Vì vậy trước
là làm điều thiện rồi sau lồng cái ác vào, đến khi tức giận thì nói nặng lời,
hoặc có thể hại người nữa; cho nên trong cái thiện mà chấp thì nó dễ biến thành
ác...
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543
Phẩm
Thứ Sáu: Sám Hối
DỊCH
Khi ấy Tổ thấy sĩ thứ bốn phương từ Quảng Châu, Thiều Châu đua nhau đến trong núi nghe pháp, Tổ mới đăng tòa bảo chúng:
Đến đây, các Thiện tri
thức, tánh này phải từ trong Tự tánh mà khởi, trong tất cả thời, mỗi niệm tự
tịnh tâm kia, tự tu, tự hành, thấy Pháp thân của mình, thấy tâm Phật của mình,
tự độ, tự giới mới được, không nhờ đến đây. Đã từ xa đến, một hội ở đây đều
cùng có duyên, nay có thể mỗi vị quì gối, trước tôi vì truyền cho Tự tánh Ngũ phần
Pháp thân hương, kế đó là trao Vô tướng sám hối.
Chúng đều quì gối, Tổ
bảo:
Một là Giới hương, tức
là trong tâm mình không có quấy, không có ác, không tật đố, không tham sân,
không cướp hại, gọi là Giới hương.
Hai là Định hương tức
là thấy các cảnh tướng thiện ác, Tự tâm chẳng loạn gọi là Định hương.
Ba là Tuệ hương là tâm mình không ngại, thường dùng trí
tuệ quán chiếu Tự tánh, chẳng tạo các ác, tuy tu các hạnh lành mà tâm không
chấp trước, kính bậc trên thương kẻ dưới, cứu giúp người cô bần, gọi là Tuệ
hương.
Bốn là Giải thoát hương
tức Tự tâm mình không có chỗ phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự
tại vô ngại gọi là Giải thoát hương.
Năm là Giải thoát tri kiến hương, Tự tâm đã không có chỗ phan duyên
thiện ác, không thể trầm không trệ tịch, tức phải học rộng nghe nhiều biết Bản
tâm mình, đạt được lý của chư Phật, hòa quang tiếp vật, không ngã không nhân,
thẳng đến Bồ-đề, Chân tánh không đổi, gọi là Giải thoát tri kiến hương.
Này Thiện tri thức,
hương này mỗi người tự huân ở trong, chớ hướng ra ngoài tìm.
Nay tôi vì các ông trao
Vô tướng sám hối để diệt tội trong ba đời, khiến được ba nghiệp thanh tịnh. Này
Thiện tri thức, mỗi người đồng thời nói theo lời tôi:
Đệ tử chúng con, từ
niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị ngu mê làm nhiễm, từ
trước có những nghiệp ác, ngu mê v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một
lúc tiêu diệt, hằng không khởi lại.
Đệ tử chúng con từ niệm
trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị kiêu cuống làm nhiễm, từ
trước có những nghiệp ác, kiêu cuống v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một
thời tiêu diệt, hằng không khởi lại.
Đệ tử chúng con từ niệm
trước, niệm hiện tại và niệm sau, mỗi niệm không bị tật đố làm nhiễm, từ trước
có những nghiệp ác, tật đố v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một lúc
tiêu diệt, hằng không khởi lại.
Này Thiện tri
thức, về trước là Vô tướng Sám hối. Thế nào gọi là sám? Thế nào gọi là hối? Sám là sám những lỗi về trước,
từ trước có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v... các tội, thảy đều
sám hết hằng không khởi lại, gọi đó là sám. Hối là hối những lỗi về sau, từ nay
về sau có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v... các tội, nay đã
giác ngộ, thảy đều hằng đoạn, lại không tạo lại, ấy gọi là hối, nên gọi là sám
hối. Người phàm phu ngu mê, chỉ biết sám lỗi trước, chẳng biết hối lỗi sau, do
vì không hối nên tội trước chẳng diệt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng
diệt, lỗi sau lại sanh, sao gọi là sám hối được.
Này Thiện tri thức, đã sám hối xong, vì Thiện
tri thức phát Tứ hoằng thệ nguyện, mỗi người phải dụng tâm chánh lắng nghe:
Tự tâm chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ,
Tự tâm phiền não vô
biên thệ nguyện đoạn,
Tự tánh pháp môn vô
tận thệ nguyện học,
Tự tánh Vô thượng
Phật đạo thệ nguyện thành.
Này Thiện tri thức,
cả thảy đâu chẳng nói: chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, nói thế ấy, vả lại
không phải là Huệ Năng độ.
Này Thiện tri thức,
chúng sanh trong tâm, chỗ gọi tâm tà mê, tâm cuống vọng, tâm bất thiện, tâm tật
đố, tâm ác độc, những tâm như thế trọn là chúng sanh, mỗi người nên Tự tánh tự
độ, ấy gọi là chân độ. Sao gọi là Tự tánh tự độ? Tức tự trong tâm những chúng
sanh tà kiến, phiền não, ngu si, đem chánh kiến mà độ. Đã có chánh kiến bèn sử dụng
trí Bát-nhã đánh phá những chúng sanh ngu si mê vọng, mỗi mỗi tự độ, tà đến thì
chánh độ, mê đến thì ngộ độ, ngu đến thì trí độ, ác đến thì thiện độ, độ như
thế gọi là chân độ. Lại phiền não vô biên thệ nguyện đoạn, đem Tự tánh Bát-nhã
trí trừ tâm tư tưởng hư vọng ấy vậy. Lại pháp môn vô tận thệ nguyện học, phải
tự thấy tánh của mình, thường hành chánh pháp, ấy gọi là chân học. Lại Vô
thượng Phật đạo thệ nguyện thành, đã thường hay hạ tâm hành nơi chân chánh, lìa
mê, lìa giác, thường sanh Bát-nhã trừ chân trừ vọng, tức thấy được Phật tánh, liền
ngay nơi lời nói, liền thành Phật đạo, thường nhớ tu hành, ấy là pháp nguyện
lực.
Này Thiện tri thức,
nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui
y giới. Này Thiện tri thức,
Qui y Giác Lưỡng túc tôn,
Qui y Chánh Ly dục tôn,
Qui y Tịnh Chúng trung tôn.
Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng
qui y tà ma ngoại đạo, dùng Tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện
tri thức qui y Tự tánh Tam Bảo. Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh vậy.
Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc hay lìa tài sắc, gọi là
Lưỡng túc tôn. Tự tâm qui y Chánh, niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến
tức là không nhân ngã cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn. Tự tâm
qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, Tự tánh đều không nhiễm trước gọi
là Chúng trung tôn. Nếu tu hạnh này, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ
sáng đến tối, thọ Tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng
thấy Phật thì nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng.
Này Thiện tri thức, mỗi người tự quan sát, chớ
lầm dụng tâm, kinh văn rõ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác,
tự Phật mà chẳng qui thì không có chỗ nào mà y được. Nay đã tự ngộ, mỗi người
phải qui y Tự tâm Tam Bảo, trong thì điều hòa tâm tánh, ngoài thì cung kính mọi
người, ấy là tự qui y vậy.
Này Thiện tri thức, đã qui y tự Tam Bảo xong,
mỗi người phải chí tâm, tôi vì nói một thể ba thân Tự tánh Phật, khiến các ông
thấy được ba thân rõ ràng tự ngộ Tự tánh. Phải nói theo tôi:
Nơi tự sắc thân qui y Thanh tịnh Pháp thân Phật,
Nơi tự sắc thân qui y Viên mãn Báo thân Phật,
Nơi tự sắc thân qui y Thiên bá ức Hóa thân Phật.
Này Thiện tri thức, sắc thân là nhà cửa không
thể nói qui hướng, ba thân Phật ở trong Tự tánh người đời thảy đều có, vì Tự tâm
mê không thấy tánh ở trong nên chạy ra ngoài tìm ba thân Như Lai, chẳng thấy ở
trong thân có ba thân Phật. Các ông lắng nghe tôi nói khiến các ông ở trong tự
thân thấy được Tự tánh có ba thân Phật. Ba thân Phật này từ nơi Tự tánh sanh,
chẳng phải từ ngoài mà được.
Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời
Bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc ác
tức sanh hạnh ác, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các
pháp ở trong Tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì
mây che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới
đều sáng, vạn tượng đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên
trời kia.
Này Thiện tri thức, trí như mặt trời, tuệ như
mặt trăng, trí tuệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm
che phủ Tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe được pháp
chân chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi Tự tánh muôn pháp
đều hiện. Người thấy tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật.
Này Thiện tri thức, Tự tâm qui y Tự tánh là qui
y chân Phật. Tự qui y là trừ bỏ trong Tự tánh tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm
siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm lấn người, tâm tà
kiến, tâm cống cao và hạnh bất thiện trong tất cả thời, thường tự thấy lỗi
mình, chẳng nói tốt xấu của người khác, ấy là tự qui y. Thường tự hạ tâm, khắp
hành cung kính tức là thấy tánh, thông đạt lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui
y.
Sao gọi là Viên mãn
Báo thân Phật? Thí như một ngọn đèn hay trừ ngàn năm tối, một trí tuệ hay diệt
muôn năm ngu. Chớ suy nghĩ về trước, đã qua không thể được. Thường phải nghĩ về
sau, mỗi niệm mỗi niệm tròn sáng, tự thấy Bản tánh. Thiện ác tuy là khác mà Bản
tánh không có hai, tánh không hai đó gọi là Tánh thật. Ở trong Thật tánh không
nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên mãn Báo thân Phật. Tự tánh khởi một niệm ác thì
diệt muôn kiếp nhân lành, Tự tánh khởi một niệm thiện thì được hằng sa ác hết,
thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy chẳng mất bản niệm gọi là Báo thân.
Sao gọi là Thiên bá ức Hóa thân Phật? Nếu chẳng
nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như không, một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy
nghĩ việc ác là hóa làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện thì hóa làm thiên đường,
độc hại thì hóa làm rồng rắn, từ bi thì hóa làm Bồ-tát, trí tuệ thì hóa làm
thượng giới, ngu si thì hóa làm hạ giới. Tự tánh biến hóa rất là nhiều, người
mê không hay tỉnh giác, mỗi niệm khởi ác thường đi trong con đường ác, xoay về
một niệm thiện, trí tuệ liền sanh, đây gọi là Tự tánh Hóa thân Phật.
Này Thiện tri
thức, từ Pháp thân suy nghĩ tức là Hóa thân Phật, niệm niệm Tự tánh tự kiến tức
là Báo thân Phật, tự ngộ tự tu, Tự tánh công đức, ấy là chân thật qui y. Da
thịt là sắc thân, sắc thân đó là nhà cửa, không nói là qui y vậy. Chỉ ngộ Tự
tánh ba thân tức là biết được Tự tánh Phật. Tôi có một bài tụng Vô tướng, nếu người
hay trì tụng, ngay nơi lời nói liền khiến cho ông, tội mê từ nhiều kiếp, một lúc
liền tiêu diệt. Tụng rằng:
Người
mê tu phước chẳng tu đạo,
Chỉ nói tu phước liền là đạo,
Bố thí cúng dường phước vô biên,
Trong tâm ba ác xưa nay tạo.
Nghĩ muốn tu phước để diệt tội,
Đời sau được phước, tội vẫn còn,
Chỉ hướng trong tâm trừ tội duyên,
Mỗi người Tự tánh chân sám hối.
Chợt gặp Đại thừa chân sám hối,
Trừ tà hành chánh tức không tội,
Học đạo thường nơi Tự tánh quán,
Tức cùng chư Phật đồng một loại.
Tổ ta chỉ truyền pháp đốn giáo,
Khắp nguyện kiến tánh đồng một thể,
Nếu muốn đời sau tìm Pháp thân,
Lìa các pháp tướng trong tâm sạch.
Nỗ lực tự thấy chớ lơ là,
Một niệm chợt dứt một đời thôi,
Nếu gặp Đại thừa được thấy tánh,
Thành tâm cung kính chấp tay cầu.
Chỉ nói tu phước liền là đạo,
Bố thí cúng dường phước vô biên,
Trong tâm ba ác xưa nay tạo.
Nghĩ muốn tu phước để diệt tội,
Đời sau được phước, tội vẫn còn,
Chỉ hướng trong tâm trừ tội duyên,
Mỗi người Tự tánh chân sám hối.
Chợt gặp Đại thừa chân sám hối,
Trừ tà hành chánh tức không tội,
Học đạo thường nơi Tự tánh quán,
Tức cùng chư Phật đồng một loại.
Tổ ta chỉ truyền pháp đốn giáo,
Khắp nguyện kiến tánh đồng một thể,
Nếu muốn đời sau tìm Pháp thân,
Lìa các pháp tướng trong tâm sạch.
Nỗ lực tự thấy chớ lơ là,
Một niệm chợt dứt một đời thôi,
Nếu gặp Đại thừa được thấy tánh,
Thành tâm cung kính chấp tay cầu.
(Mê nhân tu phúc bất tu đạo,
Chỉ ngôn tu phúc tiện thị đạo,
Bố thí cúng dường phúc vô biên,
Tâm trung tam ác nguyên lai tạo.
Nghĩ tương tu phúc dục diệt tội,
Hậu thế đắc phúc, tội hoàn tại,
Đãn hướng tâm trung trừ tội duyên,
Các Tự tánh trung chân sám hối.
Hốt ngộ Đại thừa chân sám hối,
Trừ tà hành chánh tức vô tội,
Học đạo thường ư Tự tánh quán,
Tức dữ chư Phật đồng nhất loại.
Ngô Tổ duy truyền thử đốn pháp,
Phổ nguyện kiến tánh đồng nhất thể,
Nhược dục đương lai mích Pháp thân,
Ly chư pháp tướng tâm trung tẩy.
Nỗ lực tự kiến mạc du du,
Hậu niệm hốt tuyệt nhất thế hưu,
Nhược ngộ Đại thừa đắc kiến tánh,
Kiền cung hiệp chưởng chí tâm cầu.)
Chỉ ngôn tu phúc tiện thị đạo,
Bố thí cúng dường phúc vô biên,
Tâm trung tam ác nguyên lai tạo.
Nghĩ tương tu phúc dục diệt tội,
Hậu thế đắc phúc, tội hoàn tại,
Đãn hướng tâm trung trừ tội duyên,
Các Tự tánh trung chân sám hối.
Hốt ngộ Đại thừa chân sám hối,
Trừ tà hành chánh tức vô tội,
Học đạo thường ư Tự tánh quán,
Tức dữ chư Phật đồng nhất loại.
Ngô Tổ duy truyền thử đốn pháp,
Phổ nguyện kiến tánh đồng nhất thể,
Nhược dục đương lai mích Pháp thân,
Ly chư pháp tướng tâm trung tẩy.
Nỗ lực tự kiến mạc du du,
Hậu niệm hốt tuyệt nhất thế hưu,
Nhược ngộ Đại thừa đắc kiến tánh,
Kiền cung hiệp chưởng chí tâm cầu.)
Tổ nói:
Này Thiện
tri thức, phải tụng lấy, y đây tu hành, ngay nơi lời nói mà thấy tánh, tuy cách
tôi ngàn dặm như thường ở bên cạnh tôi; nơi lời nói này mà chẳng ngộ tức là đối
diện với tôi mà cách xa ngàn dặm, đâu cần từ xa đến đây. Trân trọng đi được an
vui.
Cả chúng nghe pháp rồi không ai mà
chẳng khai ngộ, đều hoan hỉ phụng hành.
GIẢNG 1 - NGŨ
PHẦN PHÁP THÂN HƯƠNG
Khi ấy Tổ thấy sĩ
thứ bốn phương từ Quảng Châu, Thiều Châu đua nhau đến trong núi nghe pháp, Tổ
mới đăng tòa bảo chúng:
Đến đây, các Thiện tri
thức, tánh này phải từ trong Tự tánh mà khởi, trong tất cả thời, mỗi niệm tự
tịnh tâm kia, tự tu, tự hành, thấy Pháp thân của mình, thấy tâm Phật của mình,
tự độ, tự giới mới được, không nhờ đến đây. Đã từ xa đến, một hội ở đây đều cùng
có duyên, nay có thể mỗi vị quì gối, trước tôi vì truyền cho Tự tánh Ngũ phần
Pháp thân hương, kế đó là trao Vô tướng sám hối.
Trong phẩm Sám Hối này Tổ
dạy những phần sau đây: Ngũ phần Pháp thân hương, Vô tướng sám hối, Tứ hoằng
thệ nguyện v.v...
Trước hết chúng tôi giảng
về Ngũ phần Pháp thân hương. Đầu tiên Tổ thấy sĩ thứ từ xa đến núi nghe pháp,
Ngài mới bảo: Tánh này ở ngay trong tánh của mình mà khởi, không phải từ ngoài.
Như vậy muốn sống được Tự tánh của mình thì trong tất cả thời mỗi niệm tự tịnh
tâm mình, tự tu, tự hành, thấy được Pháp thân, thấy được tâm Phật của mình, tự
độ, tự giới mới được, không phải nhờ đến núi này.
Bây giờ quí vị đã lỡ đến
đây rồi, không lẽ làm thinh. Lẽ ra mỗi người phải tự tu, tự độ, nhưng quí vị đã
đến đây tức là có duyên với nhau. Vậy quí vị hãy quì gối xuống, trước tôi sẽ
truyền cho Tự tánh Ngũ phần Pháp thân hương, rồi sau sẽ trao cho Vô tướng sám
hối.
Chúng đều quì gối, Tổ
bảo:
Một là Giới hương, tức
là trong tâm mình không có quấy, không có ác, không tật đố, không tham sân,
không cướp hại, gọi là Giới hương.
Hai là Định hương tức
là thấy các cảnh tướng thiện ác, Tự tâm chẳng loạn gọi là Định hương.
Ba là Tuệ hương là tâm
mình không ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu Tự tánh, chẳng tạo các ác, tuy
tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, kính bậc trên thương kẻ dưới, cứu giúp
người cô bần, gọi là Tuệ hương.
Một là Giới hương, là ngay
ở trong tâm mình không có quấy, không có ác, không có tật đố, không có tham sân
và không có cướp hại. Hai là Định hương, tức là thấy những cảnh tướng tốt xấu
lành dữ ở bên ngoài mà tâm mình vẫn an nhiên bất động. Ba là Tuệ hương, đến đây
Tổ dạy từ cao đến thấp, cao là tâm mình vô ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu
Tự tánh, kế đó là không tạo những điều ác, và tuy làm các điều lành mà tâm không
chấp trước. Không tạo ác có khi làm được, còn khi tạo các điều lành mà không chấp
thì dễ hay khó? Tỉ dụ như có nhiều người thật tốt hay làm những điều lành, thấy
ai gặp nguy hiểm hoặc nghèo đói, liền theo khả năng giúp đỡ, thật là tốt, nhưng
giúp rồi thì nhớ hoài, giúp người này, lại kể cho người kia nghe. Như vậy tốt
thì tốt, điều thiện thì có làm mà tâm vẫn còn chấp trước. Cho nên khi mình giúp
đỡ ai, rồi mai chiều họ có vẻ quên ân bạc nghĩa thì mình tức giận. Vì vậy trước
là làm điều thiện rồi sau lồng cái ác vào, đến khi tức giận thì nói nặng lời,
hoặc có thể hại người nữa; cho nên trong cái thiện mà chấp thì nó dễ biến thành
ác. Vì vậy chúng ta không làm ác là tốt rồi, mà khi làm thiện cũng đừng chấp
nữa mới thật là hay, còn làm thiện mà chấp cũng không được. Chính điều này
chúng tôi đã thấy khá nhiều qua kinh nghiệm sống. Có một vị có phương tiện sống
dễ dàng, đem một đứa cháu mồ côi về nuôi nấng cho nó ăn mặc rất là đầy đủ, học
hành đàng hoàng. Duy có một điều là khi nổi giận kể công ơn nuôi dưỡng đủ điều;
khi đứa bé lớn lên nghe mãi lời kể ơn nó sanh chán nản, tự ái, chịu không nổi,
rồi bỏ đi. Vì vậy làm ơn mà sau trở thành oán, là vì chấp vào việc làm thiện
của mình. Cho nên chúng ta phải biết rõ điều thiện chúng ta làm rất tốt, rất
đáng khen, nhưng không chấp nữa thì cái tốt mới thật là tốt, đó gọi là Tuệ
hương. Nếu làm thiện mà còn chấp chưa phải là Tuệ hương. Điều ác không làm, và
làm tất cả điều lành lại không có chấp lành đó mới thật là tốt. Kế đến, trên
thì kính người trưởng thượng, dưới thì thương kẻ thấp kém hơn mình, tức là
người trên mình cung kính, kẻ dưới mình thương yêu, đồng thời gặp ai côi cút cô
bần mình giúp đỡ, được như vậy gọi là Tuệ hương.
Tổ dạy thật là kỹ vừa lý
vừa sự đầy đủ, lý tức là tâm vô ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu Tự tánh;
sự là không làm ác, hằng làm lành mà không chấp, kính người trên, thương kẻ
dưới, cứu giúp người cô bần, như vậy sự lý đầy đủ không thiếu sót. Nhưng có một
ít người học đạo không hiểu thấu đáo, nghe lời Phật lời Tổ dạy trong kinh phải
sống trở về Tự tâm Tự tánh của mình, rồi cứ chấp như vậy và nói tôi trở về Tự
tâm Tự tánh, ai làm gì thì làm cũng bất cần. Đó là bệnh chấp lý mà bỏ sự. Người
có trí tuệ biết sống trở về Tự tâm Tự tánh của mình, nhưng đối với người ngoài cũng
phải có trí tuệ, bỏ ác làm lành; để cho cái lành được viên mãn là đừng chấp; rồi
kính người trên thương kẻ dưới, đó mới là đạo đức. Nếu bảo đạo đức là trở về Tự
tâm mình, rồi đối với thiên hạ ngang ngang ngược ngược không kể ai hết, như vậy
gọi là đạo đức chăng? Chúng ta thấy rõ Tổ dạy thật là chí lý, đầy đủ cả hai mặt
lý và sự, không thiên lệch một bên nào. Đó là nói về Tuệ hương.
Bốn là Giải thoát hương
tức Tự tâm mình không có chỗ phan duyên, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự
tại vô ngại gọi là Giải thoát hương.
Giải thoát hương là tâm
mình không có dính mắc, chữ phan duyên có nghĩa là vin theo, là dính mắc. Chỗ
giải thoát này là tâm không dính mắc với ngoại cảnh, cũng không mắc kẹt với
điều nghĩ lành nghĩ dữ; giải thoát là như vậy. Đừng nghĩ giải thoát là bay bổng
lên mây xanh, mà giải thoát là tâm không chạy theo cảnh, không bị việc thiện
việc ác lôi cuốn, được tự tại vô ngại, gọi đó là Giải thoát hương.
Năm là Giải thoát tri
kiến hương, Tự tâm đã không có chỗ phan duyên thiện ác, không thể trầm không
trệ tịch, tức phải học rộng nghe nhiều biết Bản tâm mình, đạt được lý của chư Phật,
hòa quang tiếp vật, không ngã không nhân, thẳng đến Bồ-đề, Chân tánh không đổi,
gọi là Giải thoát tri kiến hương.
Này Thiện tri thức,
hương này mỗi người tự huân ở trong, chớ hướng ra ngoài tìm.
Đây là phần sâu hơn khi
chúng ta không chạy theo cảnh, không dính cảnh, cũng không nghĩ thiện, không
nghĩ ác, rồi mình mắc kẹt, chìm trong cái lặng lẽ đó, nên gọi là trầm không thủ
tịch. Khi đến đây rồi tức phải học rộng nghe nhiều biết Bản tâm mình, đạt được
lý của chư Phật, hòa quang tiếp vật. Thế nào là hòa quang tiếp vật? Chúng tôi
mượn một thí dụ để hiểu: Như mỗi buổi sáng mặt trời lên, nhìn lên trên nhà, nếu
là nhà tường nhà ngói, nhìn qua những chỗ kiếng, thấy ánh sáng rọi vào nhà. Nhìn
chỗ ánh sáng rọi vào, chúng ta thấy những hạt bụi lẫn lộn bay. Như vậy ánh sáng
là quang, bụi hòa lẫn trong chỗ ánh sáng đó. Nếu là nhà lá, qua mấy kẽ hở ánh
sáng rọi vào nhà, chúng ta thấy bụi bay loanh quanh. Như vậy hòa quang nói cho
đủ là hòa quang đồng trần, tức là đem ánh sáng hòa với bụi, đó là hình ảnh thí
dụ để chỉ người đạt được lý đạo rồi, không chấp ở chỗ thanh tịnh của mình mà đi
vào trong cuộc đời, lăn mình trong cảnh nhớp nhúa của xã hội, để làm lợi ích
chúng sanh. Người đạt đạo thanh tịnh ví dụ như ánh sáng, còn chúng sanh mê muội
ví như bụi, hai cái hòa nhau để mà tiếp dẫn tức là tiếp cứu, lợi tha, giúp đỡ
họ và đưa họ ra khỏi chỗ mê lầm. Khi cứu giúp đời như vậy, người đạt đạo không
có ngã, không có nhân, thẳng đến Bồ-đề, Chân tánh không đổi, gọi đó là Giải
thoát tri kiến hương.
Hương thứ năm này, mỗi
ngày chúng ta thắp hương cầu nguyện mà thật không biết chừng nào chúng ta thực
hành được. Hương thứ tư (Giải thoát hương) tuy khó mà còn có thể ráng làm, còn
hương thứ năm này đúng ra trong mười mục chăn trâu thuộc mục “buông thõng tay
vào chợ”. Chỗ này chúng tôi nhắc lại một lần nữa cho thật rõ: Giải thoát tri
kiến hương là gì? Tức là tâm mình đã không có bị phan duyên thiện ác, không
nghĩ thiện, không nghĩ ác rồi, mà cũng không mắc kẹt ở chỗ chìm nơi không, giữ
nơi tịch. Không nghĩ thiện, không nghĩ ác rồi, bây giờ phải học cho nhiều, hiểu
cho rộng, biết Bản tâm mình, và đạt được lý của Phật dạy, gọi đó là tâm thông
và thuyết thông. Được như vậy rồi phải lẫn lộn trong quần chúng để dìu dắt và
giáo hóa họ. Khi dìu dắt và giáo hóa chúng sanh mà không thấy ngã, thấy nhân, chỉ
một bề đưa họ tới Bồ-đề, mới là viên mãn bản nguyện. Đó là Giải thoát tri kiến
hương. Nếu bây giờ chúng ta qui y cho các Phật tử, lâu lâu kiểm sổ coi năm nay
được mấy trăm người qui y, đó cũng là còn ngã, còn nhân!
Đến đây chúng tôi nhắc
lại, mỗi khi quí vị đến chùa thường nghe niệm Ngũ phần Pháp thân hương.
Một là Giới hương tức là
trong tâm mình không quấy, không ác, không tật đố, không tham sân, không cướp
hại, đó là Giới hương.
Hai là Định hương, tức là
đối với tất cả cảnh tướng ác hay thiện, tốt hay xấu mình đều không có loạn, đó
là Định hương.
Ba là Tuệ hương tức là nơi
tâm mình không có ngăn ngại và thường dùng trí tuệ quán chiếu Tự tánh của mình,
đó là về lý; về sự thì phải không làm ác, tu các điều lành mà đừng chấp lành,
đồng thời kính bậc trên, thương kẻ dưới, cứu giúp kẻ cô bần, đó là Tuệ hương.
Bốn là Giải thoát hương,
tức là tâm mình không có chỗ phan duyên, nghĩa là không chạy theo cảnh cũng
không nghĩ thiện, không nghĩ ác, được tự tại vô ngại, đó là Giải thoát hương.
Năm là Giải thoát tri kiến
hương tức là tâm mình đã không chạy theo cảnh bên ngoài rồi, lại cũng không
chìm nơi không, kẹt nơi vắng lặng, mà phải học rộng hiểu nhiều, biết Bản tâm
mình rõ ràng, biết lý Phật một cách thấu đáo, để rồi lăn lộn trong quần chúng
tiếp dẫn họ mà không thấy có mình có người, đưa họ thẳng đến Bồ-đề, không có
chướng ngại, đó là Giải thoát tri kiến hương.
GIẢNG 2 - VÔ
TƯỚNG SÁM HỐI
Đến phần sám hối,
mỗi khi chúng ta sám hối phải thế nào cho đúng?
Nay tôi vì các ông trao
Vô tướng sám hối để diệt tội trong ba đời, khiến được ba nghiệp thanh tịnh. Này
Thiện tri thức, mỗi người đồng thời nói theo lời tôi:
Đệ tử chúng con, từ
niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị ngu mê làm nhiễm, từ trước
có những nghiệp ác, ngu mê v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một thời
tiêu diệt, hằng không khởi lại.
Đệ tử chúng con từ niệm
trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị kiêu cuống làm nhiễm, từ
trước có những nghiệp ác, kiêu cuống v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện
một thời tiêu diệt, hằng không khởi lại.
Đệ tử chúng con từ niệm
trước, niệm hiện tại và niệm sau, mỗi niệm không bị tật đố làm nhiễm, từ trước
có những nghiệp ác, tật đố v.v... các tội, thảy đều sám hối, nguyện một lúc
tiêu diệt, hằng không khởi lại.
Đây là Tổ đã trao pháp Vô
tướng sám hối, tức Ngài dạy chúng ta sám hối từng tâm niệm, niệm trước, niệm
hiện nay và niệm sau, mỗi niệm do ngu mê, do kiêu cuống, do tật đố làm ô nhiễm,
tạo thành tội, đều xin sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, từ đây về sau không
có khởi lại. Như vậy sám hối ngu mê, sám hối kiêu cuống, sám hối tật đố và
nguyện không có khởi lại, gọi là “Vô tướng sám hối”. Ngu mê là si, kiêu cuống
là tham, tật đố là sân. Tức là sám hối tất cả tội lỗi do tham sân si gây ra đều
thanh tịnh.
Sau đây Tổ định nghĩa Sám
hối là gì.
Này Thiện tri thức, về
trước là Vô tướng sám hối. Thế nào gọi là sám? Thế nào gọi là hối? Sám là sám
những lỗi về trước, từ trước có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuống, tật đố
v.v... các tội, thảy đều sám hết hằng không khởi lại, gọi đó là sám. Hối là hối
những lỗi về sau, từ nay về sau có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v...
các tội, nay đã giác ngộ, thảy đều hằng đoạn, lại không tạo lại, ấy gọi là hối,
nên gọi là sám hối. Người phàm phu ngu mê, chỉ biết sám lỗi trước, chẳng biết
hối lỗi sau, do vì không hối nên tội trước chẳng diệt, lỗi sau lại sanh. Tội
trước đã chẳng diệt, lỗi sau lại sanh, sao gọi là sám hối được?
Như vậy sám hối là gì? Sám
là sám những lỗi trước, còn hối là chừa những lỗi sau. Tỉ dụ như trong chúng ta
có một Phật tử đã nguyện trước Tam Bảo giữ năm giới, trong ấy có giới không
uống rượu. Một hôm nhân đi chơi với bạn bè, bất thần bị rủ vào ngồi quán, khi
đó từ chối không được, uống hết một chung rượu. Đến khi về nhà, nghĩ lại biết
mình có lỗi vì đã hứa trước Tam Bảo không được uống rượu; bữa nay vì bị rủ rê,
lỡ uống rượu rồi, tức nhiên phải sám, nghĩa là đến trước Phật hoặc chư Tăng
thưa rằng: “Con tên gì, pháp danh gì, trước đã nguyện giữ giới không uống rượu.
Hôm nay vì si mê nên bị bạn bè rủ, con không giữ giới được, ngày nay con xin
sám lỗi trước của con đã làm.” Chỉ sám như vậy chưa đủ, mà phải hối nữa: “Con nguyện
từ nay về sau chừa cải không dám uống rượu nữa.” Có hối như vậy mới tránh được
lỗi trước; nếu chỉ sám lỗi trước thôi, còn từ nay về sau không dám hứa chừa
lỗi, như vậy không khỏi sẽ tái phạm lỗi cũ. Cho nên chúng ta sám lỗi trước mà
cũng phải hứa từ đây về sau nhất định không phạm lại điều đó nữa, thì mới đủ ý
nghĩa sám hối. Đa số chúng ta bây giờ thường sám lỗi trước thôi, còn phần sau
thì để dành lại. Cho nên đến ngày ba mươi, ngày rằm đi tới chùa sám hối, vài
ngày sau phạm y lỗi cũ; rồi đến ngày ba mươi, ngày rằm lại đi sám hối nữa, như
thế hết năm này đến năm kia cũng không hết tội. Đó là vì lầm lẫn, không hiểu
đúng ý nghĩa sám hối. Cho nên phải hiểu sám hối là nguyện sám lỗi trước, và
nguyện chừa lỗi sau, như vậy mới gọi là sám hối.
GIẢNG 3 - TỨ
HOẰNG THỆ NGUYỆN
Này Thiện tri
thức, đã sám hối xong, vì Thiện tri thức phát Tứ hoằng thệ nguyện, mỗi người
phải dụng tâm chánh lắng nghe:
Tiếp theo là phần Tứ hoằng
thệ nguyện, bài nguyện này chúng ta hằng tụng trong mỗi buổi chiều tối. Ở đây
Tổ dạy chúng ta có khác hơn một chút là:
Tự tâm chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ,
Tự tâm phiền não vô
biên thệ nguyện đoạn,
Tự tánh pháp môn vô tận
thệ nguyện học,
Tự tánh Vô thượng Phật
đạo thệ nguyện thành.
Này Thiện tri thức, cả
thảy đâu chẳng nói: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, nói thế ấy, vả lại không phải
là Huệ Năng độ.
Tổ dạy như vậy, còn chúng
ta luôn luôn đọc: “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ...” như vậy là ai độ mình,
hay mình độ ai? Tổ bảo là không phải Ngài độ chúng ta được, Tổ dạy chúng sanh
đây là chúng sanh ở trong tâm, chớ không phải chúng sanh bên ngoài. Chúng sanh
trong tâm là gì?
Này Thiện tri thức,
chúng sanh trong tâm, chỗ gọi tâm tà mê, tâm cuống vọng, tâm bất thiện, tâm tật
đố, tâm ác độc, những tâm như thế trọn là chúng sanh, mỗi người nên Tự tánh tự
độ, ấy gọi là chân độ.
Cho nên chúng ta học Tổ
rồi mới hiểu được ý kinh. Như trong kinh Kim Cang Phật bảo: “độ tất cả chúng
sanh vào Vô dư Niết-bàn”, nếu hiểu theo nghĩa chúng sanh bên ngoài thì không
bao giờ hiểu nổi ý kinh. Nhờ Tổ giải chúng ta mới hiểu chúng sanh đây là chúng
sanh ở trong tâm của mình. Chúng sanh trong tâm mình là chúng sanh nào? Tức là
chúng sanh tà mê, chúng sanh cuống vọng, chúng sanh bất thiện, chúng sanh tật
đố, chúng sanh ác độc, chính những tâm đó là chúng sanh, chớ không có chúng
sanh nào khác. Tâm tà mê dấy lên là chúng sanh, tâm cuống vọng dấy lên là chúng
sanh, tâm bất thiện dấy lên là chúng sanh, tâm tật đố dấy lên là chúng sanh,
tâm ác độc dấy lên là chúng sanh, tất cả những tâm đó dấy lên đều là chúng sanh
cả, độ hết tất cả những chúng sanh ấy, cho nên gọi là Tự tánh tự độ, tức là chúng
ta độ ngay trong Tự tánh của mình, chớ không phải độ ở ngoài, ấy gọi là chân
độ, mới thật là độ chân chánh vậy.
Sao gọi là Tự tánh tự
độ? Tức tự trong tâm những chúng sanh tà kiến, phiền não, ngu si, đem chánh
kiến mà độ. Đã có chánh kiến bèn sử dụng trí Bát-nhã đánh phá những chúng sanh
ngu si mê vọng, mỗi mỗi tự độ, tà đến thì chánh độ, mê đến thì ngộ độ, ngu đến
thì trí độ, ác đến thì thiện độ, độ như thế gọi là chân độ.
Độ như vậy mới gọi là độ
chân thật. Trong chúng ta đâu có người nào ích kỷ, phải vậy không? Ngày nào
chúng ta cũng độ chúng sanh bên ngoài, nhưng chúng sanh ngay trong tâm mình,
mình không độ. Độ được chúng sanh trong tâm, mới độ được chúng sanh ở ngoài;
chúng sanh trong tâm mà độ không được, thì chúng sanh ở ngoài không bao giờ độ
được, tại sao vậy? Tỉ dụ chúng sanh tật đố, chúng sanh sân hại mà mình chưa độ
hết, lại độ người ở ngoài, khi tật đố hay sân hại dấy lên thì thế nào? Lúc ấy
muốn đánh họ, muốn giết họ. Thành ra không thể nào độ được chúng sanh ở ngoài, nếu
chúng sanh ở trong chưa độ được. Vì vậy ở đây chúng ta phải độ chúng sanh ở trong
trước, đó mới thật là độ. Nhưng khổ thay người tu chúng ta hiện nay muốn làm
Bồ-tát quá sớm, lo độ chúng sanh ở ngoài mà chúng sanh ở trong không chịu độ,
cho nên làm Bồ-tát một lúc rồi sanh sân hận, là vì độ ở ngoài rồi bị kẹt, ban
đầu thì rất tốt nhưng sau hết tốt đi, đó là chỗ lầm lẫn của mình. Cho nên chúng
ta lúc nào cũng sẵn sàng độ chúng sanh, mà gần nhất là chúng sanh trong tâm
mình phải ráng độ nó trước, sau đó độ chúng sanh ở ngoài mới được. Độ chúng
sanh trong tâm mới là chân độ, đó là Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Lại phiền não vô biên
thệ nguyện đoạn, đem Tự tánh Bát-nhã trí trừ tâm tư tưởng hư vọng ấy vậy.
Tức là đem Trí tuệ Bát-nhã
của Tự tánh mình trừ dẹp những tâm tư hư vọng v.v… Độ hết những tâm đó gọi là
Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn.
Lại pháp môn vô tận thệ
nguyện học, phải tự thấy tánh của mình, thường hành chánh pháp, ấy gọi là chân
học.
Học đây là học ngay nơi Tự
tánh của mình, tức là học pháp môn nào mà ngộ được Tự tánh của mình, chớ không
phải học những gì khác ở ngoài. Cho nên nói pháp môn vô tận thệ nguyện học là
như vậy.
Lại Vô thượng Phật đạo
thệ nguyện thành, đã thường hay hạ tâm hành nơi chân chánh, lìa mê, lìa giác,
thường sanh Bát-nhã trừ chân trừ vọng, tức thấy được Phật tánh, ngay nơi lời nói,
liền thành Phật đạo, thường nhớ tu hành, ấy là pháp nguyện lực.
Tức là phải thấp tâm hạ
lòng mình xuống, lìa hai bên mê giác, chân vọng, nghĩa là không bị mắc kẹt hai
bên; ngay nơi một câu hay một lời nói liền thành Phật đạo. Đó là sức mạnh của
nguyện mình.
Tóm lại trong phần “Tứ
hoằng thệ nguyện”, Lục Tổ dạy chúng ta thệ nguyện như sau: Tự tâm chúng sanh
của mình, mình phải độ, Tự tâm phiền não của mình, mình cũng phải đoạn. Rồi
nguyện học vô tận pháp môn tức là học pháp môn tự thấy tánh (kiến tánh), do
thấy tánh để hành chánh pháp. Rồi do không mắc kẹt hai bên mê giác, chân vọng,
ngay nơi đó liền thành Phật đạo.
GIẢNG 4 - VÔ
TƯỚNG TAM QUI Y GIỚI
Này Thiện tri
thức, nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng
Tam qui y giới. Này Thiện tri thức,
Qui y Giác Lưỡng túc tôn,
Qui y Chánh Ly dục tôn,
Qui y Tịnh Chúng trung tôn.
Kế đến Tổ trao Vô tướng
Tam qui y giới. Thường ở chùa chúng ta hay đọc: qui y Phật Lưỡng túc tôn, qui y
Pháp Ly dục tôn, qui y Tăng Chúng trung tôn, nhưng Lục Tổ lại dạy khác: qui y
Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Vậy
Giác là giác của Tự tâm, Chánh là chánh của Tự tâm, và Tịnh là tịnh của Tự tâm,
đây là Phật Pháp Tăng của Tự tâm; còn chúng ta qui y Phật Pháp Tăng ở ngoài,
cho nên khác nhau ở chỗ đó.
Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng qui y tà ma ngoại
đạo, dùng Tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện tri thức qui y Tự
tánh Tam Bảo: Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh vậy.
Như vậy qui y Giác là qui
y Phật, đó là Phật của chính mình, không phải Phật nào khác. Giác, Chánh, Tịnh
là sẵn nơi Tự tâm của mình, chớ không ở đâu xa.
Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lìa tài sắc,
gọi là Lưỡng túc tôn.
Chữ túc là chân, cũng có
nghĩa là đủ. Lưỡng túc tôn là hai cái đầy đủ tức là tà mê chẳng sanh, thiểu dục
tri túc hay lìa tài và sắc, lìa tài lìa sắc đó là lưỡng túc, hai cái đủ, lìa tà
mê là hai cái đủ. Hai cái đó đều lìa được gọi là Lưỡng túc tôn.
Tự tâm qui y Chánh, niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến tức là
không nhân ngã cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn.
Chánh tức là chánh kiến;
bởi chánh kiến nên không có tà kiến; bởi không tà kiến nên mình không có chấp
nhân, chấp ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, lìa những tham dục, đó gọi là Ly
dục tôn.
Tự tâm qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, Tự tánh đều không
nhiễm trước gọi là Chúng trung tôn.
Qui y Tịnh tức là trở về
tâm thanh tịnh của mình, thì tất cả các trần lao, ái nhiễm v.v... ngay Tự tánh
mình đều không nhiễm trước, gọi đó là Chúng trung tôn. Như vậy Tổ đều qui hướng
Phật, Pháp, Tăng trở về Tự tâm mình.
Nếu tu hạnh này, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ sáng đến tối,
thọ Tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì
nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng.
Tổ giải thích, như chúng
ta phát nguyện trước Tam Bảo: Qui y Phật, thử hỏi Phật ở đâu? Nếu nói Phật trên
bàn thờ thì Phật có nói câu nào mà nương với Ngài được? Còn nếu nói Phật ở Ấn
Độ thì Ngài đã tịch hơn hai ngàn năm trăm năm rồi. Như nói qui y là nương về,
nương về với hình tượng không biết nói năng, hay nương về với Phật xa xưa đã
mất từ lâu rồi, đó là nương về cái rỗng. Cho nên Tổ bảo nương về Tánh giác của
mình, đó là qui y Phật. Tánh giác nơi mình mới là thật, mới là chỗ để trở về.
Nếu chúng ta không đạt được lý này, thành ra nói rỗng, không có lẽ thật.
Qui y Pháp, Pháp tức là
Chánh, đây là chánh kiến, hằng thấy được điều tà ngoại không theo, đó là qui y
Pháp. Qui y Tăng, Tăng tức là Tịnh, đó là Tâm thanh tịnh của mình. Như vậy Tổ
muốn dạy chúng ta xoay trở về Tự tâm thanh tịnh của mình, có đầy đủ Tam Bảo, đó
mới là qui y chân thật, đó mới là chỗ qui hướng đạt đạo; còn nếu chúng ta cứ
hướng về bên ngoài khơi khơi như vậy, thì biết đến bao giờ đạt đạo! Đó là điều
căn bản cần phải hiểu. Cho nên trong mỗi thời khóa tụng kinh đều có hai đợt lạy
Tam Bảo: Phần đầu sau khi tán dương Phật rồi, chúng ta lạy ba lạy là lạy Tam
Bảo ở ngoài, tức là Tam Bảo mười phương đã có công giáo hóa chúng ta. Đến phần cuối
khi chấm dứt thời kinh, chúng ta lạy ba lạy: Tự qui y Phật, tự qui y Pháp, tự qui
y Tăng, là lạy Phật, Pháp, Tăng của mình. Đức Phật xa xưa là bậc trưởng thượng
chúng ta lạy là phải, nhưng vì sao mình lạy mình? Tự qui y là:
“Tự qui y Phật, đương
nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.” Chúng tôi giải thích
ý nghĩa của buổi lễ. Tự qui y Phật là trở về nương tựa ông Phật của mình, tức
là Tánh giác. Đương nguyện chúng sanh là nguyện cho tất cả chúng sanh. Thể giải
đại đạo là thể nhập và hiểu thấu đạo lớn. Phát vô thượng tâm là phát tâm vô
thượng. Phần trước chúng ta lạy Tam Bảo ở ngoài là vì lòng thành kính và ngưỡng
mộ, còn ở đây mình lạy với tánh cách thệ nguyện, mình biết trở về Phật của mình,
rồi nguyện cho tất cả chúng sanh đều hiểu được đạo lớn và phát tâm vô thượng.
Vì biết trở về ông Phật của mình, mà chúng sanh chưa biết, nên mình lạy nguyện với
Tam Bảo cho tất cả chúng sanh sẽ được như con, tức là trở về Phật của mình, hiểu
được đại đạo và phát tâm vô thượng như con vậy.
“Tự qui y Pháp, đương
nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.” Tức là mình biết trở
về với Pháp của nội tâm mình là chánh kiến, nhưng nhớ đến chúng sanh chưa biết
điều đó, nên mình nguyện tất cả chúng sanh đều thâm nhập được kinh tạng, vào
trí tuệ rộng như biển cả.
“Tự qui y Tăng, đương
nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại.” Khi biết trở về với
vị Tăng của mình, tức là tâm thanh tịnh của mình, chúng ta nguyện tất cả chúng
sanh thống lý đại chúng tức là quản lý tất cả chúng, mà không có chướng ngại.
Thường trong nhà Phật nói rằng chúng ta tu làm lợi ích cho mình cho người thì
dễ, nhưng nhiếp chúng là cả một vấn đề. Nhiếp chúng tức là coi chúng để dạy họ
sống hòa thuận an vui không bị phiền não rắc rối, đó là một chuyện hết sức khó.
Cho nên nguyện tất cả chúng sanh quản lý hết chúng mà không có chướng ngại.
Như vậy mỗi khi lễ Phật
rồi, chúng ta đều trở về Tam Bảo của Tự tâm, và không quên nghĩ đến chúng sanh
nên nguyện cho tất cả đều được ba điều lớn lao đó. Mỗi một lần tự qui y rồi,
chúng ta lạy Phật một lạy để thệ nguyện của mình được thực hiện. Biết được ý
nghĩa tự qui y là trở về qui hướng với Tam Bảo nơi mình, đó mới là nghĩa chân
thật vậy.
Này Thiện tri thức, mỗi người tự quan sát, chớ lầm dụng tâm, kinh văn
rõ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác, tự Phật mà chẳng qui
thì không có chỗ nào mà y được.
Tức là ông Phật của mình
mà mình không chịu trở về, thì không còn chỗ nào để mình nương được.
Nay đã tự ngộ, mỗi người phải qui y Tự tâm Tam Bảo, trong thì điều hòa
tâm tánh, ngoài thì cung kính mọi người, ấy là tự qui y vậy.
Này Thiện tri thức, đã qui y tự Tam Bảo xong, mỗi người phải chí tâm,
tôi vì nói một thể ba thân tự tánh Phật, khiến các ông thấy được ba thân rõ ràng
tự ngộ Tự tánh.
Sau phần tự qui y Tam Bảo,
Tổ nói về một thể ba thân Tự tánh Phật. Ba thân là Pháp thân, Báo thân và Hóa
thân, ba thân này là Tự tánh Phật của chính mình, đều là Tự tánh mình có sẵn,
chớ không đâu khác.
Phải nói theo tôi: Nơi tự Sắc thân qui y Thanh tịnh Pháp thân Phật,
nơi tự Sắc thân qui y Viên mãn Báo thân Phật, nơi tự Sắc thân qui y Thiên bá ức
Hóa thân Phật.
Này Thiện tri thức, Sắc thân là nhà cửa không thể nói qui hướng.
Nghĩa là Sắc thân mình
mang đây là nhà cửa để mình tạm trú, chớ không phải là chỗ để mình qui y, nay
mai nó tan rã, làm sao nương tựa nó được.
Ba thân Phật ở trong Tự tánh người đời thảy đều có, vì Tự tâm mê không
thấy tánh ở trong nên chạy ra ngoài tìm ba thân Như Lai, chẳng thấy ở trong
thân có ba thân Phật. Các ông lắng nghe tôi nói khiến các ông ở trong tự thân
thấy được Tự tánh có ba thân Phật. Ba thân Phật này từ nơi Tự tánh sanh, chẳng
phải từ ngoài mà được.
Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời Bản tánh là thanh
tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc ác tức sanh hạnh ác,
suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các pháp ở trong Tự tánh
như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì mây che phủ nên ở
trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng
đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như là mây trên trời kia.
Này Thiện tri thức, trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ
thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm che phủ Tự tánh
không được sáng suốt. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ
mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi Tự tánh muôn pháp đều hiện. Người
thấy tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật.
Trong đoạn văn trên Tổ
giải thích mỗi người chúng ta ai cũng có đủ ba thân Phật: Thanh tịnh Pháp thân
Phật, Viên mãn Báo thân Phật, Thiên bá ức Hóa thân Phật. Thanh tịnh Pháp thân
Phật là gì? Là chỉ cho mỗi người chúng ta đều có sẵn Bản tánh thanh tịnh, từ
Bản tánh đó dấy niệm nghĩ lành thì làm lành, dấy niệm nghĩ dữ thì làm dữ. Tỉ dụ
như có mấy đứa bé chừng năm, ba tuổi xuống biển tắm, thấy sóng nó hỏi: Sóng tại
sao mà có, hay sóng từ đâu có? Người lớn liền trả lời: Sóng từ nước mà có. Rõ
ràng sóng từ dưới nước dấy lên, nếu không có nước làm gì có sóng được. Nhưng
khi nước dấy lên thành sóng rồi, thì thể lặng của nước không còn. Cũng như vậy,
niệm thiện niệm ác từ đâu dấy lên? Rõ ràng là từ Tự tánh thanh tịnh dấy lên, nếu
không có Tánh thanh tịnh sẵn thì niệm thiện niệm ác đâu dấy được. Nhưng mình
chỉ nhớ niệm thiện niệm ác mà quên đi Tự tánh thanh tịnh, đó là điều quan trọng
của sự tu hành. Bởi có Tánh thanh tịnh nên mới dấy niệm thiện niệm ác, dấy niệm
thiện rồi làm thiện, dấy niệm ác rồi làm ác. Cho nên người biết nghĩ thiện,
biết nghĩ ác, biết nghĩ điều này, việc kia v.v... gốc là từ Tự tánh sẵn có. Tổ
bảo rằng nếu không có tánh thì người đó chết mất rồi. Khi niệm dấy lên, chúng
ta mải chạy theo niệm mà quên mất Tự tánh, nên Tổ dùng ví dụ sau đây hết sức rõ
ràng: Như mặt trời mặt trăng trong bầu trời trong chiếu sáng, ánh sáng bủa cùng
khắp, chợt có mây kéo đến che phủ mịt mù, nên ở trên sáng ở dưới tối. Khi gió
thổi mây tan thì trên dưới đều sáng tỏ. Bầu trời xanh trong là tỉ dụ cho Tự
tánh, do Tự tánh trong sạch nên trí tuệ mới hiện, mặt trời là trí, mặt trăng là
tuệ. Khi bị mây che phủ thì bầu trời tối lại, khi mây tan thì ánh sáng mặt trời
mặt trăng bủa cùng khắp. Cũng như vậy, Tự tâm chúng ta thanh tịnh, khi vọng
niệm vừa dấy khởi thì trí tuệ bị mờ tối, nếu niệm lặng xuống thì trí tuệ sáng
ngời. Như vậy muốn cho trí tuệ sáng thì đám mây vọng niệm phải tan. Nếu không
hiểu điều này, tu hành mà lo luyện phép v.v... làm sao trí tuệ phát hiện được.
Khi tất cả mây mù vọng tưởng tan rồi thì Tự tánh Thanh tịnh Pháp thân hiện.
Này Thiện tri thức, Tự tâm qui y Tự tánh là qui y chân Phật. Tự qui y
là trừ bỏ trong Tự tánh tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã,
tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm lấn người, tâm tà kiến, tâm cống cao và
hạnh bất thiện trong tất cả thời, thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói tốt xấu
của người khác, ấy là tự qui y. Thường tự hạ tâm, khắp hành cung kính tức là
thấy tánh thông đạt lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y.
Tự qui y là Tự tâm mình
trở về với Tự tánh mình, đó gọi là qui y chân Phật. Tự qui y là trừ hết trong
tâm mình những điều bất thiện như là tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã,
tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm mạn người, tâm tà kiến, tâm cống cao,
những tâm ác trong tất cả thời mình phải trừ sạch hết. Tổ lại dạy: Thường tự
thấy lỗi mình, không nói lỗi xấu của người khác, đó gọi là tự qui y. Rồi phải
tập thường hạ tâm mình và cung kính người khác, để thấy được Bản tánh, lại
không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y. Ở chỗ này nên hiểu, người thấy tánh khác hơn
người không thấy tánh, người không thấy tánh mà tu, càng tu càng tự cao tự đại
tự mãn; còn người thấy tánh càng tu lại càng thấp mình, càng khiêm hạ, vì sao? Bởi
vì càng tu càng thấy vô ngã, mà vô ngã thì cái gì cao? Người không thấy tánh tu
một lúc thấy mình được nhiều công đức, mình có những phép lạ, mình có thần thông,
thấy những điềm tốt, các người khác chưa được, do đó nên sanh tâm khinh người
mà tự cao. Ngược lại người thấy tánh mà tu thì biết thân này, tâm này là hư
giả, bởi biết hư giả nên càng tu càng hạ thấp nó xuống, càng mất nó chớ không
cao nó được, cao nó tức là ngã mạn, là tướng của si mê, mà si mê thì bao giờ
giác được. Hiểu đúng như vậy, mới thấy lời Tổ nói là chân lý. Người tu thường
phải thấp tâm xuống, cung kính người khác, thấy tánh thông suốt, không có ngăn
trệ, ấy là tự qui y.
Sao gọi là Viên mãn Báo thân Phật? Thí như một ngọn đèn hay trừ ngàn
năm tối, một trí tuệ hay diệt muôn năm ngu.
Điều này có tin được
không? Tỉ dụ như cái nhà tối mịt một ngàn năm, bây giờ muốn nó sáng lại thì
phải bao lâu? Chỉ cần thắp ngọn đèn đem vào nhà thì sáng ngay, cái tối ngàn năm
phút chốc liền mất. Hiện nay chúng ta tu cũng vậy, một phen trí tuệ sáng rồi
thì cái ngu của muôn năm cũng mất. Như khi tất cả chúng ta chưa được duyên học
đạo thì đối với thân này, đối với vọng tưởng này thấy là thật mình. Nhưng khi
học đạo rồi, có thể nghe Phật, Tổ nói một câu hai câu, chúng ta thấy rõ thân
này và vọng tưởng không phải là thật mình. Khi thấy rõ như vậy tức nhiên cái
ngu ngàn đời tự nó mất. Còn nếu không mất luôn thì lâu lâu cái ngu tái lại,
mình lại nhận thấy sự thật nữa, mãi rồi cái ngu cũng phải tan. Như vậy chúng ta
thấy rằng ngọn đèn trí tuệ một phen thắp lên thì cái ngu không bao giờ còn
được. Cho nên nói khi trí tuệ phát ra hay diệt được muôn năm ngu là như vậy.
Chớ suy nghĩ về trước, đã qua không thể được. Thường phải nghĩ về sau,
mỗi niệm mỗi niệm tròn sáng, tự thấy Bản tánh.
Ở đây Tổ dạy chúng ta đừng
suy nghĩ những lỗi về trước. Giả sử khi trước chúng ta có làm những điều gì sai
lầm, nay đã biết lỗi sám hối rồi thôi, không nên nhớ mãi các lỗi đã qua rồi
buồn tủi tu hành không được. Những lỗi gì qua rồi thì thành tâm sám hối, nguyện
từ nay về sau chừa bỏ, không tái phạm, sám hối xong là thôi, nếu còn hối hận
mãi đó là chướng đạo. Cho nên Tổ bảo chúng ta thường phải nghĩ về sau, trong
mỗi niệm tròn sáng, tự thấy Bản tánh.
Thiện ác tuy là khác mà Bản tánh không có hai, tánh không hai đó gọi
là Tánh thật.
Niệm thiện niệm ác tuy là
hai niệm khác nhau, nhưng trên Bản tánh nó không có hai, tánh không hai đó gọi
là Tánh thật. Tỉ dụ như khi ngồi tu, niệm niệm dấy khởi, hoặc là niệm lành,
hoặc là niệm dữ. Nhưng khi niệm lành hoặc dữ lặng xuống rồi, thì cái hằng biết
đó là lành hay dữ? Cái hằng biết trong tâm mình nghĩa là hằng biết lúc có niệm,
lúc không niệm, cái hằng biết ấy thuộc về lành hay dữ? - Nó không có lành dữ.
Cho nên khi dấy niệm, thì niệm niệm khác nhau, có lành có dữ, khi niệm lặng
xuống, chỉ có cái liễu tri thường hằng không có lành dữ, nên nói tánh không hai
mới là Tánh thật, còn niệm lành hay dữ không phải là cái thật. Tổ chỉ dạy rõ
như ban ngày không có gì phải nghi ngờ nữa. Dấy niệm lên thì có thiện ác là
thuộc về hai, mà hai thì không thật; niệm thiện hoặc ác lặng xuống trở về Bản tánh,
thì Bản tánh là không hai, mà không hai mới là Tánh chân thật, thật quá rõ
ràng. Thế nên chúng ta muốn sống với Tánh chân thật là phải dừng niệm thiện và
ác, nếu không hiểu lý này chúng ta sẽ thắc mắc, bỏ niệm ác thì được, vì sao lại
bỏ niệm thiện? Bởi vì thiện là đối với ác, những niệm đó còn dấy lên là sanh
diệt, lặng những cái sanh diệt ấy mới là chân thật, cái chân thật ở ngay nơi
đó, không đâu xa. Vì thế nói Bản tánh thì không hai, tánh không hai đó gọi là
Thật tánh.
Ở trong Thật tánh không nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên mãn Báo thân
Phật.
Nghĩa là trong Tánh thật
không có nhiễm thiện ác, đó là Viên mãn Báo thân Phật. Như vậy tìm đâu thấy
Phật? Chỉ có lặng hai niệm thiện ác thì Viên mãn Báo thân Phật hiện tròn đầy,
cho nên nói viên là tròn, mãn là đầy, Báo thân Phật là tròn đầy. Niệm dấy lên
là tướng sanh diệt, thiên lệch, hoặc là thiện hoặc là ác, hai cái thiên lệch đó
lặng xuống chỉ còn một Tánh giác tròn đầy, đó là Viên mãn Báo thân Phật. Vì vậy
ngay nơi mỗi người đều có Báo thân Phật, vì chúng ta không lặng được niệm thiện
ác cho nên không nhận được, nếu lặng được niệm thiện ác thì ngay nơi tâm mình
đã đầy đủ Báo thân Phật.
Tự tánh khởi một niệm ác thì diệt muôn kiếp nhân lành, Tự tánh khởi
một niệm thiện thì được hằng sa ác hết, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự
thấy chẳng mất bản niệm gọi là Báo thân.
Tự tánh khởi một niệm ác
thì diệt muôn kiếp nhân lành, Tự tánh khởi một niệm thiện thì cái ác dù nhiều
như số cát sông Hằng cũng đều hết sạch. Những niệm dấy lên nhưng mình không mất
bản niệm, tức là không mất Bản tánh hằng tri, đó gọi là Báo thân. Nói tóm lại,
Báo thân Phật là gì? Là do hai niệm thiện ác lặng xuống, chỉ còn một Tánh giác
thanh tịnh tròn đầy, đó là Báo thân Phật.
Sao gọi là Thiên bá ức Hóa thân Phật? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì
tánh vốn như không, một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác là hóa
làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện thì hóa làm thiên đường, độc hại thì hóa làm
rồng rắn, từ bi thì hóa làm Bồ-tát, trí tuệ thì hóa làm thượng giới, ngu si thì
hóa làm hạ giới. Tự tánh biến hóa rất là nhiều, người mê không hay tỉnh giác,
mỗi niệm khởi ác thường đi trong con đường ác, xoay về một niệm thiện, trí tuệ
liền sanh, đây gọi là Tự tánh Hóa thân Phật.
Nếu mình không khởi duyên
với muôn pháp thì tánh mình lặng lẽ như hư không, không có tướng mạo, dấy niệm
suy nghĩ liền biến hóa. Trăm ngàn muôn ức niệm ác mình biết xoay trở về thiện
tức là trở về với Tự tánh mình, đó là Hóa thân Phật. Dấy niệm ác bị dẫn đi
trong lục đạo, niệm lành thì dẫn đi đến các cõi lành. Nếu xoay ngàn muôn ức
niệm trở về Tự tánh, tức là chuyển cái biến hóa trở về cái thật, gọi đó là Hóa
thân Phật.
Như vậy Tổ chỉ cho chúng
ta thấy rõ ba thân Phật:
- Pháp thân là Tánh thanh
tịnh của mình.
- Báo thân là do lặng được
hai niệm thiện ác, chỉ còn cái liễu tri thường hằng.
- Hóa thân tức là xoay tất
cả niệm ác trở về Tự tánh.
Này Thiện tri thức, từ Pháp thân suy nghĩ tức là Hóa thân Phật, niệm
niệm Tự tánh tự kiến tức là Báo thân Phật, tự ngộ tự tu, Tự tánh công đức, ấy
là chân thật qui y. Da thịt là Sắc thân, Sắc thân đó là nhà cửa, không nói là
qui y vậy. Chỉ ngộ Tự tánh ba thân tức là biết được Tự tánh Phật.
Nếu căn cứ trên Pháp thân
dấy niệm đó là Hóa thân Phật, mỗi niệm mình đều thấy rõ Tự tánh của mình, đó là
Báo thân Phật. Chúng ta nói tự qui y nghĩa là trở về với Pháp thân, Báo thân,
Hóa thân Phật của Tự tâm, chớ không phải trở về với thân xác thịt hôi thúi này,
thân xác thịt này chỉ là nhà cửa che đậy bên ngoài không phải là thật. Nếu
chúng ta ngộ được Tự tánh mình có đủ ba thân Phật tức là biết được Tự tánh Phật.
GIẢNG 5 - BÀI
TỤNG VÔ TƯỚNG
Để kết thúc Tổ bảo:
Tôi có một bài tụng Vô tướng, nếu người hay trì tụng, ngay nơi lời nói
liền khiến cho ông, tội mê từ nhiều kiếp, một lúc liền tiêu diệt. Tụng rằng:
Mê nhân tu phúc bất tu đạo,
Chỉ ngôn tu phúc tiện thị đạo,
Bố thí cúng dường phúc vô biên,
Tâm trung tam ác nguyên lai tạo.
Chỉ ngôn tu phúc tiện thị đạo,
Bố thí cúng dường phúc vô biên,
Tâm trung tam ác nguyên lai tạo.
Tổ nhắc các cư sĩ tu hành: Người mê chỉ biết tu phước mà chẳng tu đạo, nghĩa là người mê chỉ biết
làm phước bên ngoài, mà không biết buông xả các điên đảo vọng tưởng để trở về Tâm
thể chân thật. Chỉ nói tu phước liền là đạo, chỉ nói chúng tôi làm phước, đó là
hợp với đạo rồi, đó là tu rồi. Tổ mới giải thích tiếp: Nếu phát tâm bố thí cho
kẻ nghèo, người đói, biết phát tâm cúng dường chư Tăng, chư Ni, đó là có phước
nhiều lắm chớ không phải là không, nhưng trong tâm ba ác xưa nay cứ tạo, tức là
ba ác tham sân si trong tâm chúng ta còn hoài. Biết bố thí, biết cúng dường thì
có phước thật, nhưng chưa hết ba độc. Trong hàng Phật tử chúng ta có nhiều
người biết bố thí, biết cúng dường mà ba độc vẫn còn nguyên. Muốn hết ba độc
tức phải hướng về tâm buông xả mới hết, không phải tu phước cúng dường là hết
ba độc. Nếu ba độc không hết thì làm sao thoát ly sanh tử, vì vậy nên nói tu
phước không phải là đạo. Ai muốn hưởng phước thì tu hạnh bố thí cúng dường, đó
là phước vô biên, đâu phải không có phước. Nhiều người không hiểu, khi nghe Tổ dạy
phải quay về Tự tánh thì nói: Như vậy tôi tu phước cúng dường không có phước
sao? Phước thì vẫn có, nhưng tham sân si thì không hết.
Nghĩ
tương tu phúc dục diệt tội,
Hậu thế đắc phúc tội hoàn tại,
Đãn hướng tâm trung trừ tội duyên,
Các Tự tánh trung chân sám hối.
Hậu thế đắc phúc tội hoàn tại,
Đãn hướng tâm trung trừ tội duyên,
Các Tự tánh trung chân sám hối.
Các người tu cứ nghĩ
rằng mình tu phước bố thí cúng dường là để hết tội, nhưng thật có hết tội
chăng? Cho nên Tổ dạy tiếp: Tu phước thì đời sau được phước, nhưng nếu làm tội
thì tội vẫn còn, tại sao vậy? Vì mình làm phước là tạo nhân phước, thì thọ quả
phước, nhưng ba độc vẫn còn nguyên. Vì vậy có khi làm phước mà vẫn sân, có khi
làm phước mà vẫn có niệm bất bình v.v... cho nên tội vẫn còn. Nhà Phật thường gọi
thân chúng ta hiện tại là thân tổng báo, tổng báo tức là cái quả báo chung trong
đó có lành có dữ, có thiện có ác v.v... người làm lành nhiều thì hiện ra nhiều
tướng tốt gặp nhiều phước duyên, người làm lành ít thì thiếu tướng tốt, và cũng
ít gặp phước duyên, nhưng cũng có một chút phước nên được sanh làm người. Vì
vậy nhiều người có phước thật nhiều, được sanh trong những gia đình đầy đủ sung
sướng, nhưng trái lại họ mang thân tật nguyền, vì sao? Vì trong khi làm phước
họ vẫn có làm tội, cho nên làm phước thì hưởng phước, tạo tội thì đền tội, thân
tổng báo của chúng ta là như vậy. Chúng ta có thể trong nhiều đời, làm phước
nhiều nên gặp được những điều tốt, điều thiện phù hợp với sở nguyện của mình,
nhưng lâu lâu cũng vẫn có xảy ra tai nạn hay có những điều bất như ý, đó là vì từ
đời trước đã tích lũy nhiều tội, nên bây giờ gặp duyên thì phải trả quả, chớ không
có gì lạ. Hiểu như vậy chúng ta không còn hoang mang trước những sự việc xảy ra
trong cuộc đời mình.
Chỉ hướng trong tâm trừ tội duyên,
đó mới là chân sám hối. Chúng ta phải nhìn thẳng trong tâm mình trừ những tội
duyên như là tâm tật đố, tâm bất thiện, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm hư dối,
tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm mạn người, tâm tà kiến v.v... cứ ngay trong
tâm mình dẹp sạch những tâm niệm đó, vì đó là duyên để tạo tội, nếu chúng ta
không nhằm vào đó để dẹp nó, thì làm sao hết tội được? Chúng ta chỉ biết tu
phước làm lành bên ngoài, thì không bao giờ đời mình được trọn vẹn an lành.
Muốn được an lành, chúng ta phải nhắm thẳng trong tâm mình, dẹp sạch các duyên
tạo tội thì đời sau mới được hết tội. Lục Tổ đã chỉ cho người tu chúng ta rõ
ràng như vậy.
Hốt ngộ
Đại thừa chân sám hối,
Trừ tà hành chánh tức vô tội,
Học đạo thường ư Tự tánh quán,
Tức dữ chư Phật đồng nhất loại.
Trừ tà hành chánh tức vô tội,
Học đạo thường ư Tự tánh quán,
Tức dữ chư Phật đồng nhất loại.
Chợt gặp pháp sám hối
chân thật của Đại thừa, biết trừ những tâm tà, hành những tâm chánh, đó mới là
không tội. Người học đạo thường ở trong Tự tánh mình mà quán sát, tức cùng với
chư Phật đồng một loại không khác. Nhìn lại mình để quán sát Tự tánh mình, bỏ
những lỗi lầm, dứt các tội duyên để trở về sống với Tự tánh, thì mình với Phật
không hai không khác. Nếu nhắm ra ngoài làm việc thì sẽ cùng với chư Phật khác
xa. Đó là Tổ đã chỉ thẳng pháp sám hối của Đại thừa, và đúng với hạnh của chư Phật.
Ngô Tổ
duy truyền thử đốn pháp,
Phổ nguyện kiến tánh đồng nhất thể,
Nhược dục đương lai mích Pháp thân,
Ly chư pháp tướng tâm trung tẩy.
Phổ nguyện kiến tánh đồng nhất thể,
Nhược dục đương lai mích Pháp thân,
Ly chư pháp tướng tâm trung tẩy.
Tổ của tôi chỉ truyền
pháp đốn giáo này, khắp nguyện người thấy tánh đồng một thể. Nếu muốn đời sau
tìm thấy được Pháp thân, tức phải lìa các tướng ở trong tâm, rửa sạch bóng dáng
của sáu trần ngay trong tâm mình. Cho nên người tu diệt vọng là rửa sạch trong
tâm mình những niệm tưởng nhớ đến người đến cảnh, đó là bóng dáng của pháp trần
rơi vào tâm thức cần phải tẩy trừ, mới thấy được Pháp thân.
Nỗ lực
tự kiến mạc du du,
Hậu niệm hốt tuyệt nhất thế hưu,
Nhược ngộ Đại thừa đắc kiến tánh,
Kiền cung hiệp chưởng chí tâm cầu.
Hậu niệm hốt tuyệt nhất thế hưu,
Nhược ngộ Đại thừa đắc kiến tánh,
Kiền cung hiệp chưởng chí tâm cầu.
Trong các câu kệ chót của bài tụng,
Tổ khuyên chúng ta phải nỗ lực tự thấy chớ có lơ là, du du là lơ là; nỗ lực để
tự thấy Bản tánh mình, tự biết những niệm mà buông bỏ. Một niệm dứt là chỉ cho
hơi thở cuối cùng vừa thở khì ra mà không hít lại, thì một đời buông tay. Vì
vậy Tổ bảo chúng ta phải nỗ lực tiến tu, chớ có lơ là, chớ có chần chờ, nếu một
phen thở ra mà không hít vào thì một đời buông xuôi. Nếu gặp những hàng Đại thừa
được thấy tánh, phải thành tâm cung kính, hay là cung kính chấp tay, chí tâm
cầu pháp Đại thừa, chớ có lôi thôi khinh thường, bởi vì người học đạo mà không
được Thiện tri thức chỉ dẫn thì một đời tu học cũng khó mà đến đâu.
Tổ nói:
Này Thiện tri thức,
phải tụng lấy, y đây tu hành, ngay nơi lời nói mà thấy tánh, tuy cách tôi ngàn
dặm như thường ở bên cạnh tôi; nơi lời nói này mà chẳng ngộ tức là đối diện với
tôi mà cách xa ngàn dặm, đâu cần từ xa đến đây. Trân trọng đi được an vui.
Cả chúng nghe pháp rồi
không ai mà chẳng khai ngộ, đều hoan hỉ phụng hành.
Tóm tắt lại, phẩm Sám Hối này gồm phần văn xuôi
trong đó Tổ dạy Ngũ phần Pháp thân hương v.v... và phần kết thúc là bài tụng Vô
tướng văn vần, dễ hiểu, dễ nhớ, y đó mà tu mới là cái tu chân thật. Tổ dạy rõ
ràng tu là phải hướng về mình, không nên chạy ra ngoài, vì tu bên ngoài không
bao giờ hết nghiệp được. Cho nên mỗi buổi tụng kinh chúng ta đều có tự qui y,
tự qui y là trở về với mình, tức là trở về ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân,
Hóa thân nơi mình sẵn có. Tự qui y Phật là trở về với Phật của mình, tự qui y
Pháp là trở về với Pháp của mình, tự qui y Tăng là trở về với Tăng của mình.
Nơi mình có đủ ba thân Phật, nơi mình có đủ Tam Bảo, mình phải hướng về đó,
nghĩa là phải bỏ hết những niệm xấu như ngã mạn, cống cao, lừa dối, ác độc
v.v... bỏ cho hết sạch những niệm đó, là biết tự qui y. Bản tánh thanh tịnh sẵn
có gọi là Pháp thân Phật. Buông cả hai niệm thiện ác để thấy Báo thân Phật, rồi
xoay các niệm trở về Tự tánh đó là Hóa thân Phật, tức là chuyển hóa thân trở về
thành Phật. Nói tóm lại tự qui y không phải là tự qui y với thân xác thịt này,
mai mốt nó rã rồi còn đâu! Tự qui y là trở về Tự tánh thanh tịnh là Pháp thân,
trở về nơi Tự tánh tròn đầy không có hai niệm là Báo thân, trở về Tự tánh mình
bằng xoay mọi niệm về nơi Tự tánh đó là Hóa thân Phật.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment