"Tây Phương Cực Lạc thế giới thật
sự có, A Di Đà Phật cũng thật sự có. Phải
như thế nào mới đến được nơi
đó? Thứ nhất là phải thật sự tin tưởng.
Thứ hai, phải thật sự phát nguyện chịu sanh
sang đó. Thứ ba, chuyên niệm A Di Đà Phật..."
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí Húc chú giải
vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội
năm 2006)
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và
Đức Phong
Lời tựa sách Phật
Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giảng Ký
Bậc cao đức đương thời là pháp sư Tịnh
Không, họ ngoài đời là Từ, tên tự là Nghiệp Hồng, thuộc gia đình vọng tộc ở An
Huy. Từ trẻ đã quảy tráp sang Nam Kinh, tuổi tráng niên vào lính, báo ân quốc
gia. Thần Châu[1]
thay đổi màu cờ, Sư vượt biển đến Đài Loan. Sẵn có huệ căn, tâm Sư hướng đến Phật
thừa, ngộ thế sự vô thường, chán lìa sanh tử. Trước và sau khi xuống tóc, Sư đã
từng cầu pháp nơi các vị tôn túc như Chương Gia đại sư, trưởng lão Bạch Thánh[2],
cụ Lý Bỉnh Nam, rồi theo học tại Trung Quốc Tam Tạng Phật Giáo Học Viện tại Đài
Bắc, dốc lòng nơi thánh điển, xem rộng khắp kinh luận, hạnh lẫn giải đều sâu,
thành tựu trác việt.
Gặp thời Mạt Pháp, các sự khổ chen nhau
nung nấu, đời ác ngũ trược, tam độc hừng hực, Sư ôm lòng bi mẫn tha thiết, dốc
chí độ sanh, cân nhắc vận mạng của giáo pháp rồi chuyên tâm hoằng dương Tịnh Độ.
Suốt ba mươi mấy năm, Sư qua lại các nơi như Đài Loan, Hương Cảng, Singapore,
Mã Lai, Mỹ, Gia Nã Đại v.v... hoằng Tông, diễn Giáo, xướng suất niệm Phật, vì
pháp quên thân, nằm chẳng ấm chiếu, dốc sức tận tụy, lưỡi bỏng, môi khô.
Hôm trước, hội trưởng Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội cầm bản thảo cuốn Di Đà Yếu Giải Giảng Ký của Sư tới đây, sai Vân viết
lời tựa. Vân mở sách đọc qua, cảm nhận sâu xa [lời Sư giảng giải] đã trần thuật
tông chỉ, trình bày mạch lạc, đáng ca ngợi là một tác phẩm khế lý, khế cơ.
Xét ra, phương pháp tu học trong Phật
giáo được mệnh danh là “tám vạn bốn ngàn
pháp môn”, rộng rãi, tinh vi, sâu thẳm, ngàn muôn đầu mối, hạng phàm phu lè
tè sát đất quả thật chẳng thể nắm được tông chỉ, yếu lãnh. Sách Di Đà Yếu Giải
là bộ sách trọng yếu xiển dương, giải thích kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà là kinh
pháp khai thị “trì danh niệm Phật, đới
nghiệp vãng sanh, vượt thoát khỏi tam giới theo chiều ngang”. Pháp môn này “thích hợp trọn khắp ba căn, thâu tóm lợi
căn lẫn độn căn”, thực hiện dễ, thành công cao. Chỉ cần đầy đủ ba món tư
lương sẽ đạt được ba môn Bất Thoái. Quả thật là pháp “thuận tiện nhất trong các pháp thuận tiện, là con đường tắt nhất trong
những con đường tắt”. Do vậy, cổ đức đã từng bảo: “Nhân thiên lộ thượng, tác phước vi tiên, sanh tử hải trung, niệm Phật
đệ nhất” (Trong nẻo trời người, làm phước đứng đầu, trong biển sanh tử, niệm
Phật bậc nhất).
Nay Tịnh công pháp sư[3]
vận dụng duệ trí, biện tài, tuyên thuyết chân nghĩa của sách Yếu Giải, lại được
trưởng giả Lưu Thừa Phù chép lại thành sách, in tặng, lưu truyền, lợi lạc khắp
mọi căn cơ. Dụng tâm hết sức tốt đẹp, công đức vô lượng. Vân ăn bám Như Lai, chẳng
làm được một điều gì, kinh sợ, viết bài văn thừa thãi này hòng tùy hỷ tán thán!
Cuối
tháng Chạp năm 1996, Thích Tường Vân viết lời tựa tại Đài Loan
Nội dung sách Phật Thuyết Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
I. Dẫn nhập
II. [Giảng giải] lời tựa nêu nguyên do soạn sách Yếu Giải [của Ngẫu
Ích đại sư].
III. Giải thích phần Huyền Nghĩa
1. Thích Danh (giải thích tên kinh).
2. Biện Thể (luận định Thể).
3. Minh Tông (giảng về Tông, tức điều được
đề cao, cương lãnh tu học của bản kinh này).
4. Luận Dụng (luận định lực dụng, tức hiệu
quả giáo hóa của kinh này).
5. Minh Giáo Tướng (phán định
giáo tướng, tức luận định kinh này thuộc về thời nào, giáo nào trong Ngũ Thời
Bát Giáo, căn cơ nào được hóa độ bởi bản kinh này).
IV. Chính thức giảng vào nội dung bài kinh:
1. Phần Tự
1.1. Thông Tự.
1.2. Biệt Tự.
2. Phần Chánh Tông
2.1. Trình bày chi tiết sự
trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của diệu quả để khơi gợi lòng tin.
2.2. Khuyên chúng sanh hãy nên
phát nguyện cầu vãng sanh.
2.3. Dạy hãy lập hạnh chấp trì danh hiệu.
3. Phần Lưu Thông
3.1 Phổ Khuyến
3.1.1. Khuyến tín lưu thông.
3.1.2. Khuyến nguyện lưu thông.
3.1.3. khuyến hành lưu thông.
3.2. Kết khuyến.
[1] Thần Châu là một tên gọi khác Trung Hoa.
Theo thần thoại, thời cổ ở Trung Nguyên có hai vị vua là Viêm Đế và Hoàng Đế.
Viêm Đế lấy lửa tượng trưng cho đức hạnh của chính mình, nên lãnh thổ cai trị của
ông ta gọi là Xích Huyện. Hoàng Đế lấy đất làm biểu trưng, lãnh thổ cai trị của
ông ta được gọi là Thần Châu. Về sau, Hoàng Đế đánh bại Viêm Đế, sát nhập Xích
Huyện vào Thần Châu, nên người Trung Hoa thường gọi vùng Trung Nguyên là Xích
Huyện Thần Châu và tự xưng là “Viêm Hoàng
tử tôn” (con cháu của Viêm Hoàng). “Thần
Châu thay đổi màu cờ”: Khi Mao Trạch Đông chiến thắng Quốc Dân Đảng, biến
Hoa Lục thành Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc của
Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan.
[2] Trưởng lão Bạch Thánh (1904-1989) quê ở Ứng
Thành, tỉnh Hồ Bắc, họ ngoài đời là Hồ, tên là Tất Khang, tên tự là Khiết Nhân.
Xin xuất gia với ngài Long Nham tại chùa Kỳ Viên núi Cửu Hoa vào năm 18 tuổi,
pháp danh là Đông Phú, sau đó ít lâu, Sư thọ Cụ Túc Giới, pháp tự là Bạch
Thánh. Sư từng tham học với những vị tôn túc nổi tiếng thời ấy như Độ Ách (Sư học
kinh Lăng Nghiêm từ vị này), Từ Châu, Trí Diệu, Đạo Giới v.v... và bế quan suốt
ba năm tại Vũ Xương để nghiên cứu Đại Tạng Kinh. Sư tốt nghiệp từ Pháp Tạng Phật
Học Viện ở Thượng Hải, rồi sang Giang Tô, tham học với thiền sư Lai Quả chùa
Cao Mân. Sau đó, đi tham học khắp nơi. Sau khi tham học, Sư đảm nhận chức xử lý
thường vụ phân hội Phật giáo Thượng Hải, chủ nhiệm giáo vụ của Lăng Nghiêm Phật
Học Viện tại Thượng Hải, rồi trụ trì chùa Phong Lâm thuộc Tây Hồ, Hàng Châu,
giám viện Tịnh An Tự (Thượng Hải), kiêm viện trưởng Phật Học Viện tại chùa này.
Sư sang Đài Loan năm 1948, tổ chức Trung Quốc Phật Giáo Hội, lãnh chức vụ Hội
Trưởng nhiều năm, trụ trì các chùa Thập Phổ (Đài Bắc), Lâm Tế Hộ Quốc Thiền Tự,
chùa Cực Lạc (Mã Lai)... Đồng thời, sáng lập và điều hành Trung Quốc Phật Giáo
Tam Tạng Học Viện, Trung Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Sở. Sư để lại những tác phẩm
Phật Giáo Là Gì, Sổ Tay Cho Người Trụ Trì Tông Lâm Tế, Lăng Nghiêm Kinh Biểu Giải,
Tứ Phần Giới Bổn Biểu Giải, Học Thiền Phương Tiện Đàm, Thiền Tông Sử Luận Tập,
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký, Duy Ma Cật Kinh Giảng Lục...
[3] Tịnh công pháp sư: Từ ngữ để gọi hòa thượng
Tịnh Không với ý tôn trọng, không gọi rõ pháp danh, pháp tự ra.
Phật Thuyết A Di
Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
I.
Dẫn nhập
(Từ ngày mồng Hai tháng Sáu
năm 1993, pháp sư Tịnh Không giảng Di Đà Kinh Yếu
Giải suốt hai tháng tại học viện Đức
An Sạ (Deanza), California, Hoa Kỳ, được thâu âm
thành bốn mươi tám cuốn băng. [Cư sĩ
Lưu Thừa Phù] chép lại để cúng dường
độc giả)
Thưa các vị đồng học!
Tháng Sáu năm ngoái, tôi đã giảng
kinh Vô Lượng Thọ tại phòng học nơi này;
năm nay, cũng trong khoảng tháng này, tôi lại cùng các vị
nghiên cứu một bộ sách trọng yếu khác của Tịnh
Tông, đó là bộ Di Đà Yếu Giải do Ngẫu Ích
đại sư trước tác. Trong quá khứ, khi kinh Vô
Lượng Thọ chưa được lưu thông phổ
biến thì những kinh điển để người
tu học Tịnh Tông nương tựa chính là A Di Đà
Kinh, sách Di Đà Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư và Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên
Trì đại sư. Trong gần một
ngàn năm, những người tu học Tịnh Tông có thể
thành tựu chính là nhờ vào hai bộ chú giải ấy, nhất
là bộ Di Đà Yếu Giải trọn đủ thẩm
quyền[4].
Trong quá khứ, Ấn Quang đại sư đã đề
cao Di Đà Yếu Giải đến tột bậc. Ngài
nói: “Dẫu cho A Di Đà Phật
giáng thế viết chú giải cho A Di Đà Kinh, cũng chẳng
thể hay hơn tác phẩm này”. Thậm chí, Ngài khẳng
định bộ chú giải này hoàn toàn thể hiện tâm
ý của A Di Đà Phật, chẳng sai lầm một
điểm nào! Chúng ta đều biết Ấn Quang đại
sư là Đại Thế Chí Bồ Tát hóa thân, tuy thân phận
của Ngẫu Ích đại sư không được tiết
lộ, nhưng nhất định Ngài phải là bậc
tái lai. Ấn Quang đại sư đã tôn sùng Yếu Giải
như vậy, nếu Ngẫu Ích đại sư chẳng
phải là A Di Đà Phật tái lai thì cũng phải là một
vị [có chứng ngộ] giống như Quán Thế Âm Bồ
Tát. Nếu không, sẽ chẳng thể nào kham nổi lời
Đại Thế Chí Bồ Tát tán thán như vậy!
Trong thời kỳ Mạt Pháp,
đặc biệt là trong thời đại hiện tại,
con người phiền não nặng nề, lắm khổ nạn.
Nếu muốn đạt được lợi ích chân thật
trong một đời, giải quyết vấn đề
hiện tiền, thì bất cứ cá nhân, gia đình, sự
nghiệp, cũng như nói ở một mức độ
cao hơn là giải quyết một vấn đề vĩnh
hằng, thường được nhà Phật gọi là “sanh tử đại sự”
thật sự hữu hiệu, thật sự thực hiện
được [phương cách giải quyết vấn
đề ấy], thì trong tất cả hết thảy pháp
môn, chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ là có thể đảm
đương! Cổ đức nói pháp môn này đơn giản,
dễ dàng, nhanh chóng, ổn thỏa, thích đáng, trọn
đủ những điều thù thắng khôn sánh. Các vị
tổ sư đại đức đều khác miệng
cùng lời gọi pháp môn này là “pháp
khó tin”. Từ cổ đến nay, những người
tu trì pháp môn Tịnh Độ thật sự đạt
thành tựu chỉ có hai hạng người:
- Hạng thứ nhất là những
người thiện căn sâu dầy, căn tánh rất nhạy
bén, đặc biệt thông minh, vừa nghe đến đạo
lý và sự thật trong pháp môn này, liền có thể tin
tưởng sâu xa, chẳng nghi ngờ, dốc cạn lòng
Thành tiếp nhận.
- Hạng thứ hai là những
kẻ có phước, [phước được nói ở
đây] chẳng phải là phước trong ngũ dục,
lục trần của thế gian. Sự vinh hoa, phú quý trong
thế gian toàn là giả. Phước báo chân chánh chính là nghe
kinh này xong, tuy chưa hiểu đạo lý, vẫn tin
tưởng sâu đậm, chí thành tuân hành.
Khó nhất là những kẻ
lưng chừng, hạng này chiếm đến đa số,
tức là [những kẻ được] các vị cao
tăng, đại thiện tri thức các đời buốt
lòng rát miệng giảng giải, giới thiệu [pháp môn Tịnh
Độ, nhưng họ vẫn nửa tin, nửa ngờ,
không chịu dốc lòng tu tập]; họ cũng thuộc
vào hàng căn tánh bậc trung.
Phật
giáo chính là nền giáo dục tốt nhất của đức
Phật dành cho hết thảy chúng sanh, trọn chớ nên
coi Phật giáo là tôn giáo. Đức Phật thuyết pháp suốt
bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm
hội. Những pháp do Phật nói ra được người
đời sau chỉnh lý, truyền sang Trung Quốc, lại
được các vị cổ đức phiên dịch, chỉnh
lý, phân loại, biên tập thành một bộ đại
tùng thư, mệnh danh là Đại Tạng Kinh. Có thể
dùng một câu nói để bao quát toàn bộ nội dung
[Đại Tạng Kinh]: “Giảng
nói chân tướng của vũ trụ và nhân sinh”.
Hôm nay, tôi giảng
bộ Yếu Giải này cũng
nhằm nghiên cứu chân tướng của nhân sinh và vũ
trụ.
II.
Giảng giải lời tựa [nêu lý do] soạn sách Di
Đà Yếu Giải
(Tự)
Nguyên phù chư Phật mẫn niệm quần mê, tùy cơ
thi hóa. Tuy quy nguyên vô nhị, nhi phương tiện đa
môn. Nhiên, ư nhất thiết phương tiện chi
trung, cầu kỳ chí trực tiệp, chí viên đốn giả,
tắc mạc nhược niệm Phật, cầu sanh Tịnh
Độ. Hựu, ư nhất thiết Niệm Phật
pháp môn chi trung, cầu kỳ chí giản dị, chí ổn
đáng giả, tắc mạc nhược tín nguyện
chuyên trì danh hiệu. Thị cố, Tịnh Độ tam
kinh tịnh hành ư thế, nhi cổ nhân độc dĩ
A Di Đà Kinh liệt vi nhật khóa. Khởi phi hữu kiến
ư trì danh nhất pháp, phổ bị tam căn, nhiếp Sự,
Lý dĩ vô di, thống Tông, Giáo nhi vô ngoại, vưu vi bất
khả tư nghị dã tai! Cổ lai chú sớ, đại
bất phạp nhân. Thế viễn, tựu yên, sở tồn
vô kỷ! Vân Thê hòa thượng trước vi Sớ Sao, quảng
đại tinh vi. U Khê sư bá thuật Viên Trung Sao, cao thâm hồng
bác. Cái như nhật nguyệt trung thiên, hữu mục giai
đổ. Đặc dĩ, văn phú, nghĩa phồn,
biên nhai mạc trắc, hoặc trí sơ cơ thiển thức,
tín nguyện nan giai. Cố phục phất sủy dung ngu,
tái thuật Yếu Giải. Bất cảm dữ nhị
ông cạnh dị, diệc bất tất dữ nhị ông
cưỡng đồng dã. Thí như trắc khán thành phong,
hoành khán thành lãnh. Túng giai bất tận Lô Sơn chân cảnh,
yếu bất thất vi các các thân kiến Lô Sơn nhi dĩ.
Tương thích kinh văn, ngũ trùng huyền nghĩa.
(序)
原
夫諸佛憫念群迷。隨機施化。雖歸元無二。而方便多門。然於一切方便之中。求其至直捷。至圓頓者。則莫若念佛。求生淨土。又。於一切念佛法門之中。求其至簡
易。至穩當者。則莫若信願專持名號。是故淨土三經。並行於世。而古人獨以阿彌陀經。列為日課。豈非有見於持名一法。普被三根。攝事理以無遺。統宗教而無
外。尤為不可思議也哉。古來註疏。代不乏人。世遠就湮。所存無幾。雲棲和尚。著為疏鈔。廣大精微。幽谿師伯。述圓中鈔。高深洪博。蓋如日月中天。有目皆
睹。特以文富義繁。邊涯莫測。或致初機淺識。信願難階。故復弗揣庸愚。再述要解。不敢與二翁競異。亦不必與二翁強同也。譬如側看成峰。橫看成嶺。縱皆不盡
廬山真境。要不失為各各親見廬山而已。將釋經文。五重玄義。
(Lời tựa: Nguyên vì
chư Phật nghĩ
thương xót quần
mê, tùy theo từng căn
cơ mà lập cách hóa độ. Trở về nguồn
thì chẳng hai, nhưng phương tiện có nhiều cửa.
Trong hết thảy các phương tiện, cầu lấy
một phương tiện thẳng chóng nhất, viên đốn
nhất, thì không gì bằng niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Lại nữa, trong hết thảy các pháp môn Niệm
Phật, cầu lấy một pháp đơn giản nhất,
dễ dàng nhất, ổn thỏa nhất, thích đáng nhất,
thì không gì bằng “tín, nguyện, chuyên trì danh hiệu”. Vì thế,
ba kinh Tịnh Độ cùng được lưu hành trong
cõi đời, nhưng cổ nhân lại xếp riêng kinh A
Di Đà vào khóa tụng thường ngày, há chẳng phải
là vì thấy pháp Trì Danh thích hợp trọn khắp ba
căn, thâu nhiếp Sự lẫn Lý chẳng sót, bao trùm Tông
lẫn Giáo chẳng thừa, thật là chẳng thể nghĩ
bàn đó ư? Từ xưa đến nay, không đời
nào thiếu người chú sớ kinh này, nhưng thời
đại đã lâu, khiến những bản văn ấy
bị mất mát, chẳng còn lại được mấy!
Hòa thượng Vân Thê trước tác bộ Sớ Sao, rộng
lớn, tinh vi. Sư bá U Khê soạn cuốn Viên Trung Sao, cao
sâu, mênh mông, bát ngát. Giống hệt như mặt trời,
mặt trăng giữa trời, kẻ nào có mắt đều
trông thấy, nhưng vì văn nhiều, nghĩa lắm, khó
lường được bến bờ; chắc sẽ
đến nỗi khiến cho kẻ sơ cơ, kém hiểu
biết, khó thành tựu tín nguyện. Vì thế, tôi chẳng
nề hà chính mình tầm thường, ngu muội, lại
viết cuốn Yếu Giải. Chẳng dám ganh đua cho
khác với hai ông, mà cũng không nhất thiết phải
gượng ép cho giống với hai vị. Ví như nhìn dọc
thành ngọn, nhìn ngang thành rặng, dẫu đều chẳng
thể thấy trọn hết cảnh Lô Sơn, chỉ cốt
sao ai nấy chẳng đánh mất cảnh Lô Sơn theo
như chính mình đã thấy mà thôi! Kinh văn được
giải thích theo năm tầng huyền nghĩa.)
Kinh này có tựa đề là Phật
Thuyết A Di Đà Kinh. Có những bộ kinh, phần tựa
đề được bắt đầu bằng hai chữ
“Phật Thuyết”, có kinh chẳng
thêm [hai chữ này]. Như Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh đều chẳng thêm hai chữ “Phật Thuyết”, nhưng cả
hai kinh ấy quả thật đều do đức Phật
nói. Theo thông lệ, nếu câu thứ nhất trong phần
Chánh Tông của kinh điển được bắt đầu
bằng “Phật Thuyết”
thì tựa đề kinh sẽ ghi thêm hai chữ “Phật Thuyết”. Nếu
không phải là hai chữ “Phật
Thuyết” thì không thêm.
Từ nội dung và tánh chất,
những kinh do đức Phật được giảng
được phân loại thành “mười
hai phần giáo”[5].
Trong ấy, có một loại là Vô Vấn Tự Thuyết
(không ai hỏi mà đức Phật tự nói): Đức
Phật thấy cơ duyên của chúng sanh đã chín muồi,
có thể tiếp nhận một tầng giáo hóa nào đó,
liền chẳng do ai hỏi mà tự nói. A Di Đà (Amitābha)
là tiếng Phạn, A là Vô, Di Đà là Lượng,
Phật là Giác. A Di Đà Phật chính là Vô Lượng Giác.
Phật vốn là hết thảy vô lượng, nhưng
trong kinh này chỉ đặc biệt nói đến hai ý nghĩa,
tức là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang. Thọ
chỉ thời gian, tức quá khứ, hiện tại, vị lai. Quang
chỉ không gian, tức mười phương thế giới.
Thời gian và không gian bao gồm hết thảy. Quang và Thọ
tượng trưng cho không gian và thời gian, nhưng hai
chữ “quang, thọ” sống động, ý nghĩa sâu xa
vượt hẳn “thời gian, không gian”. Trong hết thảy
các thứ vô lượng, thọ mạng quan trọng nhất.
Nếu thọ mạng hữu hạn thì hết thảy trí
huệ, tài nghệ, đức
năng, của cải đều vô ích.
Đối với chân tướng
của nhân sinh và vũ trụ, thánh hiền cổ đại
của Trung Quốc có nhận thức rất khá. Chẳng
hạn như trong Đạo Đức Kinh gồm năm
ngàn chữ của Lão Tử, vừa mở đầu liền
nói: “Đạo khả đạo,
phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường
danh”[6].
Ngài biết Danh là giả. Danh hiệu của Phật, Bồ
Tát là do căn cứ trên tông chỉ giáo hóa chúng sanh mà đặt
ra, nói theo ngôn ngữ hiện thời là “khẩu hiệu”.
Như Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh trong thế giới Sa Bà
này, phương châm dạy học của Ngài là “dựa
theo căn bệnh mà cho thuốc”. Chúng sanh trong thế giới
này quá nhiều bệnh, điều thứ nhất họ
thiếu sót là tâm từ bi, điều thứ hai là vọng
tưởng, chấp trước quá nặng. Do vậy, Phật
lập hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni).
Thích Ca (Śākya) nghĩa là Nhân Từ, Mâu Ni
(Muni) là Tịch Diệt, [danh hiệu ấy
nhằm] hướng dẫn chúng sanh mang lòng từ bi, tâm
địa thanh tịnh. Nếu A Di Đà Phật đến
thế giới này làm Phật, cũng phải dùng tôn hiệu
Thích Ca Mâu Ni thì mới có thể trị bệnh cho chúng ta. Nếu
Thích Ca Mâu Ni đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới làm Phật sẽ chẳng thể dùng danh hiệu
Thích Ca Mâu Ni. Bởi lẽ, người Tây Phương ai cũng
nhân từ, tâm địa mỗi người đều
thanh tịnh, chẳng cần đến món thuốc “nhân từ,
tịch diệt”. Phật không có danh hiệu cố định,
cũng chẳng có danh hiệu vĩnh cửu, mà là ứng
theo căn cơ để thuyết pháp, nên cũng chẳng
có pháp nào nhất định để nói. Đức Phật
giáo hóa chúng sanh, tùy loại hiện thân, không có tướng
mạo nhất định, mà thị hiện tùy theo tướng
mạo của mỗi dân tộc, như kinh Lăng Nghiêm
đã nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng
sở tri lượng” (tùy theo tâm chúng sanh mà ứng hiện
phù hợp với khả năng nhận biết của họ).
Kinh Phật muôn đời vẫn
mới mẻ, thích ứng mọi thời đại. Từ
ba ngàn năm trước, những kinh điển
được giảng tại Ấn Độ khiến
cho người Ấn Độ thời ấy được
thụ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những
kinh điển ấy, chúng sanh ngày nay vẫn được
thọ dụng giống hệt, chẳng khác biệt gì!
Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng
như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nhau, nhằm
phổ biến ứng dụng thích hợp với mỗi
thời đại, cần phải có chú giải. Chú giải
chính là hiện đại hóa và địa phương hóa
kinh Phật. Bản Yếu Giải này do Ngẫu Ích đại
sư viết dưới đời Minh, cách nay đã
năm trăm năm. Ngày nay, giảng cuốn Yếu Giải
này, lại phải dùng phương thức hiện đại
hóa để giải thích. Còn người như thế nào
thì mới có thể dịch, giảng, giải, đều
là những câu hỏi nghiêm túc. Nếu phiên dịch kinh
điển mà chẳng hiểu rõ ý nghĩa chân thật của
Phật, có lẽ sẽ phiên dịch sai lạc. Cổ nhân
nói: “Y văn giải nghĩa,
tam thế Phật oan”. Ắt cần phải như bài kệ
Khai Kinh đã nói: “Nguyện giải
Như Lai chân thật nghĩa”.
Các vị đồng học nên
biết: Trong thời gần đây, Trung Quốc chịu nhục,
gần như điều gì cũng thua người ngoại
quốc. Thật ra, người Trung Quốc chính là những
người may mắn nhất, có phước nhất. Phật
giáo truyền đến Trung Quốc, cao tăng đại
đức tu hành trong các đời đều là người
tu hành chứng quả. “Chứng
quả” có nghĩa là đối với những lý luận
do đức Phật giảng giải trong kinh, họ đều
hiểu rõ hoàn toàn. Nếu họ chẳng thể chứng
nghiệm thật sự, chỉ nghe Phật nói, chứ
chính mình chưa thể đích thân chứng nhập thì phiên
dịch kinh điển hoặc giảng kinh thuyết pháp
nhất định sẽ nẩy sanh sai lầm. Do vậy,
những bậc cổ đức phiên dịch, giảng
kinh, thuyết pháp từ xưa đều chẳng phải
là phàm nhân. Nếu chúng ta muốn kế thừa di sản
quý báu ấy, tổ tiên chúng ta chỉ đòi hỏi một
điều kiện: Thông hiểu văn chương Văn
Ngôn[7].
Tổ tiên thông minh, biết ngôn ngữ sẽ biến đổi
theo thời đại, nhưng văn tự bất biến,
nên chia ngôn ngữ và văn tự thành hai đường lối.
Vì vậy, thể loại văn chương Văn Ngôn
lưu truyền cả ngàn năm chẳng biến hóa. Hiện
thời, đọc Luận Ngữ giống như trò chuyện
cùng Khổng Lão Phu Tử, đọc sách Mạnh Tử giống
như gặp mặt Mạnh Tử.
Kinh Phật được phiên
dịch trễ nhất là vào thời đại Nam Tống,
số lượng những bản kinh [được dịch
trong thời] ấy không nhiều. Bảy, tám phần trong
mười phần là được phiên dịch vào thời
Tùy, Đường. Văn tự dùng trong kinh điển
là những từ ngữ dễ hiểu, đơn giản
nhất trong thời đại dịch kinh, đấy cũng
là thể văn “Bạch Thoại” trong thời đó. Chẳng
hạn như A Di Đà Kinh được phiên dịch vào
thời đại Diêu Tần, còn trước thời Tùy -
Đường nữa, nhưng dễ hiểu hơn nếu
đem so với văn chương của Đào Uyên Minh
(Đào Tiềm) sống cùng thời ấy. Nếu có trình
độ thông hiểu văn chương Văn Ngôn kha khá,
quý vị sẽ có thể tiếp nhận di sản trí huệ quý báu của
cổ thánh tiên hiền. Để học văn
chương Văn Ngôn thì phải thực hiện bằng
cách học thuộc cổ văn, tận hết sức chọn
lựa những tác phẩm trong bộ Cổ Văn Quán Chỉ[8],
học thuộc năm mươi bài là có thể đọc
được Cổ Văn. Học thuộc một
trăm bài sẽ có thể viết theo lối văn Văn
Ngôn. Tôi thường khuyến khích các đồng tu bảo
ban con cháu của chính họ hãy học thuộc cổ
văn. Hiện thời, tuy các cháu cảm thấy rất
khó khăn, nhưng trong tương lai, chúng nó sẽ cảm
kích cha mẹ suốt đời. Nếu tuổi đã lớn
hơn một chút, thì do bận bịu công việc, họ sẽ
không còn thời gian, tinh lực như vậy nữa. Tốt
nhất là học thuộc Vô Lượng Thọ Kinh, chỉ
có bốn mươi tám chương. Bản hội tập
của Hạ lão cư sĩ hết sức hay, những phần
kinh văn quan trọng nhất, tinh hoa nhất đều
được thâu thập, bao gồm [nội dung của]
năm bản dịch gốc. Bản dịch [Vô Lượng
Thọ Kinh] sớm nhất là bản dịch thời Hậu
Hán, bản trễ nhất là bản đời Tống. Nếu
có thể tụng thuộc thì đọc các kinh điển
khác sẽ chẳng thấy khó khăn gì!
A Di Đà Kinh là do La Thập
đại sư dịch vào thời Diêu Tần. Tại
Trung Quốc, có bốn triều đại lấy quốc
hiệu là Tần[9],
các nhà sử học đem dòng họ của đế
vương đặt trước [chữ Tần] để
phân biệt. Triều đại thứ ba là Phù Tần, vua
là Phù Kiên. Đại thần của ông ta là Diêu Trành phát
động chánh biến, lật đổ Phù Kiên[10],
tự lập làm vua, xưng là Diêu Tần. Thuở ấy,
có không ít cao tăng, đại đức xuất hiện,
như Huệ Viễn, Đạo An, Tăng Triệu, Tạ
Linh Vận, Đào Uyên Minh đều thuộc cùng một thời
đại.
Tam Tạng Pháp Sư là danh
xưng học vị. Đối với Tam Tạng Kinh, Luật,
Luận do đức Phật đã nói, không gì chẳng thông
đạt thì mới có thể xưng là Tam Tạng Pháp
Sư.
Ngẫu Ích đại sư sanh
vào cuối thời Minh, mất vào đầu đời
Thanh. Cuộc đời Ngài đã được ghi chép
tường tận trong truyện ký. Ngoài ra, trong các sách Di
Đà Yếu Giải Giảng Nghĩa và Di Đà Yếu Giải
Thân Văn Ký đều có chép tường tận. Sách Yếu
Giải Giảng Nghĩa do pháp sư Viên Anh soạn, Di
Đà Yếu Giải Thân Văn Ký do pháp sư Bảo Tịnh
viết, đây là hai tác phẩm chú giải rất hay. Đại
sư tuổi già chuyên tu Tịnh Độ; do vậy, Ngài lấy
biệt hiệu là Tây Hữu, ngụ ý: Tây Phương Cực
Lạc thế giới như đức Phật đã nói
là một nơi có thật.
Từ
trước đến nay mọi người đều
nghĩ thế giới Sa Bà do đức Phật đã nói
chỉ là một hệ Ngân Hà (Milky Way), nhưng theo như
lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giải thích thì một hệ
Ngân Hà chỉ là một đơn vị thế giới
được nói tới trong kinh Phật. Tính toán theo cách
này, một tam thiên đại thiên thế giới bao gồm
mười ức hệ Ngân Hà, là khu vực giáo hóa của
một đức Phật. Có thể thấy là vũ trụ
to lớn gần như không có cách nào tưởng tượng
được!
Trước hết, đức
Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ; kế đó, giảng
kinh Quán Vô Lượng Thọ, cuối cùng, giảng kinh A Di
Đà. Tây Phương Cực Lạc thế giới thật
sự có, A Di Đà Phật cũng thật sự có. Phải
như thế nào mới đến được nơi
đó? Thứ nhất là phải thật sự tin tưởng.
Thứ hai, phải thật sự phát nguyện chịu sanh
sang đó. Thứ ba, chuyên niệm A Di Đà Phật. Chuyên
niệm thì phải nhất loạt diệt sạch vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Nếu
đời này chẳng thể sanh sang Tây Phương thì
đời sau nhất định sẽ khổ hơn, vì
chúng ta từ sáng đến tối suy nghĩ không ngừng.
Nếu nghĩ đến chuyện làm lợi cho chúng sanh
thì ít mà làm chuyện tự tư tự lợi thì nhiều,
tương lai nhất định sẽ bị khổ nhiều
vui ít, càng lúc càng tệ hơn.
“Sa-môn”
(Śramana)
là tiếng gọi chung người xuất gia trong các tôn
giáo ở Ấn Độ vào thời cổ, còn dịch là
Cần Tức, [có nghĩa là] “cần
tu Giới, Định, Huệ, tức diệt
tham, sân, si”
(siêng tu Giới, Định, Huệ, diệt dứt tham, sân, si). Sau khi Phật
giáo được truyền đến Trung Quốc, sa-môn
liền trở thành danh xưng chuyên dùng để chỉ
hàng xuất gia trong Phật giáo, lại còn hàm nghĩa [những
vị xuất gia ấy] đang còn thuộc trong giai đoạn
học tập. Ngẫu Ích đại sư tự xưng
là sa-môn với ý nghĩa tự khiêm, chẳng dám xưng là
pháp sư. Có người dùng chữ “đại sư” để gọi người
xuất gia, sự thật là đã xưng hô vượt phận.
Bởi lẽ, các vị Đẳng Giác Bồ Tát như
Quán Âm, Phổ Hiền, Đại Thế Chí v.v... và Di Lặc
là vị sau này sẽ nối ngôi thành Phật mà vẫn còn
xưng là Đại Sĩ. Đại Sư chính là tiếng
tôn xưng đức Phật. Người đời nay chẳng
hiểu rõ những kiến thức Phật học thông
thường, bèn dùng danh xưng ấy để gọi
hàng phàm phu, gần như là chế nhạo họ! Ngẫu
Ích là biệt hiệu của đại sư, Trí Húc là pháp
danh xuất gia của đại sư.
Hai
chữ “nguyên phù” (原夫) là từ ngữ dùng để
mở đầu một câu trong Văn Ngôn, nó là hư từ,
chẳng có ý nghĩa gì hết. Phật là tiếng Phạn
dịch âm, nói cho đủ là Phật Đà Da (Buddhaya), nghĩa
là Giác Giả (người giác ngộ), do tôn trọng nên
không dịch nghĩa. Người Hoa thích đơn giản,
chỉ chọn dùng chữ Phật. Người thật sự
hiểu rõ chân tướng của nhân sinh và vũ trụ
thì gọi là Giác Giả. Vũ trụ là hoàn cảnh sống.
Nhân sinh chính là bản thân con người. Ai nhận biết
chính mình? Do đâu đến? Tương lai sẽ đi về
đâu? Quá khứ không khởi đầu, tương lai
không kết thúc. Nhỏ thì như gia đình của một
cá nhân, lớn thì là xã hội, quốc gia, cho đến
hư không pháp giới rộng lớn; nếu có thể thật
sự hiểu rõ thì mới có thể làm chủ nó được,
mới được đại tự tại, chẳng bị
hoàn cảnh chi phối, đè nén. Thành Phật chính là thành tựu
trí huệ viên
mãn rốt ráo, không gì chẳng biết, không gì chẳng thể.
Chư Phật là người triệt để hiểu rõ
chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, số nhiều đến vô
lượng. Các Ngài đã làm được thì chúng ta cũng
sẽ có thể làm được.
Ngẫu Ích đại sư giải
thích pháp môn Niệm Phật cho chúng ta nghe, nương theo
phương pháp ấy để tu học thì trong một
đời cũng sẽ có thể đạt đến
thành tựu giống như chư Phật, Bồ Tát. Phật,
Bồ Tát và chư tổ sư, đại đức các
đời quyết chẳng dối gạt, họ chẳng
mong cầu điều gì nơi chúng ta thì dối gạt
chúng ta để làm gì? Vì thế, phải nên sanh lòng tin sâu
đậm, đừng nghi ngờ những lời chỉ
dạy của các Ngài. Phật Phật đạo đồng,
vô lượng chư Phật đều từ bi, chân thành,
thanh tịnh, nghĩ thương xót lũ mê muội. Chữ
“quần mê” (群迷)
chỉ chín pháp giới, bao gồm Bồ Tát, Thanh Văn,
Duyên Giác, trời, người, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục.
“Bồ
Tát” dịch nghĩa là Giác Hữu Tình, nhưng giác
chưa viên mãn, tối thiểu là vẫn còn có một phần
sanh tướng vô minh[11],
cho nên vẫn thuộc trong chín pháp giới. Phật dạy
chúng ta dùng lý trí, chứ không dùng cảm tình. Do Phật từ
bi thương xót hết thảy chúng sanh vô điều kiện,
nên toàn tâm toàn ý chăm sóc chúng sanh, tùy theo căn cơ mà lập
ra phương cách giáo hóa, chỉ dạy chúng sanh tu trì chánh
pháp mãi cho đến khi thành Phật.
“Mẫn niệm” có nghĩa là
từ bi. Nếu chẳng có tâm từ bi thì Phật sẽ
chẳng có nguyên động lực (động lực ban
đầu, động lực chính) để giáo hóa chúng
sanh. Người thế gian nỗ lực làm việc suốt
ngày từ sáng đến tối là do danh và lợi thúc đẩy
sau lưng. Phật, Bồ Tát đã chẳng tham danh, lại
chẳng mong lợi, chỉ vì nghĩ thương xót hết
thảy chúng sanh đang mê hoặc bèn tùy theo căn cơ mà
lập cách giáo hóa. Trong nội dung và phương pháp dạy
học, do căn tánh, mê, ngộ, cách thức sanh sống và
trình độ giáo dục của chúng sanh đều khác
nhau, chẳng thể nào không tùy theo từng người mà lập
ra cách giáo hóa. Nói tới “giáo
hóa” thì “giáo” là nói theo mặt
nhân, “hóa” là nói theo mặt quả.
Sau khi tiếp nhận sự chỉ dạy của Phật,
ắt khí chất có biến hóa, trước kia là ngu si, nay
thì thông minh, trước kia cảm thấy khổ não, nay cảm
thấy sung sướng. Tông chỉ giáo dục của Phật
đối với hết thảy chúng sanh đều giống
hệt nhau, đều nhằm dạy cho chúng sanh viên mãn
thành Phật. Điều này được gọi là “quy nguyên vô nhị” (trở về nguồn thì không
hai): Phương pháp tuy nhiều,
nhưng mục tiêu chỉ có một.
Tại
Trung Quốc, từ thời Tùy - Đường trở
đi, Phật giáo được chia thành mười tông
phái Đại Thừa và Tiểu Thừa[12],
cách nay đã một ngàn năm trăm năm. Người
đời sau thường mang tư tưởng môn
đình, cho pháp môn của mình tu là đúng, những pháp khác
đều trật, nhưng Phật nói “quy nguyên vô nhị, phương tiện đa môn”.
Xin đừng khen mình, chê người. Lúc Phật tại
thế, có người đến thưa hỏi, nhất
định Phật sẽ chỉ dạy một
phương pháp chánh xác khiến cho người ấy
đạt được thành tựu viên mãn. Hiện thời,
Phật đã khuất bóng, chỉ có thể nương
theo kinh Phật để tu học. Kinh điển giống
như bác sĩ tùy theo từng bệnh nhân mà kê toa. Nếu
toa thuốc không hợp căn bệnh, e rằng sẽ phát
sanh hậu quả nghiêm trọng. Ngẫu Ích đại
sư cho biết [sở dĩ] đức Phật giới
thiệu A Di Đà Kinh là do đức Phật thấy
cơ duyên của chúng sanh đã chín muồi, không ai hỏi
mà tự nói, chẳng phải nhằm chuyên nói với một
loại người nào đó, mà nhằm nói với hết
thảy chúng sanh thuở ấy và mai sau. Từ xưa đến
nay, người tu Tịnh Độ đạt được
thành tựu đông nhất. Tịnh Độ là thẳng
chóng nhất, viên đốn nhất, có thể vượt
cấp, không cần phải trải qua tiệm tu (tu dần
dần theo thứ tự), có thể đốn siêu (nhanh
chóng vượt lên), từ lớp Một của Tiểu Học
vượt thẳng lên lớp Tiến Sĩ, vượt
qua năm mươi mốt địa vị Bồ Tát,
nhưng phương pháp lại cực đơn giản,
khiến người ta chẳng dám tin tưởng, rất
chẳng thể nghĩ bàn[13].
Luân
hồi trong lục đạo là do chính mình tạo, do mê hoặc
mà tạo nghiệp. Tạo nghiệp ắt phải hứng
chịu quả báo, quả báo thiện hay ác chẳng sai sót
một mảy. Nếu muốn vượt thoát lục
đạo thì đừng tạo nghiệp nữa! Chẳng
tạo nghiệp rất khó! Chẳng mê hoặc càng khó
hơn. Thế nào gọi là nghiệp? Nghiệp là cái quả
của sự tạo tác. Sự có thiện và ác, nên nghiệp
cũng có thiện và ác. Nghiệp chia thành ba loại: Thân, miệng,
ý. Thân thể tạo tác, miệng thốt ra lời lẽ,
tâm khởi lên ý niệm, những tạo tác từ nơi
thân và miệng là do ý điều khiển. Muốn vượt
thoát luân hồi thì phải đoạn Hoặc trước.
Nghiệp nhân trong tam giới lục đạo chính là Kiến
Hoặc và Tư Hoặc[14],
hoàn toàn đoạn được chúng thì mới có thể
thoát khỏi tam giới.
Chẳng thể làm được điều này
ngay trong một đời! Nếu muốn hưởng phước báo trong cõi người,
cõi trời thì sẽ dễ hơn, các vị thánh hiền thế
gian và những nhà tôn giáo đều có thể giúp con người
thực hiện được điều đó, chứ vượt
thoát luân hồi thì người thế gian không có cách nào thực
hiện được. Vì thế, đức Phật mới
xuất hiện trong cõi đời nhằm tạo duyên cho
chúng sanh gặp gỡ hòng đắc độ.
Pháp môn Niệm Phật là đới nghiệp
vãng sanh, đới nghiệp thì có hy vọng [thành tựu],
chứ không đới nghiệp sẽ khó khăn đấy!
Những pháp môn khác chưa hề có thuyết
đới nghiệp. Trước đây, đã có người
nói: “Thuyết đới nghiệp vãng sanh trong Tịnh Tông
chẳng tìm được căn cứ nào trong kinh điển!”
Năm 1984, cư sĩ Trầm Gia Trinh thỉnh tôi đến
Nữu Ước (New York) giảng kinh. Lúc đổi máy
bay ở Los Angeles, lão cư sĩ Châu Tuyên Đức ra phi
trường đón tôi, vừa gặp mặt, cụ liền
nói: “Thưa pháp sư! Không xong rồi! Có người nói
trong pháp môn Niệm Phật nếu đới nghiệp sẽ
chẳng thể vãng sanh, tôi niệm Phật mấy chục
năm chẳng phải là uổng phí hay sao?” Thái độ
của cụ hết sức nghiêm trọng. Tôi bảo:
“Đới nghiệp chẳng thể vãng sanh thì không cần
phải sanh về đó nữa! Nếu đới nghiệp
chẳng thể vãng sanh thì Tây Phương Cực Lạc thế
giới chỉ trơ trọi một mình A Di Đà Phật,
chúng ta đến đó để làm gì? Văn Thù, Phổ
Hiền, Đại Thế Chí, Quán Âm... các vị Đẳng
Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm sanh tướng vô
minh chưa phá, đều là đới nghiệp. Nếu chẳng
đới nghiệp thì tại sao còn chia thành ba bậc chín
phẩm vãng sanh vậy?” Cụ Châu nghe lời ấy rồi
mới yên lòng.
Ba kinh Tịnh Độ
được cổ đức gọi là Vãng Sanh Kinh. Sau
này, các vị tổ sư lại đem phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm và chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh
Lăng Nghiêm ghép vào sau ba kinh [A Di Đà, Vô Lượng Thọ
và Quán Vô Lượng Thọ Phật] thành ra Tịnh Độ
Ngũ Kinh. Trong Tịnh Độ Ngũ Kinh, nói tới pháp
môn Niệm Phật thì chia thành bốn loại:
1.
Thật Tướng Niệm Phật.
2.
Quán Tưởng Niệm Phật.
3.
Quán Tượng Niệm Phật.
4. Trì Danh Niệm Phật.
Đức Phật hết sức
coi trọng Trì Danh Niệm Phật. Trong Đại Bổn
Vô Lượng Thọ Kinh và Tiểu Bổn A Di Đà Kinh,
đức Phật đều dạy chúng ta chuyên trì danh hiệu
A Di Đà Phật. Không riêng mình Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
là như thế mà hết thảy chư Phật đều
đồng thanh tán thán. Niệm Phật rốt cuộc có
chỗ nào hay? Những người chẳng khế nhập
sâu xa cảnh giới này, sẽ thật khó thể nói ra.
Trong trước tác của cổ đức như các vị
Thiện Đạo, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích, quả
thật đã giảng rõ điều này tường tận,
thấu triệt. Đáng tiếc là chúng ta nghiệp chướng
sâu nặng, đọc những sách ấy xong vẫn cứ
y như cũ, chẳng thể sanh tâm thanh tịnh, vẫn
cần phải được thiện tri thức chỉ
dạy, giải thích, rồi chính mình phải nỗ lực
tu hành thì mới đạt được lợi ích. Nếu
không, chẳng qua là gieo được một tí thiện
căn trong tám thức điền mà thôi!
Trong bốn thứ pháp môn Niệm
Phật, chuyên trì danh hiệu đơn giản, dễ hành
nhất. Chuyên (專)
là chuyên nhất, chuyên tâm, Trì (持) là giữ gìn, chẳng để
nó mất đi. Danh hiệu chính là sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”. Chúng
ta suốt ngày từ sáng đến tối, từ đầu
năm đến cuối năm, chớ nên lìa khỏi câu
Phật hiệu này. Phương pháp là niệm sáu chữ
hay bốn chữ, niệm lớn tiếng hay nhỏ tiếng,
không cách nào chẳng được. Không niệm ra tiếng
mà niệm thầm thì cũng được luôn! Cốt sao
không gián đoạn, không xen tạp, không hoài nghi. Thời
gian bao lâu mới thấy được hiệu quả?
Tôi thưa cùng quý vị: Từ ba tháng đến sáu tháng sẽ
thấy công hiệu, có thể tiêu trừ được một
phần nghiệp chướng, cảm thấy đầu
óc sáng suốt, thông minh hơn trước. Phiền não,
ưu lự, vọng tưởng, vướng mắc
đều bớt, tâm địa thanh tịnh. Hiểu lý luận
hay không chẳng quan trọng, chỉ cần theo đúng pháp
tu hành, chắc chắn sẽ thấy hiệu quả.
Cần phải có lòng tin vào giáo
huấn của cổ thánh tiên hiền. Phật nói câu nào cũng
đều chân thật, chỉ cần chân thành, tin tưởng
khẩn thiết, thật sự phát nguyện, sẽ lập
tức được bổn nguyện, oai thần của
A Di Đà Phật ngấm ngầm gia trì. Dùng nguyên tắc ấy
niệm Phật thì khi công phu thành thục, nhất định
sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Phước
báo lớn nhất của con người trong thế gian chẳng
phải là giàu có, trường thọ, mà phước báo
chân chánh chính là khi lâm chung chẳng sanh bệnh, đầu
óc tỉnh táo, biết sẽ đi về đâu, đấy
là phước khí thật sự. Trong những năm qua, tại
Đài Loan, người ngồi mất hay đứng qua
đời khoảng hai, ba chục người, còn lâm chung
hiện tướng lành thì khoảng năm trăm người
trở xuống. Tại Nam Dương, Tân Gia Ba, Mã Lai cũng
có năm sáu vị. Cam
lão thái thái có một người thân thích di dân sang Mỹ, tuổi
đã cao, sống chung với con cái, ở nhà chăm sóc trẻ
nhỏ và cơm nước. Có một hôm, sáng sớm cụ
không thức dậy nấu bữa sáng, người nhà vào
phòng cụ xem thì cụ ngồi xếp bằng trên giường
vãng sanh rồi. Kỳ lạ nhất là cụ đã may sẵn
đồ tang cho cả nhà lớn bé, sắp đặt hậu
sự nghiêm chỉnh, đủ thấy cụ biết
trước lúc mất. Chính mắt Cam lão thái thái thấy chuyện
này.
Đời
người trong cõi thế là một giấc mộng xuân, thời thời khắc khắc đều
là trong mộng. Người thật sự giác ngộ mới
chịu buông xuống. Thế gian không có một pháp nào để
được cả! Nếu thân có thể đạt
được thì lẽ ra chẳng có suy, lão, bệnh, tử.
Con người gặp gỡ nhau do duyên, có duyên tụ hội
chớ mừng, khi duyên tan diệt, chớ buồn bã! Đấy
là hiện tượng bình thường!
Thiền Tông tiếp dẫn
người thượng thượng căn, chứ trung
căn và hạ căn chẳng có phần; ngay cả với
người có căn tánh Đại Thừa, Thiền Tông vẫn
còn cao lắm. Đối tượng của [các tông phái thuộc]
Giáo Hạ, như Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Pháp Tướng, Tam Luận,
là kẻ căn tánh bậc thượng hay bậc trung.
Đại khái, người thượng căn lợi trí
tu học thì mới có thành tựu. Trung căn sẽ khác hẳn,
còn hạ căn thì chẳng có phần. Chỉ có pháp môn này,
ba căn thượng, trung, hạ, ông già bà cả không biết
chữ cũng đều có thể tu được, cũng
đều có thể chứng được. Trong Vãng Sanh
Truyện có chép ông Vương Đả Thiết ở Hành
Châu[15]
là thợ rèn, một nhà bốn miệng ăn, cuộc sống
rất khổ. Có một vị xuất gia đi qua cửa
nhà ông ta. Vương Đả Thiết liền mời
sư vào nhà tiếp nhận cúng dường và thưa hỏi
phương pháp “lìa khổ, được vui”. Pháp sư dạy
ông ta niệm Phật. Ông ta y giáo phụng hành, cứ rèn sắt
một búa liền niệm Phật một tiếng. Suốt
ba năm như thế, một hôm, ông ta đọc kệ:
Đinh đinh, đang đang,
Cửu luyện thành cang,
Thái bình tương cận,
Ngã vãng Tây Phương.
(Beng
beng, bang bang,
Luyện
mãi thành gang,
Thái
bình sắp tới,
Ta về Tây Phương).
Nói xong, đập xuống một
búa, đứng sững qua đời. Năm Dân Quốc
năm mươi bảy (1968), tại làng Tướng Quân ở
Đài Nam có một bà cụ đứng
sững qua đời. Năm ngoái, khi tôi giảng kinh ở
Cao Hùng có nhắc tới chuyện này, có mấy vị cùng
nói họ thật sự biết chuyện này. Chuyện vãng
sanh của lão cư sĩ Lý Tế Hoa thuộc Đài Bắc
Liên Hữu Niệm Phật Đoàn càng chẳng thể nghĩ
bàn. Cụ giảng khai thị tại Niệm Phật
Đoàn, giảng trong một tiếng rưỡi, buốt
lòng rát miệng khuyên mọi người niệm Phật.
Giảng xong, cụ nói: “Tôi sắp trở về nhà”. Cụ
bước xuống bục giảng, ngồi trên ghế
mây nơi phòng khách vãng sanh. Hai tháng trước đó, cụ
đã có dự cảm, hễ lúc nào rảnh rỗi bèn đến
thăm bạn bè, tựa hồ có ý giã biệt. Có một lần,
cụ cùng vợ ngồi xe ba bánh đi dự pháp hội, cụ
bảo vợ: “Nếu tôi vãng sanh, bà có cảm thấy trống
vắng hay không?” Bà vợ bảo: “Nếu ông vãng sanh là chuyện
quá tốt đẹp, tôi chẳng cảm thấy trống
vắng đâu!” Điều này chứng tỏ cụ biết
trước lúc mất.
Niệm Phật chia thành Lý niệm
và Sự niệm. Lý niệm là đạo lý, phương
pháp, cảnh giới đều hiểu rõ ràng,
đương nhiên sẽ chuyên tâm niệm. Sự niệm
là chưa hiểu rõ lý luận, nhưng chuyên tâm niệm Phật.
Sự niệm mà niệm đến mức tâm địa
thanh tịnh, trí huệ tự khai thì cũng có thể đạt
đến Lý niệm.
Từ xưa đến nay, hoằng
dương Phật pháp thì kinh điển phổ biến
nhất chính là Phật Thuyết A Di Đà Kinh. Do vậy,
kinh này được chú giải với số lượng
rất nhiều. Trong số ấy, có giá trị nhất
chính là bộ Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Trì đại
sư. Ngài Ngẫu Ích tôn xưng ngài Liên Trì là Vân Thê Hòa Thượng.
Trong thời ngài Ngẫu Ích, ngài Liên Trì đã viên tịch,
nhưng trước tác của Ngài vẫn còn đó. Ngài Ngẫu
Ích coi ngài Liên Trì như thầy, học tập theo giáo huấn
của ngài Liên Trì, tức là như ta thường gọi
là “tư thục đệ tử”[16],
giống như Mạnh Tử bên Nho Gia [là “tư thục
đệ tử” của Khổng Tử]. Ngài Liên Trì là tổ
sư đời thứ tám của Tịnh Độ Tông,
ngài Ngẫu Ích là tổ sư đời thứ chín. Ngài
Liên Trì viết bộ Sớ Sao để chú giải kinh Di
Đà. Trước hết, viết lời Sớ, Sớ nhằm
giải thích kinh. Sau đấy, cảm thấy [lời Sớ]
quá sâu, sợ người đời sau đọc không hiểu;
do vậy, Ngài lại viết lời Sao, Sao nhằm giải
thích Sớ. Tại Đài Loan, bộ Sớ Sao này được
lưu hành rất rộng. Hiện thời, chúng tôi in chung Sớ
Sao và bộ Di Đà Sớ Sao Diễn Nghĩa do pháp sư Cổ
Đức biên soạn thành một bản. Diễn Nghĩa
nhằm chú giải Sớ Sao. Pháp sư Cổ Đức vừa
là đồ đệ vừa là thị giả của ngài
Liên Trì. Trước tác của ngài Liên Trì được
lưu truyền trong đời sau là nhờ công sức của
pháp sư Cổ Đức. Ở Đài Bắc, tôi đã từng
giảng bộ Diễn Nghĩa một lần, thâu âm thành
ba trăm ba mươi lăm
cuốn băng cassettte. Tác phẩm này nội dung phong
phú, được [ngài Ngẫu Ích] xưng tụng là “bác đại tinh thâm” (rộng
lớn, tinh vi, sâu xa) thật xứng đáng!
Ngài U Khê là pháp sư Truyền
Đăng ở chùa Cao Mân tại U Khê, núi Thiên Thai. Ngài Ngẫu Ích dùng tên đất
để gọi vị này nhằm biểu lộ lòng tôn
kính. Vị này cũng là huynh đệ của sư phụ
ngài Ngẫu Ích[17]
nên ngài Ngẫu Ích gọi ngài U Khê là “sư bá”. Ngài U Khê tuổi già chuyên tu Tịnh Độ,
mỗi lần giảng kinh Di Đà đều cảm nhạc
trời vang rền không trung, đại chúng đều nghe
tiếng. Ngài soạn bộ Viên Trung Sao để chú giải
kinh A Di Đà, dùng Tam Quán Chân - Giả - Trung của tông Thiên
Thai để phô bày ý nghĩa, giữ lấy ý nghĩa Trung
Đạo viên dung. Sao nhằm giải thích lời Sớ, lời
Sớ do pháp sư Đại Hựu[18]
viết dưới thời Nguyên, có tên là A Di Đà Kinh
Lược Giải. Bộ Viên Trung Sao này không được
lưu hành rộng rãi, ngài Ngẫu Ích bảo bộ sách ấy
“cao thâm, hồng, bác, văn phú,
nghĩa phồn, hoặc bất tiện sơ cơ”
(cao, sâu, mênh mông, bát ngát, văn nhiều, nghĩa lắm, có
lẽ chẳng thuận tiện cho hàng sơ cơ).
Nhằm
lợi lạc hàng sơ cơ, ngài Ngẫu Ích viết bộ
Yếu Giải này, có kiến giải độc đáo. Vì
thế, nội dung cũng chẳng cần phải giống
với hai vị Liên Trì đại sư và U Khê đại
sư. Hai câu “trắc khán thành
phong, hoành khán thành lãnh” là mượn ý từ bài thơ do
Tô Đông Pha sáng tác khi du ngoạn Lô Sơn, tỉnh Giang Tây.
Bài thơ ấy như sau:
Hoành khán thành lãnh, trắc thành
phong,
Viễn cận cao đê các bất
đồng,
Bất thức Lô Sơn chân diện
mục,
Chỉ duyên thân tại thử
sơn trung.
(Tạm
dịch:
Nhìn
dọc thành đỉnh, ngang thành rặng,
Cao,
thấp, gần, xa vốn khác nhau,
Chẳng
biết Lô Sơn chân diện mục,
Cốt
sao thân ở tại non này).
[Mượn hai câu thơ này] với
ngụ ý: Ngài đã từng thấy chân diện mục (diện
mạo thật sự) của Lô Sơn, đã từng
đích thân chứng được cảnh giới Tây
Phương Tịnh Độ.
Theo phương cách giảng
kinh trong tông Thiên Thai, trước khi giảng kinh sẽ giảng
huyền nghĩa. “Huyền nghĩa”
chính là trong một thời gian rất ngắn có thể giới
thiệu một cách tổng hợp những ý nghĩa chánh
yếu trong một bộ kinh, khiến cho thính chúng trước
hết có được một khái niệm, rồi sau
đó tiếp tục nghe kinh văn sẽ dễ thấu hiểu.
Tông Thiên Thai dùng năm đoạn để giảng rõ
cương yếu của kinh, gọi là “ngũ trùng huyền nghĩa”:
1. Giải thích tựa đề
bản kinh (Thích Danh).
2. Biện Thể (biện định
Thể), tức là chỉ rõ chỗ căn cứ để
lý luận của kinh này, vì nếu chẳng hiểu rõ ý nghĩa,
sẽ khó thể tạo dựng tín tâm.
3. Minh Tông, tức là nói rõ tông chỉ,
cương lãnh và phương pháp tu học trong kinh này.
4. Luận Dụng (luận
định về Dụng), tức Kinh có tác dụng ở
chỗ nào? Tông là tu nhân, còn Dụng là kết quả.
5.
Phán giáo: Tổ sư, đại đức chỉnh lý, phân
loại kinh Phật, dựa theo thứ tự sâu hay cạn,
khế hợp căn cơ các loại [để phán định
một bộ kinh thuộc về giáo pháp nào].
III. Giải thích huyền nghĩa của kinh
3.1.
Thích danh
(Giải)
Đệ nhất, thích danh. Thử kinh dĩ năng thuyết,
sở thuyết nhân vi danh. Phật giả, thử độ
năng thuyết chi giáo chủ, tức Thích Ca Mâu Ni. Thừa
đại bi nguyện lực, sanh ngũ trược ác thế,
dĩ tiên giác giác hậu giác. Vô pháp bất tri, vô pháp bất
kiến giả dã. Thuyết giả, duyệt sở hoài dã.
Phật dĩ độ sanh vi hoài, chúng sanh thành Phật
cơ thục, vị thuyết nan tín pháp, linh cứu cánh
thoát, cố duyệt dã. A Di Đà, sở thuyết bỉ
độ chi đạo sư. Dĩ tứ thập bát nguyện,
tiếp tín nguyện niệm Phật chúng sanh, sanh Cực Lạc
thế giới, vĩnh giai bất thoái giả dã. Phạn
ngữ A Di Đà, thử vân Vô Lượng Thọ, diệc
vân Vô Lượng Quang. Yếu chi, công đức, trí huệ,
thần thông, đạo lực, y chánh, trang nghiêm, thuyết
pháp, hóa độ, nhất nhất vô lượng dã. Nhất
thiết kim khẩu, thông danh vi Kinh. Đối thượng
ngũ tự, thị thông biệt hiệp vi đề dã.
Giáo, Hạnh, Lý tam, các luận thông biệt. Quảng như
Thai tạng sở minh.
(解) 第一。釋名。此經以能說所說人為名。佛者。此土能
說之教主。即釋迦牟尼。乘大悲願力。生五濁惡世。以先覺覺後覺。無法不知。無法不見者也。說者。悅所懷也。佛以度生為懷。眾生成佛機熟。為說難信法。令究
竟脫。故悅也。阿彌陀。所說彼土之導師。以四十八願。接信願念佛眾生。生極樂世界。永階不退者也。梵語阿彌陀。此云無量壽。亦云無量光。要之。功德。智
慧。神通。道力。依正。莊嚴。說法。化度。一一無量也。一切金口。通名為經。對上五字。是通別合為題也。教行理三。各論通別。廣如台藏所明。
(Giải[19]:
Thứ nhất là giải thích tên kinh. Kinh này dùng người
nói và người được nói để đặt
tên. Phật là đức giáo chủ nói kinh trong cõi này, tức
Thích Ca Mâu Ni Phật. Do đại bi nguyện lực, sanh
trong đời ác ngũ trược, dùng tiên giác để
giác ngộ kẻ hậu giác, không pháp nào chẳng biết,
không pháp nào chẳng thấy. Thuyết là thỏa lòng mong mỏi[20].
Phật mang chí nguyện độ sanh, căn cơ thành Phật
của chúng sanh đã chín muồi, bèn giảng cho họ biết
pháp khó tin, khiến họ được giải thoát rốt
ráo, cho nên Phật vui sướng. A Di Đà, là đấng
đạo sư của cõi đang được nói đến.
Ngài dùng bốn mươi tám nguyện tiếp độ
chúng sanh tín nguyện niệm Phật sanh về thế giới
Cực Lạc, vĩnh viễn đạt đến địa
vị Bất Thoái. Tiếng Phạn là A Di Đà, cõi này dịch
là Vô Lượng Thọ, còn dịch là Vô Lượng Quang.
Nói tới những điểm trọng yếu thì công đức,
trí huệ, thần thông
đạo lực, sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo,
thuyết pháp, hóa độ, mỗi mỗi đều vô
lượng. Hết thảy những gì do kim khẩu [của
đức Phật] nói ra đều gọi chung là Kinh. Chữ
Kinh đem phối hợp với năm chữ trước
(tức Phật Thuyết A Di Đà) là đem ghép cả
Thông lẫn Biệt[21]
thành tựa đề kinh. Ba món Giáo, Hạnh, Lý mỗi thứ
đều luận định Thông và Biệt, giảng giải
chi tiết thì như trong kinh sách của tông Thiên Thai đã
giảng).
Thích Ca Mâu Ni Phật nương
theo đại bi nguyện lực, sanh trong đời ác
năm trược, rộng độ hữu tình. Vì sao con
người phải sanh vào thế gian? Lúc tôi mười
ba, mười bốn tuổi thường nghĩ đến
vấn đề này, có lúc nghĩ cả mấy tháng,
nhưng chẳng tìm được câu trả lời. Phật
dạy: “Nhân sanh vi thù nghiệp
nhi lai” (Đời người là do đền trả
cái nghiệp mà sanh ra). Trong quá khứ làm lành thì đời
này hưởng phước. Nếu không, chuyện gì cũng
trái ý, nhân quả báo ứng chính là chân tướng sự thật.
Nếu hiểu rõ sự thật này thì sẽ tâm an lý đắc,
chẳng còn oán trời trách người, tâm liền an ổn.
Tâm an, ắt định, Định sanh ra Huệ; từ đấy,
bỏ ác, hướng lành, thay đổi tương lai.
Tiên sinh Viên Liễu Phàm viết Liễu Phàm Tứ Huấn
nhằm xiển minh [phương pháp] “sửa đổi vận
mạng” hết sức tường tận. Ông ta cả
đời sửa lỗi, đổi mới, đoạn
ác, tu thiện. Ông ta đã thay đổi vận mạng của
đời mình khác với lời dự đoán của Khổng
lão tiên sinh từ Vân Nam tới là một người
đắc chánh truyền phép bói Hoàng Cực Số[22]
của Thiệu Tử (Thiệu Khang Tiết). Trong nhà Phật,
“hữu cầu tất ứng”.
“Cầu” là mong cầu đúng lý, đúng pháp thì đều
có thể cầu được. Nếu cầu chẳng
được thì là do [chính bản thân ta] có chướng
ngại. Điều mong cầu trong sách Di Đà Yếu Giải
này chính là cầu thành Phật. Ai cầu thành Phật thì cũng
đều có thể đạt được, chứ tiếng
tăm, lợi dưỡng, công danh, phú quý trong thế gian
thì có khác gì lông gà, vỏ tỏi? Cầu đúng lý, đúng
pháp thì sẽ có thể chuyển biến cái thân nghiệp
báo thành cái thân nguyện lực. Trước kia, thân nghiệp
báo trong mỗi niệm đều tính toán vì bản thân, từ
nay trở đi, mỗi niệm đều vì hết thảy
chúng sanh, niệm niệm vì Phật pháp. Phật pháp là nền
giáo dục viên mãn chí thiện trong thế gian. Nếu chúng
sanh có cơ duyên tiếp nhận Phật pháp thì sẽ đều
có thể chuyển biến nghiệp lực thành nguyện
lực.
Vào ba ngàn năm trước, khi
đức Phật giảng kinh này, nếu chẳng phải
là bậc đại trí huệ
sẽ rất khó thể thấu hiểu
được. Ngày nay, giảng bộ kinh này, đại
đa số mọi người đều nhận thấy
giống như vậy. Đức Phật nói cõi này là “ngũ
trược ác thế”, hiện thời nhìn lại, chẳng
sai chút nào! “Trược” (濁) là ô nhiễm. Hiện thời, tình hình ô nhiễm
nghiêm trọng, các nước đều đề xướng
bảo vệ môi trường. “Ác”
là ác nghiệp, tâm con người chẳng lành: Thân phạm
giết, trộm, dâm; miệng phạm nói dối, nói đôi
chiều, ác khẩu, nói thêu dệt; ý phạm tham, sân, si. Xã
hội hiện tại tràn ngập mười điều
ác, đức Phật do đại từ đại bi nguyện
lực mà sanh vào thời đại này, nhằm cứu vớt
chúng ta thoát lìa biển khổ.
Phật
là tiên giác (người đã giác ngộ trước), triệt
để hiểu rõ chân tướng của nhân sinh và vũ
trụ, không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng thấy,
dùng tiên giác để giác ngộ hậu giác (kẻ sẽ
giác ngộ sau này); Bồ Tát là hậu giác. Nếu ai có thể
thật sự nương theo Phật pháp để tu hành
thì là Bồ Tát, nhất là đối với pháp môn này. Trong
tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đã ghi “Phật Thuyết Đại Thừa
Vô Lượng Thọ”, cho thấy pháp môn Niệm Phật
là pháp môn tu hành của hàng Đại Thừa Bồ Tát. Phật
ôm ấp chí nguyện độ sanh, niệm niệm giúp
đỡ chúng sanh mau chóng thành Phật hòng thỏa mãn tâm
nguyện. Nếu nguyện lực của chúng ta và nguyện
lực của Phật giống nhau thì sẽ có thể chuyển
nghiệp lực thành nguyện lực. Ý niệm vừa
xoay chuyển thì trước kia là chúng sanh trong lục đạo,
ngay lập tức liền biến thành Pháp Thân đại sĩ.
Chúng ta học Phật cũng phải giữ tấm lòng vì
chúng sanh, đề cao, giới thiệu nền giáo dục
viên mãn này cho hết thảy chúng sanh. Có như vậy thì mới
đồng nguyện, đồng đức, đồng
tâm với chư Phật.
Cơ
duyên của chúng sanh chín muồi, nên đức Phật giới
thiệu với chúng sanh pháp môn này. Trong phần Phát Khởi
Tự của kinh Vô Lượng Thọ, vừa mở
đầu, vẻ mặt đức Phật rạng rỡ,
tôn giả A Nan từ trước đến nay chưa hề
trông thấy như thế, là vì cơ duyên thành Phật của
chúng sanh đã đến rồi, Phật đặc biệt
hoan hỷ. Nói “cơ duyên chín muồi”
nghĩa là họ vừa nghe liền hiểu ngay, vừa
nghe liền tin ngay, vừa nghe liền khai ngộ. Người
này trong đời này sẽ liền có thể vĩnh viễn
thoát khỏi luân hồi, đạt được giải
thoát rốt ráo, cái thân trong hiện tại sẽ gọi là “tối hậu thân” (thân sau
cùng). Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới thì đều là đi ngay trong lúc sống, chứ
không phải chết rồi mới đi về đó.
Đây là pháp môn bất tử, còn gọi là “pháp môn thành tựu ngay trong khi còn sống”. Người
công phu giỏi sẽ biết trước lúc mất, chính
mình tự biết, vui vẻ ra đi.
Trong
lời khai thị cho Phật thất, pháp sư Đàm
Hư có nói trong đời Ngài đích thân thấy hai
mươi mấy người vãng sanh, còn nghe kể lại
thì chẳng thể kể xiết. Người cơ duyên
chín muồi là thiện căn đã tu trong quá khứ vô
lượng kiếp [tới nay] chín muồi, hiện thời
được mười phương hết thảy
chư Phật Như Lai ngấm ngầm gia trì, khiến cho
người ấy tiếp xúc pháp môn này liền có thể lập
tức hiểu, tin, nguyện, hành. Chúng ta nhất định
phải quý tiếc cơ hội được nghe pháp
trong thời khắc này, hạ quyết tâm niệm Phật,
chớ nên bỏ uổng cuộc đời này.
Trong
kinh A Di Đà, đức Phật đã dạy: “Ngã ư ngũ trược ác thế,
hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian thuyết
thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan” (Ta trong đời
ác ngũ trược, làm chuyện khó khăn này, đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết thảy
thế gian nói pháp khó tin này, thật là rất khó). Phật
Thích Ca chính là vị Phật do tu pháp môn Niệm Phật mà
thành Phật, Ngẫu Ích đại sư nhắc nhở
chúng ta điều này, chúng ta mới đột nhiên liễu
giải.
A
Di Đà Phật là bậc đạo sư trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương
Cực Lạc thế giới được hết thảy
chư Phật Như Lai trong mười phương thế
giới ca ngợi. Chư Phật có cùng một đại
nguyện, tức là “độ chúng sanh thành Phật đạo”.
Phật Phật đạo đồng, đều nhận
thấy chúng sanh khó độ, đồng thời biết
Tây Phương A Di Đà Phật có pháp môn thuận tiện
là Niệm Phật, thích hợp khắp ba căn, thâu tóm
độn căn lẫn lợi căn. Do vậy, chư Phật
đều đề cao, giới thiệu Tây Phương Cực
Lạc thế giới của A Di Đà Phật với những
chúng sanh đang được các Ngài hóa độ. Thích Ca
Mâu Ni Phật cũng chẳng ra ngoài thông lệ ấy, nói
ba kinh Tịnh Độ nhằm khuyên chúng ta sanh về Tây
Phương. Đã thế, pháp môn sanh về Tây
Phương lại cực đơn giản, chỉ cần
tín nguyện niệm Phật là được, thật thà niệm một câu A Di Đà
Phật là được rồi. Khi lâm chung, Phật nhất
định đến tiếp dẫn, đấy là bổn
nguyện của Ngài. Trong hết thảy cõi nước, hết
thảy các pháp môn đều là khi tiến, khi lùi, chỉ
riêng pháp môn Niệm Phật là sau khi sanh về Tây
Phương, chỉ có lên lớp, chứ không sụt xuống,
bất quá là tiến nhanh hay chậm mà thôi!
Có
ba thứ Bất Thoái Chuyển:
1.
Vị Bất Thoái: Thánh nhân Tiểu Thừa chứng đến
Sơ Quả, chẳng lui sụt trở lại địa
vị phàm phu, nhưng thời gian vượt lên những
địa vị cao hơn rất dài.
2.
Hạnh Bất Thoái: Bồ Tát đại từ đại
bi giáo hóa chúng sanh, chẳng còn lui sụt xuống Tiểu Thừa.
3.
Niệm Bất Thoái: Niệm niệm hướng đến
Vô Thượng Bồ Đề, chính là Pháp Thân đại
sĩ, phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân.
Niệm
Phật sanh về Tây Phương liền chứng trọn
vẹn ba thứ Bất Thoái, đúng là pháp khó tin!
Phải
hiểu rõ ràng hai chữ “công đức”. Công (功) là công phu tu hành, Đức (德) là quả báo. Cày bừa một phần thì thâu hoạch
một phần, cày bừa là Công, thâu hoạch là Đức.
Lợi ích chúng sanh là Công, trưởng dưỡng Bồ
Đề là Đức. Chữ Đức có cùng ý nghĩa
với chữ Đắc (得) trong “đắc thất” (得失: được, mất). Ví dụ như:
Trì giới là Công, nhất định sanh ra Định,
Định là Đức. Tu Định là Công, nhất
định khai Huệ, khai trí huệ là
Đức. Trí huệ đã mở
mang sẽ phá vô minh, đoạn phiền não, thành tựu vô
thượng Bồ Đề Niết Bàn. Công đức
khác phước đức, phước đức chỉ
có thể đạt được phước báo trong cõi
trời, cõi người, chẳng thể vượt thoát
luân hồi. Lương Vũ Đế là đệ tử
kiền thành của nhà Phật, trong thời gian làm vua, ông
ta đã dựng bốn trăm tám mươi tòa tự viện,
độ mấy chục vạn người xuất gia.
Đạt Ma Tổ Sư của Thiền Tông đến
Trung Quốc gặp mặt Lương Vũ Đế, vua
có ý khoe khoang, nói: “Trẫm dựng chừng đó chùa miếu,
độ bao nhiêu Tăng chúng, công đức có to lớn
hay không?” Tổ Đạt Ma nói: “Trọn chẳng có công
đức gì!” Kết quả, nói năng không hợp ý, Tổ
Đạt Ma lánh xa, sang chùa Thiếu Lâm nhìn vách suốt chín
năm. Nếu thuở ấy, Lương Vũ Đế
hỏi Tổ Đạt Ma, “phước đức của
trẫm lớn hay nhỏ”, Tổ Đạt Ma nhất
định nói “phước đức vô lượng vô
biên”. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư cũng
có nói: “Sanh tử đại sự,
phước chẳng thể cứu được”.
Không có cách nào ban công đức cho người khác, còn
phước đức có thể trao cho người khác.
Thần thông
là năng lực. Thông (通) là thông đạt, Thần (神) là thần kỳ chẳng thể
lường. Chữ “đạo
lực” chỉ công phu tu dưỡng, trong Phật pháp gọi
nó là Giới - Định - Huệ.
“Y báo” là sự thụ hưởng
trong hoàn cảnh sống, “chánh
báo” là thân thể của chính mình. “Trang nghiêm” là chân, thiện, mỹ, huệ. Người
giỏi thuyết pháp có phương pháp dạy học rất
khéo léo, khiến cho người nghe vui vẻ tiếp nhận.
“Hóa độ” là giúp cho chúng
sanh biến đổi khí chất, hóa phàm thành thánh. Những
thứ vừa nói trên đây đều là mục tiêu tối
cao trong sự tu học Phật pháp.
Phàm
những pháp do chính miệng đức Phật nói ra đều
được gọi là Kinh. Thật ra, kinh Phật do
năm loại người nói ra[23].
Những điều do người khác nói ra, nếu phù hợp
khít khao với chân tướng sự thật, được
Phật chấp nhận, thì cũng được coi là giống
như Phật nói. Trong nhà Phật nói tới “pháp ấn” thì Ấn biểu
thị cho sự tin tưởng. Công văn của quan phủ
có đóng cái ấn to lên, sẽ được công nhận
là có hiệu lực. Hết thảy pháp Đại Thừa
dùng Thật Tướng làm Pháp Ấn. Chẳng phải do
Phật nói, nhưng nội dung [những lời nói ấy]
cũng là chân tướng sự thật thì cũng giống
như do đức Phật nói.
“Giáo, Hạnh, Lý tam, các luận thông biệt,
quảng như Thai Tạng sở minh”: Đối với Giáo, Hạnh,
Lý, Ngẫu Ích đại sư không giảng tường tận,
là vì trong bộ Sớ Sao của ngài Liên Trì và bộ Viên
Trung Sao của ngài U Khê đã giảng rất tường tận.
Ngoài ra, những kinh sách của tông Thiên Thai cũng đều
có thể dùng để tham khảo. Giáo là tài liệu dạy
học, hết thảy kinh điển nhà Phật chính là
sách giáo khoa. Nội dung kinh Phật ắt có đạo lý
thích hợp cho từng tầng cấp, từng địa
phương, thích hợp với nhu cầu của chúng sanh
trong từng thời đại [đó gọi là Lý]. Ngoài Lý
ra, ắt phải có phương pháp để nương
theo Lý mà tu hành, nhằm chứng tỏ: Hễ nương
theo đó để hành thì trong tương lai nhất định
có thể đạt được, [đó gọi là Hạnh].
3.2.
Biện Thể
(Giải)
Đệ nhị, biện Thể. Đại Thừa kinh
giai dĩ Thật Tướng vi chánh thể. Ngô nhân hiện
tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại nội, bất
tại ngoại, bất tại trung gian, phi quá khứ, phi
hiện tại, phi vị lai, phi thanh, hoàng, xích, bạch,
trường, đoản, phương, viên, phi
hương, phi vị, phi xúc, phi pháp, mịch chi liễu bất
khả đắc, nhi bất khả ngôn kỳ vô. Cụ tạo
bách giới thiên như, nhi bất khả ngôn kỳ hữu.
Ly nhất thiết duyên lự, phân biệt, ngữ ngôn
văn tự tướng, nhi duyên lự, phân biệt, ngữ
ngôn, văn tự, phi ly thử, biệt hữu tự tánh.
Yếu chi, ly nhất thiết tướng, tức nhất
thiết pháp. Ly cố, vô tướng. Tức cố, vô bất
tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh Thật
Tướng. Thật Tướng chi Thể, phi tịch,
phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu
nhi hằng tịch. Chiếu nhi tịch, cưỡng danh
Thường Tịch Quang độ. Tịch nhi chiếu,
cưỡng danh Thanh Tịnh Pháp Thân. Hựu, chiếu tịch,
cưỡng danh Pháp Thân. Tịch chiếu, cưỡng danh
Báo Thân. Hựu, tánh đức tịch chiếu, danh Pháp
Thân. Tu đức chiếu tịch, danh Báo Thân. Hựu tu
đức chiếu tịch, danh Thụ Dụng Thân. Tu
đức tịch chiếu, danh Ứng Hóa Thân. Tịch chiếu
bất nhị, thân độ bất nhị. Tánh tu bất
nhị, chân ứng bất nhị, vô phi Thật Tướng.
Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị. Thị
cố, cử Thể tác y, tác chánh, tác pháp, tác báo, tác tự,
tác tha. Nãi chí năng thuyết, sở thuyết, năng
độ, sở độ, năng tín, sở tín, năng
nguyện, sở nguyện, năng trì, sở trì, năng
sanh, sở sanh, năng tán, sở tán, vô phi Thật Tướng
chánh ấn chi sở ấn dã.
(解) 第二。辨體。大乘經皆以實相為正體。吾人現前一念
心性。不在內。不在外。不在中間。非過去。非現在。非未來。非青黃赤白。長短方圓。非香。非味。非觸。非法。覓之了不可得。而不可言其無。具造百界千如。
而不可言其有。離一切緣慮分別。語言文字相。而緣慮分別。語言文字。非離此別有自性。要之。離一切相。即一切法。離故無相。即故無不相。不得已強名實相。
實相之體。非寂非照。而復寂而恆照。照而恆寂。照而寂。強名常寂光土。寂而照。強名清淨法身。又。照寂強名法身。寂照強名報身。又。性德寂照。名法身。修
德照寂。名報身。又。修德照寂。名受用身。修德寂照。名應化身。寂照不二。身土不二。性修不二。真應不二。無非實相。實相無二。亦無不二。是故舉體作依作
正。作法作報。作自作他。乃至能說所說。能度所度。能信所信。能願所願。能持所持。能生所生。能讚所讚。無非實相正印之所印也。
(Giải:
Thứ hai, biện định cái Thể. Các kinh Đại
Thừa đều lấy Thật Tướng làm Chánh Thể.
Một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta chẳng
ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa,
chẳng phải là quá khứ, chẳng phải là hiện tại,
chẳng phải là tương lai, chẳng phải là xanh,
vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, chẳng phải
Hương, chẳng phải Vị, chẳng phải Xúc,
chẳng phải Pháp. Tìm thì
trọn chẳng thể được, nhưng chẳng
thể nói là Không. Tạo đầy đủ bách giới
thiên như, nhưng chẳng thể nói là Có. Lìa hết thảy
duyên lự[24],
phân biệt và tướng ngôn ngữ, văn tự,
nhưng duyên lự, phân biệt và tướng ngôn ngữ,
văn tự chẳng lìa khỏi điều này mà có tự
tánh riêng biệt. Nói tóm gọn thì lìa hết thảy tướng
chính là hết thảy pháp. Do “lìa” nên không có tướng, do
“chính là” nên chẳng phải là không có tướng. Bất
đắc dĩ, cưỡng gọi là Thật Tướng.
Thể của Thật Tướng chẳng Tịch, chẳng
Chiếu, nhưng lại Tịch và luôn luôn Chiếu, tuy Chiếu
nhưng luôn Tịch. Tuy Chiếu mà vẫn Tịch nên cưỡng
gọi là Thường Tịch Quang Độ. Tuy Tịch
nhưng vẫn Chiếu, nên cưỡng gọi là Thanh Tịnh
Pháp Thân. Lại nữa, do Chiếu mà Tịch nên cưỡng
gọi là Pháp Thân. Tuy Tịch nhưng lại Chiếu nên
cưỡng gọi là Báo Thân. Hơn nữa, do Tánh Đức
tuy Tịch mà Chiếu nên gọi là Pháp Thân. Do Tu Đức
tuy Chiếu mà Tịch nên gọi là Báo Thân. Lại nữa,
Tu Đức tuy Chiếu nhưng vẫn Tịch nên gọi
là Thụ Dụng Thân, Tu Đức tuy Tịch nhưng có thể
Chiếu nên gọi là Ứng Hóa Thân. Tịch và Chiếu chẳng
hai, thân và cõi nước chẳng hai, Tánh và Tu không hai, Chân và
Ứng không hai, không gì chẳng phải là Thật Tướng.
Thật Tướng không hai, mà cũng chẳng không hai. Vì
thế, toàn bộ cái Thể có thể làm thành y báo, làm thành
chánh báo, tạo thành Pháp Thân, tạo thành Báo Thân, tạo thành Tự, tạo thành Tha, cho đến
người nói, đối tượng được nói,
người hóa độ, kẻ được hóa độ,
người tin, pháp được tin, người phát nguyện,
điều được phát nguyện, người trì,
pháp được trì, người sanh về, cõi để
sanh về, người khen ngợi, đối tượng
được khen ngợi, không gì chẳng được Thật Tướng
Chánh Ấn in vào).
Phật giảng kinh
này dựa theo lý luận và sự thật nào để nói?
Phải hiểu rõ điều này trước rồi mới
có thể thật sự sanh khởi tín tâm, y giáo phụng
hành. Các kinh Đại Thừa đều lấy Thật
Tướng làm Thể[25].
Thật Tướng là chân tướng của nhân sinh và vũ
trụ. Nhân sinh là chính mình, vũ trụ là hoàn cảnh sống.
Đối với chúng ta, kinh Đại Thừa trọng yếu
như thế, chẳng thể không hiểu rõ hoàn cảnh sống
của chính mình. Nếu không hiểu, sẽ mê hoặc. Hễ
mê, ắt điên đảo, coi thật là giả, tưởng
tà là chánh, xem ác là thiện; bởi đó, xử thế,
đãi người, tiếp vật và tư tưởng,
quan niệm đều nẩy sanh sai lầm. Kinh Đại
Thừa chỉ dạy chúng ta một con đường tu
hành chánh xác, đó là chỗ thù thắng của kinh điển
Đại Thừa vậy.
“Ngô
nhân hiện tiền nhất niệm tâm tánh, bất tại
nội, bất tại ngoại” (một niệm tâm tánh
hiện tiền của chúng ta chẳng ở trong, chẳng
ở ngoài): Đoạn này rất khó hiểu, nhưng
đúng là chân tướng sự thật được nói
một cách đơn giản, ách yếu. Triết học gọi
Thật Tướng là Bản Thể. Trong kinh Đại
Thừa, đức Phật giải thích, nói theo mặt Thể
thì Thật Tướng là “vô
tướng”. Muôn pháp trong vũ trụ sanh ra như thế
nào? Thế giới hình thành như thế nào? Động vật,
thực vật tồn tại như thế nào? Đều
là do một căn nguyên mà sanh ra. Căn nguyên ấy chính là Bản
Thể. Những nhà triết học và tôn giáo trong ngoài
nước xưa nay đều tìm tòi [lời giải
đáp] cho vấn đề Bản Thể nhưng chưa
đạt được kết luận, nên mới có những
thuyết gọi là Nhất Nguyên Luận, Nhị Nguyên Luận,
Đa Nguyên Luận[26],
Duy Tâm, Duy Thức. Từ ba ngàn năm trước, qua các
kinh Đại Thừa đức Phật
đã nói rồi.
Đức Phật nói bản thể của vạn hữu là
tâm.
Muôn vật trong trời đất đều do tâm biến
hiện ra. Chủ thể biến hiện là một, còn những
cái được biến hiện thì vô lượng vô biên.
Kinh Đại Thừa gọi nó là Chân Như Bổn Tánh.
Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan kiếm chân tâm ở bảy
chỗ, Phật đều bảo chẳng đúng. Chân tâm ấy
không có hình tượng, không có màu sắc, không phải là quá
khứ, hiện tại, vị lai, không phải là
Hương, Vị, Xúc, Pháp; nhưng nó là Có, chẳng phải
là Không! Phật pháp thường dùng chữ Không để
hình dung nó. “Không” chẳng phải
là cái gì cũng chẳng có! Tâm Kinh dạy: “Sắc chính là Không, Không chính là Sắc. Sắc chẳng
khác Không. Không chẳng khác Sắc”. Sắc là nói về hiện
tượng, Không là nói về Bản Thể. Không là chủ
thể biến hiện (Năng Biến), Sắc là cái
được biến hiện (Sở Biến). Quý vị
đều có kinh nghiệm nằm mộng, cảnh giới
trong mộng nhất định phải có một thứ
gì đó biến hiện cảnh mộng, đem so với
tâm tánh thì cảnh giới hiện ra trong mộng là sắc
tướng, là do cái Thể có khả năng biến hiện
đã biến hiện ra chúng. Sắc tướng là giả,
Năng Biến (cái có khả năng biến hiện) là
chân. Do vậy, tâm gọi là Chân Tâm, tánh được gọi
là Bổn Tánh. Tướng là giả, bị biến đổi,
nhưng Thể của những tướng được
biến hiện thì là chân. Sự trang nghiêm nơi y báo và
chánh báo trong mười pháp giới đều do nó biến
hiện ra. Do vậy, Thiền gia có một câu nói: “Nhược nhân thức đắc
tâm, đại địa vô thốn thổ” (Nếu ai
hiểu được tâm, đại địa không còn một
tấc đất).
Chúng ta hiện
đang mê, suốt ngày từ
sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, tạo nghiệp,
chịu báo, cảm nhận lục đạo luân hồi,
hoàn toàn là do tự tâm biến hiện ra. Nếu rời khỏi
tâm tánh thì chẳng có một pháp nào để có thể
đạt được! Một niệm tâm tánh hiện
tiền của chúng ta và một niệm tâm tánh chư Phật
Như Lai chẳng hai, chẳng khác, nhưng có ý niệm thứ
hai là sai rồi. Niệm thứ nhất là bổn tánh, niệm
thứ hai là vọng tưởng, chấp trước. Nếu
giữ được nhất niệm thì sẽ thành Phật.
Niệm thứ nhất không có phân biệt, chấp trước,
bình đẳng đối với muôn pháp bên ngoài, chẳng
có thiện hay ác, đúng hay sai, tà hay chánh, chân hay vọng, lợi
hay hại, đó gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Cái niệm
thứ hai là phân biệt, chấp trước đã dấy
lên. Ví như tôi cầm một vật nào đó trong tay, quý vị
vừa trông thấy thì rất rõ ràng, nhưng qua ý niệm
thứ hai liền suy nghĩ vật này có tên là gì. Nó vốn
không có tên gọi, tên gọi là do người ngoài đặt
cho nó, là giả danh. Gọi nó là một trang giấy, màu trắng,
tức là khởi lên phân biệt, chấp trước. Từ
đấy, dẫn khởi tham, sân, si, mạn. Chúng ta chẳng
thể giữ cho niệm thứ nhất không biến đổi,
hễ gặp bất cứ cảnh giới nào liền lập
tức mê. Đã mê lại càng thêm mê, luân chuyển trong sáu nẻo,
chẳng có thuở thoát ra. Đấy chính là lý luận
căn bản trong Phật pháp, chẳng thể không biết.
Dùng vàng chế ra đồ vật, món nào cũng là vàng.
Đồ vật có thể biến đổi, chứ vàng
chẳng thay đổi. Tướng có thể biến
đổi, chứ Thể chẳng biến đổi. Tâm
tánh bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng bất
biến. Đáng tiếc là chúng ta vọng niệm này tiếp
nối vọng niệm khác, vĩnh viễn không ngưng nghỉ.
Do đây, tướng mà mình thấy được là vọng
tưởng. Nếu có một ngày nào đó, thật sự
đạt được nhất tâm thì sẽ thật sự
thấy được Thật Tướng. Thật Tướng
là hết thảy pháp bất sanh bất diệt, trong kinh Phật
gọi đó là Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Chúng ta sử dụng
cái tâm sanh diệt, nên thấy hết thảy pháp đều
có sanh, có diệt. Con người có sanh, lão, bệnh, tử,
thế giới có thành, trụ, hoại, không. Chư Phật,
Bồ Tát dùng tâm bất sanh bất diệt, thấy hết
thảy pháp bất sanh bất diệt. Học Phật tức
là muốn công phu đạt đến mức nhất tâm,
sự tu học trong Đại Thừa Phật pháp xoay
quanh điều này. Thiền Tông gọi nó là Thiền Định,
còn pháp môn Niệm Phật gọi nó là Nhất Tâm. Nhất
Tâm là Thiền Định, mà cũng là Thật Tướng,
Chân Như, Bổn Tánh. Niệm Phật đến mức
nhất tâm bất loạn thì sẽ có cùng một cảnh
giới với minh tâm kiến tánh trong nhà Thiền. Trong
phương diện Giáo Học, ắt cần phải lập
ra thuật ngữ danh tướng để tiện cho con
người thấu hiểu. Danh từ là giả lập,
chớ nên chấp trước. Căn bệnh lớn nhất
trong các pháp thế gian là chấp trước. Chúng ta nghiên cứu
tâm tánh, nói đến các thứ danh tướng của Chân
Như Bổn Tánh, tự mình đừng nên chấp trước,
mà cũng đừng khiến cho người khác chấp
trước. Tu học Phật pháp khó nhất là ở chỗ
này. Đức Phật thuyết pháp suốt bốn
mươi chín năm, nhưng kinh Kim Cang lại chép Ngài chẳng
nói một pháp nào cả! Đức Phật nói: “Tu Bồ Đề! Nhữ vật
vị Như Lai tác thị niệm, ngã đương hữu
sở thuyết pháp, mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố?
Nhược nhân ngôn Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức
vi báng Phật, bất năng giải ngã sở thuyết cố”
(Này Tu Bồ Đề! Ông đừng nói: Như Lai nghĩ
như thế này, ta sẽ có pháp để nói, đừng
nghĩ như vậy. Vì sao? Nếu có ai nói Như Lai có thuyết
pháp thì chính là báng Phật vì chẳng thể hiểu lời
ta nói). Chúng ta chớ nên chấp trước pháp do đức
Phật đã nói, phải thấu hiểu sâu xa điều
này. Hễ chấp sẽ mê!
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật
nói: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ, đức tướng của Như Lai,
chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng
thể chứng đắc”. Chỉ một câu này
đã nói toạc ra cái gốc bệnh của chúng ta chính là
phân biệt, chấp trước. Không có phân biệt, chấp
trước thì chính là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân
pháp giới là cuộc sống ở ngay trước mắt
chúng ta. Phật pháp không có gì khác, chỉ là phá chấp mà
thôi. Phá trừ Ngã Chấp, chứng quả vị A La Hán
trong Tiểu Thừa; Đại Thừa phá trừ Pháp Chấp,
sẽ viên mãn thành Phật. Thành Phật chỉ là phá
được cả hai chấp mà thôi! Ngã Chấp là cội
nguồn của Phiền Não Chướng, phá được
Ngã Chấp thì đoạn được Kiến Tư phiền
não. Phá được Kiến Tư phiền não sẽ thoát
khỏi lục đạo luân hồi. Pháp Chấp là cội
nguồn của vô minh, phá được Pháp Chấp sẽ
đoạn vô minh. Kinh điển dù Đại Thừa hay
Tiểu Thừa đều giảng như vậy. Do
đó, có rất nhiều tông phái, vô lượng pháp môn,
nhưng phương pháp, lý luận đều nhằm giúp
cho người học phá chấp và minh tâm kiến tánh. Nay
chúng ta chọn lựa pháp môn Niệm Phật, niệm một
câu A Di Đà Phật, dùng công phu chân thật của chính mình
lại thêm bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật
gia trì, người căn tánh lanh lợi chịu buông phân biệt,
chấp trước xuống sẽ khai ngộ dễ dàng.
“Mịch chi liễu bất khả đắc” (tìm
kiếm thì trọn chẳng thể được) là nói về
tâm tánh. Đạt Ma Tổ Sư lúc diện bích (nhìn vào
vách) chín năm tại chùa Thiếu Lâm, tìm chẳng
được một ai để truyền pháp. Về
sau, có Huệ Khả đến cầu pháp, chân thành, cung
kính Tổ Đạt Ma. Tổ Đạt Ma ngồi yên, chẳng
đếm xỉa gì tới. Nhằm biểu thị lòng
thành, Huệ Khả dùng đao chặt tay trái, dâng lên cúng
dường. Tổ Đạt Ma cảm động, chấp
nhận. Huệ Khả liền hướng về Tổ
Đạt Ma, thưa: “Tâm con chẳng
an, cầu đại sư an cái tâm cho con”. Tổ Đạt
Ma bảo: “Ông đem cái tâm lại
đây, ta sẽ an nó cho ông”. Huệ Khả thưa: “Con tìm tâm trọn chẳng thể
được!” Đạt Ma nói: “Ta đã an cái tâm cho ông rồi!” Huệ Khả vừa
nghe liền đại ngộ. Trong cuộc đối thoại
của hai vị, Tổ Đạt Ma nói mà chẳng nói, Huệ
Khả nghe mà chẳng nghe.
Tâm là có, chẳng thể
bảo là không có, tận hư không, trọn pháp giới,
muôn pháp, bách giới, thiên như trong vũ trụ đều
do nó biến hiện, nhưng chẳng thể nói muôn pháp
trong vũ trụ là thật sự có. Chúng ta thấy chúng thật
sự có, vì dùng cái tâm phân biệt để nhìn. Chân tướng
là “đương Thể tức
Không” (ngay nơi bản thể của chúng là Không). Kinh
Lăng Nghiêm khai huệ nói: “Đương
xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”[27]. Vẫn phải nói tới
sanh diệt, vì không nói sanh diệt, chúng ta sẽ không có cách
gì thấu hiểu được. Sanh và diệt là một,
chẳng phải hai. Tướng của nó là giả tướng,
kinh gọi là Diệu Hữu: “Chân
Không bất không, Diệu Hữu phi hữu” (Chân Không chẳng
phải là không mà Diệu Hữu chẳng phải là hữu).
Nếu tâm đạt đến mức thanh tịnh kha khá
thì mới có thể phần nào lãnh ngộ được ý
nghĩa này. Ví như coi phim, cuốn phim là do từng tấm
phim ghép lại, nhưng khi chiếu phim với tốc độ
rất nhanh, chỉ thấy hình tướng liên tục, mỗi
một giây [ống kính của máy chiếu phim] đóng mở
hai mươi bốn lần, kẻ tâm thô, thiếu công phu
định lực sẽ chẳng thể nào phân biệt
được! Đức Phật nói giả tướng
của vạn hữu trong vũ trụ sanh diệt chỉ
trong khoảng khảy ngón tay. Trong một giây có thể khảy
ngón tay bốn lần. Trong một khảy ngón tay có sáu
mươi sát-na, một sát-na có chín trăm lần sanh diệt.
Do vậy, trong một giây vừa vặn có hai cái mười
tám ngàn lần sanh diệt[28].
Quý vị có thể nào nhận biết nó là giả hay
chăng? Bậc Đại Thừa Bát Địa Bồ Tát
công phu định lực sâu dầy mới có thể thấy
được rõ ràng!
Niệm Phật niệm
đến mức “công phu thành phiến” là bước thứ
nhất, tiến hơn một bước nữa là “Sự
nhất tâm bất loạn”. Tiến thêm bước nữa
là niệm đến mức “Lý nhất tâm bất loạn”
sẽ thấy được cảnh giới sanh diệt ấy.
Tướng đều là huyễn tướng, chẳng phải
là chân tướng. Nếu quả thật có thể thấu
hiểu hoặc có thể khẳng định thì sẽ hiểu
thấu đáo câu kinh Kim Cang sau đây: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”
(Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng).
Kinh Kim Cang còn dạy: “Nhất
thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh”
(Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng). Ấy là lời chân thật. Pháp hữu vi: Theo như
Bách Pháp Minh Môn Luận thì tất cả hết thảy pháp
quy nạp thành một trăm pháp, trong ấy chia thành
năm loại lớn: Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, sắc
pháp, bất tương ứng hành pháp, vô vi pháp. Trừ sáu
pháp vô vi ra, chín mươi bốn pháp kia đều gọi
là hữu vi pháp. Hữu vi pháp đều là mộng, huyễn,
bọt, bóng, như sương, như ánh chớp, đấy
là sự thật. Nếu có thể thật sự tin tưởng
thì liền đạt được thanh lương tự
tại. Đấy chính là sự thụ dụng thật sự
trong Đại Thừa Phật pháp.
“Bách giới” chính là
mười pháp giới được mở rộng ra,
trong mỗi một pháp giới lại có đủ mười
pháp giới, nên [10x10] thành một trăm giới. “Thiên như”: Trong mỗi một
giới đều có mười như thị, [khái niệm]
này xuất phát từ kinh Pháp Hoa. “Thập
như thị” là như thị tướng, như thị
tánh, như thị thể, như thị lực, như thị
tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả,
như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh
đẳng. Mỗi một pháp giới có mười
như thị, nên một trăm pháp giới có một ngàn
như thị; vì vậy gọi là “bách giới thiên như”[29].
Đại Thừa Bồ
Tát chẳng chấp trước Có, mà cũng chẳng chấp
trước Không. Thấp hơn Đại Thừa thì phàm
phu chấp Có, Nhị Thừa chấp Không, chấp lệch
vào một bên là sai. Chấp Có thì luân hồi trong lục
đạo; chấp không sẽ chẳng thể thấy
được tánh. Chỉ có Đại Thừa Bồ Tát
biết chân tướng sự thật, chẳng chấp
bên nào hết. Tâm tánh chẳng thể được, cảnh
giới cũng chẳng thể được. “Chẳng
thể được” là thật; nếu nghĩ là “có thể
được” thì đã hiểu sai rồi! Thân thể của
chúng ta và hết thảy muôn pháp đều biến hóa sanh
diệt trong từng sát-na, không có một pháp nào có thể
được. Nếu thật sự hiểu rõ sâu xa sự
thật này thì ý niệm được - mất sẽ nhạt
bớt, phiền não, ưu lự có thể giảm thiểu
tới tám chín chục phần trăm! Đây là cảnh giới
chẳng thể được, sự cũng chẳng thể
được. Tâm kinh dạy: “Vô
trí, diệc vô đắc”, không chỉ Ngũ Ấm, Lục
Nhập, Thập Bát Giới chẳng thể được,
ngay trí Năng Chứng và pháp được chứng là Bồ
Đề Niết Bàn cũng chẳng thể được.
Do tâm tánh là Không, Năng Biến (chủ thể biến
đổi, tức tâm) đã chẳng thể được,
thì Sở Biến (đối tượng bị biến
hóa, tức hết thảy vạn pháp trong vũ trụ) làm
sao có thể được? Nhập cảnh giới này thì
chân tướng sẽ thấu hiểu rành rành, ngộ nhập
Thật Tướng thì sẽ tận tình hưởng thụ
hết thảy sự vật. Đừng nghĩ chúng là thật
sự có, rồi mong chiếm hữu thì cuộc sống
trên thế gian sẽ là du hý thần thông.
Bổn tánh tuyệt
đối chẳng có tướng hư vọng, “duyên lự” là tư tưởng,
“phân biệt” là kiến giải.
Trong tâm tánh không có duyên lự, phân biệt. Cổ đức
dạy kẻ sơ học phải khởi sự từ
Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là vô tri, cầu đạt
tâm thanh tịnh, chứ không chấp thuận quý vị có kiến
giải, có tư tưởng. Lìa hết thảy ngôn ngữ,
văn tự, ở mãi trong cảnh giới Định. Người
học Phật hiện thời dồn công sức vào
nơi “có hiểu biết, có tư tưởng, có kiến
giải”, sai lầm quá đỗi! Dẫu học Phật
giỏi đến mấy, cũng chỉ có thể gọi
là nhà nghiên cứu Phật học lớn, chứ chẳng
thể đoạn phiền não, đắc thanh tịnh tâm,
liễu sanh tử, thoát tam giới, siêu phàm nhập thánh. Tu
học Tịnh Tông khá đặc biệt, ai nấy đều
có thể học, môn này không dạy người học trụ
tâm nơi Định mà trụ nơi danh hiệu A Di Đà
Phật. Trong tâm, trừ A Di Đà Phật ra, chẳng có một
chút gì khác. Đấy gọi là “có
Tịnh Độ”, hễ có Tịnh Độ, ắt sẽ
sanh về Tịnh Độ.
Trong lúc học Phật
thì vẫn có những chuyện thế gian cần phải
làm, mà lại càng phải sốt sắng làm. Phật pháp nằm
trong thế gian, chẳng hoại tướng thế gian.
Kinh Hoa Nghiêm nói “sự lý vô ngại,
sự sự vô ngại”. Lý là tâm tánh, vĩnh viễn
thanh tịnh. Sự là muôn hình tượng, làm chuyện thế
gian đến mức viên mãn. Hoằng pháp trong hiện thời
ắt phải dùng phương pháp cởi mở. Trước
mắt, bất luận nam, nữ, già, trẻ, ai nấy
đều cầu danh vọng, lợi dưỡng. Nếu
quý vị nói học Phật phải buông bỏ tiếng
tăm, lợi dưỡng, sẽ chẳng có ai học. Phải
kềm cặp chúng sanh, dùng phương pháp chánh xác để
cầu tiếng tăm, lợi dưỡng vừa lòng thỏa
ý họ. Điều này hoàn toàn chẳng trái nghịch Phật
pháp. Phật pháp vốn dạy con người lìa khổ
được vui mà! Hiểu rõ rệt đạo lý sau
đây: “Trong cửa Phật, có
cầu ắt ứng. Cầu phú quý, đắc phú quý. Cầu
công danh, đắc công danh”. Gia đình mỹ mãn, xã hội
an định, thiên hạ thái bình, điều gì cũng cầu
được. Đọc kỹ và làm theo những chỉ
dạy trong ba kinh Tịnh Độ thì sẽ đạt
được những mục đích ấy.
“Ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết
pháp. Ly cố, vô tướng. Tức cố, vô bất
tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng danh Thật
Tướng” (Lìa hết thảy tướng chính là hết
thảy pháp. Do “lìa”, nên vô tướng. Do “chính là”, nên chẳng
phải không có tướng. Bất đắc dĩ, cưỡng
gọi là Thật Tướng). Thật Tướng cũng
là một danh từ giả danh. Tách lìa tướng danh tự
liền thấy được chân tướng của nhân
sinh và vũ trụ. Khi chẳng khởi một niệm sẽ
thấy được chân tướng, phải dùng nhất
tâm thì mới được. Còn dùng ý niệm sẽ là nhị
tâm, rồi lại có phân biệt, liền trở thành tam
tâm! “Vô tướng” là không
có phân biệt, vọng tưởng, chấp trước,
chẳng có tướng hư vọng, chẳng có ý niệm.
Chữ “tức” ý nói sống
ngay trong thế gian này, chẳng tách rời thế gian, chẳng
tách lìa, chỉ có thể thụ dụng nó. Hết thảy
muôn sự muôn pháp đều tồn tại, là có tướng,
nhưng chẳng chấp trước vào những tướng
ấy, chúng sẽ chẳng khởi tác dụng phụ,
nhưng cũng chẳng thể buông bỏ nó. Hễ buông bỏ
thì lại là chấp vào Không.
“Thật Tướng chi Thể, phi tịch, phi chiếu,
nhi phục tịch, nhi hằng chiếu, chiếu nhi hằng
tịch” (Thể của Thật Tướng chẳng tịch,
chẳng chiếu, nhưng lại vừa tịch vừa
luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch): Câu này giảng
rõ “không rớt vào hai bên”. Tịch và Chiếu có thể lần
lượt làm Thể và Dụng cho nhau. Thật Tướng
tức là tâm tánh, bản thể của tâm tánh là Tịch, khởi
tác dụng là Chiếu. Cũng có thể nói: Thể của
tâm tánh là Chiếu, khởi tác dụng là Tịch. Tịch là
vắng lặng[30],
chẳng sanh một niệm, tức là như Lục Tổ
đã nói: “Vốn chẳng có một
vật”. “Chiếu” là hiểu rõ, vạn sự vạn vật
trong vũ trụ đều hiểu rõ ràng. Thể chẳng
phải là Tịch, chẳng phải là Chiếu. Nó vốn
chẳng thể nói là Tịch hay Chiếu. Hễ rớt vào
Tịch hay Chiếu sẽ khởi lên phân biệt. Thánh nhân
thế gian lẫn xuất thế gian thường dạy
chúng ta hãy dùng Trung, tuyệt đối đừng thiên chấp
một bên. Tiểu Thừa thiên chấp Không, phàm phu thiên chấp
Có. “Trung” là “tịch nhi hằng
chiếu, chiếu nhi hằng tịch” (là tịch
nhưng luôn chiếu, tuy chiếu nhưng luôn tịch)[31].
“Như như bất động”
là Tịch, “rõ rệt rành rành”
là Chiếu. Lý luận này hết sức trọng yếu.
Khó thể hình dung Thật Tướng, lìa ngôn thuyết, lìa
văn tự, lìa tâm duyên[32].
Ngôn ngữ nói chẳng được, suy nghĩ, tưởng
tượng cũng chẳng dò lường được.
Cổ đức thường nói: “Khai khẩu tiện thác, động niệm tức
quai” (Mở miệng liền sai, động niệm liền
trật). Khởi tâm động niệm đã chẳng phải
là Thể của Thật Tướng, đem Tịch và Chiếu
áp dụng vào Thật Tướng cũng chẳng
được, nhưng quả thật tồn tại ý nghĩa
Tịch và Chiếu. Lặng trong như nước, mặt
nước giống như một tấm gương
[đó là Tịch], có thể soi bóng những thứ bên ngoài
rõ ràng, rành rẽ. Tâm địa thanh tịnh, thông suốt
khắp mười phương tam thế, được
gọi là Chiếu, còn gọi là “thần thông”, phàm phu chẳng
thể thấu hiểu được. Loại năng lực
này chẳng phải riêng chư Phật mới có, mà hết
thảy chúng sanh đều có, đáng tiếc là đã chôn
vùi phần lớn. Hiện thời, mắt có thể thấy,
tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, đều thuộc
về “thần thông”, nhưng năng lực nhỏ nhoi
đến mức mắt bị ngăn cách bởi một
tờ giấy sẽ không thể thấy được,
khả năng nghe của tai cũng giống như vậy.
Năng lực ấy vì sao bị chôn vùi? Chính là do một niệm
bất giác mà có vô minh. Vô minh vừa khởi lên, năng lực
của Chiếu bị mất đi. Có một niệm khởi,
liền bị chướng ngại thành mê, càng mê, càng sâu.
Những đạo lý “mê như thế nào, phương cách
đả phá sự mê hoặc ấy hòng khôi phục cái tâm
thanh tịnh” được sáu kinh, mười một luận[33]
của tông Hoa Nghiêm và tông Duy Thức giảng tường tận
nhất. Mê là tác dụng của cảm tình, tình càng sâu, mê
càng nặng. Tình do mê vọng sanh ra, chính là hư tình giả
ý [chắc chắn] sẽ biến đổi. Chiếu là Lý
Trí, do Lý Trí sanh ra, vĩnh viễn chẳng biến đổi,
Chiếu là chân tình. Phật pháp chẳng dùng chữ Tình, mà
dùng một danh từ khác là Từ Bi. Từ Bi sanh từ Tịch
và Chiếu, chẳng bị biến đổi.
Trong tựa đề
kinh Vô Lượng Thọ có năm chữ “thanh tịnh bình đẳng giác”, “thanh tịnh bình
đẳng” là Tịch, “giác”
là Chiếu, từ đây, sanh ra đại từ, đại
bi. Phải như thế nào thì mới có thể khế nhập
cảnh giới ấy? Thực hiện từ “thấy thấu
suốt, buông xuống”. “Thấy thấu suốt” là trí huệ,
“buông xuống” là công phu. Phân biệt, chấp trước,
ưu lự, vướng mắc thảy đều buông xuống.
Trong cuộc sống thường nhật, sống tùy duyên,
được đại tự tại. Đấy chính là
hạnh phúc chân chánh.
“Chiếu nhi tịch, cưỡng danh Thường Tịch
Quang độ. Tịch nhi Chiếu, cưỡng danh Thanh Tịnh
Pháp Thân” (Tuy tịch mà chiếu nên cưỡng gọi là
cõi Thường Tịch Quang. Tuy Chiếu mà Tịch, cưỡng
gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân). Hai câu này ý nói: Một niệm
tâm tánh nơi bổn tánh của chúng ta cũng chính là thân và
cõi nước của chư Phật Như Lai. Thân và cõi
nước chẳng hai, do Tịch và Chiếu chẳng hai,
Tịch và Chiếu có thể dùng làm Thể và Dụng lẫn
cho nhau, đấy là chỗ dựa nguyên thủy để
lập luận. Cõi Thường Tịch Quang và Thanh Tịnh
Pháp Thân đều thuộc vào bản thể của tâm
tánh. Ba thân của Phật, tức Pháp Thân, Báo Thân và Ứng
Thân là từ Thể mà khởi Dụng, [nói như vậy] dễ
thấu hiểu hơn. “Pháp” là hết thảy vạn pháp,
hết thảy vạn pháp là chính mình. Thân cũng là một
pháp trong vạn pháp. Nghĩa này hết sức khó hiểu.
Đức Phật thường dùng mộng huyễn để
sánh ví: Trong mộng có các hình tượng biến hiện,
mà trong mộng cũng có chính mình. Trừ chính mình ra, có
sơn hà, đại địa, lầu, đài, điện,
gác, rất nhiều nhân vật. Cảnh giới trong mộng
từ đâu mà có? Mộng do tâm tánh biến hiện ra. Tâm
tánh chia ra thành chân và vọng. Mộng là do vọng tâm biến
hiện. Những cảnh tượng khác cũng đều
do vọng tâm ấy biến hiện. Do đây, có thể
lãnh ngộ “toàn bộ giấc mộng ấy vốn là do
chính mình [biến hiện]”, toàn thể mộng chính là tâm,
đây là điều có thể khẳng định
được. Hiện tại, chúng ta đang nằm mộng,
y báo, chánh báo trang nghiêm, núi, sông, đại địa trong
mười pháp giới đều do tự tâm biến hiện.
Trừ chân tâm bổn tánh ra, không có một pháp nào để
có thể được. Phật và các đại Bồ
Tát hiểu biết rõ ràng sự thật này, chứng đắc
Pháp Thân, nên các Ngài nhất loạt đối đãi bình
đẳng với chúng sanh. Bởi lẽ, hư không pháp giới
và chính mình có cùng một Thể, há còn nói tới điều
kiện nào nữa ư? Phật, Bồ Tát đối xử
chúng sanh là chính mình đối xử chính mình, vì thế mới
“vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi”. Người đời không biết,
La Hán, Bích Chi Phật và Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng
hiểu rõ. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo phá một phẩm
vô minh, chứng một phần Pháp Thân, đích thân chứng
được chân tướng sự thật mới hiểu
rõ. Tư tưởng, kiến giải, cách nghĩ, cách nhìn
của họ chẳng khác chư Phật Như Lai. Đấy
gọi là “nhập Phật tri
kiến”.
“Tịch chiếu cưỡng danh Báo Thân” (Tuy tịch
mà chiếu nên cưỡng gọi là Báo Thân). Tịch mà chiếu,
đấy là công phu, tức tâm thanh tịnh khởi tác dụng,
tràn đầy trí huệ, trở thành Báo Thân trí huệ, thấy
tột cùng trọn khắp hư không pháp giới đều
là hiện tượng tịch diệt.
“Tánh Đức tịch chiếu, danh Pháp Thân. Tu Đức
chiếu tịch, danh Báo Thân” (Tánh Đức tịch mà
chiếu, gọi là Pháp Thân. Tu Đức chiếu mà tịch,
gọi là Báo Thân). Đây là dựa theo Tánh và Tu để
nói. Tánh là bổn tánh, Chân Như bổn tánh tịch chiếu
ai nấy đều có, phàm và thánh giống nhau, nơi Phật
chẳng tăng, tại phàm chẳng giảm. Nhưng Tu
Đức thì khác nhau, Phật, Bồ Tát có tu hành, hiểu
rõ chân tướng của sự thật. Phật, Bồ Tát dạy chúng ta
thì chúng ta nửa tin, nửa ngờ, thậm chí chẳng thể
tiếp nhận. “Chiếu” là hiểu rành rẽ, rõ ràng, mắt
thấy sắc, tai nghe tiếng. Tịch là như như bất
động, đối với cảnh giới chẳng khởi
tâm động niệm. Đấy gọi là Tự Thụ
Dụng Thân. Như như bất động, trọn chẳng
có phiền não, thứ gì cũng rõ ràng, đầy ắp trí
huệ, đấy là tự thụ dụng, mà cũng chính
là sự hưởng thụ chân chánh của chính mình.
Chúng ta sống rất
khổ, phiền não nhiều như vậy, chẳng có Tịch.
Trong tâm suy nghĩ lung tung, thứ gì ở bên ngoài cũng chẳng
hiểu biết, nên không có Chiếu. Để giúp đỡ
người khác thì chính mình phải Tịch Chiếu, chính
mình phải như bất động. Hiểu rõ ràng, rành rẽ
cảnh giới bên ngoài thì mới có thể chỉ dạy
người khác. Chính mình như như bất động
thì mới chẳng bị người khác lôi kéo, cho nên
được đại tự tại. Chỉ có Chiếu
không có Tịch mà độ chúng sanh và tiếp xúc chúng sanh, hễ
tiếng tăm, lợi dưỡng đưa tới thì
tham, sân, si, mạn nẩy sanh, sẽ bị chúng sanh lôi kéo. Ứng
Hóa Thân là Tha Thụ Dụng Thân nhằm giúp đỡ
người khác.
“Thật
Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị” (Thật
Tướng không hai, mà cũng chẳng không hai). Vũ trụ
vạn hữu, vốn là bình đẳng nhất tướng,
trong ấy không có sai biệt. Kinh Kim Cang nói đại thiên
thế giới là “nhất hiệp
tướng”[34].
Vật chất cơ bản của vạn vật chỉ
là một, chỉ là công thức cấu tạo khác nhau. Vì vậy,
muôn pháp trong vũ trụ là bình đẳng, đều là một
hiệp tướng, không sai biệt. Nếu các nhà khoa học
đọc kinh Phật, nhất định họ sẽ bội
phục Thích Ca Mâu Ni năm vóc sát đất.
Trông thấy chân tướng
của sự thật bình đẳng vô nhị, mà nếu vẫn
khởi phân biệt, chấp trước, thị phi, thiện
ác thì lầm lẫn quá đỗi rồi! Có kẻ hoài nghi:
“Nếu vạn pháp đã là bình đẳng, chẳng hai, cớ
sao Phật nói chân tâm và vọng tâm?” Hãy nên biết: Phật
nói chân tâm và vọng tâm chính là nói phương tiện. Nếu
nói chân thật, sẽ chẳng mở miệng. Những
điều Ngài đã nói trong suốt bốn mươi chín
năm đều là nói phương tiện. Phải từ
lời nói phương tiện mà ngộ nhập chân thật,
chớ nên chấp vào những danh tướng đức
Phật đã nói. Nghe kinh phải nghe bằng cái tâm thanh tịnh,
chớ nên suy tưởng. Hễ suy tưởng thì ngộ
môn (sự ngộ giải của người nghe) liền
bị đóng lại. Nếu học tập Phật pháp giống
như học pháp thế gian thì sẽ biến thành “Phật
học”, chứ không phải là “học Phật”. Học Phật
phải khai ngộ, phải học cái tâm thanh tịnh, phải
học Tịch Chiếu. Trước hết, nói ra nguyên lý,
sau đấy mới thực hiện trên phương diện
sự tướng.
“Thể” là Thật
Tướng, tức tâm tánh. “Y”
là y báo, “chánh” là thân thể.
Pháp là Pháp Thân, Báo là Báo Thân, cũng do tự tánh biến hiện.
Tự là chính mình, Tha là người khác. Tự - Tha bất
nhị. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ
chính mình. “Năng thuyết”
(người nói kinh này) là Thích Ca Mâu Ni Phật, “sở thuyết” (những
điều được nói đến) là A Di Đà Phật,
tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ. “Năng độ” (người
hóa độ) là chư Phật, “sở
độ” (kẻ được hóa độ) là chúng
sanh. “Năng tín” là cái tâm của
ta, “sở tín” là pháp môn này. “Năng nguyện” là sự hâm
mộ, mong mỏi của chính mình, “sở nguyện” là Tây Phương Cực Lạc
thế giới. “Năng trì”
là thân, khẩu, ý, thân lễ Phật, miệng niệm Phật,
tâm tưởng Phật, “sở
trì” là một câu Phật hiệu “nam-mô A Di Đà Phật”. “Năng sanh” là điều
kiện để có thể vãng sanh, tức Tín - Nguyện -
Hạnh; “sở sanh” là Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Ở Tây
Phương có bốn loại Tịnh Độ, nhưng bốn
loại này dung hợp thành một. Đã sanh về một
cõi thì sẽ sanh trong hết thảy cõi, chỉ có Tây
Phương thù thắng như vậy! “Năng tán” là mười phương chư Phật
Như Lai, “sở tán” là Tây
Phương Tịnh Độ. Những điều này
đều là Thật Tướng, đức Phật thuyết
pháp cho chúng ta đã dựa vào một điều duy nhất,
tức là Thật Tướng.
Ở đây, tôi lại nói rõ cùng các vị đồng
tu. Lý này thông với hết thảy tất cả các kinh
Đại Thừa, đó gọi là “một kinh thông, hết thảy các kinh thông”. Chẳng
phải chỉ như vậy, hết thảy pháp thế
gian và xuất thế gian cũng đều có thể thông
đạt; bởi lẽ, không có một pháp nào chẳng do
tâm tánh biến hiện ra. Bậc Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo có trí huệ viên mãn, không gì chẳng biết,
không gì chẳng thể. Hiểu rõ lý này, cái tâm tu học sẽ
ổn định, chẳng còn suy nghĩ Thiên Thai cũng rất
hay, hoặc là Thiền Tông cũng khá lắm, đều muốn
học hết. Tông Môn, Giáo Hạ, bất cứ tông phái nào
nếu có khế nhập thì đều có thể thành tựu,
nhưng ắt cần phải chuyên tu. Chuyên tu sẽ dễ
thành tựu! Từ xưa, những bậc đại đức
tuy tu những pháp môn khác nhau, nhưng phương hướng,
mục tiêu giống nhau, đôi bên khen ngợi lẫn nhau.
Con người học Phật hiện thời thường
là khen ngợi bản thân, hủy báng người khác[35].
Phụ Chú:
Lời giảng của Hòa Thượng rất chi tiết,
nhưng nói hơi rộng nên có thể khiến cho những
vị đồng tu nếu có cùng căn tánh kém hèn như mạt
nhân khó thể hiểu những điều giảng giải
trong sách Yếu Giải. Mạt nhân phải
đọc đi đọc lại, đồng thời
tham chiếu hai tác phẩm giải thích Yếu Giải của
pháp sư Bảo Tịnh và pháp sư Viên Anh, mới tạm
thấu hiểu chút phần. Xin ghi lại tóm tắt những
điều mạt nhân cảm nhận nông cạn về
đoạn văn Yếu Giải trên đây với ước
vọng giúp cho những đồng tu có cùng căn tánh tệ
hại như mạt nhân có thể hiểu được
phần nào lời dạy của Tổ và Hòa Thượng
Tịnh Không (đây chỉ là những điều chúng tôi cảm
nhận qua lăng kính kiến giải u tối, đầy
phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, suy
đoán ngông cuồng của chính mình, rất có thể
đã hiểu sai bét ý Tổ và ý Hòa Thượng. Kính xin những
vị thiện tri thức phủ chánh cho):
- Tịch: Vắng lặng, bất biến,
diễn tả đặc tánh không bị biến đổi
bởi trần cảnh hay bất cứ nguyên nhân nào của
bản thể (tạm gọi là Thật Tướng).
- Chiếu: Khả năng nhận biết
muôn pháp và hết thảy sự vật rõ ràng.
- Chân tâm (Thật Tướng, Chân
Như, bổn tánh v.v...) bất biến nhưng luôn nhận
biết sự vật không sai lầm, không mê hoặc, tuy nhận
biết sự vật rõ ràng nhưng không vướng mắc,
không bị sự vật ô nhiễm. Do chân tâm vượt
ngoài đối đãi, thấy nó có Chiếu hay có Tịch
đều chỉ là nhìn từ một khía cạnh, không thể
nói chân tâm là Tịch hay Chiếu được. Tuy vậy,
chân tâm luôn trọn đủ ý nghĩa Tịch và Chiếu,
nên chân tâm cũng chẳng thể tách rời Tịch và Chiếu
được. Điều này diễn tả bằng câu “bất biến nhưng tùy duyên,
tùy duyên nhưng bất biến” hoặc nói như Yếu
Giải “phi
tịch, phi chiếu, nhi phục tịch, nhi hằng chiếu,
chiếu nhi hằng tịch” (chẳng
phải tịch, chẳng phải chiếu, nhưng lại
vừa tịch vừa luôn chiếu, tuy chiếu nhưng
luôn tịch).
- Những danh từ như Thường Tịch
Quang, Pháp Thân,
Báo Thân,
Ứng Thân, Thụ Dụng Thân, Ứng Hóa Thân
là những danh từ được đặt ra nhằm
diễn tả một khía cạnh nào đó của Thật
Tướng, vì tất cả đều do Thật Tướng
biến hiện.
- Nhấn mạnh đến khía cạnh
“tùy duyên nhưng bất biến”
của Thật Tướng, ta có Thường Tịch Quang
Độ. Tuy gọi là cõi, nhưng đây chỉ là cảnh
giới chứng đắc của bậc Pháp Thân đại
sĩ và chư Phật, chứ không phải là một cõi về
mặt sự tướng. Tâm các vị ấy thấu hiểu
vạn pháp, nhận biết vạn pháp, nhưng không ô nhiễm
bởi phân biệt, chấp trước, suy lường,
thành kiến, có thể sự sự vô ngại, nên gọi cảnh
giới là Thường Tịch Quang. Do vậy, Yếu Giải
ghi “Chiếu nhi Tịch, cưỡng
danh Thường Tịch Quang độ” (Tùy duyên
nhưng vẫn bất biến thì cưỡng gọi là cõi
Thường Tịch Quang).
- Nhấn mạnh đến khía cạnh
“bất biến nhưng tùy
duyên” của Thật Tướng, thì gọi là Pháp Thân.
Pháp Thân không có hình tướng, nó là Lý Thể. Lý ấy bất
biến, thường hằng, dung thông muôn pháp, tồn tại
trong vạn pháp. Chúng sanh đang mê thì Pháp Thân vẫn không mất,
chư Phật chứng quả viên mãn, Pháp Thân vẫn không
tăng thêm. Pháp Thân có thể lưu lộ vô lượng
tánh đức (nên gọi là tùy duyên). Do vậy Yếu Giải
ghi: “Chiếu nhi Tịch, cưỡng
danh Thanh Tịnh Pháp Thân”.
- Nếu từ Dụng nhìn ngược
lại Thể, thì Thật Tướng có tác dụng vô biên
không chướng ngại, nhưng không vì thế mà nó biến
đổi nên gọi là Pháp Thân, nhấn mạnh đến
ý nghĩa “vô tướng” của Thật Tướng. Do vậy,
sách Yếu Giải ghi “Chiếu
tịch, cưỡng danh Pháp Thân” nhấn mạnh ý nghĩa
Tịch.
- Lại từ Thể nhìn ra Dụng,
chú trọng nơi Dụng. Thật Tướng tuy bất
biến, nhưng có vô biên tác dụng, tác dụng ấy là
trí huệ tràn đầy, không gì chẳng biết, giống
như gương tuy rỗng rang mà vẫn có thể chiếu
soi vô ngại tất cả sự vật. Thật Tướng
vô tướng (rỗng rang, không lệ thuộc hình tướng),
nhưng không trở ngại tướng nào, tràn đầy
trí huệ, nhấn mạnh ý nghĩa Thật Tướng
tuy vô tướng nhưng chẳng phải là chẳng có
tướng gì (có tướng, nhưng không vướng mắc,
trệ ngại nơi hình tướng) nên sách Yếu Giải
bảo “Tịch chiếu cưỡng
danh Báo Thân”, tức nhấn
mạnh vào ý nghĩa Chiếu.
- Tiếp đó, nhìn vào phương diện
đức năng, tức vô biên phẩm đức (công dụng,
đặc tánh) của Thật Tướng để luận
định. Xét theo Lý thì những đức năng ấy
gọi là Tánh Đức. Do Thật Tướng bất biến,
nhưng có vô lượng vô biên đức năng, ai cũng
sẵn đủ vô lượng vô biên các đức
năng ấy. Nhấn mạnh đến khía cạnh “xét
theo Lý (tức theo chân lý tuyệt đối), ai cũng có sẵn
vô lượng đức năng trong tự tánh”, sự thật
ấy tạm gọi là Pháp Thân, nên sách Yếu Giải ghi “Tánh đức tịch chiếu,
danh Pháp Thân”.
- Tuy sẵn đủ đức
năng nơi tự tánh, nhưng do đang mê hoặc, chấp
trước, chúng sanh không thể thụ dụng được,
phải tu tập để trừ khử vọng tưởng,
chấp trước, phân biệt (kinh diễn tả điều
này là phiền não, hoặc Tam Hoặc v.v..), hòng khôi phục
đức năng. Đức năng do tu tập mà đạt
được từng phần gọi là Tu Đức. Do
tu tập, sẽ dần dần khôi phục trọn vẹn
đức năng, các đức năng ấy chính là Dụng
của Thật Tướng, vô biên lực dụng, không gì
chẳng hiểu thấu nhưng chân tâm bất biến, bất
biến nhưng vẫn tùy duyên. Nhấn mạnh đến
sự khôi phục đặc tánh “tùy duyên nhưng bất biến”
sau khi tu tập viên mãn, chứng đắc Phật Quả
nên gọi là Báo Thân. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “Tu Đức tịch chiếu,
danh Báo Thân”.
- Xét riêng phương diện Chiếu,
vận dụng lực dụng của Chiếu để
độ sanh, nhấn mạnh đến khía cạnh Giác
Tha hay Giác Hạnh Viên Mãn nơi quả vị Phật mà có
giả danh là Thụ Dụng Thân và Ứng Hóa
Thân.
- Thụ Dụng Thân chính là tên gọi khác của Báo Thân, chỉ
nhấn mạnh đến khía cạnh lực dụng vô ngại,
được khôi phục trọn vẹn sau khi tu tập
viên mãn, chứng nhập bản tánh chân thường bất
biến (Tịch) của Thật Tướng, do vậy
độ sanh không điều kiện, không gì chẳng thể
làm, không gì chẳng thể biết, không chúng sanh nào chẳng
độ. Do vậy, sách Yếu Giải ghi là “Tu Đức tịch chiếu,
danh Thụ Dụng Thân”.
- Tuy độ sanh vô tận, nhưng
không thấy có chúng sanh để độ, chúng sanh và mình
cùng một thể, thuyết pháp không giáo dục nhưng
không thấy có người nói pháp, không có người nghe
pháp, không có pháp để nói v.v... Nói cách khác, đấy là
“tùy duyên nhưng bất biến”, dẫu độ sanh
nhưng chẳng rời tự tánh, là cảm ứng đạo
giao, giống như gõ vào chuông thì chuông bèn ngân. Do vậy,
sách Yếu Giải ghi là “Tu
Đức chiếu tịch, danh Ứng Hóa thân”.
- Qua những điều trên đây, mọi khái niệm
chủ thể (Năng) và đối tượng được
tác động (Sở), mọi khái niệm tương
đối như thân và cõi nước, y báo và chánh báo v.v...
đều chỉ là những khía cạnh nhìn từ hình
tướng khác nhau của Thật Tướng, tùy theo cách
nhìn theo khía cạnh nào mà có một khái niệm, một pháp ấy,
chớ nên chấp trước. Nhằm khuyên hành giả phá
trừ mọi chấp trước đối đãi nên tổ
Ngẫu Ích mới viết: “Tịch
Chiếu bất nhị, thân độ bất nhị, chân ứng
bất nhị, vô phi Thật Tướng, Thật Tướng
vô nhị”. Rồi lại sợ chúng sanh chấp vào quả
thật có một cái “bất nhị”,
nên lại viết “diệc vô bất
nhị” (mà cũng chẳng không hai). Tiếp đó, Tổ
chỉ rõ bản chất chân thật của mọi pháp là
Thật Tướng, do Thật Tướng biến hiện
nên mới viết: “Cử thể
tác y, tác chánh, tác tự, tác tha...” Phải từ những điều
ấy, chứng nhập Thật Tướng nên mới viết
“vô phi Thật Tướng chánh
ấn chi sở ấn dã” (không gì chẳng được
chánh ấn Thật Tướng in vào).
Phật Thuyết A Di
Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
Hết Phần
1
[1] Thần Châu là một tên gọi khác Trung
Hoa. Theo thần thoại, thời cổ ở Trung Nguyên có
hai vị vua là Viêm Đế và Hoàng Đế. Viêm Đế
lấy lửa tượng trưng cho đức hạnh của
chính mình, nên lãnh thổ cai trị của ông ta gọi là Xích
Huyện. Hoàng Đế lấy đất làm biểu
trưng, lãnh thổ cai trị của ông ta được
gọi là Thần Châu. Về sau, Hoàng Đế đánh bại
Viêm Đế, sát nhập Xích Huyện vào Thần Châu, nên
người Trung Hoa thường gọi vùng Trung Nguyên là
Xích Huyện Thần Châu và tự xưng là “Viêm Hoàng tử tôn” (con cháu của Viêm Hoàng). “Thần Châu thay đổi màu cờ”:
Khi Mao Trạch Đông chiến thắng Quốc Dân Đảng,
biến Hoa Lục thành Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chánh quyền
Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch phải
chạy ra Đài Loan.
[2] Trưởng lão Bạch Thánh (1904-1989)
quê ở Ứng Thành, tỉnh Hồ Bắc, họ ngoài
đời là Hồ, tên là Tất Khang, tên tự là Khiết
Nhân. Xin xuất gia với ngài Long Nham tại chùa Kỳ Viên
núi Cửu Hoa vào năm 18 tuổi, pháp danh là Đông Phú, sau
đó ít lâu, Sư thọ Cụ Túc Giới, pháp tự là Bạch
Thánh. Sư từng tham học với những vị tôn túc
nổi tiếng thời ấy như Độ Ách (Sư học
kinh Lăng Nghiêm từ vị này), Từ Châu, Trí Diệu,
Đạo Giới v.v... và bế quan suốt ba năm tại
Vũ Xương để nghiên cứu Đại Tạng
Kinh. Sư tốt nghiệp từ Pháp Tạng Phật Học
Viện ở Thượng Hải, rồi sang Giang Tô, tham học
với thiền sư Lai Quả chùa Cao Mân. Sau đó, đi
tham học khắp nơi. Sau khi tham học, Sư đảm
nhận chức xử lý thường vụ phân hội Phật
giáo Thượng Hải, chủ nhiệm giáo vụ của
Lăng Nghiêm Phật Học Viện tại Thượng Hải,
rồi trụ trì chùa Phong Lâm thuộc Tây Hồ, Hàng Châu,
giám viện Tịnh An Tự (Thượng Hải), kiêm viện
trưởng Phật Học Viện tại chùa này. Sư
sang Đài Loan năm 1948, tổ chức Trung Quốc Phật
Giáo Hội, lãnh chức vụ Hội Trưởng nhiều
năm, trụ trì các chùa Thập Phổ (Đài Bắc), Lâm
Tế Hộ Quốc Thiền Tự, chùa Cực Lạc (Mã
Lai)... Đồng thời, sáng lập và điều hành
Trung Quốc Phật Giáo Tam Tạng Học Viện, Trung Quốc
Phật Giáo Nghiên Cứu Sở. Sư để lại những
tác phẩm Phật Giáo Là Gì, Sổ Tay Cho Người Trụ
Trì Tông Lâm Tế, Lăng Nghiêm Kinh Biểu Giải, Tứ Phần
Giới Bổn Biểu Giải, Học Thiền
Phương Tiện Đàm, Thiền Tông Sử Luận Tập,
Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn Giảng Ký, Duy Ma Cật
Kinh Giảng Lục...
[3] Tịnh công pháp sư: Từ ngữ
để gọi hòa thượng Tịnh Không với ý tôn
trọng, không gọi rõ pháp danh, pháp tự ra.
[4] Ý nói Di Đà Kinh Yếu Giải là tác phẩm
giải thích kinh tường tận, trọn vẹn, tinh
xác nhất.
[5]
[Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chú]:
Trong phần trên, lão pháp sư nhắc tới “mười hai phần giáo”,
chúng còn được gọi là Mười Hai Bộ (Thập
Nhị Bộ Kinh), tức là căn cứ trên thể tài của
kinh điển mà chia thành mười hai loại. Có bài kệ
như sau:
Trường Hàng, Trùng Tụng và Cô Khởi,
Thí
Dụ, Nhân Duyên, cùng Tự Thuyết,
Bổn
Sự, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu,
Phương
Quảng, Luận Nghị, và Thọ Ký.
(1)
Trường Hàng: Thể văn xuôi từng hàng, từng
hàng một.
(2)
Trùng Tụng: Dùng phương thức kệ tụng để
nhắc lại lần nữa những nghĩa lý trong phần
Trường Hàng.
(3)
Cô Khởi: Phần kệ tụng riêng biệt, không có ý nghĩa
nào liên quan đến phần kinh văn trước và sau
nó.
(4) Thí Dụ: Dùng cách thức ví von để
nói rõ nghĩa lý trong kinh văn.
(5) Nhân Duyên: Trình bày nhân duyên phát sanh một sự
việc nào đó.
(6) Tự Thuyết: Thông thường, có
người thỉnh pháp thì đức Phật mới thuyết
pháp. Chỉ riêng A Di Đà Kinh, không ai thỉnh pháp mà đức
Phật tự nói.
(7) Bổn Sự: Những sự tích trong khi
còn tu nhân của hàng Bồ Tát, La Hán.
(8) Bổn Sanh: Phật kể những sự
từng trải trong việc hoằng pháp lợi sanh [của
chính Ngài] trong quá khứ.
(9) Vị Tằng
Hữu: Những sự thần thông, biến hóa từ
trước đến nay chưa hề thấy.
(10) Phương Quảng: Những kinh viên
dung rộng lớn, có những cảnh giới viên
dung vô ngại.
(11)
Luận Nghị: Những báo cáo nghiên cứu kinh, luật của
đệ tử đức Phật, hoặc là những ghi
chép về các cuộc thảo luận giữa đức Phật
và đệ tử.
(12)
Thọ Ký: Phật thọ ký cho Bồ Tát lúc nào sẽ thành
Phật, tiên đoán Tịnh Độ của họ sẽ
như thế nào.
[6] [Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chú]:
Chương thứ nhất của Đạo Đức
Kinh được mở đầu bằng: “Đạo khả đạo,
phi thường đạo, danh khả danh, phi thường
danh”. Mấy câu này chính là cương lãnh của toàn bộ
Đạo Đức Kinh, chẳng dễ hiểu cho lắm.
Nhằm thuận tiện cho hàng sơ cơ, tôi bổ sung
đại lược. Chữ Đạo thứ nhất
trong [câu trích dẫn trên đây] chỉ cái đạo “chân
thường”, tức là Đạo Thể (bản thể
của Đạo). Chữ Đạo thứ hai có nghĩa
là “nói”. [“Đạo khả
đạo, phi thường đạo” nghĩa là] đạo
chân thường, vô tướng, vô danh, hễ nói liền
trật, khởi niệm liền sai. Cũng giống
như Đại Thừa Khởi Tín Luận giảng về
Chân Như như sau: “Nhất thiết pháp tùng bổn dĩ lai, ly ngôn
thuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên
tướng, tất cánh bình đẳng, vô hữu biến
dịch, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố
danh Chân Như” (Hết thảy pháp vốn từ trước
đến nay lìa tướng ngôn thuyết, rời khỏi
tướng danh tự, rời khỏi tướng tâm
duyên, rốt ráo bình đẳng, chẳng biến đổi,
chẳng thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi
là Chân Như). Nhà Phật gọi cái Đạo mà Lão Tử
đã nói là Chân Như, còn triết học gọi là Bản
Thể. Trong kinh Phật, chỗ nào cũng có thể thấy
được Bản Thể ấy, nhưng danh xưng của
nó biến hóa đa đoan. Từ những sách đã đọc
thường ngày, tôi ghi lại được 72 danh
xưng khác nhau nhưng có cùng ý nghĩa với Chân Như mà
vẫn chưa trọn vẹn. Lão Tử lại nói: “Danh khả danh, phi thường
danh”, chính là nói: Đạo vốn không có tên. Nếu miễn
cưỡng đặt cho nó một danh tự nào đó thì
chỉ là một phần giả danh mà thôi, nhằm biểu
hiện một phần ý nghĩa, chứ không thể nào
hoàn toàn đại diện cho bản thể của Đạo
được. Ngài lại nghĩ, Đạo đã là vô
tướng, vô danh, nhưng muôn vật trong trời đất
đều do nó biến hóa ra, nên Ngài lại nói: “Vô danh thiên địa chi thủy,
hữu danh vạn vật chi mẫu” (Vô danh là khởi
đầu của trời đất, hữu danh là mẹ
của muôn vật). Vô danh là Thể, hữu danh là Dụng.
Vô danh là Tánh, hữu danh là Tướng. Tướng mà không
có Tánh sẽ chẳng thể viên dung, Tánh mà không có Tướng
sẽ chẳng thể tỏ lộ được. Lão Tử
quán sâu xa đến mức ấy, nên tư tưởng triết
học của Ngài được tôn là bậc nhất trong
các sách vở xa xưa của Trung Quốc. Tôi có một ý
nghĩ chưa chín chắn như thế này: Nói chung, Khổng
Tử và Lão Tử đều là đại Bồ Tát tái lai,
họ là quân tiên phong nhằm mở đường cho
đức Phật. Đức Phật sai họ đến
Trung Quốc tạo dựng nền tảng triết học
tốt đẹp cho người Hoa để sau đấy
người Hoa mới có thể tiếp nhận tư
tưởng rộng lớn mênh mông tinh vi, sâu thẳm của
nhà Phật. Tuy Lão Tử đã quán sát được phía
ngoài của Bản Thể, nhưng rốt cuộc, Ngài vẫn
chưa đăng đường nhập thất (chưa
thâm nhập), vì Ngài thường nói: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân”
(Ta có hoạn nạn lớn là vì ta có thân). [Ý nghĩa này] khá
giống với Nhị Thừa, hư vô tự nhiên; lại
giống với ngoại đạo. Xét đến thực
chất, Ngài là bậc phạm hạnh tu Nhân Thừa và Thiên
Thừa, nhưng rốt cuộc chưa thể thấu suốt
tột cùng nguồn tâm. Nếu Ngài có cơ duyên được
học Phật, chắc chắn vừa được Phật
chỉ điểm, Ngài liền trở thành bậc Pháp Thân
đại sĩ hữu tu hữu chứng.
[7] Văn Ngôn là một loại văn viết
được lưu hành đã lâu, có nghĩa đen là dùng
“lối viết văn
chương cổ điển được sử dụng
trong sách vở”, Văn Ngôn khác với văn nói thông
thường (Bạch Thoại). Theo Vương Lực (một
nhà Hán học trứ danh cận đại), Văn Ngôn lấy
ngôn ngữ thời Tiên Tần (trước thời Tần
Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa) làm cơ sở,
được canh cải qua các đời Hán, Đường,
Tống trở thành một thứ văn viết thống
nhất và không bị lệ thuộc vào ngôn ngữ hội
thoại thông dụng. Theo tiên sinh Trần Văn Chánh, có thể
phân biệt Bạch Thoại và Văn Ngôn một cách
đơn giản như sau: “Hễ
dùng tai nghe và hiểu được thì là Bạch Thoại.
Hễ không dùng mắt để xem sẽ không hiểu được
thì đó là Văn Ngôn”. Sau phong trào vận động Ngũ
Tứ (1919) của một số người quá khích muốn
xóa bỏ toàn bộ nền học vấn cũ, hầu
như không còn sách vở nào viết bằng Văn Ngôn. Ngay
trong số những người tốt nghiệp đại
học ở Đại Lục hoặc Đài Loan hiện
thời (nhất là tại Đại Lục), có không ít
người lúng túng, cảm thấy Văn Ngôn rất khó hiểu.
[8] Cổ Văn Quán Chỉ là bộ sách tập
hợp 222 bài cổ văn nổi tiếng, đặc biệt
là những bài thuộc thể loại Tản Văn và Biền
Văn từ thời Tiên Tần cho đến cuối
đời Minh do Ngô Sở Tài và Ngô Điều Hầu biên
soạn và chú thích dưới đời Thanh với mục
đích giúp đỡ hàng hậu học thấu hiểu cổ
văn. Chữ Quán Chỉ lấy từ một câu nói trong bộ
Tả Truyện. Công tử nước Ngô là Quý Trát đi sứ
nước Lỗ, nghe nhạc công tấu bài Thiều Tiêu
đã ca ngợi: “Quán chỉ hỹ!
Nhược hữu tha nhạc, ngôn bất cảm thỉnh
dĩ”. Câu này được các nhà chú giải Tả Truyện
giải thích: “Thiều Tiêu là
tuyệt đỉnh của âm nhạc, sau khi đã
được thưởng thức rồi thì chẳng còn
muốn nghe những loại nhạc khác nữa”. Do vậy,
chú cháu Ngô Sở Tài và Ngô Điều Hầu đã dùng chữ
Quán Chỉ để đặt tên cho bộ sách với ý
nghĩa ca ngợi: Đây là những tác phẩm tuyệt
đỉnh của Cổ Văn Hán ngữ.
[9] Ở đây, Hòa Thượng chỉ
tính những triều đại lớn lấy tên là Tần
trong lịch sử Trung Hoa:
1) Đế quốc Đại Tần
(221-207 trước Công Nguyên) do Tần Thủy Hoàng Đế
(Doanh Chính) sáng lập, chỉ truyền được ba
đời: Tần Thủy Hoàng Đế, Nhị Thế
Hoàng Đế (Doanh Hồ Hợi) và Tam Thế Hoàng Đế
(Doanh Tử Anh).
2) Tiền Tần (350-394), còn gọi là
Phù Tần do Huệ Vũ Đế (Phù Hồng) sáng lập,
truyền được 8 đời. Vua cuối cùng là Tần
Thái Tông (Phù Đăng) bị vua Hậu Tần là Diêu
Hưng đánh bại tại núi Mã Mao vào năm 394, rồi
bị chém đầu. Thái Tử Phù Sùng lên ngôi, chưa kịp
chọn đế hiệu thì bị tướng Tây Tần
là Khất Phục Kha Đạn giết chết. Nhà Tiền
Tần diệt vong.
3) Hậu Tần (384-417), còn gọi là
Diêu Tần, do Tần Thái Tổ (Diêu Trành) sáng lập, truyền
được ba đời. Khi vua thứ hai là Diêu Hưng
chết, con là Diêu Hoằng kế vị, tông thất tàn sát
lẫn nhau, Lưu Dũ, quyền thần của nhà
Đông Tấn thừa cơ phá Trường An, Diêu Hoằng
thế cô lực kiệt, phải đầu hàng nhà Đông
Tấn. Nhưng Lưu Dũ ra lệnh giết sạch toàn
bộ gia quyến, họ hàng của Diêu Hoằng. Về
sau, Lưu Dũ soán ngôi nhà Đông Tấn của Tấn
Cung Đế (Tư Mã Đức Văn), lập ra nhà
Lưu Tống.
4) Tây Tần (385-431) do một viên tướng
người Tiên Ty là Khất Phục Quốc Nhân sáng lập.
Tộc trưởng người Tiên Ty là Khất Phục
Quốc Nhân do thấy Tiền Tần suy yếu bèn chiếm
cứ vùng Lũng Tây, xưng là Đại Thiền Vu. Để
mua chuộc, nhà Tiền Tần phong cho ông ta làm Uyển Giang
Vương. Đến đời vua thứ hai là Khất
Phục Càn Quy (em trai Quốc Nhân) mới chính thức
xưng đế hiệu là Tần, và tôn anh làm Tần Liệt
Tổ. Triều đại này bị diệt vong dưới
thời Khất Phục Mộ Mạt. Mộ Mạt hiếu
sát, u mê, khiến quốc chánh nát bét, rốt cuộc phải
quy thuộc nhà Tây Ngụy. Cuối cùng, Mộ Mạt bị
hoàng đế xứ Hồ Hạ là Hách Liên Định bắt
được, đem giết chết.
Nếu kể cả những sứ quân
chiếm lãnh một hai quận huyện xưng
vương, đặt tên cho vương quốc là Tần
thì Trung Hoa có rất nhiều “nước” nhỏ có quốc
hiệu là Tần như dưới thời các tướng
Hư Trừ Quyền Cừ (tù trưởng người
Khương, chiếm cứ vùng Lũng
Hữu thời Tiền Triệu), Dương Nạn
Đương (thủ lãnh quân phiệt vùng Cam Túc, chiếm
cứ vùng Cửu Trì thời Thập Lục Quốc), Tiết
Cử (thủ lãnh quân phiệt cuối đời Tùy, chiếm
lãnh vùng Cam Túc) v.v...
[10] Tuy Phù Kiên bị đánh bại trong trận
Hợp Phì, mất phần lớn đất nước,
nhưng nhà Tiền Tần vẫn tồn tại cho đến
khi thái tử Phù Sùng của vua Phù Đăng (đã bị
Diêu Hưng giết chết trước đó) bị Khất
Phục Kha Đạn giết chết, nhà Tiền Tần mới
hoàn toàn diệt vong.
[11] Sanh tướng vô minh (Mulavidya) còn gọi
là Vô Thỉ Vô Minh, Căn Bản Vô Minh hoặc Nguyên Phẩm
Vô Minh là căn bản của hết thảy phiền não. Từ
trong biển Chân Như, chợt khởi một niệm vô
minh, tạo thành các căn bản phiền não, lầm lạc
ngăn cách lý tánh.
[12] Mười tông phái là: Thành Thực Tông
(Không Tông), Câu Xá Tông (Hữu Tông), Thiền Tông (Tâm Tông), Luật
Tông (Nam Sơn Tông), Thiên Thai Tông (Pháp Hoa Tông), Hiền Thủ
Tông (Hoa Nghiêm Tông), Từ Ân Tông (Pháp Tướng Tông, Duy Thức
Tông), Tam Luận Tông (Tánh Tông), Mật Tông (Chân Ngôn Tông) và Tịnh
Độ Tông (Liên Tông).
[13] [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa
Phù]: Pháp sư nói “pháp môn Niệm
Phật có thể vượt cấp”, [nghĩa là] có thể
vượt thoát, chẳng cần phải tiệm tu, Ngài nói
chẳng sai chút nào! Trong Vô Lượng Thọ Kinh đã chép
rõ “mười niệm thành tựu”. Nhưng những đồng
tu sơ cơ chớ nên hiểu lầm, học Phật
không có chuyện mánh lới, nghĩa là: Đốn siêu cũng
do tiệm tu mà có. Huệ Năng Lục Tổ Đại
Sư là người bán củi, không biết chữ, vừa
nghe “hãy nên chẳng trụ vào
đâu để sanh tâm” liền đại ngộ, lại
còn nói mấy câu khai ngộ. Ngũ Tổ bèn truyền y bát.
Lục Tổ đã tu bao nhiêu kiếp, ai biết được?
Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi
ba vị thiện tri thức, chứng nhập pháp giới,
nhưng phải hiểu rõ: Khi Thiện Tài sanh ra, các thứ
trân bảo tự nhiên trồi lên. Vì thế, thầy bói
đề nghị đặt tên cho đứa trẻ là Thiện
Tài. Ai biết Thiện Tài đã tu bao nhiêu kiếp? Một kẻ
hạ ngu vừa nghe pháp môn Niệm Phật liền sanh lòng
tin, hành theo, người ấy chẳng phải là đã
gieo thiện căn nơi một, hai, ba, bốn, năm
đức Phật, mà là đã gieo thiện căn nơi vô
lượng trăm ngàn vạn đức Phật. Người
ấy là kẻ có lai lịch. Chúng ta cũng đừng coi
rẻ chính mình, chúng ta cũng tu bao nhiêu kiếp, nên hiện
tại mới chịu đến nghe kinh, tiếp nhận
pháp môn Niệm Phật. Đời này đã gặp
được cơ hội hy hữu khó gặp gỡ này,
ngàn vạn phần chớ để luống qua!
[14] [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa
Phù]: Kiến Hoặc và Tư Hoặc là tên gọi chung của
các phiền não trong tam giới. Chúng được liệt
kê thành biểu đồ như sau:
Kiến Hoặc
&
Tư Hoặc
|
Tư Hoặc (tác dụng tâm lý theo
phương diện cuộc sống)
|
Tham
|
Phiền Não Chướng (ác kiến câu
sanh khởi do mê nơi mặt Sự)
|
Sân
|
|||
Si
|
|||
Mạn
|
|||
Nghi
|
|||
Kiến Hoặc (tác dụng tâm lý theo phương
diện tri thức)
|
Thân Kiến (Ngã Kiến)
|
Sở Tri Chướng (ác kiến phân
biệt khởi do mê nơi mặt Lý)
|
|
Biên Kiến
|
|||
Tà Kiến
|
|||
Kiến Thủ Kiến
|
|||
Giới Cấm Thủ Kiến
|
Trên đây, Kiến Hoặc và Tư Hoặc,
mỗi loại gồm năm thứ. Các đồng tu
sơ cơ đọc đến những danh từ này sẽ
hiểu ngay được nghĩa, chỉ có hai thứ cuối
là cần phải giảng rõ:
1. Kiến Thủ Kiến chính là kiến
giải chủ quan, Thủ (取) có
nghĩa là chấp trước. Chấp chặt quan niệm
chủ quan của chính mình là chánh xác. Như ngoại đạo
coi sanh lên cõi trời là sẽ sống nơi đó vĩnh
viễn. Đấy gọi là “phi
quả kế quả” (chẳng phải là quả, mà chấp
là quả).
2. Giới Cấm Thủ Kiến: Giới
là tánh giới, như giết, trộm,
dâm, dối. Cấm là ngăn cấm, như uống
rượu, ăn thịt. Giữ gìn giới cấm là thiện
pháp, nhưng sẽ mắc lỗi nếu chấp vào một
thành kiến thiên lệch, tức là dùng quan niệm sai lầm
để giữ giới cấm, nhọc nhằn nhưng
chẳng ích gì. Như ngoại đạo đắc Thiên
Nhãn Thông, thấy trâu được sanh lên trời, liền
cho rằng học theo nếp sống của trâu sẽ có
thể sanh lên trời. Do vậy, họ bắt chước
trâu ăn cỏ, chỉ khiến cho chính mình chịu khổ
sở mà chẳng đạt được kết quả.
Đấy gọi là “phi nhân kế
nhân” (chẳng phải là nhân mà chấp đó là nhân).
[15] Hành Châu thuộc tỉnh Hồ Nam, khác với Hàng Châu ở Giang Tô.
[16] Tư thục đệ tử: Thờ
một vị đã khuất làm thầy, kế thừa chí
hướng và học thuyết của vị ấy thì gọi
là Tư Thục Đệ Tử.
[17] Do hâm mộ ngài Hám Sơn, ngài Ngẫu
Ích xin xuất gia với pháp sư Tuyết
Lãnh (đệ tử của ngài Hám Sơn) vào năm
Thiên Khải thứ 2 (1622) đời Minh. Ngoài tôn hiệu tổ
thứ chín của Tịnh Độ Tông, ngài Ngẫu Ích còn
được tôn xưng là một vị đại thành tựu
cuối cùng của tông Thiên Thai. Ngài U Khê cùng thế hệ với ngài Tuyết
Lãnh. Các vị Hám Sơn, U Khê và Ngẫu Ích được
tôn là những bậc long tượng trùng hưng tông Thiên Thai.
[18] Đại Hựu (1334-1407) là cao tăng
tông Thiên Thai đời Minh, quê ở Ngô Huyện, Cô Tô (Giang
Tây), tự là Khải Tông, hiệu Cừ Am. Sư xuất
gia năm 12 tuổi, thông thạo nội ngoại điển,
học kinh Hoa Nghiêm với ngài Cổ Đình, rồi học
Ma Ha Chỉ Quán với ngài Cửu Cao Thanh. Một hôm do
đọc bộ Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú của
ngài Mông Nhuận có chỗ ngộ, dần dần quán thông
giáo nghĩa Thiên Thai. Do vậy, Sư tôn ngài Mông Nhuận làm
viễn tổ, thề xiển dương giáo nghĩa Thiên
Thai. Tuổi già, Sư chuyên tu Niệm Phật
tam-muội, được nhà Minh phong chức Tăng Lục
Ty Hữu Thiện Thế vào năm Hồng Vũ 26 (1393),
giữ nhiệm vụ khảo thí Tăng đồ. Năm
Vĩnh Lạc thứ 3 (1405), Sư vâng chiếu vào kinh giảo
duyệt kinh Phật. Sư để lại những tác phẩm
Tịnh Độ Chỉ Quy, A Di Đà Kinh Lược Giải,
Kim Cang Kinh Lược Giải v.v... Do Ngài sống vào cuối
đời Nguyên, tịch đầu đời Minh nên bộ
A Di Đà Kinh Lược Giải được biên soạn
vào đời Nguyên.
[19] Nhằm phân biệt lời giải thích
của Tổ với chánh kinh, trước những lời
chú giải của Tổ, cụ Lưu Thừa Phù đề
chữ Giải, còn trước phần chánh kinh thì ghi chữ
Kinh.
[20] Thời cổ, chữ Thuyết (說: nói) và Duyệt (悅: vui vẻ) được dùng lẫn cho nhau. Đại
sư dùng ngay ý này để giải thích tuyệt khéo: Thuyết
là nói ra để thỏa mãn bổn hoài độ sanh của
chính mình. Do thấy chúng sanh căn cơ chín muồi, có thể
tiếp nhận pháp vô thượng này nên vui sướng
nói ra.
[21] Thông thường, các vị cổ đức
chú giải thường chia tên gọi của một bộ
kinh ra làm hai phần: Thông Đề và Biệt Đề. Thông Đề là tên chung của các kinh (chỉ
gồm một chữ Kinh), và Biệt Đề là tên riêng của
kinh đó. Chẳng hạn, Phật Thuyết A Di Đà Kinh
thì Kinh là Thông Đề, còn Biệt Đề là Phật
Thuyết A Di Đà.
[22] Hoàng Cực Số là một phép bói toán vận
mạng dựa theo nguyên tắc và lý luận trong bộ
Hoàng Cực Kinh Thế Thư của Thiệu Ung (Thiệu
Khang Tiết). Sách này dựa trên lý luận của kinh Dịch
để hình thành một hệ thống lý luận bói toán
độc đáo.
[23] Có hai cách giải thích câu này:
1. Kinh Phật do đức Phật,
đệ tử Phật, tiên nhân, chư thiên và hóa nhân
(người được biến hóa) nói ra. Đây là quan
điểm của ngài Tịnh Ảnh trong Vô Lượng
Thọ Kinh Nghĩa Sớ.
2. Năm loại người nói kinh là Phật,
Bồ Tát, Thanh Văn, chúng sanh, khí thế gian (vật chất
như núi, sông, đại địa). Đây là quan điểm
của Hoa Nghiêm Kinh Sớ.
[24] Duyên lự: Gọi đủ là “tâm duyên niệm lự”. Đây
là từ ngữ diễn tả sự phân biệt, chấp
trước của thức thứ sáu. Do tâm (vọng tâm) tiếp
xúc (duyên) trần cảnh (Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp), khởi lên suy nghĩ, so đo, tính toán, yêu ghét
v.v... Những ý niệm đó đều gọi chung là “tâm
duyên niệm lự”.
[25] Thể ở đây có thể tạm hiểu
như khái niệm bản thể trong triết học, tức
thực chất của một sự vật, bản tánh
chân thật của một sự vật. Có thể dùng một
tỷ dụ để tạm hiểu như thế này.
Các món như xuyến, vòng, bông tai, nhẫn, lắc, dây chuyền
v.v... đều chế bằng vàng, thì vàng là Thể của
những vật đó. Những vật đó là Tướng
của vàng. Tuy tướng khác nhau (ta có các món trang sức
khác nhau), nhưng Thể chỉ một (tức là chúng đều
là vàng). Các pháp, ngay cả các kinh Đại Thừa thiên sai
vạn biệt nhưng Thể của chúng chỉ là một,
cái Thể ấy tạm gọi bằng Thật Tướng.
Ngay cả chữ Thật Tướng cũng chỉ là giả
danh, tạm đặt ra để nhằm diễn tả
Thể mà thôi.
[26] Nhất Nguyên Luận (Monism): Học thuyết
cho rằng thế giới chỉ từ một cội nguồn
mà có. Thuyết này còn gọi là Bản Nguyên Luận. Quan
điểm duy vật cho rằng cội nguồn của thế
giới, vạn vật chỉ là do vật chất, còn duy
tâm cho cội nguồn của thế giới là tinh thần.
Nhị Nguyên Luận (Dualism) cho rằng vũ
trụ do hai yếu tố căn bản, tồn tại
độc lập tạo thành. Điển hình của thuyết
này như Descartes cho rằng vũ trụ do hai nguyên tố
là tinh thần và vật chấp hợp thành, hoặc Bái Hỏa
Giáo (Zoroastrianism)
cho rằng thế giới do hai thế lực quang minh và hắc ám tạo thành v.v...
Đa Nguyên Luận (Pluralism) quan
niệm thế giới do nhiều nguyên tố bất đồng
tạo thành. Quan niệm này đã có từ cổ Hy Lạp,
chẳng hạn như Empedocles cho thế giới do nước,
không khí, gió và lửa tạo thành.
[27] [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa
Phù]: Kinh Lăng Nghiêm quyển hai, có câu “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt
tận”, ý nói: Hết thảy tướng huyễn hóa
trong thế gian đều do một niệm vọng tâm của
chúng ta huyễn hiện. Câu này chỉ rõ các pháp do nhân duyên
sanh, đã không có thực thể, chỉ có giả danh, giả
tướng, cho nên bản thể của chúng là không. Tướng
huyễn hóa tuy giả, nhưng tánh nó vốn chân. Tánh ấy,
xét về Thể, là vô tướng, nhưng có thể hiện
ra các tướng. Tánh ấy là chỗ nương tựa
cho các tướng. Hết thảy tướng đều
do Tánh biến hiện. Tánh là chủ thể biến hiện
(Năng Biến), Tướng là đối tượng
được biến hiện (Sở Biến). Tánh là chân
thật, không hư vọng, cho nên đặt tên là Thật
Tướng. Thật Tướng vô tướng, chẳng
phải là không có tướng. Tánh tuy chẳng có tướng,
nhưng có thể hiện tướng. Hết thảy
tướng đều duyên theo Tánh để khởi, nên
nói là “vô bất tướng” (chẳng phải là hoàn toàn
không có tướng gì). Đây chính là nhằm biểu thị
tướng trạng chân thật của Tánh thể (bản
thể của Tánh). Do vậy, Không và Hữu chẳng hai,
Tánh và Tướng viên dung, cũng chính là nghĩa lý đã
được dạy trong Tâm Kinh: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Vì thế,
pháp sư nói: “Nếu tâm thanh tịnh
đạt đến mức kha khá thì mới có thể lãnh
hội Chân Không chẳng phải là Không, Diệu Hữu chẳng
phải là Có”. Các đồng tu sơ cơ đối với
câu nói này có thể chẳng hiểu rõ trọn vẹn, nên
tôi đặc biệt thêm vào mấy câu để quý vị
tham khảo.
[28] Hai cái mười vạn tám ngàn (2x10.800
= 21.600). Vì một giây có bốn lần khảy ngón tay, mỗi
khảy ngón tay là 60 sát-na, mỗi sát-na có 900 lần sanh diệt,
vì thế: 4x60x900=21.600 lần.
[29] Theo cách giải thích của tông Thiên Thai,
“như thị” trong Thập Như Thị diễn tả ý
nghĩa hết thảy đều viên dung, xét về bản
thể là một. Hiểu đơn giản, Tướng
là sự biểu hiện, sự tướng; Tánh là không biến
đổi, tức bản tánh nội tại của vật.
Thể là bản chất thật sự của Tánh và Tướng
(Tánh và Tướng chỉ là hai khía cạnh của Thể,
tùy theo nhìn từ góc độ nào), Lực là tác dụng,
năng lực của Thể, Tác là biểu hiện, tạo
tác của Lực, Nhân là nguyên nhân trực tiếp, Duyên là
nguyên nhân gần giúp cho Nhân thành tựu, Bổn là tướng
trạng ban đầu, Mạt là quả báo cuối cùng.
Đẳng là bình đẳng. Nói cách khác, mười món
như thị này nói lên trọn vẹn Thể, Tướng,
Dụng của các pháp trong thế gian, không thiếu sót một
điều nào. Tất cả hữu tình chúng sanh nói quy nạp
đều thuộc về mười pháp giới. Trong
mười pháp giới, mỗi pháp giới lại có mười
pháp giới, nhân lên thành một trăm pháp giới nên gọi
là Bách Giới. Con số một trăm này tượng
trưng cho ý nghĩa viên mãn, trùng trùng vô tận. Trong một
trăm giới đó, mỗi một pháp đều trọn
đủ mười món như thị, nên thành ra một
ngàn món như thị (thiên như). Do vậy, “bách giới
thiên như” là một từ ngữ phiếm chỉ toàn bộ
các pháp và mọi đặc tánh, mọi khía cạnh của
chúng.
[30] Theo Viên Anh pháp sư, chữ “vắng lặng”
(tịch tĩnh) ở đây hàm nghĩa bất biến.
Chiếu hàm nghĩa tùy duyên. Tịch là nói tánh của Thật
Tướng, bất biến hàm nghĩa nơi thánh chẳng
tăng, nơi phàm chẳng giảm. Nói Tịch hay nói Chiếu
đều là phân biệt, còn thuộc trong vòng đối
đãi, nên mới nói “Thể chẳng
phải là Tịch, chẳng phải là Chiếu”.
[31] Để dễ hiểu câu này, xin tạm
mượn một cách giải thích của Viên Anh pháp
sư: “Bất biến nhưng
tùy duyên, tùy duyên nhưng luôn bất biến”. Sư còn
dùng một hình ảnh như sau: Thể của chân tâm giống
như tấm gương. Gương không bị xao động
bởi bất cứ hình ảnh nào đối trước
nó, người Hồ, người Hán, vật xấu, vật
đẹp, gương không phân biệt (đó là Tịch,
là “bất biến”), nhưng vật gì soi trước
gương, gương đều hiện bóng (đó là chiếu,
là tùy duyên). Tức là gương không phân biệt, không xao
động bởi hình ảnh, nhưng không mất công
năng soi bóng. Tuy soi bóng muôn hình vạn tượng, bản
chất của gương không bị thay đổi. Tổ
Ngẫu Ích nói “tịch nhi phục
chiếu, chiếu nhi hằng tịch” nhằm nhấn mạnh
hai khía cạnh này tồn tại đồng thời, không
tách rời nhau, mà cũng chỉ là nhìn trên phương diện
hình tướng vì Thật Tướng chẳng thể nào
diễn tả, suy lường được.
[32] Chữ “tâm duyên” ở đây hàm nghĩa
dùng tâm ý thức phân biệt để suy lường.
[33] Tông Duy Thức coi sáu bộ kinh và mười
một bộ luận là kinh điển trọng yếu phải
nghiên cứu hòng thông hiểu Pháp Tướng: Hoa Nghiêm Kinh,
Giải Thâm Mật Kinh, Lăng Già Kinh, Mật Nghiêm Kinh,
Như Lai Xuất Hiện Công Đức Trang Nghiêm Kinh và A Tỳ
Đạt Ma Kinh. Mười một bộ luận là 1) Du
Già Sư Địa Luận 2) Hiển Dương Thánh Giáo
Luận 3) Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận 4) Tập
Lượng Luận 5) Nhiếp Đại Thừa Luận
6) Thập Địa Kinh Luận 7) Quán Sở Duyên Duyên Luận
8) Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tập Luận
9) Duy Thức Nhị Thập Luận 10) Biện Trung Biên Luận
11) Phân Biệt Du Già Luận. Đôi khi có những vị giảng
sư đề xướng thêm vào danh sách trên đây bộ
Duy Thức Tam Thập Luận, tạo thành mười hai
luận chủ yếu của tông Duy Thức.
[34] Thế giới do các vi trần hợp
thành. Nếu tạm vận dụng Vật Lý Học cho dễ
hiểu thì “vi trần” là những hạt vật chất
cơ bản (elementary particles), nhỏ hơn nguyên tử rất
nhiều. Bất cứ vật chất nào trong thế gian
đều do vi trần hợp thành nên thế giới không
thật sự có (vì do các vi trần hợp thành). Các vi trần
nếu chia chẻ ra đến tận cùng thì chúng cũng
chẳng còn có gì. Vì thế gọi thế giới là Nhất
Hiệp Tướng. Nếu cho rằng chúng thật sự
không có thì lại trở thành chấp Không, vì thế giới
có hiện hữu (tuy là giả tướng).
[35] [Ghi chú của cư sĩ Lưu Thừa
Phù] Sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư,
văn lẫn nghĩa rất sâu, may nhờ pháp sư phân
tích đến mức tinh vi nên mới nắm được
đại ý một cách sơ lược. Đoạn
văn trên đây thuộc về phần Biện Thể
trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, tợ hồ chỉ coi Thật
Tướng là Thể, chưa đề cập đến
những thứ khác. Trong lời chú giải, đại
sư cũng nói các pháp Đại Thừa đều lấy
Thật Tướng làm Chánh Thể, nhưng Thể của
mỗi bộ kinh Đại Thừa cũng sẽ có đặc
tánh riêng biệt. Tôi cho rằng phần lớn A Di Đà
Kinh thuật bày công đức trang nghiêm trong cõi Cực Lạc.
Nếu nói tổng quát, thì kinh này lấy Thật Tướng
làm Thể. Nếu chuyên dựa trên kinh này để luận
thì lấy sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong cõi nuớc
Tây Phương làm Thể của kinh so ra sát sao hơn. Do vậy,
chẳng nề hà quê kệch, tôi dùng những phần kinh
văn đã có, viết nháp thành những tiêu đề nhỏ
đơn giản, rõ ràng cho phần Ngũ Trùng Huyền Nghĩa
nhằm giúp cho kẻ sơ cơ dễ hiểu. Đúng
sai, thích đáng hay chăng, kính xin sư phụ xét soi, sửa
đổi.
1. Thích Danh (giải
thích tên kinh): A Di Đà Phật, Vô Lượng Quang Thọ.
2. Biện Thể (biện định về
Thể): Tây Phương quốc độ, y chánh trang
nghiêm.
3. Minh Tông (nêu rõ Tông): Tín nguyện trì danh,
nhất thừa diệu quả.
4. Minh lực dụng (thuật lực dụng):
Vãng sanh bất thoái, chứng trọn vẹn bốn cõi.
5. Phán giáo tướng (phán định
giáo tướng): Tối cực viên đốn, thích hợp
cả ba căn. (còn tiếp)
Xem Video phần 1-3
Phần 2
Phần3
0 Kommentare:
Post a Comment