"Chẳng
hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián
đoạn, nương theo những điều này để
hành, sẽ quyết định vãng sanh mà trọn chẳng
cần phải dốc sức công phu trong một thời
gian rất dài..."
PHẦN 2
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập dịch kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí
Húc chú giải vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng
thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù
ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Phật Đà
Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
3.3. Minh Tông (nêu rõ Tông)
(Giải) Đệ tam, minh Tông. Tông thị
tu hành yếu kính, hội Thể xu cơ, nhi vạn hạnh
chi cương lãnh dã. Đề cương, tắc chúng mục
trương; khiết lãnh, tắc khâm tụ chí. Cố Thể
hậu, ưng tu biện Tông. Thử kinh dĩ “tín nguyện
trì danh” vi tu hành chi tông yếu. Phi Tín, bất túc khải Nguyện.
Phi Nguyện, bất túc đạo Hạnh. Phi trì danh diệu
hạnh, bất túc mãn sở nguyện, nhi chứng sở
tín. Kinh trung, tiên trần y chánh dĩ sanh Tín. Thứ khuyến
phát nguyện dĩ đạo Hạnh. Thứ thị trì
danh dĩ kính đăng Bất Thoái. Tín tắc tín tự,
tín tha, tín nhân, tín quả, tín sự, tín lý. Nguyện tắc
yếm ly Sa Bà, hân cầu Cực Lạc. Hạnh tắc chấp
trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn.
Tín
Tự giả, tín ngã hiện tiền nhất niệm chi
tâm, bổn phi nhục đoàn, diệc phi duyên ảnh. Thụ
vô sơ hậu, hoành tuyệt biên nhai. Chung nhật tùy duyên,
chung nhật bất biến. Thập phương hư
không vi trần quốc độ, nguyên ngã nhất niệm
tâm trung sở hiện vật. Ngã tuy hôn mê, đảo hoặc,
cẩu nhất niệm hồi tâm, quyết định đắc
sanh tự tâm bổn cụ Cực Lạc, cánh vô nghi lự.
Thị danh Tín Tự.
Tín
Tha giả, tín Thích Ca Như Lai quyết vô cuống ngữ,
Di Đà Thế Tôn quyết vô hư nguyện, lục
phương chư Phật quảng trường thiệt,
quyết vô nhị ngôn. Tùy thuận chư Phật chân thật
giáo hối, quyết chí cầu sanh, cánh vô nghi hoặc. Thị
danh Tín Tha.
Tín
Nhân giả, thâm tín tán loạn xưng danh, do vi thành Phật
chủng tử, huống nhất tâm bất loạn, an
đắc bất sanh Tịnh Độ? Thị danh Tín Nhân.
Tín
Quả giả, thâm tín Tịnh Độ, chư thiện tụ
hội, giai tùng Niệm Phật tam-muội đắc sanh,
như chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc
đậu. Diệc như ảnh tất tùy hình, hưởng
tất ứng thanh, quyết vô hư khí. Thị danh Tín Quả.
Tín
Sự giả, thâm tín chỉ kim hiện tiền nhất niệm
bất khả tận cố. Y tâm sở hiện thập phương thế
giới, diệc bất khả tận. Thật hữu Cực
Lạc quốc tại thập vạn ức độ ngoại,
tối cực thanh tịnh trang nghiêm, bất đồng
Trang Sinh ngụ ngôn. Thị danh Tín Sự.
Tín
Lý giả, thâm tín thập vạn ức độ, thật
bất xuất ngã kim hiện tiền giới nhĩ nhất
niệm tâm ngoại. Dĩ ngô hiện tiền nhất niệm
tâm tánh thật vô ngoại cố. Hựu thâm tín Tây
Phương y, chánh, chủ, bạn, giai ngô hiện tiền
nhất niệm tâm trung sở hiện ảnh. Toàn Sự tức
Lý, toàn vọng tức chân, toàn Tu tức Tánh, toàn Tha tức
Tự. Ngã tâm biến cố, Phật tâm diệc biến. Nhất
thiết chúng sanh tâm tánh diệc biến. Thí như nhất
thất thiên đăng, quang quang hỗ biến, trùng trùng
giao nhiếp, bất tương phương ngại. Thị
danh Tín Lý.
Như
thử tín dĩ, tắc Sa Bà tức tự tâm sở cảm
chi uế, nhi tự tâm uế, lý ưng yếm ly. Cực Lạc
tức tự tâm sở cảm chi tịnh, nhi tự tâm tịnh,
lý ưng hân cầu. Yếm uế, tu xả chí cứu cánh,
phương vô khả xả. Hân tịnh, tu thủ chí cứu
cánh, phương vô khả thủ. Cố Diệu Tông vân:
“Thủ xả nhược cực, dữ bất thủ xả
diệc phi dị triệt”. Thiết bất tùng Sự thủ
xả, đản thượng bất thủ bất xả,
tức thị chấp Lý phế Sự. Ký phế ư Sự,
Lý diệc bất viên. Nhược đạt toàn Sự tức
Lý, tắc thủ diệc tức Lý, xả diệc tức
Lý. Nhất thủ, nhất xả, vô phi pháp giới. Cố
thứ Tín nhi minh Nguyện dã.
Ngôn chấp trì danh hiệu,
nhất tâm bất loạn giả. Danh dĩ triệu đức.
Đức bất khả tư nghị cố, danh hiệu
diệc bất khả tư nghị. Danh hiệu công đức
bất khả tư nghị cố, sử tán xưng vi Phật
chủng, chấp trì đăng Bất Thoái dã. Nhiên chư
kinh thị Tịnh Độ hạnh, vạn biệt thiên
sai. Như Quán Tượng, Quán Tưởng, Lễ Bái, Cúng Dường,
Ngũ Hối, Lục Niệm đẳng; nhất nhất
hạnh thành, giai sanh Tịnh Độ. Duy Trì Danh nhất
pháp, thâu cơ tối quảng, hạ thủ tối dị.
Cố Thích Ca từ tôn vô vấn tự thuyết, đặc
hướng Đại Trí Xá Lợi Phất niêm xuất, khả
vị phương tiện trung đệ nhất
phương tiện, liễu nghĩa trung vô thượng
liễu nghĩa, viên đốn trung tối cực viên
đốn. Cố vân: “Thanh châu đầu ư trược
thủy, trược thủy bất đắc bất
thanh. Phật hiệu đầu ư loạn tâm, loạn
tâm bất đắc bất Phật dã”. Tín nguyện trì
danh, dĩ vi Nhất Thừa chân nhân. Tứ chủng Tịnh
Độ, dĩ vi Nhất Thừa diệu quả. Cử
nhân, tắc quả tất tùy chi. Cố dĩ “tín nguyện
trì danh” vi kinh chánh tông. Kỳ tứ chủng Tịnh Độ
chi tướng, tường tại Diệu Tông Sao, cập
Phạm Võng Huyền Nghĩa, tư bất cụ thuật.
Sĩ hậu, thích y chánh văn trung, đương lược
thị nhĩ.
(解) 第三。明宗。宗是修行要徑。會體樞機。而萬行之綱領也。提綱則眾目
張。挈領則襟袖至。故體後應須辨宗。此經以信願持名。為修行之宗要。非信不足啟願。非願不足導行。非持名妙行。不足滿所願。而證所信。經中先陳依正以生
信。次勸發願以導行。次示持名以徑登不退。信則信自。信他。信因。信果。信事。信理。願則厭離娑婆。欣求極樂。行則執持名號。一心不亂。信自者。信我現前
一念之心。本非肉團。亦非緣影。豎無初後。橫絕邊涯。終日隨緣。終日不變。十方虛空微塵國土。元我一念心中所現物。我雖昏迷倒惑。苟一念回心。決定得生。
自心本具極樂。更無疑慮。是名信自。信他者。信釋迦如來。決無誑語。彌陀世尊。決無虛願。六方諸佛廣長舌。決無二言。隨順諸佛。真實教誨。決志求生。更無
疑惑。是名信他。信因者。深信散亂稱名。猶為成佛種子。況一心不亂。安得不生淨土。是名信因。信果者。深信淨土。諸善聚會。皆從念佛三昧得生。如種瓜得
瓜。種豆得豆。亦如影必隨形。響必應聲。決無虛棄。是名信果。信事者。深信只今現前一念不可盡故。依心所現。十方世界。亦不可盡。實有極樂國。在十萬億土
外。最極清淨莊嚴。不同莊生寓言。是名信事。信理者。深信十萬億土。實不出我今現前。介爾一念心外。以吾現前一念心性。實無外故。又深信。西方依正主伴。
皆吾現前一念心中所現影。全事即理。全妄即眞。全修即性。全他即自。我心遍故。佛心亦遍。一切眾生心性亦遍。譬如一室千燈。光光互遍。重重交攝。不相妨
礙。是名信理。如此信已。則娑婆即自心所感之穢。而自心穢。理應厭離。極樂即自心所感之淨。而自心淨。理應欣求。厭穢。須捨至究竟。方無可捨。欣淨。須取
至究竟。方無可取。故妙宗云。取捨若極。與不取捨。亦非異轍。設不從事取捨。但尚不取不捨。即是執理廢事。既廢於事。理亦不圓。若達全事即理。則取亦即
理。捨亦即理。一取一捨。無非法界。故次信而明願也。言執持名號。一心不亂者。名以召德。德不可思議故。名號亦不可思議。名號功德不可思議故。使散稱為佛
種。執持登不退也。然諸經示淨土行。萬別千差。如觀像。觀想。禮拜。供養。五悔。六念等。一一行成。皆生淨土。唯持名一去。收機最廣。下手最易。故釋迦慈
尊。無問自說。特向大智舍利弗拈出。可謂方便中。第一方便。了義中。無上了義。圓頓中。最極圓頓。故云清珠投於濁水。濁水不得不清。佛號投於亂心。亂心不
得不佛也。信願持名。以為一乘真因。四種淨土。以為一乘妙果。舉因則果必隨之。故以信願持名。為經正宗。其四種淨土之相。詳在妙宗鈔。及梵網玄義。玆不具
述。俟後釋依正文中。當略示耳。
(Giải: Thứ
ba là nêu rõ Tông. Tông là con đường trọng yếu
để tu hành, là mấu chốt để thấu hiểu
Thể, là cương lãnh của muôn hạnh. Giở cái
lưới lên thì các mắt lưới đều căng
ra, nắm cổ áo thì tay áo xuôi theo. Vì thế, sau phần Thể,
cần phải biện định Tông. Kinh này lấy Tín
Nguyện Trì Danh làm tông yếu tu hành. Nếu không có Tín, sẽ
chẳng đủ để khơi gợi Nguyện. Không
có Nguyện, sẽ chẳng đủ để hướng
dẫn Hạnh. Không có diệu hạnh Trì Danh, chẳng
đủ để thỏa mãn Nguyện, hòng chứng thực
Tín. Trong kinh, trước hết nêu bày y báo, chánh báo để
sanh lòng tin. Kế đó là khuyên phát nguyện để
hướng dẫn Hạnh, tiếp đến là dạy
Trì Danh hòng mau đạt lên Bất Thoái. Tín là tín Tự, tín Tha,
tín Nhân, tín Quả, tín Sự, tín Lý. Nguyện thì chán lìa Sa Bà,
vui ưa Cực Lạc. Hạnh thì chấp trì danh hiệu,
nhất tâm bất loạn.
Tín Tự là tin cái tâm một niệm hiện
tiền của ta vốn chẳng phải là quả tim thịt,
cũng chẳng phải là duyên ảnh (bóng dáng của các
duyên), theo chiều dọc thì chẳng có trước sau,
theo chiều ngang thì trọn không ngằn mé. Suốt ngày tùy
duyên, suốt ngày bất biến. Các cõi nước trong
mười phương hư không số nhiều như vi
trần vốn chỉ là vật được biến hiện
trong một niệm tâm của ta. Ta tuy hôn mê, điên đảo,
mê hoặc, nhưng nếu một niệm hồi tâm sẽ
quyết định được sanh về cõi Cực Lạc
sẵn có trong tự tâm, chẳng còn ngờ vực gì! Đấy
gọi là Tín Tự (tin vào chính mình).
Tín Tha là tin Thích Ca Như Lai quyết chẳng
nói dối, Di Đà Thế Tôn quyết chẳng nguyện
xuông, tướng lưỡi rộng dài của sáu
phương chư Phật quyết chẳng nói hai lời.
Tùy thuận giáo huấn chân thật của
chư Phật, quyết chí cầu vãng sanh, chẳng còn ngờ
vực gì, đấy gọi là Tín Tha (tin vào người
khác).
Tín Nhân là tin tưởng sâu xa, tâm tán loạn
xưng danh vẫn còn tạo nên hạt giống thành Phật
[trong tương lai], huống hồ nhất tâm bất loạn,
lẽ nào chẳng được sanh về Tịnh Độ?
Đấy gọi là Tín Nhân (tin vào cái nhân).
Tín Quả là tin tưởng Tịnh
Độ sâu xa là nơi các vị thiện nhân tụ hội,
đều do Niệm Phật tam-muội mà được
vãng sanh, như trồng dưa được dưa, gieo
đậu được đậu, cũng như bóng
nương theo hình, tiếng vang ứng theo âm thanh, quyết
chẳng luống uổng. Đó gọi là Tín Quả (tin vào
quả).
Tín Sự là tin tưởng sâu xa, chỉ
một niệm hiện tiền trong hiện tại đã
chẳng thể cùng tận, nên mười phương thế
giới do tâm biến hiện cũng chẳng thể cùng tận.
Quả thật có cõi Cực Lạc ở ngoài mười vạn
ức cõi Phật, thanh tịnh, trang nghiêm tột bậc, chẳng
giống như chuyện ngụ ngôn của Trang Sinh (Trang Tử).
Đó gọi là Tín Sự (tin vào Sự).
Tín Lý là tin tưởng sâu xa mười vạn ức
cõi thật sự chẳng ngoài một tâm niệm nhỏ
nhoi của ta trong hiện tiền, bởi một niệm
tâm tánh hiện tiền của chúng ta quả thật chẳng
có gì ra ngoài nó được. Lại tin sâu xa rằng y báo,
chánh báo, chủ, bạn trong cõi Tây Phương đều
là bóng dáng hiện trong một niệm tâm hiện tiền của
ta. Toàn thể Sự chính là Lý, toàn thể Vọng chính là
Chân, toàn thể Tu chính là Tánh, toàn thể Tha chính là Tự. Do
tâm ta trọn khắp, tâm Phật cũng trọn khắp,
mà tâm tánh của hết thảy chúng sanh cũng trọn khắp.
Ví như một ngàn ngọn đèn thắp trong một
căn phòng, ánh sáng đan xen trọn khắp, trùng trùng giao
thoa với nhau, chẳng hề ngăn ngại. Đấy
gọi là Tín Lý (tin vào Lý).
Đã tin như thế rồi thì Sa Ba
chính là nhơ uế do chính tâm mình cảm thành, đối với
sự nhơ uế trong tự tâm, theo đúng lý phải nên
chán lìa. Cực Lạc chính là sự thanh tịnh do tự
tâm cảm vời, đối với sự thanh tịnh
trong tự tâm, theo đúng lý phải nên ưa cầu. Chán uế
thì phải bỏ đến rốt ráo, mới không còn có gì
để bỏ được nữa. Ưa tịnh thì
phải giữ lấy đến mức rốt ráo thì mới
không còn gì để giữ lấy nữa. Vì thế, sách
Quán Kinh Diệu Tông Sao có câu: “Nếu lấy và bỏ đến
mức cùng cực thì sẽ hoàn toàn không khác gì chẳng lấy,
chẳng bỏ”. Nếu chẳng dựa trên mặt Sự
để lấy, bỏ, chỉ chuộng “chẳng lấy,
chẳng bỏ” thì chính là chấp Lý phế Sự. Đã phế
Sự thì Lý cũng chẳng trọn vẹn. Nếu thấu
hiểu toàn thể Sự chính là Lý thì lấy cũng chính là
Lý, mà bỏ cũng chính là Lý. Một lấy, một bỏ
không gì chẳng phải là pháp giới. Vì thế, sau Tín phải
nói rõ về Nguyện.
Nói đến “chấp trì danh hiệu, nhất
tâm bất loạn”, Danh để vời đức, do
đức chẳng thể nghĩ bàn, nên danh hiệu cũng
chẳng thể nghĩ bàn. Do danh hiệu có công đức
chẳng thể nghĩ bàn, nên khiến cho tâm tán loạn
xưng danh vẫn tạo thành hạt giống Phật, hễ
chấp trì danh hiệu bèn đạt Bất Thoái. Nhưng
các kinh dạy hạnh Tịnh Độ muôn ngàn sai khác,
như Quán Tượng, Quán Tưởng, Lễ Bái, Cúng Dường,
Ngũ Hối, Lục Niệm v.v... Mỗi một hạnh
hễ thành tựu thì đều sanh về Tịnh Độ.
Chỉ có pháp Trì Danh thâu nhiếp căn cơ rộng nhất,
thực hiện dễ dàng nhất, nên
Thích Ca Từ Tôn chẳng ai hỏi mà tự nói, đặc
biệt hướng đến Đại Trí Xá Lợi Phất
nêu bày. Pháp Trì Danh đáng gọi là phương tiện
bậc nhất trong các phương tiện, là vô thượng
liễu nghĩa trong các liễu nghĩa, là viên đốn tối
cực trong các pháp viên đốn. Vì thế nói: “Thanh châu
gieo vào nước đục, nước đục chẳng
thể không trong; Phật hiệu gieo vào loạn tâm, loạn
tâm chẳng thể không trở thành tâm Phật”. Tín nguyện
trì danh là cái nhân chân thực của Nhất Thừa, là chánh
tông của kinh. Tướng trạng của bốn cõi Tịnh
Độ đã được giảng tường tận
trong bộ Diệu Tông Sao và Phạm Võng Huyền Nghĩa, ở
đây, tôi không trình bày cặn kẽ, đợi đến
đoạn sau, trong phần giải thích kinh văn sẽ
trình bày đại lược).
Phần thứ
ba là giảng về Tông. “Tông”
(宗) là tông chỉ tu hành. Khế nhập Lý
Thể của tâm tánh chính là mấu chốt trọng yếu
nhất, mà cũng là cương lãnh của muôn hạnh.
Kinh này lấy “tín nguyện trì
danh” làm mục tiêu tu hành. Muốn sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới thì hãy nên có mức độ
hiểu biết Tây Phương kha khá. Tin cõi ấy có thật,
tâm mong sanh về đó thì mới có thể sanh khởi. Nếu
không có ý nguyện mạnh mẽ, làm sao chịu tu? Đã có
ý nguyện thì cần phải có chân tâm niệm Phật mới
đạt hiệu quả. Do hành đã lâu nên trong hiện
thời đạt được hiệu nghiệm là phiền
não giảm thiểu, trí huệ tăng trưởng. Trong tương
lai, khi lâm chung, Phật đến tiếp dẫn, liên hoa
hóa sanh, trông thấy cảnh tượng cõi Tây Phương
mới biết Phật chẳng nói dối.
Kinh văn
của kinh A Di Đà không dài, nhưng luận theo mặt
nghĩa lý thì nó chẳng khác gì Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh. Vì thế, nó được gọi là
Tiểu Bổn Hoa Nghiêm, tức là bản rút gọn, cô
đọng của kinh Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà được
chia thành ba đoạn lớn, trước hết, giới
thiệu tình trạng của Tây Phương Cực Lạc
thế giới. “Y báo” là hoàn
cảnh vật chất của thế giới ấy. “Chánh báo” là tình hình con người
nơi đó. Kinh mô tả Tây Phương tốt đẹp
tột bậc, không có các nỗi khổ, chỉ hưởng
những niềm vui, chúng ta phải nên tin tưởng
như thế nào? Kinh dạy: Phật là bậc chân ngữ
(tức không nói lời giả tạo), là bậc thật ngữ
(tức không bịa chuyện), là bậc như ngữ (tức
lời nói hoàn toàn phù hợp sự thật, nói đúng
như điều Ngài đã chứng),
là bậc bất cuống ngữ (chẳng nói dối),
trọn chẳng lừa dối chúng sanh. Đức Phật
dạy: “Hữu thế giới
danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật,
hiệu A Di Đà” (Có thế giới tên là Cực Lạc,
trong cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà). Ngẫu Ích
đại sư tự xưng là Tây Hữu cũng do dựa
theo hai chữ Hữu [trong hai câu kinh này]. Trong đoạn
trước, tôi đã nói Ngài cũng quả thật là bậc
đến cõi này nhằm chứng minh. Vào thời Đông Tấn,
ngài Lô Sơn Huệ Viễn là tổ sư đời thứ
nhất của Tịnh Tông, cả đời Ngài ba lần
thấy thế giới Cực Lạc, tướng trạng
hoàn toàn giống hệt như kinh Phật đã dạy. Tuy
ba lần trông thấy, nhưng chưa từng nói ra, đến
khi vãng sanh mới bảo cho đệ tử biết.
Sanh về
Tây Phương có bốn điều lợi ích:
1. Thọ
mạng dài: Trong thế giới này, thọ mạng quá ngắn,
làm chuyện gì cũng không đủ thời gian. Nếu muốn
thành Phật, ắt phải mất ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, quá dài! Nếu sanh về Tây Phương, thọ mạng
vô hạn. Dẫu thời gian để thành Phật dài lâu
đến mấy cũng chẳng bị trở ngại.
2. Thấy
Phật: Phật là vị thầy giỏi nhất, mà
cũng là bậc đại thiện tri thức tốt nhất.
3. Nghe
pháp: Sáu trần trong Tây Phương đều thuyết
pháp. Do nghe pháp chẳng gián đoạn, nên chẳng bị
thoái chuyển.
4. Các vị thượng thiện nhân tụ
hội một chỗ: Văn Thù,
Phổ Hiền,
Quán Âm, Đại Thế
Chí là đồng tham đạo
hữu.
Có bốn
điều tốt đẹp như thế, hãy nên hạ
quyết tâm phát nguyện quyết định được
sanh về cõi ấy.
Đức
Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ
nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu” (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân, nghe nói A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu). Chữ
“thiện” trong từ ngữ
“thiện nam tử, thiện nữ
nhân” hết sức quan trọng, then chốt. Đấy
là mấu chốt khiến cho người niệm Phật
có được vãng sanh hay không. Theo cách giảng giải
trong Tịnh Tông, chân tín, chân nguyện, không có mảy may
hư ngụy nào thì mới đáng gọi là Thiện. Chẳng
hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián
đoạn, nương theo những điều này để
hành, sẽ quyết định vãng sanh mà trọn chẳng
cần phải dốc sức công phu trong một thời
gian rất dài. Trong Tịnh Tông có lệ cử hành Phật
thất nhằm hạn định thời gian hòng cầu
chứng đắc. Đả thất lẽ ra phải
ngày đêm không gián đoạn. Hiện thời, chúng ta
đả thất có thời gian nghỉ ngơi. Chẳng hạn
như buổi sáng có công khóa chừng hai cây hương. Một
cây hương là một tiếng rưỡi. Giữa chừng,
nghỉ ngơi khoảng nửa tiếng. Trong khi nghỉ
ngơi, [xôn xao bàn luận] những khuyết điểm của
nhà họ Trương, họ Lý, toàn bộ thị phi, nhân
ngã hiện diện. Như vậy thì chỉ có thể gọi
là pháp hội, chứ chẳng thể coi là “đả thất”
được!
Bộ Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục có chép chuyện pháp
sư Oánh Kha đời Tống, đáng coi như một
tấm gương. Vị pháp sư này lúc bình thường
chẳng dụng công cho lắm, lại còn thường phá
giới, tạo nghiệp; nhưng ông ta có thiện căn,
tin tưởng nhân quả báo ứng, biết tương
lai mình ắt đọa lạc, tự hối hận, tự
trách sâu xa. Có bạn đồng tham khuyên ông ta niệm Phật,
cầu sanh Tịnh Độ sẽ thoát khỏi ác báo. Ông
ta tin tưởng sâu đậm, chẳng nghi, tự giam
mình trong phòng, chuyên tâm niệm Phật, chẳng ngủ, chẳng
nghỉ ngơi suốt ba ngày ba đêm. Kết quả, A Di
Đà Phật đến bảo ông ta: “Tuổi thọ của
ông vẫn còn mười năm nữa, hãy gắng lên, khi
lâm chung ta sẽ đến đón ông!” Ông ta thưa: “Con nghiệp
chướng nặng nề, không chống đỡ nổi
quyến rũ, mê hoặc. Nếu sống thêm mười
năm nữa, sợ rằng con sẽ tạo ra rất nhiều
tội nghiệp, con chẳng cần mười năm tuổi
thọ ấy!” A Di Đà Phật dạy: “Được!
Ba ngày nữa, ta đến tiếp độ ông”. Ông ta hết
sức cảm tạ, mở cửa phòng bảo mọi
người rằng ba ngày hôm nữa tôi sẽ vãng sanh. Mọi
người đều không tin. Đến
hôm thứ ba, trong khi đại chúng đang tụng kinh khóa
sáng, ông ta thỉnh mọi người niệm Phật
đưa tiễn. Niệm chưa đầy một
khắc đồng hồ, ông
ta đã vãng
sanh.
“Tín Tự giả, tín ngã hiện tiền
nhất niệm chi tâm, bổn phi nhục đoàn, diệc
phi duyên ảnh, thụ vô sơ hậu, hoành tuyệt biên
nhai, chung nhật tùy duyên, chung nhật bất biến” (Tín Tự là tin cái tâm trong một niệm
hiện tiền của ta vốn chẳng phải là quả
tim thịt, cũng chẳng phải là tâm phản chiếu bóng
dáng của duyên, theo chiều dọc chẳng có trước
sau, theo chiều ngang tuyệt không ngằn mé, suốt ngày
tùy duyên, suốt ngày bất biến): Mấy câu này ý nghĩa
rất sâu. “Hiện tiền nhất
niệm chi tâm” chính là “chân
tâm”, trọn chẳng phải là quả tim bằng thịt,
cũng chẳng phải là vọng tâm có thể suy nghĩ, tưởng
tượng, phản chiếu bóng dáng các duyên. Nói theo
phương diện thời gian (chiều dọc), trong tâm
không có ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai,
chẳng phải là cái tâm in bóng các duyên. Nói theo chiều ngang
(tức không gian) thì tâm không ngằn mé, không có giới hạn,
chẳng phải là vọng tâm in bóng các duyên. Vọng tâm có
ba đời, có giới hạn thị phi, ta - người.
Chân tâm không có những thứ ấy, cũng giống như
nói: “Thụ cùng tam tế, hoành
biến thập phương” (theo chiều dọc thì cùng
tột ba đời; theo chiều ngang, trọn khắp
mười phương). Đấy chính là chân tâm của
chúng ta.
Hiện thời,
chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối thuận
theo các duyên thuộc xã hội và đại chúng trong thế
gian, nhưng chân tâm chẳng biến đổi mảy may.
Trong kinh Lăng Nghiêm, phần mười lượt chỉ
rõ cái thấy đã phân tích điều này rất tường
tận. Đức Phật nêu lên một việc để
chỉ tánh Thấy[1],
tánh Thấy chính là chân tâm vượt khỏi ba đời
và mười phương. Tại địa vị phàm phu,
tuy suốt ngày tùy duyên, chân tâm cũng chẳng biến đổi.
Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nghe xong rất hoan hỷ, biết
thân có sanh diệt, nhưng trong cái thân sanh diệt có một
chân tánh bất sanh bất diệt, đó mới là chính mình.
Bất sanh bất diệt là Chân Ngã, sanh diệt là Giả
Ngã. Vô lượng vô biên tinh cầu và cõi nước trong
mười phương hư không đều từ trong một
niệm chân tâm của chính mình biến hiện ra. Các nhà khoa
học, triết gia và các nhà tôn giáo trong thế gian đã
nghiên cứu tìm lời giải đáp cho câu hỏi: “Các tinh
cầu trong không gian do đâu mà có? Các sinh vật diễn biến
như thế nào?” Hiện thời, họ vẫn chưa
tìm được căn cứ nào. Khoa học tiến bộ,
chứng minh có những sự thật rất phù hợp với
những điều kinh Phật đã nói, nhưng các nhà
khoa học vẫn chưa tìm ra biện pháp nhằm thấu
hiểu cội nguồn của chúng. Bởi lẽ, các
nghiên cứu khoa học từ đầu đến cuối
chưa hề rời khỏi phân biệt, chấp trước.
Những hiện tượng ấy do tâm ý thức biến
hiện ra. Công năng của tâm ý thức rất lớn,
nó có thể duyên[2]
hư không pháp giới, nhưng không duyên được chân
tâm. Nói cách khác, bọn họ chẳng có
cách nào tìm được căn nguyên của hư
không, pháp giới. Lý luận khoa học dùng động, còn
Phật pháp dùng tịnh. Động và tịnh là một,
động đến tột cùng là tịnh, tịnh đến
cùng cực là động. Nếu hiểu động - tịnh
là một thì sẽ đại triệt đại ngộ.
Phật pháp dùng Định [thuộc về tịnh], khoa học
dùng động, hai cách đều đúng, nhưng các nhà
khoa học phải nhờ vào khoa học kỹ thuật thì
mới có tiến triển. Phật pháp chẳng cần
đến ngoại giới giúp đỡ, chỉ dựa
vào công phu Định lực trong nội tâm liền có thể
thấy được chân tướng sự thật. Cảnh
giới ấy chính là “nhập
Phật tri kiến”.
Tây
Phương thế giới và A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế
Chí đều do tự tánh biến hiện. Rời khỏi
tự tánh sẽ không có một pháp nào để được.
Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà. Ta muốn vãng
sanh cõi Tịnh Độ do chính mình biến hiện thì còn
có chướng ngại nào nữa hay chăng? Lý luận
như thế, nhưng sự thật thì tâm chúng ta suốt
ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, chẳng
thể đạt đến nhất niệm. Nếu nhất
niệm hồi tâm, sẽ quyết định vãng sanh! Chúng
ta biết A Di Đà Phật ở Tây Phương thế giới
là do tự tánh của chúng ta biến hiện, tự tâm sẵn
có Cực Lạc. Vì thế, niệm A Di Đà Phật,
nghĩ đến y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới chính là trở về
với tự tánh, từ trong hết thảy vọng tưởng,
tạp niệm trở về nhất niệm. Trong sáu chữ
Phật hiệu “Nam-mô A Di Đà Phật”, thì hai chữ
Nam-mô chính là “quy y”, cũng có nghĩa là “nhất niệm hồi
tâm”, phải trở về tự tánh! Trong các tông phái khác,
điều này hết sức khó [thực hiện]. Thiền
Tông gọi [sự trở về tự tánh] là “minh tâm kiến
tánh”, phải đoạn sạch Kiến Tư phiền
não, lại còn phải phá được mấy phẩm vô
minh thì mới có thể trở về tự tánh. Tịnh Tông
thuận tiện hơn, chỉ niệm một câu Phật
hiệu, ai cũng có thể tu, có thể chứng.
Điều
thứ hai là Tín Tha. “Tha” là Phật
Thích Ca và Phật A Di Đà, mong các Ngài
giúp đỡ, hướng dẫn chúng ta. Chính mình không
đủ năng lực, cần phải được Phật,
Bồ Tát gia bị. Tịnh Độ Tam Kinh câu nào cũng
chân thật, nương theo kinh để tu học, chắc
chắn sẽ thành tựu. Bốn mươi tám nguyện của
Phật Di Đà, nguyện nào cũng đều nhằm
thành tựu chúng sanh. Kinh A Di Đà nguyên bản (bản gốc
bằng tiếng Phạn) nói tới mười
phương Phật, người Hoa thích đơn giản;
do vậy, La Thập đại sư
rút gọn mười phương thành sáu
phương. Sáu phương Phật đều hiện
tướng lưỡi rộng dài, tán thán pháp môn này để
làm chứng cho Phật Thích Ca, chứng thực sự chân
thật, quyết chẳng nói hai lời. “Tùy thuận chư Phật chân thật giáo hối,
quyết chí cầu sanh, cánh vô nghi hoặc, thị danh Tín
Tha” (tùy thuận giáo huấn chân thật của chư Phật,
quyết chí cầu vãng sanh, trọn không còn ngờ vực
gì, đấy gọi là Tín Tha). Mấy câu này có phân lượng
rất nặng. Tùy thuận Phật Thích Ca, tùy thuận bốn
mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, tùy thuận
lời khuyên răn của hết thảy chư Phật
trong tận hư không trọn pháp giới, chết lòng sát
đất[3] niệm một câu A
Di Đà Phật, đó chính là tùy thuận giáo huấn của
chư Phật. Nếu hỏi: Trong những kinh điển
do đức Phật đã giảng trong bốn mươi
chín năm, bộ kinh nào chân thật nhất? Câu trả lời
sẽ là kinh A Di Đà, kinh dạy thẳng thừng, trọn
vẹn, thỏa đáng pháp môn thành Phật ngay trong một đời.
Kinh Đại Thừa chân thật hơn kinh Tiểu Thừa,
kinh văn Nhất Thừa chân thật hơn kinh Đại
Thừa, kinh A Di Đà là chân thật nhất trong những
điều chân thật.
“Tín nhân giả, thâm tín tán loạn xưng
danh, do vi thành Phật chủng tử, huống nhất tâm bất
loạn, an đắc bất sanh Tịnh Độ” (Tin vào nhân là tin tưởng sâu xa, tâm tán
loạn xưng niệm danh hiệu còn trở thành hạt
giống để thành Phật, huống hồ nhất tâm
bất loạn lẽ nào chẳng sanh về Tịnh Độ).
Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã nói: “Nhất xưng Nam Mô Phật,
giai dĩ thành Phật đạo” (Kẻ mô Phật một tiếng, đều đã
thành Phật đạo). Đây chẳng qua là gieo nhân mà
thôi, bất luận hữu tâm hay vô tâm, niệm một câu A
Di Đà Phật sẽ tạo thành chủng tử sanh về
Tây Phương trong tương lai. Hiểu rõ sự thật
này, liền biết độ chúng sanh như thế nào, bất
luận hữu ý hay vô ý, làm cho người ta niệm A Di
Đà Phật một tiếng, họ sẽ đắc
độ, sớm muộn gì cũng sẽ vãng sanh.
Tiêu chuẩn
“nhất tâm bất loạn” rất cao, có những người
lo lắng “chỉ sợ trong một đời này chẳng
thể vãng sanh”. Lão cư sĩ Hạ
Liên Cư đã hội tập các bản dịch kinh A Di
Đà của hai vị đại sư La Thập và Huyền
Trang, tạo thành một bản. Trong bản kinh A Di
Đà do ngài Huyền Trang dịch, trọn chẳng có từ
ngữ “nhất tâm bất loạn”,
chỉ có “nhất tâm hệ niệm”.
Chúng ta nghe nói “nhất tâm hệ
niệm” tợ hồ cảm thấy có thể thực
hiện được. Kinh Vô Lượng Thọ bảo “nhất hướng chuyên niệm
A Di Đà Phật” (một mực chuyên niệm A Di
Đà Phật), tợ hồ cũng có thể thực hiện
được. Nhưng bản dịch của ngài La Thập
hoàn toàn chẳng phải là dịch sai! Bởi lẽ, đối
với bản dịch của ngài La Thập, ngài Huyền
Trang rất khâm phục, không phê bình gì cả. Hơn nữa,
đại đệ tử đồng thời là học
trò đắc ý nhất của ngài Huyền
Trang là pháp sư Khuy Cơ, tổ sư khai sơn của
Duy Thức Tông, khi viết chú giải cho kinh A Di Đà, nếu
theo thói quen của con người hiện thời, ngài Khuy
Cơ nhất định phải dùng bản dịch của
thầy mình là ngài Huyền Trang, nhưng ngài Khuy Cơ lại
dùng bản dịch của ngài La Thập, chứng tỏ cả
thầy lẫn trò đều tán đồng bản dịch
của ngài La Thập.
Những
hành giả nói niệm Phật đến mức “công phu
thành phiến” chính là nói đến “nhất hướng
chuyên niệm” như trong kinh Vô Lượng Thọ đã dạy.
Niệm đến mức “công phu thành phiến” thì khi lâm
chung, A Di Đà Phật đến đón. Trước hết,
có Phật quang chiếu đến thân hành giả, nghiệp
chướng lập tức tiêu diệt, công phu tự nhiên
tăng gấp bội, đạt đến mức nhất
tâm bất loạn. Nếu chính mình niệm Phật đạt
đến mức Sự nhất tâm thì vừa được
Phật quang chiếu tới, sẽ đạt đến
mức Lý nhất tâm. Đấy chính là bổn nguyện,
oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Do vậy, “nhất tâm bất loạn”
không cần phải lo lắng, chỉ cần thật thà niệm,
sẽ nhất định thành tựu.
“Tín Quả giả, thâm tín Tịnh Độ,
chư thiện tụ hội, giai tùng Niệm Phật tam-muội
đắc sanh” (Tin vào quả,
tin tưởng sâu xa Tịnh Độ là nơi các vị
thượng thiện nhân tụ hội, đều từ
Niệm Phật tam-muội mà được vãng sanh): Quả
báo là vãng sanh, nhất định phải lấy vãng sanh Tịnh
Độ làm mục tiêu mong cầu duy nhất. Trong xã hội
hiện thời, đối với hoàn cảnh sống, [hãy
nên] hết thảy tùy duyên, đời này vốn do đền
trả nghiệp mà sanh trong thế gian này, chỉ nhất
tâm cầu sanh Tịnh Độ. Tây Phương thế giới
là nơi các vị thượng thiện nhân cùng ở một
chỗ. Chữ “thượng
thiện nhân” không dùng để chỉ người tầm
thường, mà để chỉ hàng Đẳng Giác Bồ
Tát. Ở Tây Phương, Đẳng Giác Bồ Tát chẳng
thể tính xuể, đều do Niệm Phật tam-muội
mà được sanh về đấy. “Tam-muội” (Samādhi) dịch
là Chánh Thọ, nghĩa là sự hưởng thụ chánh
đáng, còn dịch là Thiền Định. Người Niệm
Phật trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, không có những
tạp niệm khác, trong tâm vui sướng, không vướng
mắc phiền não, lo âu, nên công phu có thể thành phiến.
Nếu cứ thật thà niệm thì công phu tam-muội sẽ
tự nhiên nâng cao không ngừng, ắt sẽ có thành tựu.
Nhân quả như bóng theo hình, trọn chẳng luống uổng!
Tin vào Sự
là cõi Tây Phương Cực Lạc ở ngoài mười vạn
ức cõi Phật quả thật có, chẳng giống
như truyện ngụ ngôn của Trang Sinh[4].
Chúng ta có thiện tâm, có ác tâm, có chân tâm, có vọng tâm, có
thanh tịnh tâm, có ô nhiễm tâm. Thế giới Sa Bà này là
do tâm tham, sân, si, mạn của chúng ta biến hiện ra.
Tây Phương thế giới là do một niệm tâm thanh
tịnh của chúng ta biến hiện. Tịnh
Độ hay Uế Độ đều do tự tánh biến
hiện, đều chẳng phải do bên ngoài đưa tới.
Tịnh Độ là do tâm thanh tịnh của Phật biến
hiện, mà cũng do hết thảy người niệm Phật
trong mười phương thế giới biến hiện
ra. Tâm Phật và tâm chúng sanh là một, chẳng phải hai.
“Tín Lý giả, thâm tín thập vạn
ức độ, thật bất xuất ngã kim hiện
tiền giới nhĩ nhất niệm tâm ngoại” (Tin vào Lý là tin tưởng sâu xa mười
vạn ức cõi, quả thật chẳng ngoài một niệm
tâm hiện tiền nhỏ nhoi của ta). Hãy nên đặc
biệt chú ý tới từ ngữ “nhất niệm tâm”. Nhất niệm là chân tâm. Nhị
niệm là vọng tâm. Chân tâm không phải trong hay ngoài. Kinh
Lăng Nghiêm vừa mở đầu liền có bảy chỗ
gạn tâm. Chân tâm tìm chẳng được, vọng tâm
cũng tìm chẳng được. Vọng tâm có phân biệt,
chấp trước; cho nên có giới hạn. Phân biệt,
chấp trước là một khái niệm trừu tượng,
trên thực tế, nó cũng chẳng có giới hạn thật
sự.
Tây
Phương có y báo, chánh báo, chủ, bạn. Chủ là A Di
Đà Phật, Bạn là các đệ tử của Phật.
Chủ bạn là thầy và trò, đều do một niệm
chân tâm của chính mình biến hiện. Toàn thể Sự
chính là Lý, toàn thể hiện tượng đều là Lý Thể.
Toàn thể Vọng chính là Chân, Vọng là Tướng, Chân
là Tánh. Chân là chủ thể biến hiện (năng biến),
Vọng là đối tượng được biến
hiện (sở biến). Như nằm mộng, cái có thể
biến hiện những cảnh trong mộng là tâm, cái
được biến hiện là cảnh trong mộng. Do vậy
nói: Toàn thể mộng chính là tâm, toàn thể tâm chính là mộng.
“Toàn thể Tu chính là Tánh, toàn thể
Tha chính là Tự”, đều chân tướng sự thật.
Cách tu của Tịnh Tông là chấp
trì danh hiệu, niệm một câu A Di Đà Phật vốn
là “xứng Tánh khởi Tu, toàn
thể Tu chính là Tánh”. Có mấy ai hiểu được,
mà cũng chẳng hiểu rõ; trong sự tu học, đây
là pháp môn cao nhất. Nhưng phải tu như thế nào thì
toàn thể Tu mới chính là Tánh? Đừng hoài nghi, chớ
xen tạp, đừng gián đoạn, có thể làm
được như thế thì sẽ tương ứng
với Phật, tương ứng với sự thật.
Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật.
“Toàn thể Tha tức Tự”
bao gồm y báo, chánh báo, chủ, bạn. Những điều
vừa được nói trên đây được kinh Hoa
Nghiêm gọi là “Lý Sự vô ngại”. “Ngã tâm biến cố, Phật tâm diệc biến, nhất
thiết chúng sanh tâm tánh diệc biến” (do tâm ta trọn
khắp, tâm Phật cũng trọn khắp, tâm tánh của
hết thảy chúng sanh cũng trọn khắp). Giống
như một ngàn ngọn đèn cùng thắp trong một
căn phòng, ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau, chẳng trở
ngại nhau, đấy chính là “Sự Sự vô ngại”.
Kinh Hoa Nghiêm nói tới bốn thứ vô ngại, kinh này
cũng nói bốn thứ vô ngại, đủ thấy kinh
này chính là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm.
Như trong
hiện thời, địa cầu ô nhiễm nghiêm trọng,
các nhà khoa học nói: Nếu chẳng sửa đổi thì
năm mươi năm sau quả đất này sẽ chẳng
thích hợp cho nhân loại sống. Nhà Phật nói “y báo chuyển theo chánh báo”,
tư tưởng, kiến giải, tinh thần của
chúng sanh ngày nay bị ô nhiễm còn nghiêm trọng, đáng sợ
hơn sự ô nhiễm nơi hoàn cảnh. Làm thế nào
để tịnh hóa lòng người chính là nhiệm vụ
cấp bách. Dùng phương pháp “thật thà niệm Phật”
để đối trị thì sẽ có hiệu quả. Một
mặt, hoằng dương Phật pháp khiến cho con
người hiểu rõ những lý luận cơ bản
như lục đạo luân hồi, nhân quả báo ứng cũng
như “đời người là khổ” v.v... khiến cho
họ bỏ ác, hướng lành. Mặt khác, khuyên người
ta niệm Phật, khiến cho tâm địa của họ
thanh tịnh, vọng tưởng giảm thiểu, trên
kính, dưới hòa, tuân theo lẽ công, giữ đúng pháp tắc.
Nếu trên dưới đồng tâm hiệp lực nghiêm
túc thực hiện thì cũng chẳng bao giờ không thể
vãn hồi vận mạng thế gian trong muôn một
được!
“Sa Bà tức tự tâm sở cảm chi uế, nhi tự tâm uế, lý ưng yếm ly. Cực
Lạc tức tự tâm sở cảm chi tịnh, nhi
tự tâm tịnh, lý ưng hân cầu” (Sa Bà chính là sự nhơ uế do tự
tâm cảm nên, nhưng đối với sự nhơ uế
trong tự tâm, theo đúng lý phải nên chán lìa. Cực Lạc
chính là sự thanh tịnh do tự tâm cảm thành, nhưng
sự thanh tịnh nơi tự tâm, theo đúng lý phải
nên vui cầu). Trong phần trên, tôi đã nói, hư không pháp
giới đều là vật biến hiện bởi tự
tánh của chúng ta. Thế giới hiện tại này, các cõi
Phật trong mười phương và Tây Phương Tịnh
Độ cũng chẳng phải là ngoại lệ, chúng
đều do tự tánh biến hiện. Chân tâm của chúng
ta rất đơn thuần thì cái được biến
hiện sẽ là cõi Thường Tịch Quang. Sau khi tâm tánh
đã mê thì do mê cạn hay sâu sai khác mà hiện ra chín pháp giới.
Tây Phương có bốn cõi, ngoài cõi Thường Tịch
Quang, trong mỗi cõi đều có ba bậc chín phẩm, toàn
là đới nghiệp vãng sanh. Trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm,
các vị Đẳng Giác Bồ Tát nơi hội Hoa Tạng
đều mang theo một phẩm sanh tướng vô minh,
cũng là đới nghiệp vãng sanh. Trong các thế giới
Phật khác, ba bậc chín phẩm phân chia rất rõ rệt,
giữa mỗi tầng cấp có cách biệt, chỉ riêng
Tây Phương thì ba bậc chín phẩm trong bốn cõi không
chướng ngại. Do vậy, cổ đức nói: “Nhất sanh, nhất thiết
sanh” (Sanh về một cõi là sanh về hết thảy).
Đại Bồ Tát sanh vào Thượng Thượng Phẩm
trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm, đồng thời, Ngài
cũng thấy đại chúng vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng
Cư. Tây Phương thù thắng như thế, cùng với
các vị thượng thiện nhân tụ hội một chỗ,
cái tâm cầu nguyện vãng sanh tự
nhiên dấy lên. Tín nguyện là mấu chốt để
vãng sanh, người đời nghe nói pháp môn Tịnh
Độ, tâm cũng quy hướng, nhưng vẫn
chưa thể lập chí phát nguyện cầu sanh, thật
ra là do chưa tự giác ngộ. Người thật sự
giác ngộ phải biết:
1. Đời
người là khổ. Trong các kinh Đại, Tiểu Thừa,
đức Phật đã khai thị tường tận. Chư thiên vui nhiều khổ ít, loài người thọ
được mấy chục năm, khổ nhiều vui
ít. Quán sát theo phương diện tạo nhân, tức là nhìn
theo nghiệp tạo tác bởi thân - miệng - ý thì con
người đại đa số là ác nhiều, thiện
ít, quả báo trong đời sau nhất định khổ
hơn.
2. Đời
người là Không. Đời người như mộng,
như huyễn, thời gian mấy chục năm thoáng qua.
Bất luận giàu, nghèo, sang, hèn, đến lúc tắt
hơi mới biết là rỗng tuếch thì chẳng phải
là kẻ thông minh. Buổi tối đi ngủ, nhắm mắt
lại, có khác gì đã chết? Thứ gì mới chính là của
quý vị? Ngay cả thân thể cũng chẳng phải, huống
hồ vật ngoài thân! Nếu giác ngộ, sẽ mở mang
trí huệ, đắc đại tự tại, ý niệm
được - mất sẽ giảm nhẹ, chuyện tổn
người lợi mình sẽ chẳng làm nữa.
3. Đời
người vô thường, biển xanh biến thành ruộng
dâu, con người có sanh, lão, bệnh, tử, địa cầu
luôn biến hóa, hoàn cảnh vật chất như thế
đó. Người đời tợ hồ chẳng hề
nhận biết, sự cảm nhận gần như đã
chai lì, thiếu lòng nhân.
4. Đời
người vô ngã. Tất cả hết thảy tội nghiệp
đều do Ngã Chấp sanh ra. Nếu thật sự biết
thân ta do Tứ Đại giả hợp thì tối thiểu
là phiền não sẽ giảm bớt một nửa!
Kinh Phật
nói đến Tứ Đại, dùng Địa, Thủy, Hỏa,
Phong để tượng trưng. Tứ Đại là vật
chất. Kinh Kim Cang nói thế giới là “nhất hiệp tướng”, [nghĩa là thế
giới] do những vật chất cơ bản kết hợp
thành. Có bốn thứ hiện tượng:
1. Vật chất tuy nhỏ nhưng có thể tích [thì gọi là
Địa Đại].
2. Nó có nhiệt độ,
mang điện tích Dương thì gọi là Hỏa Đại.
3. Nó có độ ướt,
mang điện tích Âm thì gọi là Thủy Đại.
4. Loại
thứ tư là động, không nằm yên, gọi là Phong
Đại.
Từ ngữ
Tứ Đại chỉ tánh chất của vật chất
cơ bản, bất cứ vật gì cũng đều do
vật chất cơ bản kết hợp thành, hễ tụ
thì thành hình, hễ tán bèn tiêu diệt. Chẳng hạn
như viên phấn này do bột phấn hợp thành, nghiền
vụn nó ra thì chẳng còn nữa, chỉ là bột phấn
tụ hay tán mà thôi! Khi tụ thì chẳng sanh, khi tán thì chẳng
diệt, quả thật là bất sanh bất diệt. Bất
cứ vật chất nào cũng đều giống như
vậy. Con người thì ngoài thân thể còn có tinh thần.
Tinh thần chính là Thọ, Tưởng, Hành, Thức trong Ngũ
Uẩn như Tâm Kinh đã nói, chúng thuộc về tác dụng
tâm lý. Ý niệm trong tâm sanh diệt vô thường. Thân do Tứ
Đại giả hợp, tâm là Thọ, Tưởng, Hành,
Thức. Đấy là chân tướng của thân và tâm, kinh
Phật gọi nó là “nhân vô ngã”.
Nói cách khác, thân người là do Tứ Đại và Ngũ
Uẩn giả hợp, không có Ngã Thể (bản thể của
cái Ngã) trường cửu, nên gọi là “nhân vô ngã”. Đức Phật lại nói “pháp vô ngã”. Chữ Pháp chỉ
cho hết thảy các pháp, trong hết thảy các pháp vốn
không có Ngã. Hãy nên hiểu chữ Ngã vừa nói đó mang ý
nghĩa “chủ tể”, và cũng có nghĩa là “tồn tại”.
Chúng sanh bất giác, đối với hết thảy pháp lầm
lạc nẩy sanh cái nhìn phân biệt, huống hồ hết
thảy các pháp vốn sẵn không tịch (rỗng rang, vắng
lặng). Kinh Kim Cang dạy: “Nhược
phục hữu nhân tri nhất thiết pháp vô ngã, đắc
thành ư Nhẫn, thử Bồ Tát thắng tiền Bồ
Tát sở đắc công đức” (Nếu lại có
người biết hết thảy pháp là vô ngã, đắc
thành Nhẫn, thì công đức của vị Bồ Tát này
vượt trỗi công đức của vị Bồ Tát
nói trong đoạn trước). Trong cuộc sống hiện
tại, nếu luôn luôn thấu hiểu ý nghĩa và cảm
nhận Khổ, Không, Vô Ngã, Vô Thường, sẽ có ích rất
lớn cho việc chán nhàm, lìa bỏ thế giới Sa Bà
này. Tây Phương Tịnh Độ không có những hiện
tượng ấy:
1. Thứ
nhất là không khổ, tức là không có các nỗi khổ,
chỉ hưởng những niềm vui.
2. Thứ
hai là chẳng Không, [cõi Cực Lạc] có thật và vĩnh
hằng. Các cõi nước trong mười phương thế
giới là Tướng Phần[5] của
tám thức. Tướng Phần là vật chất. Do vậy,
nó là Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Tây Phương
không giống vậy, nó là Tướng Phần của tâm
tánh, là vô lậu, là chân thường.
“Yếm uế, tu xả chí cứu cánh, phương
vô khả xả. Hân tịnh, tu thủ chí cứu cánh,
phương vô khả thủ”
(Chán cái uế thì cần phải bỏ đến rốt
ráo mới không còn gì để có thể bỏ được.
Ưa tịnh thì cần phải giữ lấy đến
rốt ráo thì mới không có gì để giữ được).
Nếu bỏ thì phải bỏ sạch sẽ. Nếu hiểu
Xả có nghĩa là chuyện gì cũng chẳng làm, chỉ
chuyên tâm niệm Phật thì đã hiểu sai hoàn toàn ý
nghĩa của Xả. Chuyện gì cũng đều làm, lại
còn làm tích cực, viên mãn hơn người khác. Tích công,
lũy đức, nhưng trong tâm thì thứ gì cũng chẳng
có, chỉ có một câu A Di Đà Phật. Trừ Phật hiệu
ra, tất cả chấp trước, vướng mắc,
lo sầu đều chẳng có. Đấy mới
được tính là “xả
đến mức rốt ráo”. Cái tâm cầu giữ lấy
Tây Phương Cực Lạc thế giới phải mạnh
mẽ tột bậc, chỉ có Tây Phương thế giới,
chỉ có một đức Phật A Di Đà. Cổ đức
bảo như vậy là “có Tịnh
Độ”[6].
Sách Diệu Tông Sao chép: “Nếu
lấy bỏ đến mức cùng cực thì cũng chẳng
khác gì không lấy, không bỏ”. Diệu Tông Sao do Tri Lễ đại sư
(Tứ Minh tôn giả) viết, Quán Vô Lượng Thọ
Kinh Sớ do Trí Giả đại sư viết, lời Sao
do Tứ Minh tôn giả viết nhằm chú giải lời sớ
của Trí Giả đại sư. Trí Giả đại
sư lâm chung niệm Phật vãng sanh. Ngài tu Quán Tưởng
Niệm Phật, tu theo Thập Lục Quán Kinh để
vãng sanh. Bốn loại niệm Phật được chép cặn
kẽ trong Quán Kinh, nhưng Trì Danh đơn giản dễ
dàng nhất, ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng nhất.
Phật, Bồ
Tát ứng hóa trong thế gian, mỗi một việc các Ngài
làm đều có thể làm gương cho người đời.
Các vị đại thiện tri thức trong năm
mươi ba lần tham học của kinh Hoa Nghiêm đều
sống trong thế giới này, các ngành, các nghề, sống
như thế nào, đãi người tiếp vật như
thế nào, bọn họ đều là Phật hay Bồ Tát
tái lai. Trưởng giả Chúc Hương[7] mỗi
ngày mò ra chợ, trong tâm như như bất động, tu
Định và Huệ bình đẳng. Đấy là tham Thiền
ở mức độ cao nhất, kẻ sơ học chẳng
thể làm được! Chẳng bằng niệm Phật,
giữ chặt một câu Phật hiệu sao cho không gián
đoạn. Trong khi làm việc, nếu không cần phải
dùng đến trí óc thì vừa làm vừa niệm Phật.
Như ông Vương Đả Thiết ở Hành Châu, vừa
rèn sắt vừa niệm Phật, chẳng trở ngại
công việc. Cầu sanh Tịnh Độ chính là đại
sự trọng yếu nhất trong cả một đời
người, hy hữu, khó gặp từ vô lượng kiếp
đến nay. Trong thời đại này, đạo thầy
trò không còn nữa, phải hoàn toàn dựa vào chính mình nỗ
lực tự tu. Dẫu công việc bận rộn cũng
phải dành một ít thời gian để chuyên tâm niệm
Phật, những chuyện khác đều là lông gà, vỏ tỏi!
Thiền
Tông chủ trương không chấp tướng, như “chẳng
lấy mà cũng chẳng bỏ”, đấy cũng là chấp
tướng, tức là chấp vào tướng Không của
“chẳng lấy, chẳng bỏ”. Hiện thời nói đến
“chẳng chấp tướng” thì chúng ta không thể làm
được, phải thật sự đối đãi với
bất cứ ai đều nhất loạt bình đẳng
thì mới là đúng. Nếu vẫn còn có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước và phê bình, bàn tán thì chẳng
thể nói là “không chấp tướng”. Liên Trì đại
sư nói: “Chấp vào Sự mà
nếu niệm Phật niệm niệm liên tục, sẽ
có thể đới nghiệp vãng sanh. Chấp vào Lý thiên trọng
lý luận, vứt bỏ tu hành nơi mặt Sự, hoàn
toàn chưa minh tâm kiến tánh thì vẫn phải luân hồi
trong lục đạo”. Minh tâm kiến tánh nói dễ dàng
sao! Nếu chấp Lý, phế Sự, Lý cũng chẳng
viên, vì Lý và Sự là một, chẳng phải hai. Toàn thể
Sự chính là Lý, lấy hay bỏ, không đâu chẳng phải
là pháp giới. Đây quả thật là tùy thuận giáo huấn
chân thật của chư Phật vậy.
Danh hiệu
chẳng thể nghĩ bàn, trong sách vở
Tịnh Tông thường nói tới tánh trọng yếu của
danh hiệu, nhưng học nhân thường hay xem nhẹ,
chẳng biết đến ý nghĩa chân thật! Cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải kinh Vô Lượng Thọ,
dẫn dụng rất nhiều lời thuyết pháp của
cao tăng, đại đức đời Tùy - Đường.
[Theo đó], trong hết thảy các kinh do đức Phật
đã giảng trong bốn mươi chín năm, bộ kinh
nào bậc nhất? Các tông phái đều công nhận Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Phạm Võng là những bộ kinh lớn của
Nhất Thừa, nhưng đem so với kinh Vô Lượng
Thọ thì kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất, bởi
lẽ, kinh Hoa Nghiêm đến quyển cuối cùng, Phổ
Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện dẫn
về Cực Lạc thì kinh Hoa Nghiêm mới viên mãn rốt
ráo. Kinh Vô Lượng Thọ là tổng kết và quy túc của
kinh Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà chính là tiểu bổn của kinh
Vô Lượng Thọ.
Nếu quán
sát sâu xa hơn, lão cư sĩ Hạ
Liên Cư chia kinh Vô Lượng Thọ thành bốn
mươi tám phẩm, lấy bốn mươi tám nguyện
trong phẩm thứ sáu làm trung tâm của kinh. Trong bốn
mươi tám nguyện, cổ đức coi nguyện thứ
mười tám là bậc nhất. Nguyện thứ mười
tám là “mười niệm ắt
sanh”, viết rành rẽ, rõ ràng công đức chẳng thể
nghĩ bàn của danh hiệu. Một câu Phật hiệu
này mở rộng ra là bốn mươi tám nguyện, rồi
lại mở rộng ra thành kinh Vô Lượng Thọ. Kinh
Vô Lượng Thọ mở rộng ra sẽ thành kinh Hoa
Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm mở rộng chính là Đại Tạng
Kinh. Do vậy, một câu A Di Đà Phật chính là tổng
cương lãnh của pháp tạng do đức Phật đã
nói trong suốt bốn mươi chín năm. Niệm một
câu danh hiệu A Di Đà Phật giống như niệm hết
thảy kinh điển do đức Phật đã nói, công
đức của danh hiệu thật chẳng thể
nghĩ bàn.
Đối
với pháp Quán Tượng Niệm Phật thì trong kinh Ban
Châu Tam Muội có giảng phương pháp tu hành phép Quán
Tượng Niệm Phật. Ngoài ra, Thập Lục Quán
Kinh cũng giảng phép Quán Tượng Niệm Phật,
nhưng chỉ giảng trong phép quán thứ mười ba,
còn những phép quán khác, có mười hai phép đều giảng
về cách Quán Tưởng Niệm Phật[8].
Trong phần trước, tôi đã nói Quán Kinh có hai bộ
chú giải, một là bộ Diệu Tông Sao của tông Thiên
Thai, do Tri Lễ đại sư chú giải. Lại còn có bộ
chú giải mang tên Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ của Thiện
Đạo đại sư. Hai bản này đều rất
phổ biến, tôi đã đều giảng rồi. Tôi
hưởng lợi ích nhiều nhất từ bộ Tứ
Thiếp Sớ, bộ này được tôn là sách chú giải
Quán Vô Lượng Thọ Kinh bậc nhất từ xưa
đến nay, có thể sánh với Di Đà Yếu Giải.
Trong bộ ấy có nhiều nhận định mà cổ
đức chưa từng nói đến. Có người nói
Thiện Đạo đại sư là A Di Đà Phật
tái lai, trong sách chú giải kinh Vô Lượng Thọ, Hoàng
cư sĩ cũng từng nhắc tới điều này.
Cũng có thể nói: “Tứ Thiếp Sớ là do chính A Di Đà
Phật tự thuyết pháp cho chúng ta!”
Đối
với Lễ Bái, Cúng Dường, Ngũ Hối đều
có thể lấy kinh Hoa Nghiêm để làm thí dụ. Trong
mười đại nguyện vương thuộc phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm thì “lễ
kính chư Phật” và “xưng tán Như Lai” thuộc về
Lễ Bái, “quảng tu cúng dường” chính là Cúng Dường
như ở đây đã nói. Ngũ Hối là năm
phương pháp “Sám Hối, Khuyến Thỉnh, Tùy Hỷ, Hồi
Hướng, Phát Nguyện”. Ngoài Sám Hối ra, bốn thứ
còn lại, tức Khuyến Thỉnh, Tùy Hỷ, Hồi
Hướng và Phát Nguyện đều có ý nghĩa sám hối.
Nếu không thật sự sám hối thì bốn
phương pháp này đều chẳng thể có. Do vậy,
chúng đều thuộc vào pháp Sám Hối. Nếu đem Ngũ
Hối áp dụng vào mười đại nguyện
vương thì: “Sám hối nghiệp chướng” thuộc
về phép thứ nhất trong Ngũ Hối. Tùy Hỷ thuộc
phép Ngũ Hối thứ ba. “Thỉnh chuyển pháp luân” và “thỉnh
Phật trụ thế” thuộc phép Khuyến Thỉnh thứ
hai trong Ngũ Hối. “Thường tùy Phật học” và “hằng
thuận chúng sanh” thuộc phép thứ năm là Phát Nguyện
trong Ngũ Hối. “Phổ giai hồi hướng” thuộc
về phép thứ tư, tức là Hồi Hướng trong
Ngũ Hối. Có thể thấy rằng: Pháp được
Phổ Hiền Bồ Tát tự tu là mười đại
nguyện vương; Ngài dạy người khác tu pháp môn
Niệm Phật.
Ở
đây, còn có Lục Niệm, trong rất nhiều kinh, đức
Phật đã nói đến. Lục Niệm là niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí,
niệm Thiên. Ba loại đầu là niệm Tam Bảo. Loại
thứ tư là niệm Giới, thứ sáu là niệm Thiên,
hai loại này có quan hệ mật thiết với nhau. Để
sanh lên trời thì phải thỏa điều kiện sanh
lên trời. Đức Phật nói đến trạng huống
trong cõi trời, so với bất cứ tôn giáo nào cũng đều
tường tận hơn. Chẳng phải là tin vào Thượng
Đế sẽ sanh lên trời, ngàn vạn phần chớ
hiểu lầm. Phật nói Ngũ Giới thanh tịnh,
đời sau sẽ được thân người. Thành tựu
Thập Thiện nghiệp đạo thì mới được
sanh lên trời. Chỉ tu Thập Thiện thì chỉ có thể
sanh trong các tầng trời thuộc Dục Giới trở
xuống, tức là sanh trong Tứ Vương Thiên và Đao
Lợi Thiên. Muốn tu lên cao hơn thì phải tu Định,
tu Tứ Vô Lượng Tâm “từ, bi, hỷ, xả”.
Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới do đức Phật
đã định và những điều răn dạy trong
các kinh đều thuộc phạm vi của Giới.
Thứ
năm là Niệm Thí. Thí (施) là Bố Thí, Thí có
công đức khiến cho chúng ta đoạn phiền não.
Vô lượng phiền não được quy nạp thành một
trăm lẻ tám loại, rồi lại quy nạp thành hai
mươi sáu thứ, bao gồm sáu căn bản phiền
não và hai mươi tùy phiền não. Lại quy nạp thành
sáu căn bản phiền não là tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến, rồi lại quy nạp thành ba độc
tham, sân, si. Ba độc lại quy nạp thành một thứ
là Tham. Bố thí chuyên trị keo tham, tham là cội gốc lớn
lao của phiền não. Bố thí nhằm tạo thuận tiện
cho chính mình, dẹp trừ triệt để căn bản
phiền não. Học bố thí thì lúc mới học, thường
là chính mình dư dả mới bằng lòng đem cho người
khác. Chẳng hạn như có hai món đồ nào đó, món
tốt giữ lại để mình dùng, cái dở hơn
đem cho người ta. Tiến bộ hơn là đem cái
tốt tặng cho người khác, cái dở giữ lại
để mình dùng. Lại tiến một bước nữa
là nếu người ta cần mà mình cũng cần thì giúp
cho người ta trước, chính mình sẽ dần dần
tính sau. Con người thường lo ngại nếu
đem toàn bộ của cải của mình bố thí hết
thì chính mình không có gì, làm sao đây? Nhất là trong lúc này, cuộc
sống khó khăn, kiếm được tiền chẳng
dễ. Tuy vậy, nhà Phật nói: “Nhất ẩm, nhất trác, mạc phi tiền định”
(Một miếng ăn, một miếng uống, không gì
chẳng phải đã được định sẵn).
Bố thí thì của cải đưa đến càng nhiều,
chúng ta thật sự chưa dám tin tưởng. Tôi khuyên
người học Phật phải đọc cuốn Liễu
Phàm Tứ Huấn ba trăm lượt. Trong một đời
người, giàu, nghèo, sang, hèn đều có số phận
định sẵn. Đời trước đã tài bố
thí thì đời này phát tài. Giàu có là quả báo, bố thí là
nhân. Thông minh, trí huệ là quả báo, pháp bố thí là nhân. Khỏe
mạnh, sống lâu là quả báo, vô úy bố thí là nhân. Dùng
tâm chân thành, tâm cung kính, tâm thanh tịnh tu ba thứ bố
thí sẽ tự nhiên được quả báo tốt đẹp.
Phật, Bồ Tát từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành
Phật, thành Phật rồi lại thả chiếc bè Từ
vào trong thế gian, không có chuyện gì khác, chỉ để
bố thí! Cận đại, tại Trung Quốc, trong hàng
xuất gia, Ấn Quang đại sư của Tịnh
Độ Tông và Hư Vân đại sư của Thiền
Tông suốt đời làm chuyện bố thí, tài, pháp, vô úy
bố thí, chẳng giữ lại mảy may nào, làm rất
viên mãn.
Quán Vô
Lượng Thọ Kinh đặc biệt nhắc tới
ba loại người sẽ được sanh về Tịnh
Độ:
1. Loại thứ
nhất là từ tâm, chẳng giết, đầy đủ
giới hạnh, tức là hai điều thứ nhất và
thứ hai trong Tịnh Nghiệp Tam Phước.
2. Loại thứ hai là
đọc tụng kinh điển Phương Đẳng
Đại Thừa, tức là
điều thứ ba “phát Bồ Đề tâm, đọc
tụng Đại Thừa” trong Tịnh Nghiệp Tam
Phước.
3. Loại
thứ ba là tu hành lục niệm, hồi hướng, phát
nguyện, cầu sanh Tịnh Độ. Tâm thanh tịnh cảm
ứng bổn nguyện của Phật. Hiểu rõ ràng chân
tướng sự thật này thì phải nên phát tâm sốt
sắng niệm Phật, Chánh Trợ song tu. Chánh Tu là tín nguyện
trì danh, Trợ Tu là mười đại nguyện
vương, ngũ hối, lục niệm. Sống trong xã
hội hiện thời, dùng tâm tư thái độ này để
xử thế, đãi người, tiếp vật, đấy
chính là Chánh Hạnh của Phật giáo đồ.
“Duy Trì Danh nhất pháp, thâu cơ tối
quảng, hạ thủ tối dị. Cố Thích Ca từ
tôn, vô vấn tự thuyết, đặc hướng Đại
Trí Xá Lợi Phất niêm xuất, khả vị:
Phương tiện trung đệ nhất phương tiện,
liễu nghĩa trung vô thượng liễu nghĩa, viên
đốn trung tối cực viên đốn” (Chỉ có pháp Trì Danh thâu nhiếp căn
cơ rộng nhất, thực hiện dễ dàng nhất, nên Thích Ca Từ Tôn, chẳng ai
hỏi mà tự nói, đặc biệt hướng đến
Đại Trí Xá Lợi Phất nêu bày. Pháp Trì Danh
đáng gọi là phương tiện bậc nhất trong
các phương tiện, là vô thượng liễu nghĩa
trong các liễu nghĩa, là viên đốn tối cực
trong các pháp viên đốn). Ý nghĩa được nêu
trong đoạn văn này của Ngẫu Ích đại
sư chính là cương lãnh, nguyên tắc của rất nhiều
kinh luận Tịnh Tông. Nếu chú tâm quán sát thì những điều
này bao gồm vô lượng pháp môn; trong vô lượng pháp
môn, pháp môn Niệm Phật là thù thắng nhất. Đại
sư nói ra những câu này rất khó có. Nếu Ngài chẳng
phải thật sự là bậc trong quá khứ đã từng
nghiên cứu thấu triệt hết thảy pháp môn, sẽ
chẳng nói ra những câu này, cũng chẳng có gan thốt
ra.
Do vậy,
chúng tôi nghĩ rằng: Vì sao chư Phật, Bồ Tát, tổ
sư, đại đức đều khuyên chúng ta trì danh
niệm Phật? Chữ Cơ (機) trong câu “thâu
cơ tối quảng” (收機最廣) chính là Căn Cơ. Căn cơ có ba loại
thượng căn, trung căn, hạ
căn khác nhau. Chẳng hạn như Lục Tổ
đại sư của Thiền Tông nói rất minh bạch,
Ngài tiếp dẫn kẻ thượng thượng
căn; ngài Thần Tú tiếp dẫn người có căn
tánh Đại Thừa. Trong Giáo Hạ như Hoa Nghiêm Hiền
Thủ Tông thì đối tượng của họ là bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ. Trong hết thảy kinh luận, mỗi một pháp
môn nhằm chuyên độ một loại đối tượng
nào đó. Chỉ riêng pháp môn Tịnh Độ là đối
với tất cả những người có căn tánh bất
đồng đều có thể tiếp nhận, trên đến
Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến chúng sanh
trong địa ngục, đều bình đẳng độ
thoát. Thật là chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ niệm
một câu Nam-mô A Di Đà Phật liền có thể đắc
độ. Thực hiện hết sức dễ dàng, có ai
chẳng thể niệm? Vấn đề ở chỗ có
chịu niệm hay là không, bằng lòng niệm hay là không?
Thành tựu của pháp môn này lại viên mãn khôn sánh. Chẳng
riêng gì người bình thường chẳng tin, ngay cả
những bậc Bồ Tát, La Hán trong Tông Môn, Giáo Hạ
cũng chẳng thể tin tưởng. Do vậy, chư Phật
Như Lai gọi pháp này là “pháp
khó tin”.
Lúc ấy, đức
Phật quán sát thiện căn, phước đức của
chúng sanh đã chín muồi, bèn không ai hỏi mà tự nói. Nói
tới “thiện căn” thì chính
là đức Phật nói ra pháp môn này, người nghe liền
tin được, hiểu được. Nói tới “phước đức” thì
chính là “có thể nguyện, có thể hành”. Pháp môn này không ai
biết, đương nhiên chẳng có ai có thể hỏi
được! Còn với đối tượng để
tuyên nói, Phật bèn đặc biệt chọn ngài Xá Lợi
Phất, vì Ngài là bậc trí huệ đệ nhất, không
có trí huệ sẽ tuyệt đối chẳng thể tin
tưởng pháp này. Cơ duyên thành Phật chín muồi, ắt
phải có kinh điển để thành Phật. Kinh A Di
Đà là căn bản để chúng sanh trong chín pháp giới
viên mãn thành Phật ngay trong một đời. Nói như vậy
thì chúng ta cũng có phần. Trong tất cả các phương
pháp tu hành, pháp môn Niệm Phật thuận tiện bậc
nhất. Đi, đứng, nằm, ngồi đều có
thể tu hành. Nếu có ai không thích ta niệm, ta bèn niệm
thầm. Chẳng câu nệ hình thức, chỗ nào cũng
đều có thể niệm được!
Trong Tứ
Y Pháp, đức Phật nói “y
liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa”. Phàm
những pháp nào nói tới phước báo trong cõi trời,
cõi người, chẳng thể liễu sanh tử, xuất
tam giới thì gọi là “bất
liễu nghĩa”. Kinh Tiểu Thừa lấy đoạn
Kiến Tư Hoặc để xuất tam giới, chứng
quả La Hán, chẳng thể thành Phật, cũng gọi
là bất liễu nghĩa. Kinh Đại Thừa tuy đoạn
Tam Hoặc, liễu sanh tử, cao hơn La Hán, nhưng
chưa đạt đến Phật quả rốt ráo thì vẫn
là bất liễu nghĩa. Nhất Thừa liễu nghĩa
là “thành Phật ngay trong một đời”. Trong một
đời thành Phật thì chỉ có Thiện Tài đồng
tử tham học năm mươi ba lần trong hội
Hoa Nghiêm, tới cuối cùng, thành tựu là nhờ mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát dẫn về Cực Lạc. Trong kinh Pháp Hoa, long nữ
tám tuổi thành Phật là loại rất hiếm, ít có, khó
gặp. Trong kinh này, hết thảy chúng sanh trong một
đời đều có thể viên thành Phật đạo,
có thể nói là kinh này vượt trội Hoa Nghiêm lẫn
Pháp Hoa. Phật dùng pháp môn này để độ chúng sanh
trong chín pháp giới, mười phương ba đời
hết thảy chư Phật Như Lai cũng dùng pháp môn
này để độ chúng sanh. Nói “vô thượng liễu nghĩa, đệ nhất
phương tiện” là chuyên nói về bộ kinh này.
Viên (圓) là viên mãn,
Đốn (頓) là nhanh chóng vượt thoát, chẳng
theo thứ tự. Tiểu Thừa thành Phật phải mất
ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Theo như tông Thiên
Thai nói thì phải trải qua Tứ Giáo là Tạng, Thông, Biệt,
Viên. Đấy là “tiệm tu”
(tu dần dần theo thứ tự). Đại Thừa tu
Bồ Tát đạo, từ Sơ Tín đến Đẳng
Giác gồm năm mươi mốt địa vị. Kinh
Hoa Nghiêm nói: Thành Phật phải mất vô lượng
đại kiếp, chứ không phải chỉ ba đại
A-tăng-kỳ kiếp. Đức Phật
nói ba đại A-tăng-kỳ kiếp là vì sợ chúng sanh
nghe [nói vô lượng kiếp] sẽ co đầu rụt
cổ, chẳng dám học Phật. Đại Thừa Bồ
Tát tâm lượng to lớn, có tánh nhẫn nại, chẳng
sợ thời gian lâu xa. Tổ sư khai sơn của Duy
Thức Tông là Khuy Cơ đại sư soạn A Di
Đà Kinh Thông Tán Sớ, trong ấy Ngài cũng nói rõ pháp môn
này thuộc về Đốn Giáo; bởi lẽ, trong kinh
nói từ một ngày đến bảy ngày liền thành
công. “Thành công” có nghĩa là
thành Phật.
Nước
đục ví với tâm ô nhiễm, tâm tạp loạn, Phật
hiệu ví như thanh thủy châu. Đối trị tạp
niệm hữu hiệu nhất chính là niệm Phật. Nếu
tham cứu thấu đáo Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô
Lượng Thọ Kinh và Di Đà Yếu Giải thì niệm
Phật sẽ đúng lý, đúng pháp, câu nào cũng
tương ứng, quả thật hữu hiệu. Nghe
đạo lý Phật pháp rất nhiều, nhưng phiền
não, tập khí vẫn rất nặng như cũ là vì chúng
ta từ vô thỉ kiếp đến nay đã quá quen với
rất nhiều phiền não tham, sân, si,
mạn, đối với Phật pháp cảm thấy rất
lợt lạt. Vì thế, cổ nhân nói: “Sanh xứ chuyển thục, thục xứ chuyển
sanh” (Chuyển chỗ sống thành chỗ chín, chuyển
chỗ chín thành chỗ sống). Ắt phải đem cái
tâm phiền não ô nhiễm chuyển biến một trăm
tám mươi độ thành tâm niệm Phật thanh tịnh.
Hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng, hết
thảy pháp do tâm biến hiện.
Niệm Phật là nhân,
thành Phật là quả. Đây chẳng phải là nhân quả
thông thường. Đại Thừa là Bồ Tát, Nhất
Thừa là thành Phật. Trong thế giới Cực Lạc,
chứng đắc bốn loại Tịnh Độ cùng một
lúc. Hễ chứng được một, sẽ chứng
hết thảy; vì thế gọi là “diệu quả”. Nhân và quả chẳng tách rời
nhau. Điểm đặc biệt là pháp môn này được
gọi là Liên Tông. Hoa sen là nhân và quả đồng thời;
vì thế, tín nguyện trì danh là chánh tông. Bốn cõi Tịnh
Độ là [giáo thuyết] do tông Thiên Thai sáng lập, nếu
muốn hiểu rõ hơn, có thể tham khảo các sách Quán
Kinh Diệu Tông Sao và Phạm Võng Kinh Huyền Nghĩa[9].
3.4. Minh Lực
Dụng (giảng về lực
dụng)
(Giải) Đệ tứ,
minh lực dụng. Thử kinh dĩ “vãng sanh bất thoái”
vi lực dụng. Vãng sanh hữu tứ độ, các luận
cửu phẩm. Thả lược minh đắc sanh tứ
độ chi tướng. Nhược chấp trì danh hiệu,
vị đoạn Kiến Tư, tùy kỳ hoặc tán hoặc
định, ư Đồng Cư độ phân tam bối
cửu phẩm. Nhược trì chí Sự nhất tâm bất
loạn, Kiến Tư nhậm vận tiên lạc, tắc
sanh Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ.
Nhược chí Lý nhất tâm bất loạn, khoát phá vô minh
nhất phẩm, nãi chí tứ thập nhất phẩm, tắc
sanh Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ, diệc phần
chứng Thường Tịch Quang độ. Nhược
vô minh đoạn tận, tắc thị thượng
thượng Thật Báo, cứu cánh Tịch Quang dã. Bất
Thoái hữu tứ nghĩa, nhất Niệm Bất Thoái, phá
vô minh, hiển Phật tánh, kính sanh Thật Báo, phần chứng
Tịch Quang. Nhị Hạnh Bất Thoái, Kiến Tư ký lạc,
Trần Sa diệc phá, sanh Phương Tiện độ,
tiến xu cực quả. Tam Vị Bất Thoái, đới
nghiệp vãng sanh, tại Đồng Cư độ, liên
hoa thác chất, vĩnh ly thoái duyên. Tứ Tất Cánh Bất
Thoái, bất luận chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hoặc
giải, bất giải, đản Di Đà danh hiệu, hoặc
lục phương Phật danh, thử kinh danh tự nhất
kinh ư nhĩ, giả sử thiên vạn kiếp hậu,
tất cánh nhân tư độ thoát. Như văn đồ
độc cổ, viễn cận giai táng. Thực thiểu
kim cang, quyết định bất tiêu dã. Phục thứ,
chỉ đới nghiệp sanh Đồng Cư tịnh,
chứng Vị Bất Thoái giả, giai dữ Bổ Xứ
câu, diệc giai nhất sanh tất bổ Phật vị.
Phù thượng thiện nhất xứ, thị sanh Đồng
Cư. Tức dĩ hoành sanh thượng tam độ, nhất
sanh bổ Phật. Thị Vị Bất Thoái. Tức dĩ
viên chứng Tam Bất Thoái. Như tư lực dụng,
nãi thiên kinh vạn luận sở vị tằng hữu. Giảo
bỉ đốn ngộ chánh nhân, cẩn vi xuất trần
giai tiệm. Sanh sanh bất thoái, thủy khả kỳ
ư Phật giai giả, bất khả đồng nhật
ngữ hỹ. Tông giáo chi sĩ, như hà vật tư.
(解)第四。明力用。此經以往生不
退為力用。往生有四土。各論九品。且略明得生四土之相。若執持名號。未斷見思。隨其或散或定。於同居土。分三輩九品。若持至事一心不亂。見思任運先落。則
生方便有餘淨土。若至理一心不亂。豁破無明一品。乃至四十一品。則生實報莊嚴淨土。亦分證常寂光土。若無明斷盡。則是上上實報。究竟寂光也。不退有四義。
一念不退。破無明。顯佛性。徑生實報。分證寂光。二行不退。見思既落。塵沙亦破。生方便土。進趨極果。三位不退。帶業往生。在同居土。蓮華託質。永離退
緣。四畢竟不退。不論至心散心。有心無心。或解不解。但彌陀名號。或六方佛名。此經名字。一經於耳。假使千萬劫後。畢竟因斯度脫。如聞塗毒鼓。遠近皆喪。
食少金剛。決定不消也。復次祇帶業生同居淨。證位不退者。皆與補處俱。亦皆一生。必補佛位。夫上善一處。是生同居。即已橫生上三土。一生補佛。是位不退。即已圓證三不退。如斯力用。乃千經萬論。所未曾有。較彼頓悟正因。僅為出塵階漸。生生不退。始可期於佛階者。不可同日語矣。宗教之士。如何勿思。
(Giải: Thứ tư, nói về lực dụng.
Kinh này lấy “vãng sanh bất thoái” làm lực dụng. Vãng
sanh có bốn cõi, trong mỗi cõi đều luận định
chín phẩm, nên bèn giảng đại lược về
tướng trạng của bốn cõi. Nếu chấp trì
danh hiệu mà chưa đoạn Kiến Hoặc và Tư
Hoặc, tùy theo tán tâm hay định tâm, sẽ sanh vào cõi
Đồng Cư, chia ra thành ba bậc, chín phẩm. Nếu
trì đến mức Sự nhất tâm bất loạn, giữa
Kiến Hoặc và Tư Hoặc, tùy ý đoạn trước
một thứ, sẽ sanh về Phương Tiện Hữu
Dư Tịnh Độ. Nếu trì đến mức Lý nhất
tâm bất loạn, phá rỗng toang từ một phẩm vô
minh cho đến bốn mươi mốt phẩm vô minh,
sẽ sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ và
cũng chứng một phần cõi Thường Tịch
Quang. Nếu đoạn sạch vô minh, sẽ là thượng
thượng Thật Báo, rốt ráo Tịch Quang. Bất
Thoái có bốn nghĩa:
1. Niệm Bất
Thoái: Phá vô minh, hiển Phật tánh, mau chóng sanh về cõi Thật
Báo, chứng một phần cõi Tịch Quang.
2. Hạnh Bất
Thoái: Đã trừ được Kiến Hoặc và Tư
Hoặc, cũng phá được Trần Sa Hoặc, sanh về
cõi Phương Tiện, tiến hướng cực quả.
3. Vị Bất
Thoái: Đới nghiệp vãng sanh, ở trong cõi Đồng
Cư, gởi thân nơi hoa sen, vĩnh viễn lìa khỏi
duyên thoái thất.
4. Tất Cánh Bất Thoái: Chẳng
cần biết là chí tâm hay tán tâm, hữu tâm hay vô tâm, hiểu
hoặc chẳng hiểu, chỉ cần danh hiệu Di
Đà, hoặc danh hiệu của chư Phật trong sáu phương
và tên gọi kinh này, vừa nghe thoảng qua tai, giả sử
ngàn vạn kiếp sau, rốt ráo sẽ do điều này mà
được độ thoát. Như nghe tiếng cái trống
có bôi chất độc, xa hay gần đều bị chết.
Ăn một chút kim cang, quyết định mãi mãi chẳng
tiêu.
Hơn nữa, những kẻ
chỉ cần đới nghiệp vãng sanh Đồng
Cư Tịnh Độ, chứng Vị Bất Thoái, đều
cùng ở chung với các vị Bổ Xứ, cũng sẽ
đều trong một đời ắt dự vào địa
vị Bổ Xứ làm Phật. Phàm ở chung với các bậc
thượng thiện, tức là sanh vào cõi Đồng
Cư thì là đã sanh ngang sang ba cõi trên, trong một đời
được bổ xứ thành Phật. Đấy là [hễ
dự vào] Vị Bất Thoái thì là đã chứng trọn vẹn
ba món Bất Thoái. Lực dụng như vậy chính là
điều chưa hề có trong ngàn kinh vạn luận. So
với những chánh nhân đốn ngộ khác thì chúng đều
chỉ là thoát khỏi cõi trần dần dần theo thứ
tự, phải đời đời bất thoái thì mới
có thể mong thành Phật được. Dẫu nói suốt
ngày cũng chẳng thể nói trọn hết [lực dụng
của kinh này]. Những bậc tu hành bên Tông, bên Giáo cớ
sao chẳng suy nghĩ?)
Phần thứ tư là giảng về Lực
Dụng, [tức là] phần này nói rõ công đức tu hành, lợi
ích do học tập, mà cũng có nghĩa là cái hay của niệm
Phật nằm ở chỗ nào? Cổ đức nói: “Kinh này lấy vãng sanh làm Công, lấy
bất thoái làm Dụng”. Trong kinh cũng dạy: “Chúng sanh sanh giả, giai thị A
Bệ Bạt Trí” (Những chúng sanh sanh về đó
đều là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát). Thân nghiệp
báo [trong cõi Sa Bà] này là thân tối hậu (thân cuối cùng).
Thân của những vị tái lai đến thế gian này
để độ người chính là Ứng Hóa Thân. Hiện
thời, người chân chánh phát tâm cầu sanh Tịnh
Độ, lòng tin chân thật, phát nguyện chân chánh, tuân
theo lời giáo huấn của Phật. Cái tâm ấy vừa
phát ra thì Tây Phương đã ghi danh, chứng được
thân tối hậu trong hiện tại, trong khoảng một
niệm liền đến được cõi ấy.
Vãng sanh [Tịnh Độ] có bốn cõi:
a) Một là Phàm Thánh Đồng Cư Độ.
Thế giới Sa Bà cũng là Phàm Thánh Đồng
Cư Độ. Tuy [trong cõi Sa Bà] có thánh nhân,
nhưng thiếu duyên sẽ chẳng gặp được.
Trong truyện ký xa xưa có chép: Pháp Chiếu đại
sư (tổ sư đời thứ tư của Tịnh
Độ Tông), là người đời Đường,
gặp Văn Thù Bồ Tát ở núi Ngũ Đài,
đạo tràng của Bồ Tát là Đại Thánh Trúc Lâm Tự,
đẹp đẽ, cao rộng. Tổ nghe Văn Thù Bồ
Tát giảng kinh, thưa hỏi Bồ Tát: “Trong thời kỳ
Mạt Pháp, tu pháp môn nào sẽ dễ thành tựu?” Văn
Thù Bồ Tát dạy Tổ tu pháp môn Niệm Phật, lại
còn niệm cho Tổ nghe mấy câu thánh hiệu A Di Đà Phật.
Cách niệm ấy sau này được gọi là Ngũ Hội
Niệm Phật. Phép Ngũ Hội Niệm Phật này
đã thất truyền. Năm 1977, tôi giảng
kinh tại Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán (thư
viện Phật Giáo Trung Hoa) do lão pháp sư Đàm Hư sáng
lập ở Hương Cảng. Trong thư viện ấy
có tập sách nhỏ mang tựa đề Ngũ Hội Niệm
Phật, có ghi chép nhạc phổ, âm điệu, tôi đem
về Đài Loan. Cuốn sách ấy được biên soạn
vào đầu thời Dân Quốc, rất cũ, sợ
đã thất truyền, nên tôi in ra mấy ngàn bản ở
Đài Loan. Trong số những vị xuất gia tại
Đài Loan có người thông hiểu âm nhạc bèn đem
sang Viên Quang Phật Học Viện ở Trung Lịch kiếm
những vị đồng học, dựa theo nhạc phổ
để luyện tập. Sau đấy lại thâu vào
băng ghi âm. Nghe cuốn băng ấy, cảm thấy rất
dễ nghe, rất náo nhiệt, nhưng hoàn toàn chẳng
thanh tịnh. Đủ thấy rằng, nó hoàn toàn chẳng
phù hợp với âm điệu do ngài Pháp Chiếu truyền
lại. Ngài Pháp Chiếu gặp Văn Thù Bồ Tát xong, sợ
trong tương lai sẽ tìm [Bồ Tát] chẳng được,
nên trên đường trở về đã đánh dấu dọc
theo lối đi. Mải miết đi, quay đầu nhìn
lại thì đã là một giải núi hoang, thứ gì cũng
chẳng có!
Phi hành gia Mỹ
sau khi đáp xuống mặt trăng, chỉ thấy một
vùng hoang vu. Có người hỏi tôi, trong tương lai,
khi tụng công khóa sáng tối, có còn niệm Nguyệt Quang Bồ
Tát hay không? Tôi nói: “Vẫn phải niệm!” Vì Nguyệt
Quang Bồ Tát ở trong nguyệt cung, phi hành gia đến
đó, không thấy được Ngài, cũng giống như đạo tràng của
Văn Thù Bồ Tát được lập tại núi Ngũ
Đài, nhưng chúng ta cũng chẳng tìm được!
Trong
Tam Muội Thủy Sám, Ngộ Đạt quốc sư tìm
kiếm đạo tràng của tôn giả Ca Nặc Ca tại
Tây Thục, đạo tràng của tôn giả cũng là vàng ngọc chói ngời. Sáng
hôm sau, [Sư dùng nước] rửa vết ghẻ hình mặt
người xong thì trong nháy mắt, chẳng thấy đạo
tràng đâu nữa. Do đây có thể biết rằng: Phàm
phu gặp được thánh giả thì phải có duyên phận
đặc biệt thù thắng. Đâu Suất Thiên là Phàm
Thánh Đồng Cư Độ, chia thành hai viện nội
và ngoại. Ngoại viện là chỗ phàm phu cư trụ,
Di Lặc Bồ Tát trụ trong nội viện. Đệ Tứ
Thiền cũng là Phàm Thánh Đồng Cư Độ,
trong ấy có Ngũ Bất Hoàn Thiên, phàm phu cũng chẳng
thấy được. Trong lục đạo có ba chỗ
là Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Phàm Thánh Đồng
Cư Độ trong thế giới Cực Lạc khác hẳn,
toàn là người niệm Phật vãng sanh tu Tịnh nghiệp,
đôi bên chẳng bị ngăn ngại. Đây chính là chỗ
thù thắng của cõi Đồng Cư bên Tây Phương.
Kiến Hoặc và Tư Hoặc chẳng dễ
diệt trừ, bước đầu tiên chỉ là “phục
đoạn” (khuất phục, chế ngự). Đoạn
được Kiến Hoặc và Tư Hoặc liền chứng
quả A La Hán, sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư.
Hễ có ý niệm thì là phiền não, bất luận ý niệm
nào, thiện hay ác đều chẳng màng, ý niệm thứ
nhất vừa khởi lên thì ngay lập tức dùng một
câu A Di Đà Phật để đè nó xuống. Cổ nhân
ví von: “Dùng đá đè cỏ”,
chỉ cần đè xuống được thì niệm Phật
dễ thành phiến. Trong thực tế, lúc bình thường,
vọng niệm rất nhiều, nhưng ta hoàn toàn chẳng
nhận biết, tốt nhất là đừng quan tâm tới
nó. Nếu chú ý tới vọng tưởng, đâm ra càng nhiều
vọng tưởng hơn! Hãy mặc kệ nó, dốc sự
chú ý vào Phật hiệu. Đại khái là trong thời gian
tàn một cây hương, tức là trong một tiếng
rưỡi, có dăm ba vọng tưởng thì coi như
công phu đã khá lắm. Niệm năm năm mới
được như thế. Nếu trong vòng một cây
hương mà không có vọng tưởng thì cũng phải
tốn công phu tám năm hay mười năm. Công khóa sáng tối
mỗi ngày nhất định không được thiếu
sót, còn tán niệm (ở đây có nghĩa là niệm Phật
ngoài thời khóa nhất định) có thể niệm nhiều
hơn hay ít hơn. Tại Mỹ, công việc bận bịu,
áp lực nặng nề, khóa tối khóa sáng hạn định
thời gian càng ít càng hay. Tốt nhất là dùng cách Thập
Niệm. Cứ hết một hơi là một niệm, mặt
hướng về phương Tây, mười hơi mất
chừng năm phút là đủ rồi, chẳng trở ngại
công việc. Người niệm Phật biết trước
lúc mất, không bệnh tật mà qua đời, chỉ cần
chế phục phiền não là có thể đạt được
điều ấy. Nhưng chúng ta khó đạt được
Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Nhất tâm nhất ý cầu
sanh Tịnh Độ, nhất tâm nhất ý muốn thấy
A Di Đà Phật. Ý chí hết sức mạnh mẽ, ắt
sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Ra đi
nghiêm túc, đẹp đẽ, ra đi tự tại, đấy
chính là phước báo lớn nhất.
b) “Trì chí Sự
nhất tâm bất loạn, Kiến Tư nhậm vận
tiên lạc, tắc sanh Phương Tiện Hữu Dư Tịnh
Độ” (Trì đến mức Sự nhất tâm bất
loạn, Kiến Hoặc và Tư Hoặc tùy ý đoạn
trước một thứ nào, sẽ sanh về Phương Tiện Hữu Dư Tịnh
Độ). Điều kiện để sanh vào cõi Phương
Tiện Hữu Dư là phải đoạn được
Kiến Tư Hoặc. Trong phần trước, tôi đã
có nói: Kiến Hoặc là ác kiến do mê Lý, do phân biệt khởi
lên, là tác dụng tâm lý thuộc phương diện tri thức,
căn nguyên chủ yếu là Ngã Kiến. Tư Hoặc là ác
kiến do mê Sự, tự nhiên khởi lên[10],
thuộc về tác dụng tâm lý trên mặt sinh hoạt,
căn nguyên chủ yếu là ba độc Tham, Sân, Si. Kiến
Hoặc và Tư Hoặc là căn bản phiền não, còn gọi
là Phiền Não Chướng.
Trong cõi Phương Tiện Hữu Dư của
các thế giới trong mười phương chư Phật
có chín loại người cùng sống. Theo cách giảng giải
của tông Thiên Thai, Thanh Văn và Duyên Giác trong Tạng Giáo;
Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát thuộc Thông Giáo, cộng
chung là năm loại người, những người thuộc
Tam Hiền, tức Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng trong Biệt Giáo, thêm vào Thập Tín của
Viên Giáo [thành chín loại người trong cõi Phương Tiện
Hữu Dư]. Những vị ấy đều đã
đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc, sanh vào
Phương Tiện Hữu Dư Độ. Người
niệm Phật chẳng cần nghĩ tới những
danh tướng và các cách giảng giải trong kinh giáo. Bốn
cõi, ba bậc [vãng sanh] đều chẳng cần nghĩ tới,
chỉ nên thật thà niệm một câu Phật hiệu. Công
phu sâu sẽ tự nhiên đoạn được phiền
não, đó gọi là “nhậm vận”
(tùy ý). Đừng suy tưởng mình có thể đạt
được nhất tâm hay không, càng nghĩ sẽ càng xen
tạp.
Sự nhất tâm bất loạn: Sự (事) là
hoàn toàn luận theo sự tướng, Nhất (一) là
thuần nhất, Loạn (亂) là tạp loạn. Vọng niệm sanh
khởi do vô ý, chính mình chẳng thể khống chế
được thì hoàn toàn chẳng quan trọng chi cả. Nếu
hữu ý [sanh khởi vọng niệm] như tu pháp môn Niệm
Phật mà lại tính tham Thiền, lại toan học Mật,
nhất định sẽ nẩy sanh chướng ngại.
Do vậy, niệm Phật phải có ý chí kiên định, bất
cứ ai khuyên đổi sang học pháp môn nào khác đều
chẳng nghe theo. Niệm Phật sao cho từng câu rõ ràng, từng
chữ phân minh, tâm chẳng lìa Phật, Phật chẳng lìa
tâm, tâm liền biến thành Phật. Tâm này là Phật, tâm này
làm Phật, duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà,
không chỉ đoạn được Kiến Hoặc,
Tư Hoặc, mà Trần Sa hay vô minh cũng tùy ý đoạn
được.
“Lý nhất tâm bất
loạn, khoát phá vô minh nhất phẩm, nãi chí tứ thập
nhất phẩm, tắc sanh Thật Báo Trang Nghiêm” (Lý nhất
tâm bất loạn là phá rỗng toang từ một phẩm
vô minh cho đến bốn mươi mốt phẩm vô
minh, sẽ sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm): Cõi Thật Báo Trang
Nghiêm còn gọi là cõi Thật Báo Vô Chướng Ngại. Lý
là tâm tánh, tức là như Thiền Tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Thiền
Tông dùng phương pháp tham cứu, chúng ta dùng một câu Phật
hiệu cũng có thể đạt đến cảnh giới
ấy. So ra, Niệm Phật thuận tiện, đơn giản
hơn. Niệm Phật có Sự Niệm và
Lý Niệm. Người thượng căn lợi trí có
cơ sở lý luận là Lý Niệm. Kẻ hạ ngu chuyện
gì cũng chẳng hiểu thuộc về Sự Niệm.
Nếu là Sự Niệm mà niệm đến mức phá một
phẩm vô minh thì cũng là do Sự Niệm mà đạt
đến Lý Niệm, cảnh giới ấy và minh tâm kiến
tánh chẳng hai, chẳng khác. Lý nhất tâm bất loạn
có bốn mươi mốt tầng bậc khác nhau, mức
độ đoạn vô minh trong mỗi tầng cấp cao
thấp khác nhau. Đoạn sạch bốn mươi mốt
phẩm vô minh sẽ thành Phật trong Viên Giáo, rốt ráo
viên mãn vô thượng Bồ Đề. Thường Tịch
Quang là Lý Thể, vô tướng. Ba cõi kia là sự tướng.
Thường
(常) là Pháp Thân, Tịch (寂) là Định, tức Giải Thoát,
Quang (光) là trí huệ, tức Bát Nhã. Bổn tánh
chân tâm của chúng ta trọn đủ ba thứ đức
viên mãn này:
- Pháp Thân có
thể hiện hết thảy cõi nước, hữu tình
và vô tình trong mười phương thế giới đều
do tâm tánh biến hiện ra. Đấy gọi là Pháp Thân
Đức.
- Tịch
là giải thoát tự tại, tâm tánh vốn tự tại.
Chúng ta tợ hồ bị phiền não trói buộc, chứ
thật ra phiền não ở chỗ nào? Tìm phiền não chẳng
thể được! Phàm tất cả những gì có hình
tướng đều là hư vọng. Tâm tánh vốn tự
tại, đấy là Giải Thoát Đức.
- Quang là trí
huệ, thế gian và xuất thế gian đều do tự
tánh biến hiện, lẽ ra là “không
gì chẳng biết”, nhưng lại biến thành sự
hiểu biết hữu hạn, lỗi là do Sở Tri
Chướng. Đức Phật giảng Bát Nhã trong một
khoảng thời gian dài nhất, giảng đến hai
mươi hai năm. Bát Nhã là nói vô tri. Chân trí huệ là vô
tri, vô tri chính là vô sở bất tri (không gì chẳng biết).
Chỉ sợ hữu tri, hữu tri chính là hữu sở bất
tri (có cái không biết). Nếu có sở tri (có cái để
biết) thì chỉ là biết một tí ti mà thôi! Trí huệ
viên mãn vốn sẵn có trong bổn tánh của chính mình, chẳng
phải do từ bên ngoài đưa tới.
Các tông, các
phái trong Phật giáo đều tu Định, trong Định
quyết chẳng thể có một vọng niệm nào! Hễ
có, sẽ trở thành chướng ngại. Khi đạt
đến mức “một niệm chẳng sanh” thì hết
thảy đức năng trong tâm tánh sẽ hoàn toàn khôi phục.
Câu kết luận cuối cùng trong Tâm Kinh là “vô trí, diệc vô đắc” (vô trí nên cũng vô
đắc). Đắc là do phiền não mà có, Sở Tri
Chướng là do hiểu biết mà có. Vô tri thì Sở Tri
Chướng bị gạt bỏ, vô đắc thì Phiền
Não Chướng bị dẹp trừ. Hằng ngày niệm
Tâm Kinh, mà nếu chẳng thể đề cao cảnh tỉnh,
hiểu thấu chân nghĩa của kinh ấy thì đã uổng
công niệm mất rồi!
Bất Thoái có bốn nghĩa:
1. Niệm Bất Thoái: “Phá vô minh, hiển Phật tánh, kính sanh Thật Báo, phần
chứng Tịch Quang” (Phá vô minh, hiển Phật tánh, mau
chóng sanh sang cõi Thật Báo, chứng một phần Tịch
Quang). Trong pháp Đại Thừa, bậc chứng Niệm
Bất Thoái là Pháp Thân Bồ Tát, trong Viên Giáo là từ Sơ
Trụ trở lên, trong Biệt Giáo là từ Sơ Địa
Bồ Tát trở lên, đều là Niệm Bất Thoái. Xét theo
công phu đoạn chứng[11],
các vị Bồ Tát này đã phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân. Trong bốn cõi Tây Phương Tịnh
Độ, họ sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm độ.
Thường Tịch Quang là Lý Thể, ba cõi trước
đó là sự tướng. Lý không đâu chẳng tồn tại,
nhưng trong cõi Đồng Cư và cõi Phương Tiện,
không có cách nào nhận thức Lý Thể, mà cũng chẳng
thể cảm nhận được. Sanh về cõi Thật
Báo mới có thể cảm nhận Lý Thể, đó gọi
là “Lý - Sự viên dung, Tánh -
Tướng bất nhị”. Trong kinh Đại Thừa
gọi là “thân và cõi chẳng
hai” (thân độ bất nhị). Nghe đã quen tai,
nhưng không có cách nào thấu hiểu được. Đạt
đến cõi Thật Báo sẽ đích thân chứng đắc.
Chữ Niệm trong Niệm Bất Thoái nghĩa là chánh niệm,
niệm niệm đều tiến hướng Vô Thượng
Bồ Đề. Hiện thời, nếu chúng ta hữu niệm
thì cũng là vọng niệm, mà nếu vô niệm thì lại
là vô minh.
2. Hạnh Bất Thoái: “Kiến Tư ký lạc, Trần Sa dĩ phá, sanh Phương
Tiện độ, tấn xu cực quả” (Kiến Hoặc
và Tư Hoặc đã đoạn, Trần Sa đã phá, sanh
vào cõi Phương Tiện, tiến hướng quả tột
cùng). Bồ Tát tu Lục Độ vạn hạnh, chẳng
bị lui sụt xuống Nhị Thừa. Quyền Giáo Bồ
Tát[12] vẫn
có thể lui sụt xuống Nhị Thừa, do vì thấy
chúng sanh khó độ, hạng Bồ Tát ấy không có tánh nhẫn
nại, thường hay ngã lòng. Đại Thừa Bồ
Tát trọn đủ Định - Huệ, chẳng bị
lui sụt xuống Nhị Thừa. Đức Phật bảo
chúng ta: Nhị Thừa chẳng thể thành Phật! Để
thành Phật thì nhất định phải là “Lý Sự viên
dung, Sự Sự vô ngại”. Nhị Thừa có chướng
ngại, chẳng viên dung, tự mình tu rất khá, nhưng
chẳng thể cùng đại chúng tiếp xúc, họ cảm
thấy chẳng thể chịu đựng phiền rộn
được. Do vậy, muốn thành Bồ Đề thì
phải chứng vô chướng ngại pháp giới như
trong kinh Hoa Nghiêm đã giảng, ắt phải tiếp xúc
chúng sanh trong chín pháp giới. Tiếp xúc chúng sanh là tu hành, phải
tu sao cho những điều mình không vừa ý trở thành vừa
ý. Phải trừ cho sạch phiền não, phải diệt
trừ cho hết. Bồ Tát tu Lục Độ, độ
chúng sanh cũng là độ chính mình. Bất luận trong hoàn
cảnh nào thì chính mình cũng đều có lợi. Quán sát
trên sự thật, điều cần thiết trước
nhất là phải tu khổ hạnh[13], đối
với hết thảy những gì chẳng vừa ý, hãy nên
tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, tu Thiền Định Ba La
Mật. Cuối cùng, lại phải tu trong thuận cảnh,
nếu chuyện gì cũng vừa lòng toại ý sẽ dễ
dàng giải đãi. Thuận cảnh còn làm cho con người
bị lui sụt dữ dội hơn, do thỏa mãn với
tình cảnh hiện thời, cái tâm dũng mãnh hướng
thượng không còn nữa. Trong các vị đệ tử
Phật tham dự hội Bát Nhã, tôn giả Tu Bồ Đề
tượng trưng cho khổ hạnh, Sơ Tổ Thiền
Tông là tôn giả Đại Ca Diếp cũng tượng
trưng cho khổ hạnh, đều là được rèn
luyện trong nghịch cảnh. Trong hội Hoa Nghiêm, Thiện
Tài đồng tử được rèn luyện trong thuận
cảnh. Trong nghịch cảnh tu nhẫn nhục, phá trừ
tâm nóng giận, trong thuận cảnh đoạn tham ái. Khi
Thiện Tài đồng tử sanh ra, trong nhà bảy báu trồi
lên. Trong thuận cảnh, tu trì khó khăn hơn trong nghịch
cảnh. Bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh,
đều phải dùng những cảnh đó để đoạn
tham, sân, si.
3. Vị
Bất Thoái: “Đới nghiệp
vãng sanh, tại Đồng Cư độ, liên hoa thác chất,
vĩnh đoạn thoái duyên” (Đới nghiệp vãng
sanh trong cõi Đồng Cư, gởi thân nơi hoa sen, vĩnh
viễn đoạn trừ duyên gây lui sụt). Từ ngữ
Vị Bất Thoái chỉ quả vị của thánh nhân. Bậc
Sơ Quả trong Tiểu Thừa đã chứng Vị Bất
Thoái, chẳng còn lui sụt xuống hàng phàm phu. Sau khi chứng
được Sơ Quả, sẽ sanh trở lại trong
nhân gian hay trên cõi trời bảy lần, liền chứng
quả A La Hán. Kinh Phật nói để thành Phật phải
mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, tính từ lúc
nào? Phải tính từ lúc đắc Sơ Quả. Nếu
không như vậy thì có thể là người tu hành lại
lui sụt xuống lục đạo luân hồi. Trong các
kinh Kim Cang, Lăng Nghiêm, Vô Lượng Thọ, đức Phật
đều nói chúng ta có duyên phận với Phật chính là
do thiện căn đã tu tập trong đời đời
kiếp kiếp từ vô lượng kiếp đến
nay. Vì sao vẫn chưa thành Phật? Vì từ trước đến
nay chưa hề chứng được Sơ Quả. Kinh
Hoa Nghiêm nói để thành Phật phải tốn vô lượng
kiếp, cũng là vì chẳng tính từ Vị Bất Thoái.
Chứng đắc Vị Bất Thoái hoàn toàn chưa lìa khỏi
tam giới, nhưng chẳng còn là phàm phu, chỉ qua lại
trong đường trời người, trọn chẳng
đọa trong tam đồ. Làm thế nào mới có thể
chứng được địa vị Vị Bất
Thoái? Phật dạy
đối với Kiến Tư Hoặc, phải đoạn được
tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới[14].
Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện
thứ mười tám là “mười
niệm ắt sanh” là nói về mười niệm lúc lâm
chung. Lâm chung mà có thể niệm Phật cũng chẳng đơn
giản, ắt phải hội đủ ba điều kiện:
1) Thần
trí tỉnh táo.
2) Có
thiện tri thức nhắc nhở đúng lúc.
3) Nghe xong có thể thật sự làm theo.
Chẳng phải ai cũng có đủ ba điều
kiện trên đây, nhất định lúc bình thường
phải nỗ lực, đừng mang tâm cầu may. Hễ
mê hoặc liền đọa vào tam ác đạo. Nếu thần
trí tỉnh táo, sẽ chẳng
đọa trong tam đồ. Vì thế, lúc bình thường phải
giữ lòng làm lợi chúng sanh, tu phước làm đầu.
Chúng ta quá nửa có thể sanh về cõi Đồng
Cư, chứng Vị Bất Thoái. Thế giới Sa Bà này cũng
là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng chúng ta chưa chứng
được Vị Bất Thoái. Sau khi sanh về cõi Đồng
Cư của Tây Phương, liền chứng Vị Bất
Thoái. Đủ thấy Tây Phương thù thắng hơn
Sa Bà. Càng thù thắng hơn nữa là trong Tây Phương,
sanh về một cõi liền sanh hết thảy cõi, chứng
được một thứ, liền chứng hết thảy,
đồng thời chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái. Tây Phương thù thắng như thế là vì ba lý do lớn:
1) Sanh về Tây Phương
sẽ hằng ngày gặp Phật.
2) Luôn luôn nghe pháp, chẳng
riêng gì Phật, Bồ Tát thuyết pháp, mà sáu trần (Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) đều thuyết pháp.
3) Thường cùng các vị đại Bồ Tát ở chung một
chỗ.
Ở trong hoàn cảnh như vậy, sẽ
không có nhân duyên gây thoái chuyển. Trong thế giới Sa Bà, rất
khó được nghe chánh pháp, ác tri thức đông đảo,
thiện tri thức ít ỏi. Vì thế, dễ bị thoái
chuyển.
4. Tất Cánh Bất Thoái: “Bất luận chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hoặc
giải, bất giải, đản Di Đà danh hiệu, hoặc
lục phương Phật danh, thử kinh danh tự, nhất
kinh ư nhĩ, giả sử thiên vạn kiếp hậu,
tất cánh nhân tư độ thoát” (Bất luận chí
tâm hay tán tâm, hữu tâm hay vô tâm, hiểu hoặc chẳng hiểu,
chỉ cần danh hiệu Di Đà, hoặc danh hiệu của
chư Phật trong sáu phương và tên gọi kinh này, vừa
nghe thoảng qua tai, giả sử ngàn vạn kiếp sau, rốt
ráo sẽ do điều này mà được độ thoát).
“Chí tâm” là nhất tâm, chân thành
tâm. “Tán tâm” là có xen tạp. Bất
luận hữu tâm hay vô tâm, hiểu hoặc chẳng hiểu,
chỉ cần nghe được một tiếng Phật hiệu
hoặc tựa đề kinh, liền gieo được hạt
giống thành Phật, trong tương lai sớm muộn gì
cũng có thể bước vào cửa Phật, tu hành, chứng
quả. Kinh Pháp Hoa chép: Khi đức Phật tại thế,
có một cụ già muốn theo Phật xuất gia. Những
đệ tử Phật đã chứng A La Hán, có Túc Mạng
Thông biết được quá khứ, vị lai, quán sát thấy
cụ già ấy trong năm trăm đời chẳng có thiện
căn nên không chịu thu nhận. Cụ già buồn khóc, chẳng
chịu bỏ đi. Đức Phật trông thấy, liền
kêu cụ già lại, cho cụ xuống tóc. Đức Phật
bảo các đệ tử: Trong vô lượng kiếp trước,
cụ già này làm tiều phu, lên núi đẵn củi, gặp
một con mãnh hổ, bí quá, trèo lên cây, vô tình kêu lên một tiếng
“nam-mô Phật”. Có nhân duyên như vậy, đời này cơ
duyên chín muồi, phát tâm xuất gia. Cụ già ấy về
sau chứng quả A La Hán.
“Nhất sanh bổ
Phật, thị Vị Bất Thoái, tức dĩ viên chứng
tam Bất Thoái” (trong một đời được bổ
xứ thành Phật, là Vị Bất Thoái, tức là đã chứng
trọn vẹn ba thứ Bất Thoái). Mấy câu này hết
sức trọng yếu, ắt phải ghi nhớ thật kỹ.
Không những chính mình sẽ có thể thật sự phát khởi
nguyện vọng cầu sanh Tịnh Độ, mà còn có thể
giải đáp cho không ít người nghi hoặc. Những điều
này là sự thù thắng tối cực, các pháp môn khác không có
sự nhanh chóng như thế này. Như các kinh Đại
Thừa, Tiểu Thừa thường giảng, sau khi chứng
được quả Tu Đà Hoàn phải trải qua ba đại
A-tăng-kỳ kiếp hoặc vô lượng kiếp mới
có thể thành Phật, chẳng thể nào thành tựu ngay
trong một đời. Chỉ riêng pháp môn Niệm Phật,
trong một đời sanh về thế giới Cực Lạc,
liền ở cùng một chỗ với các vị Bổ Xứ
Đẳng Giác Bồ Tát, cũng đồng
thời chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Trong
thế giới Sa Bà, chứng Vị Bất Thoái là Tiểu
Thừa Tu Đà Hoàn, chứng Hạnh Bất Thoái là Đại
Thừa Bồ Tát, chứng Niệm Bất Thoái là Pháp Thân
đại sĩ, phân định rất rành mạch. Hễ
sanh về Tây Phương thế giới liền hoàn toàn chứng
được [cả ba thứ Bất Thoái này].
Cuối
cùng, Ngẫu Ích đại sư khích lệ chúng ta. Trong hết
thảy kinh luận được đức Phật giảng
trong bốn mươi chín năm đều không có thuyết
“chứng trọn vẹn ba thứ
Bất Thoái”, trong mười phương thế giới
của chư Phật cũng không có tình trạng này. Ngài lại
dùng Thiền Tông để so sánh. Thiền Tông là đốn
ngộ, nhưng chẳng thể đoạn
sạch tập khí phiền não ngay trong một đời,
phải đời đời kiếp kiếp chẳng lui
sụt [thì mới hòng đoạn
sạch]. Trong Thiền Tông, sau khi triệt ngộ, đời
đời chẳng lui sụt chẳng phải là chuyện
dễ dàng. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, những
vị đại triệt đại ngộ bên Thiền
Tông, đến đời sau bị thoái chuyển rất
nhiều. Có một câu chuyện rất nổi tiếng là
Tam Sanh Thạch (hòn đá ba đời) kể về thiền
sư Viên Trạch. Sư có thể biết quá khứ
và vị lai, vẫn chẳng thể tránh khỏi đời
sau đầu thai. May mắn là Sư chẳng bị mê khi cách
ấm, nhớ được chuyện đời trước,
nhưng vẫn phải luân hồi để tiếp tục
tu. Khi thay đổi thân thể này, Sư chẳng có cơ
hội ở cùng một chỗ với các vị đại
Bồ Tát, mà cũng chẳng thể viên chứng ba thứ Bất
Thoái. Bởi lẽ, trong Thiền Tông, hễ có tu trì thì trong
đời thứ hai sẽ có phước, có huệ, có thể
sẽ là đại phú, đại quý, rồi lại đầu
thai, càng đầu thai, càng mê, tình cảnh mỗi ngày một
tệ hơn. Đấy chính là nguyên nhân vì sao để thành
Phật phải mất vô lượng kiếp[15].
3.5. Minh
giáo tướng (giảng về
giáo tướng)
(Giải)
Đệ ngũ, giáo tướng. Thử Đại Thừa
Bồ Tát Tạng nhiếp. Hựu thị vô vấn tự
thuyết, triệt để đại từ chi sở
gia trì, năng linh Mạt Pháp đa chướng hữu
tình, y tư kính đăng Bất Thoái. Cố
đương lai kinh pháp diệt tận, đặc
lưu thử kinh trụ thế bách niên, quảng độ
hàm thức. A Già Đà dược, vạn bệnh tổng
trì, tuyệt đãi viên dung, bất khả tư nghị.
Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy, nhất thiết
chư Phật chi tâm yếu, Bồ Tát vạn hạnh chi
tư nam, giai bất xuất ư thử hỹ. Dục quảng
thán thuật, cùng kiếp mạc tận. Trí giả tự
đương tri chi.
(解)第
五。教相。此大乘菩薩藏攝。又是無問自說。徹底大慈之所加持。能令末法多障有情。依斯徑登不退。故當來經法滅盡。特留此經住世百年。廣度含識。阿伽陀藥。
萬病總持。絕待圓融。不可思議。華嚴奧藏。法華秘髓。一切諸佛之心要。菩薩萬行之司南。皆不出於此矣。欲廣歎述。窮劫莫盡。智者自當知之。
(Giải: Thứ năm là giáo tướng. Kinh này
thuộc về Đại Thừa Bồ Tát Tạng. Lại
là kinh không ai hỏi mà Phật tự nói, được lòng
đại từ triệt để gia trì, có thể khiến
cho hữu tình lắm chướng trong đời Mạt
Pháp nương vào kinh này sẽ mau chóng chứng Bất
Thoái. Vì thế, trong tương lai khi kinh pháp diệt sạch,
riêng lưu lại kinh này một trăm năm trong cõi đời
để rộng độ hàm thức[16]. Thuốc A Già
Đà trị chung muôn bệnh, dứt bặt đối
đãi[17]
một cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn. Tạng sâu mầu
của kinh Hoa Nghiêm, cốt tủy bí mật của Pháp Hoa,
tâm yếu của hết thảy chư Phật, là kim chỉ
nam cho vạn hạnh của Bồ Tát, đều chẳng
ra ngoài kinh này. Muốn khen ngợi, nêu bày rộng rãi thì dẫu
hết cả kiếp cũng chẳng thể nói trọn,
người trí hãy nên tự biết lấy).
Phần này nêu rõ đối tượng của sự
dạy học. Trong thế gian có những người chưa
thâm nhập, nghiên cứu kinh này, tưởng niệm Phật
là Tiểu Thừa, là chỉ lo tự giải thoát cho riêng mình.
Thật ra, pháp môn này là pháp môn thành Phật viên mãn ngay trong một
đời. Luận theo phương diện giáo tướng
(kinh thuộc thể loại giáo pháp nào), so trong các kinh Đại
Thừa và Tiểu Thừa thì kinh này thuộc về Đại
Thừa, trong Ngũ Thừa[18]
thuộc về Bồ Tát Thừa, trong mười hai phần
giáo, thuộc loại Vô Vấn Tự Thuyết. Phương
pháp tu trì thích hợp trọn khắp ba căn, mà cũng khế
hợp căn cơ nhất đối với kẻ lắm
phiền não, nghiệp chướng nặng nề.
Do một đại sự nhân
duyên mà đức Phật xuất hiện trong cõi đời,
điều này cũng thuộc về pháp sanh diệt. Pháp vận
của đức Phật là một vạn hai ngàn năm,
hiện thời nhằm đúng thời kỳ Mạt Pháp,
vẫn còn hơn tám ngàn năm nữa. Mai sau, Phật pháp sẽ
suy vi dần dần, cuối cùng bị tiêu diệt hẳn.
Có người hoài nghi, hiện thời kỹ thuật ấn
loát tiến bộ, phần lớn kinh sách đã được
tàng trữ trong các thư viện lớn, có thể bảo
tồn lâu dài, làm sao bị tiêu diệt cho được? Hãy
nên biết rằng: Kinh điển tuy chẳng bị tiêu mất,
nhưng không ai tin tưởng, đọc tụng, thọ
trì thì cũng giống như đã bị tiêu diệt. Trong
kinh Pháp Diệt Tận, đức Phật có nói: Trong tương
lai, đến cuối thời kỳ Mạt Pháp, bộ
kinh đầu tiên bị tiêu diệt là kinh Lăng Nghiêm. Đến
khi Phật pháp diệt tận, do sức oai thần của
đức Phật ban ơn cho chúng sanh nên đặc biệt
lưu lại kinh A Di Đà tồn tại trong cõi đời
thêm một trăm năm nữa. Đến khi kinh giáo hoàn
toàn tiêu mất rồi, vẫn còn có một câu “Nam-mô A Di
Đà Phật”, hễ ai niệm câu này thì vẫn có hiệu
quả.
Pháp môn này giống như thuốc A Già Đà[19],
trị chung muôn bệnh, bất luận căn tánh nào cũng
đều thích hợp. Trong hết thảy kinh, các vị đại
đức trong ngoài nước xưa nay đều công nhận
Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đại diện cho Phật pháp, nhất
là kinh Hoa Nghiêm, được các tông phái cùng xưng tụng
là căn bản, những kinh khác là cành lá của kinh Hoa
Nghiêm. Đại sư xưng tụng kinh này là “áo tạng” (kho uyên áo, kho sâu mầu)
của kinh Hoa Nghiêm. Pháp môn Niệm Phật này có thể khiến
cho hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới mau chóng, bình
đẳng thành Phật ngay trong một đời. Bồ
Tát trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh, giúp hết thảy chúng sanh mau chóng thành Phật cũng
dùng pháp môn này, đều chẳng ra ngoài pháp trì danh niệm
Phật của kinh này. Trong lời tựa
cho bộ Vô Lượng Thọ Kinh Giải (chú giải kinh
Vô Lượng Thọ) của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
, tôi có viết một câu như sau: “Kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà hoàn toàn tương đồng, chẳng
qua là đại bổn và tiểu bổn mà thôi, đây là
kinh bậc nhất để mười phương hết
thảy chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật
đạo”. Đấy chính là điều chúng tôi cảm
niệm sau nhiều năm tu học. Trong quá khứ đã có
người hỏi tôi: Nếu trong Đại Tạng Kinh
chỉ lấy một bộ thì thầy sẽ lấy bộ
nào? Tôi nói: “Tôi lấy kinh A Di Đà, lợi ích của kinh này
đối với chúng sanh nếu nói cặn kẽ thì hết
cả kiếp vẫn chẳng thể nói trọn!”
Phật Thuyết A Di Đà
Kinh Yếu Giải Giảng Ký,
phần 2 hết
[1] Đây là một chuyện được
Phật nêu ra trong mười phen gạn hỏi A Nan nhằm
chỉ rõ tánh Thấy. Phật hỏi vua Ba Tư Nặc thấy
sông Hằng vào năm 10, 20 tuổi cho đến 60 tuổi
như thế nào, chỉ rõ thân có già suy, mặt có nhăn,
nhưng tánh Thấy không nhăn, cho thấy trong cái thân sanh
diệt có chân tánh chẳng sanh diệt.
[2] Chữ “duyên”
ở đây có nghĩa là có thể nhận biết, có thể
suy tưởng đến. Nói cách khác, khi một thức tiếp
xúc một trần, nhận biết trần cảnh đó thì
gọi là “căn duyên nơi cảnh”.
[3] Chết lòng sát đất (tử tâm tháp
địa): Dứt tuyệt những mong ngóng quá phận,
so đo, tính toán, cầu may (chẳng hạn, nghe kinh dạy
“mười niệm cũng được vãng sanh” bèn tính
toán: Niệm Phật mỗi ngày làm gì cho mệt? Chờ
đến già, gần chết, niệm Phật vẫn còn kịp),
trọn lòng trọn ý nơi pháp môn này, giống như cõi
lòng đã nguội lạnh nên gọi là “tử tâm” (chết
lòng). Nhận biết căn cơ của chính mình thuộc
phàm phu, độn căn, dốc lòng phát nguyện cầu
sanh để được về Tịnh Độ là
nơi có hoàn cảnh tu học tốt đẹp hòng dễ
tấn tu, không ngạo nghễ, kiêu căng, không tự phụ
“chỉ có ông già bà cả dốt nát mới niệm Phật,
còn ta là kẻ đại căn đại trí thì phải học
Giáo, tu Thiền, tu Mật mới xứng”, nên gọi là
“tháp địa” (nép sát đất).
[4] Trang Sinh là Trang Tử, tên thật là Trang
Châu (sống trong khoảng 369-286 trước Công Nguyên), tự
là Tử Hưu, người nước Tống. Ông này là một
nhà văn học và triết gia sống vào thời Chiến
Quốc. Những trước tác của ông được
ghi chép thành bộ Nam Hoa Kinh (do Đạo Giáo vào đời
Đường đã tôn xưng ông là Nam Hoa Chân Nhân). Trong bộ
sách này, có nhiều câu chuyện ngụ ngôn ngụ ý khuyên
đời, hoặc châm biếm, chẳng hạn như chuyện
Khổng Tử đi khuyên Đạo Chích hãy hối cải,
thôi trộm cướp, bị Đạo Chích mạt sát nặng
nề.
[5] Tướng Phần (còn gọi là Sở
Thủ Phần): Theo quan điểm của Duy Thức Học,
sự vật bên ngoài và hình ảnh của cảnh giới
bên ngoài in bóng vào trong tâm thì gọi là Tướng Phần.
Sách Tam Tạng Pháp Số lại cho rằng Tướng Phần
chính là các thứ hình tướng, là đối tượng
nhận biết của Thức.
[6] Đây là từ ngữ “có Tịnh Độ" trong bài Tứ Liệu Giản
của tổ Vĩnh Minh Diên Thọ: “Có Thiền, có Tịnh Độ, ví như cọp
đội sừng, đời này làm thầy người.
Đời sau làm Phật, Tổ. Không Thiền, có Tịnh
Độ. Vạn tu, vạn người về, nếu
được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ”.
[7] Trưởng giả Chúc Hương (Utpala-bhūti) là vị thiện tri thức thứ 21
trong 53 vị thiện tri thức được Thiện
Tài đồng tử tham học. Ngài tên là Ưu Bát La Hoa
(hoa sen xanh), có tiệm bán hương ở nước Quảng
Đại, nên được gọi là trưởng giả
Chúc Hương. Vị này dạy Thiện Tài pháp môn Điều
Hòa Nhất Thiết Hương. Do tu môn giải thoát này mà tỵ
căn thanh tịnh.
[8] Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật gồm
mười sáu phép Quán nên còn gọi là Thập Lục Quán
Kinh, nhưng thật sự chỉ có mười ba phép Quán
(quán mặt trời lặn, quán nước đóng thành
băng, quán đất báu, quán cây báu, quán ao báu, quán toàn bộ
y báo, quán tòa hoa sen, quán hình tượng Phật, quán chân thân
của A Di Đà Phật, quán thân tướng Quán Thế Âm
Bồ Tát, quán tưởng thân tướng của Đại
Thế Chí Bồ Tát, quán tưởng chính mình vãng sanh, quán
thân tướng trượng sáu của Phật (đây
chính là phép Quán Tượng như Hòa Thượng Tịnh
Không đã nói), ba phép Quán cuối giảng về ba bậc
chín phẩm vãng sanh, là nói về chánh nhân, phẩm vị và cảnh
tượng vãng sanh.
[9] Phạm Võng Kinh Huyền Nghĩa là một
tác phẩm nhằm giảng về Ngũ Trùng Huyền
Nghĩa của Phạm Võng Kinh Bồ Tát Tâm Địa Phẩm
do Ngẫu Ích đại sư soạn.
[10] Nguyên văn “câu
sanh nhi khởi”. “Câu sanh” có nghĩa là sanh ra đã có, tự
nhiên mà có, giống như con người được
sanh ra thì loại phiền não này cũng sanh theo nên gọi là
“câu sanh”. Xét đến sự
hưng khởi của phiền não thì có hai loại:
1. Phân biệt khởi: Do nghe tà sư, tà
thuyết, hoặc do suy nghĩ xằng bậy, chấp
trước mà khởi phiền não thì gọi là Phân Biệt
Khởi.
2. Câu sanh khởi: Đối trước
trần cảnh tự khởi phiền não, thì gọi Câu
Sanh Khởi.
[11] Đoạn chứng: Đoạn phiền
não, chứng Pháp Thân.
[12] Quyền Giáo Bồ Tát là đối với
Thật Giáo Bồ Tát mà nói. Quyền Giáo là những giáo pháp
quyền biến, nhằm hướng dẫn người
tu từ từ thâm nhập Đại Thừa. Ví dụ
như trong Quyền Giáo, quan niệm có nhân trước, quả
sau, còn Thật Giáo thấy rõ nhân chính là quả, quả chính
là nhân, nhân quả chẳng hai. Nói cách khác, Quyền Giáo
chưa ngộ Chân Như, còn chấp tướng tu trì,
chưa hoàn toàn thấu hiểu Tam Luân Không Tịch.
[13] Khổ hạnh ở đây không có
nghĩa là hành xác như chỉ ngủ ngồi không nằm,
nhịn ăn v.v... mà là “làm được những việc
người khác không thể làm, chịu đựng những
việc người khác không thể chịu”, dứt bỏ
những tập khí quen hưởng thụ sung sướng,
biếng nhác của chính mình, giảm thiểu nhu cầu đến
mức thấp nhất.
[14] [Chú thích của
cư sĩ Lưu Thừa Phù] Trong đoạn văn
trên đây, Hòa Thượng nói phải đoạn tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong thế giới.
Tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc được gọi
là tám mươi tám Sử, liệt kê như sau:
Kiến Hoặc
|
Dục Giới
|
Khổ (tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến,
biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm
thủ kiến)
|
10 Sử
|
32 Sử
|
Tổng cộng
88 Sử
|
Tập (trừ thân kiến, biên kiến,
giới cấm thủ kiến)
|
7 Sử
|
||||
Diệt (giống như trên)
|
7 Sử
|
||||
Đạo (trừ thân kiến, biên kiến)
|
8 Sử
|
||||
Sắc Giới
|
Khổ (trừ sân)
|
9 Sử
|
28 Sử
|
||
Tập (trừ sân, thân kiến, biên kiến,
giới cấm thủ kiến)
|
6 Sử
|
||||
Diệt (giống như trên)
|
6 Sử
|
||||
Đạo (trừ sân, thân kiến, biên
kiến)
|
7 Sử
|
||||
Vô Sắc Giới
|
Khổ (trừ sân)
|
9 Sử
|
28 Sử
|
||
Tập (trừ sân, thân kiến, biên kiến,
giới cấm thủ kiến)
|
6 Sử
|
||||
Diệt (giống như trên)
|
6 Sử
|
||||
Đạo (trừ sân, thân kiến, biên
kiến)
|
7 Sử
|
[15] [Chú thích của cư sĩ Lưu Thừa
Phù]: Trong đoạn văn trên đây nhắc tới Tiểu
Thừa Tu Đà Hoàn, sợ hàng sơ học cảm thấy
bỡ ngỡ, nên ở đây tôi giảng đại lược.
1. Tu Đà Hoàn (Srotāpanna) là thánh nhân Sơ Quả trong Tiểu Thừa,
dịch là Nhập Lưu, hoặc Dự Lưu, tức là
tham dự vào dòng Thánh, ngộ pháp tánh bình đẳng. Còn gọi
là Nghịch Lưu, ngụ ý: Ngược dòng sanh tử, vào
biển thánh trí.
2. Đoạn tám mươi tám Sử
trong tam giới, hết sạch Kiến Hoặc, đắc
pháp nhãn tịnh, thấy lý Chân Không, lại trải qua bảy
lần sanh tử liền nhập Niết Bàn.
3. Vào trong dòng pháp tánh của bậc thánh
nhân, ngược dòng lục trần của phàm phu.
4. Chẳng nhập trong tướng của
hết thảy cảnh giới lục trần Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Do tình thức đã rỗng
không, không còn Ngã, Ngã Sở, nên chẳng vào trong lục trần.
Đã chẳng nhập lục trần nên tuy Tu Đà Hoàn
xưng là Nhập Lưu cũng chẳng tự cảm thấy
mình đã dự vào dòng thánh, chẳng qua giả gọi là Nhập
Lưu mà thôi, nên nói là “vô sở nhập”. Đắc quả
chính là vì vô niệm, hễ khởi niệm sẽ chẳng
đắc quả. Do vậy, kinh Kim Cang chép: “Tu Bồ Đề nói: - Bạch
Thế Tôn, không ạ! Vì cớ sao? Tu Đà Hoàn gọi là Nhập
Lưu, nhưng chẳng có gì để nhập, chẳng nhập
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, nên gọi là Tu
Đà Hoàn”.
[16] Hàm thức (Sattva) còn dịch là Tát Đỏa,
Hữu Tình, Hàm Linh, Hàm Sanh, Bẩm Thức, hoặc Chúng
Sanh, tức là hết thảy những sinh vật có tâm thức.
Từ ngữ này thường được dùng chỉ
cho hết thảy chúng sanh trong lục đạo.
[17] Trong chữ “tuyệt đãi”, đãi là “đối
đãi”, tức là thấy có hai bên, có tương đối.
Hễ thấy Có thì phải thấy Không, thấy Khổ
thì sẽ thấy Lạc. “Đối đãi” còn được
gọi bằng danh xưng “nhị biên”. Gọi là tuyệt
đãi viên dung vì không còn thấy có nhị biên, nhưng
cũng chẳng thấy là chính mình không thấy còn có đối
đãi.
[18] Ngũ Thừa: Có nhiều cách hiểu
như sau:
1. Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn
Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa (quan điểm
này được đề xướng bởi Pháp Hoa Huyền
Luận và được dùng phổ biến nhất trong
phán giáo).
2. Ngũ Thừa là Thiên Thừa (pháp sanh
trong Dục Giới), Phạm Thừa (tức những giáo
pháp tu lên cõi Sắc và Vô Sắc), Thanh Văn Thừa, Duyên
Giác Thừa và Phật Thừa. Đây là quan điểm của
Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh.
3. Ngũ Thừa là Nhất Thừa, Bồ
Tát Thừa, Duyên Giác Thừa, Thanh Văn Thừa, Tiểu Thừa
(Tiểu Thừa ở đây có nghĩa là nhân thiên thừa).
Đây là quan điểm của riêng Hoa Nghiêm Tông.
4. Ngũ Thừa là Thanh Văn Thừa,
Độc Giác Thừa, Vô Thượng Thừa, Chủng Chủng
Thừa và Nhân Thiên Thừa. Đây là thuyết được
giảng trong Xưng Tán Đại Thừa Công Đức
Kinh.
5. Theo Chân Ngôn Tông, Ngũ Thừa là Nhân Thừa,
Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ
Tát Thừa (gần giống quan điểm thứ nhất,
nhưng Chân Ngôn Tông phối hợp mỗi thừa với một
Đại, chẳng hạn Nhân Thừa là Địa Đại).
6. Tông Thiên Thai phán định Ngũ Thừa
là Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Duyên Giác Thừa, Bồ
Tát Thừa và Phật Thừa (tức là gộp chung Thanh
Văn và Duyên Giác thành một thừa).
Như vậy, Bồ Tát Thừa
được nói ở đây chỉ có thể hiểu
theo cách thứ nhất hoặc cách thứ sáu.
[19] A Già Đà (Agada), còn dịch là Phổ Khử,
Vô Giá, Vô Bệnh, Bất Tử Dược, còn phiên âm là A Kiệt
Đà hoặc A Yết Đà, những từ ngữ này
đều có nghĩa là thuốc trị chung hết mọi
căn bệnh.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment