổ được
xem như là một Thiền sư, những lời Ngài giảng được ghi lại, lý đáng phải
gọi là Ngữ lục, nhưng tại sao quyển sách này lại để là Pháp Bảo Đàn Kinh?
Đây là do lời di chúc của Lục Tổ, Ngài dặn các đệ tử: “Sau khi ta tịch,
muốn làm lợi ích cho người sau, các ngươi nên ghi những lời ta dạy thành
một quyển sách đề tên là Pháp Bảo Đàn Kinh.” Như vậy là y theo lời dạy
của Lục Tổ nên quyển sách này để tên như thế.
Quyển Pháp
Bảo Đàn do Thiền sư Pháp Hải, đệ tử của Lục Tổ, trụ trì chùa Bảo Lâm ghi
chép lại. Thế nên những lời được ghi lại đương nhiên là có khi sơ sót
chút ít, có khi được bổ túc cho thành câu, thành văn, vì Lục Tổ chỉ
giảng thôi chớ không có viết. Sách sử chép rằng Lục Tổ không biết chữ,
do đó Ngài giảng dạy rồi đồ đệ ghi, dĩ nhiên có những lời Ngài dạy mà
người ghi bỏ sót, cũng như có những phần mà người sau thấy cần bổ túc
cho hay hơn, thành ra có thể sai đi chút ít, đó là việc thường không thể
tránh khỏi.
Quyển Pháp
Bảo Đàn cũng được nhiều nhà dịch ra chữ Việt.
..............................................................
Phẩm 1 - Hành Do
Khi ấy Đại sư đến chùa Bảo Lâm tại Thiều Châu, Thứ sử Vi Cừ cùng với
quan liêu vào núi thỉnh Sư đến trong thành, ở chùa Đại Phạm, tại giảng
đường vì chúng khai duyên nói pháp. Sư đăng tòa, Thứ sử quan liêu hơn ba
mươi người, Nho tông học sĩ hơn ba mươi người, Tăng Ni đạo tục hơn một
ngàn người đồng thời làm lễ, nguyện được nghe pháp yếu.
Lục Tổ bảo chúng rằng:
Này Thiện tri thức, Bồ-đề Tự tánh xưa nay thanh tịnh, chỉ dùng tâm
này, thẳng đó trọn được thành Phật. Này Thiện tri thức, hãy lắng nghe
Huệ Năng nói về hành do được pháp.
Nghiêm phụ của Huệ Năng bản quán ở Phạm Dương, bị giáng đày ra Lãnh
Nam, làm thường dân ở Tân Châu. Thân này bất hạnh, cha lại mất sớm, mẹ
góa con côi dời đến Nam Hải, gian nan nghèo khổ, thường ra chợ bán củi.
Khi ấy có một người khách mua, bảo gánh đến khách điếm, khách nhận củi
xong, Huệ Năng lãnh tiền, lui ra khỏi cửa, thấy một người khách tụng
kinh, Huệ Năng một phen nghe lời kinh, tâm liền khai ngộ, bèn hỏi khách
tụng kinh gì, khách bảo: “kinh Kim Cang”. Huệ Năng lại hỏi: “Ở đâu đến
thọ trì kinh này?” Khách bảo: “Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai,
Kỳ Châu đến. Chùa ấy do Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đại sư làm chủ giáo hóa, đệ tử
có hơn một ngàn người, tôi đến đó lễ bái, nghe nhận kinh này. Đại sư
thường khuyên kẻ Tăng người tục chỉ trì kinh Kim Cang liền được thấy
tánh, thẳng đó thành Phật.” Huệ Năng nghe nói, do đời trước có duyên,
mới được một người khách cho Huệ Năng một số bạc là mười lượng để giúp
nuôi dưỡng mẹ già và bảo đến Huỳnh Mai tham vấn Ngũ Tổ.
Huệ Năng an trí mẹ xong liền từ giã ra đi, không hơn ba mươi ngày
liền đến Huỳnh Mai lễ bái Ngũ Tổ. Tổ hỏi: “Ngươi từ phương nào đến, muốn
cầu vật gì?” Huệ Năng đáp: “Đệ tử là dân Tân Châu thuộc Lãnh Nam, từ xa
đến lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác!” Tổ bảo: “Ông là
người Lãnh Nam, lại là người quê mùa, làm sao kham làm Phật?” Huệ Năng
liền đáp: “Người tuy có Nam Bắc nhưng Phật tánh vốn không có Nam Bắc,
thân quê mùa này cùng với Hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có
sai khác.” Ngũ Tổ muốn cùng tôi nói chuyện, lại thấy đồ chúng hai bên
đông, mới bảo theo chúng làm công tác. Huệ Năng thưa: “Huệ Năng xin bạch
Hòa thượng, tự tâm đệ tử thường sanh trí tuệ, không lìa Tự tánh tức là
phước điền, chưa biết Hòa thượng dạy con làm việc gì?” Tổ bảo: “Kẻ nhà
quê này, căn tánh rất lanh lợi, ông chớ nói nữa, xuống nhà trù đi.” Huệ
Năng lui lại nhà sau, có một người cư sĩ sai Huệ Năng bửa củi, giã gạo,
trải hơn tám tháng. Một hôm, Tổ chợt thấy Huệ Năng, mới bảo: “Ta nghĩ
chỗ thấy của ngươi có thể dùng, nhưng sợ có người ác hại ngươi, nên
không nói cùng ngươi, ngươi có biết chăng?” Huệ Năng thưa: “Đệ tử cũng
biết ý của Thầy nên không dám đến nhà trên, để người không biết.”
Một hôm, Ngũ Tổ bảo các đệ tử: “Tất cả hãy đến, ta nói với các ông:
Người đời sanh tử là việc lớn, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền,
chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử, Tự tánh nếu mê thì phước nào có thể
cứu? Các ông, mỗi người hãy đi, tự xem trí tuệ của mình, nhận lấy tánh
Bát-nhã nơi Bản tâm mình, mỗi người làm một bài kệ đến trình cho ta xem,
nếu ngộ được đại ý thì ta trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Phải nhanh đi,
không được chậm trễ, suy nghĩ tức là không trúng. Người kiến tánh ngay
lời nói phải thấy, nếu như người này dù khi múa đao giữa trận cũng được
thấy tánh(1).” Chúng được chỉ dạy, trở về họp bàn với nhau: “Tất cả chúng ta không
cần phải lắng lòng dụng ý làm kệ để trình Hòa thượng, đâu có lợi ích gì?
Thượng tọa Thần Tú, hiện làm Giáo thọ sư, ắt là người được, chúng ta có
gắng làm kệ tụng cũng uổng dụng tâm lực.” Mọi người nghe lời này, thảy
đều đồng ý nói: “Chúng ta về sau y chỉ Thượng tọa Thần Tú, nhọc gì phải
làm kệ.”
Thần Tú suy nghĩ: “Các người đều không trình kệ vì ta làm Giáo thọ sư
cho họ, ta cần phải làm kệ trình lên Hòa thượng; nếu không trình kệ thì
Hòa thượng đâu biết được kiến giải trong tâm ta cạn hay sâu? Ý ta trình
kệ, cầu pháp thì tốt, cầu làm Tổ thì xấu, vì đồng với tâm của kẻ phàm,
muốn cướp được ngôi vị Thánh không khác, nếu chẳng trình kệ thì trọn
không được pháp. Rất khó! Rất khó!”
Trước nhà của Ngũ Tổ có một hành lang ba gian, Ngũ Tổ nghĩ mời ông
Cung Phụng Lư Trân đến vẽ Lăng-già biến tướng và Ngũ Tổ huyết mạch đồ để lưu truyền cúng dường. Ngài Thần Tú làm kệ rồi, mấy phen muốn trình,
đi đến nhà trước thì trong tâm hoảng hốt, khắp thân đổ mồ hôi, nghĩ
trình chẳng được. Trước sau trải qua bốn ngày, đến mười ba lần, trình kệ
không được. Thần Tú mới suy nghĩ: “Chẳng bằng đến dưới hành lang viết (bài
kệ), Hòa thượng đi qua xem thấy, nếu chợt bảo rằng hay thì mình ra lễ
bái thưa của Thần Tú làm; nếu nói không kham, thật uổng công ở núi mấy
năm, thọ người lễ bái, lại tu đạo gì?” Canh ba đêm ấy, không cho người
biết, Ngài tự cầm đèn viết bài kệ ở vách phương Nam để trình chỗ tâm
mình thấy được. Bài kệ rằng:
Thân là cội bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi bặm.
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi bặm.
(Thân thị bồ-đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài.
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.)
Tâm như minh cảnh đài.
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.)
Ngài Thần Tú viết kệ xong, liền trở về phòng, mọi người đều chẳng
biết. Thần Tú lại suy nghĩ: “Ngày mai Ngũ Tổ thấy bài kệ, nếu hoan hỉ
tức ta cùng pháp có duyên, nếu nói không kham, tự là ta mê, nghiệp duyên
đời trước nặng nề, không hợp được pháp, thật là Thánh ý khó lường.”
Trong phòng suy nghĩ, ngồi nằm chẳng an cho đến canh năm.
Ngũ Tổ đã biết Thần Tú vào cửa chưa được, không thấy Tự tánh. Sáng
hôm sau, Tổ gọi ông Lư Cung Phụng đến hành lang phía Nam để vẽ đồ tướng
trên vách, chợt thấy bài kệ, Ngài bảo Cung Phụng rằng: “Thôi chẳng cần
phải vẽ, nhọc công ông từ xa đến. Trong kinh có nói: phàm những gì có
tướng đều là hư vọng, chỉ để lại một bài kệ này cho người tụng đọc
thọ trì, y bài kệ này tu thì khỏi đọa trong ác đạo, y bài kệ này tu thì
được lợi ích lớn.” Khiến đồ đệ thắp hương lễ bái cung kính và tụng đọc
bài kệ này tức được thấy tánh. Môn nhân tụng bài kệ đều khen: “Hay thay!”
Đến canh ba, Tổ mới gọi Thần Tú vào trong thất hỏi: “Kệ đó, phải ông
làm chăng?” Ngài Thần Tú thưa: “Thật là con làm, chẳng dám vọng cầu Tổ
vị, chỉ mong Hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?” Tổ
bảo: “Ông làm bài kệ này chưa thấy được Bản tánh, chỉ đến ngoài cửa,
chưa vào được trong cửa, kiến giải như thế tìm Vô thượng Bồ-đề, trọn
không thể được. Vô thượng Bồ-đề phải được ngay nơi lời nói mà biết Bản
tâm mình, thấy được Bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt, đối trong tất
cả thời mỗi niệm mỗi niệm tự thấy, muôn pháp đều không kẹt, một chân tất
cả đều chân, muôn cảnh tự như như, Tâm như như đó tức là chân thật. Nếu
thấy được như thế tức là Tự tánh Vô thượng Bồ-đề. Ông hãy đi, một hai
ngày sau, suy nghĩ làm một bài kệ khác đem lại tôi xem, bài kệ của ông
nếu vào được cửa, sẽ trao y pháp cho ông.” Ngài Thần Tú làm lễ lui ra,
trải qua mấy ngày, làm kệ cũng không thành, trong tâm hoảng hốt, thần tư
bất an, ví như ở trong mộng, đi ngồi không vui.
Lại hai ngày sau, có một chú bé đi qua chỗ giã gạo, đọc bài kệ này.
Huệ Năng vừa nghe liền biết bài kệ này chưa thấy được Bản tánh. Tuy chưa
nhờ chỉ dạy mà sớm đã biết được đại ý, bèn hỏi chú bé: “Tụng đó là kệ gì?”
Chú bé đáp: “Cái ông nhà quê không biết, Đại sư nói: Người đời sanh tử
là việc lớn, muốn được truyền y pháp, khiến đệ tử làm kệ trình Ngài xem,
nếu ngộ được đại ý, liền trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú
viết bài kệ Vô tướng ở vách hành lang phía Nam, Đại sư khiến người đều
đọc, y kệ này tu sẽ khỏi đọa đường ác, y kệ này tu sẽ có lợi ích lớn.”
Huệ Năng thưa: “Thượng nhân, đã hơn tám tháng, tôi ở nhà trù giã gạo,
chưa từng đến nhà trên, mong thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ lễ bái(2).” Chú bé dẫn Ngài đến trước bài kệ lễ bái. Huệ Năng bảo: “Huệ Năng
không biết chữ, nhờ thượng nhân vì tôi đọc.” Khi ấy có quan Biệt giá ở
Giang Châu họ Trương tên Nhật Dụng liền to tiếng đọc. Huệ Năng nghe rồi
bèn nói: “Tôi cũng có một bài kệ, mong Biệt giá vì tôi viết.” Quan Biệt
giá nói: “Ông cũng làm kệ nữa sao? Việc này thật ít có!” Huệ Năng nói
với Biệt giá rằng: “Muốn học đạo Vô thượng Bồ-đề, không được khinh người
mới học. Kẻ hạ hạ cũng có cái trí thượng thượng, còn người thượng thượng
cũng không có ý trí. Nếu khinh người thì có vô lượng vô biên tội.” Quan
Biệt giá nói: “Ông chỉ tụng kệ, tôi vì ông viết, ông nếu được pháp,
trước phải độ tôi, chớ quên lời này.” Huệ Năng đọc bài kệ:
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm?
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm?
(Bồ-đề bản vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài.
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?)
Minh cảnh diệc phi đài.
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?)
Khi viết bài kệ rồi, đồ chúng thảy đều kinh hoàng, không ai mà chẳng
xuýt xoa, mọi người bảo nhau rằng: “Lạ thay! Không thể do tướng mạo mà
đoán người, đã bao lâu nay sai Nhục thân Bồ-tát làm việc.” Tổ thấy cả
chúng đều kinh ngạc, sợ có người làm hại, mới lấy giày xóa hết bài
kệ, nói: “Cũng chưa thấy tánh.” Chúng cho là đúng. Ngày kế Tổ thầm đến
chỗ giã gạo thấy Huệ Năng đeo đá giã gạo, mới bảo rằng: “Người cầu đạo
vì pháp quên mình đến thế ư?” Tổ lại hỏi: “Gạo trắng hay chưa?” Huệ Năng
thưa: “Gạo trắng đã lâu, còn thiếu giần sàng.” Tổ lấy gậy gõ vào cối ba
tiếng rồi đi. Huệ Năng liền hội được ý Tổ, đến khi trống đổ canh ba liền
lén vào thất. Tổ lấy ca-sa che chung quanh không để người thấy, vì nói
kinh Kim Cang, đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Huệ Năng ngay
lời đó đại ngộ, thấy tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự tánh, liền thưa Tổ
rằng:
Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ Tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ Tự tánh vốn không dao động,
Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp!
Ngũ Tổ biết Huệ Năng đã ngộ được Bản tánh mới bảo: “Chẳng biết Bản
tâm, học pháp vô ích, nếu biết được Bản tâm mình, thấy được Bản tánh
mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của trời người, là Phật.” Canh ba
thọ pháp, người trọn không biết, Tổ liền truyền pháp đốn giáo và y bát,
nói rằng: “Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu, khéo tự hộ niệm, rộng độ chúng
hữu tình, truyền khắp đời sau, không khiến cho đoạn tuyệt. Nghe ta nói
kệ:
Hữu tình đến gieo giống,
Nhân đất quả lại sanh.
Vô tình cũng không giống,
Không tánh cũng không sanh.”
Nhân đất quả lại sanh.
Vô tình cũng không giống,
Không tánh cũng không sanh.”
(Hữu tình lai hạ chủng,
Nhân địa quả hoàn sanh.
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh.)
Nhân địa quả hoàn sanh.
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh.)
Tổ lại bảo: “Xưa Đại sư Đạt-ma ban đầu đến cõi này, người chưa tin
nên mới truyền y này để làm tín thể, đời đời truyền nhau, pháp thì dùng
tâm truyền tâm, đều khiến cho tự ngộ tự giải. Từ xưa Phật Phật chỉ
truyền Bản thể, thầy thầy thầm trao Bản tâm, y là đầu mối của sự tranh
giành, nên dừng ngay nơi ngươi, chớ truyền nữa. Nếu truyền y này thì
mạng của người nhận y cũng như sợi chỉ mành. Ông phải đi nhanh e người
hại ông.” Huệ Năng thưa: “Bây giờ con phải đi đâu?” Tổ bảo: “Gặp ấp Hoài
thì dừng, gặp ấp Hội thì ẩn.” Huệ Năng canh ba lãnh được y bát, thưa:
“Huệ Năng vốn là người miền Nam, không biết đường đi, làm sao ra được
bến đò?” Ngũ Tổ bảo: “Ông chẳng phải lo, ta tự đưa ông đi.” Tổ liền đưa
đến bến đò Cửu Giang, Tổ bảo lên thuyền, Ngũ Tổ bèn cầm chèo tự chèo.
Huệ Năng thưa: “Thỉnh Hòa thượng ngồi, để đệ tử chèo.” Tổ bảo: “Phải là
ta độ ông.” Huệ Năng thưa: “Khi mê thì Thầy độ, ngộ rồi thì tự độ. Độ
tên tuy là một nhưng chỗ dùng không đồng. Huệ Năng sanh nơi biên phương,
tiếng nói không đúng, nhờ Thầy truyền pháp nay đã được ngộ, chỉ nên Tự
tánh tự độ.” Tổ bảo: “Như thế! Như thế! Về sau Phật pháp do ông mà được
thạnh hành, ông đi ba năm, ta sẽ thệ thế. Nay ông đi an vui, nỗ lực
hướng về Nam, không nên nói pháp sớm, Phật pháp sẽ gặp tai nạn.” Huệ
Năng từ giã Ngũ Tổ rồi cất bước đi về phương Nam, trong khoảng hai tháng
đến ngọn núi Đại Dữu.
Ngũ Tổ trở về, mấy ngày không thượng đường, chúng nghi mới đến hỏi:
“Hòa thượng có ít bệnh, ít não chăng?” Ngài đáp: “Bệnh thì không, mà y
pháp đã về Nam rồi.” Chúng hỏi: “Ai là người được truyền?” Tổ bảo:
“Người có khả năng thì được.” Chúng liền biết. Khi đó vài trăm người
đuổi theo, muốn cướp y bát, một vị Tăng họ Trần, tên Huệ Minh, trước là
tướng quân bậc Tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, hết lòng theo tìm, chạy
trước mọi người, đuổi kịp Huệ Năng. Huệ Năng để y bát trên bàn thạch nói:
“Y này là biểu tín, có thể dùng sức mà tranh sao!” Huệ Năng liền ẩn
trong lùm cỏ, Huệ Minh đến cầm y lên mà không nhúc nhích, mới kêu rằng:
“Cư sĩ, cư sĩ! Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì y.” Huệ Năng bèn
bước ra ngồi trên bàn thạch. Huệ Minh liền làm lễ thưa: “Mong cư sĩ vì
tôi nói pháp.” Huệ Năng bảo: “Ông đã vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các
duyên, chớ sanh một niệm, tôi vì ông nói.” Huệ Minh im lặng giây lâu.
Huệ Năng bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là
Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Huệ Minh ngay câu nói đó liền đại
ngộ. Lại hỏi: “Ngoài mật ngữ, mật ý trên, còn có mật ý khác chăng?” Huệ
Năng bảo: “Vì ông nói tức không phải mật vậy, ông nếu phản chiếu thì mật
ở bên ông.” Huệ Minh thưa: “Huệ Minh tuy ở Huỳnh Mai, thật chưa có tỉnh
diện mục của chính mình, nay nhờ chỉ dạy như người uống nước lạnh nóng
tự biết. Nay cư sĩ tức là thầy của Huệ Minh.” Huệ Năng bảo: “Ông nếu như
thế thì tôi cùng ông đồng thờ thầy Huỳnh Mai, khéo tự hộ trì.” Huệ Minh
lại thưa: “Huệ Minh từ nay về sau nhằm chỗ nào đi?” Huệ Năng bảo: “Gặp
Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.” Huệ Minh liền lễ từ. Huệ Minh trở về,
xuống núi bảo những người đuổi theo: “Đi trên những đồi núi này trọn
không tìm ra tung tích, phải đi qua đường khác tìm.” Cả chúng đuổi theo
đều cho là đúng. Huệ Minh về sau đổi tên là Đạo Minh, đó là tránh chữ
đầu của tên Thầy.
Huệ Năng sau đến Tào Khê lại bị bọn người ác tìm đuổi mới ở nơi Tứ
Hội tị nạn trong đám thợ săn, trải qua mười lăm năm, khi đó cùng những
người thợ săn tùy nghi nói pháp. Những người thợ săn thường bảo giữ
giềng lưới, khi Huệ Năng thấy những con vật mắc lưới đều thả. Mỗi khi
đến bữa ăn, hái rau gởi luộc trong nồi thịt, hoặc có người hỏi thì đáp:
“chỉ ăn rau ở bên thịt”. Một hôm, mới suy nghĩ: “Thời hoằng pháp đã đến,
không nên trọn trốn lánh.” Huệ Năng liền đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu,
gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Khi ấy có gió thổi, lá
phướn động, một vị Tăng nói gió động, một vị Tăng nói phướn động, hai
người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động,
không phải phướn động, tâm nhân giả động.” Cả chúng đều ngạc nhiên. Ấn
Tông mời Huệ Năng đến chiếu trên gạn hỏi áo nghĩa, thấy Huệ Năng đối đáp,
lời nói giản dị mà nghĩa lý rất đúng, không theo văn tự. Ấn Tông nói:
“Cư sĩ quyết định không phải là người thường, đã lâu nghe y pháp của
Huỳnh Mai đi về phương Nam, đâu chẳng phải là cư sĩ?” Huệ Năng nói:
“Chẳng dám.” Ấn Tông liền làm lễ, xin đưa y bát đã được truyền cho đại
chúng xem. Ấn Tông lại thưa: “Huỳnh Mai phó chúc, việc chỉ dạy như thế
nào?” Huệ Năng bảo: “Chỉ dạy tức không, chỉ luận về kiến tánh, chẳng
luận thiền định giải thoát.” Ấn Tông thưa: “Sao chẳng luận thiền định
giải thoát?” Huệ Năng bảo: “Vì ấy là hai pháp, không phải là Phật pháp.
Phật pháp là pháp chẳng hai.” Ấn Tông lại hỏi: “Thế nào Phật pháp là
pháp chẳng hai?” Huệ Năng bảo: “Pháp sư giảng kinh Niết-bàn, rõ được
Phật tánh, ấy là Phật pháp là pháp chẳng hai. Như Bồ-tát Cao Quí Đức
Vương bạch Phật: Phạm tứ trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch và nhất xiển-đề
v.v... sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng? Phật bảo: Thiện căn có hai,
một là thường, hai là vô thường, Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải
vô thường, thế nên chẳng đoạn, gọi là chẳng hai; một là thiện, hai là
chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, ấy là
chẳng hai; uẩn cùng với giới, phàm phu thấy hai, người trí rõ thấu tánh
nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh.” Ấn Tông nghe nói hoan hỉ
chấp tay thưa: “Tôi giảng kinh ví như ngói gạch, nhân giả luận nghĩa ví
như vàng ròng.” Khi ấy vì Huệ Năng cạo tóc, nguyện thờ làm Thầy.
Huệ Năng bèn ở dưới cây bồ-đề khai pháp môn Đông Sơn. Huệ Năng được
pháp ở Đông Sơn, chịu tất cả những điều cay đắng, mạng giống như sợi chỉ
mành. Ngày nay được cùng với Sử quân, quan liêu, Tăng Ni, đạo tục đồng ở
trong hội này đâu không phải là duyên của nhiều kiếp, cũng là ở trong
đời quá khứ cúng dường chư Phật, đồng gieo trồng căn lành mới nghe cái
nhân được pháp môn đốn giáo này. Giáo ấy là các vị Thánh trước đã truyền,
không phải tự trí Huệ Năng được, mong những người nghe các vị Thánh
trước dạy, mỗi người khiến cho tâm được thanh tịnh, nghe rồi mỗi người
tự trừ nghi, như những vị Thánh đời trước không khác.
Cả chúng nghe pháp đều hoan hỉ làm lễ rồi lui.
(1) Đây là dụ cho người lợi căn thấy cơ thì
làm.
(2) Có bản
nói: Tôi cũng cần tụng bài kệ này để kết duyên.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment