"Do vậy, học Phật
trong hết thảy thời, trong hết thảy chỗ, trong
hết thảy cảnh duyên, chẳng sanh một niệm,
chỉ dùng một câu A Di Đà Phật, dùng nhất niệm
để dứt hết thảy vọng niệm..."
Phần
4
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập dịch kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí
Húc chú giải vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng
thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù
ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Phật Đà
Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
(Giải)
Thường Tịch Quang độ, phần chứng giả
uế, cứu cánh mãn chứng giả tịnh. Kim vân Cực
Lạc thế giới, chánh chỉ Đồng Cư Tịnh
Độ, diệc tức hoành cụ thượng tam Tịnh
Độ dã. “Hữu Phật hiệu A Di Đà”, tự
chánh báo giáo chủ chi danh dã, phiên dịch như hạ quảng
thích. Phật hữu tam thân, các luận đơn, phức.
Pháp Thân đơn, chỉ sở chứng Lý tánh. Báo Thân
đơn, chỉ năng chứng công đức trí huệ.
Hóa Thân đơn, chỉ sở hiện tướng hảo
sắc tượng. Pháp Thân phức giả, Tự Tánh Thanh
Tịnh Pháp Thân, Ly Cấu Diệu Cực
Pháp Thân. Báo Thân phức giả, Tự Thụ Dụng Báo
Thân, Tha Thụ Dụng Báo Thân. Hóa Thân phức giả,
Thị Sanh Hóa Thân, Ứng Hiện Hóa Thân. Hựu, Phật
Giới Hóa Thân, Tùy Loại Hóa Thân. Tuy biện đơn phức
tam thân, thực phi nhất, phi tam, nhi tam, nhi nhất. Bất
tung hoành, bất tịnh biệt, ly quá, tuyệt phi, bất
khả tư nghị. Kim vân A Di Đà Phật, chánh chỉ
Đồng Cư độ trung Thị Sanh Hóa Thân. Nhưng
phức tức Báo, tức Pháp dã. Phục thứ, thế giới
cập Phật, giai ngôn “hữu” giả, cụ tứ
nghĩa, đích tiêu thực cảnh, linh hân cầu cố.
Thành ngữ chỉ thị, linh chuyên nhất cố. Giản
phi Càn thành, dương diễm, phi quyền hiện khúc thị,
phi duyên ảnh hư vọng, phi bảo chân thiên đản,
phá ma, tà, quyền, tiểu cố, viên chương tánh cụ,
linh thâm chứng cố.
(解) 常寂光土。分證者穢。究竟滿證者淨。今云極樂世界。正指同居淨土。
亦即橫具上三淨土也。有佛號阿彌陀。序正報教主之名也。翻譯如下廣釋。佛有三身。各論單複。法身單。指所證理性。報身單。指能證功德智慧。化身單。指所現
相好色像。法身複者。自性清淨法身。離垢妙極法身。報身複者。自受用報身。他受用報身。化身複者。示生化身。應現化身。又。佛界化身。隨類化身。雖辨單複
三身。實非一非三。而三而一。不縱橫。不並別。離過絕非。不可思議。今云阿彌陀佛。正指同居土中。示生化身。仍復即報即法也。復次。世界及佛。皆言有者。
具四義。的標實境。令欣求故。誠語指示。令專一故。簡非乾城陽燄。非權現曲示。非緣影虛妄。非保真偏但。破魔邪權小故。圓彰性具。令深證故。
(Giải: Thường Tịch Quang độ, phần chứng
là uế, rốt ráo chứng viên mãn là tịnh. “Thế giới
Cực Lạc” đang được nói ở đây chính
là nói về Đồng Cư Tịnh Độ, mà cũng là
cõi Tịnh Độ theo chiều ngang có đủ cả
ba cõi Tịnh Độ trên. Câu “có Phật hiệu là A Di
Đà” nhằm nêu ra danh hiệu của vị giáo chủ
trong chánh báo, sẽ được giải thích rộng rãi trong
tiểu đoạn giảng về sự phiên dịch [danh
hiệu vị Phật này] trong phần sau. Phật có ba
thân, với mỗi thân đều luận thân đơn và
thân kép. Pháp Thân đơn chỉ cho Lý tánh được chứng,
Báo Thân đơn chỉ trí huệ, công đức có công năng chứng [Lý tánh ấy], Hóa Thân
đơn chỉ các hình tượng, tướng hảo
đã được hiện [bởi chân tâm]. Pháp Thân kép gồm
Tự Tánh Thanh Tịnh Pháp Thân và Ly Cấu Diệu Cực
Pháp Thân. Báo Thân kép gồm Tự Thụ Dụng Báo Thân và Tha
Thụ Dụng Báo Thân. Hóa Thân kép gồm Thị Sanh Hóa Thân
và Ứng Hiện Hóa Thân. Lại còn có Phật Giới
Hóa Thân và Tùy Loại Hóa Thân. Tuy phân biệt ba thân đơn
và kép, nhưng thật ra, chúng chẳng phải một, chẳng
phải ba, nhưng là ba, là một, chẳng dọc ngang, chẳng
cùng tồn tại hay sai khác, lìa lỗi, dứt sai, chẳng
thể nghĩ bàn. Nay nói A Di Đà Phật chính là nói về
Thị Sanh Hóa thân của A Di Đà Phật trong cõi Đồng
Cư, nhưng thân phức cũng chính là Pháp Thân, cũng chính
là Báo Thân. Lại nữa, [trong chánh kinh, đối với]
thế giới và Phật đều nói là “có”. [Hai chữ
Có ấy] gồm đủ bốn nghĩa (Tứ Tất
Đàn):
- Nêu ra cảnh thật khiến [cho
người nghe] vui thích, mong cầu.
- Lời thành thật chỉ bày khiến
cho [người nghe] chuyên nhất.
- Nhằm phân biệt
rõ ràng [cõi Cực Lạc] chẳng phải là thành Càn
Thát Bà, hay là bóng nước gợn khi trời nắng gắt,
chẳng phải là quyền biến thị hiện hay nói
phương tiện nhằm thuận theo căn tánh, chẳng
phải là bóng dáng hư vọng của các duyên, chẳng phải
là khư khư giữ lấy thiên chân Niết Bàn, phá dẹp
ma, tà, quyền, tiểu.
- Phô bày trọn vẹn tánh vốn trọn đủ,
nhằm làm cho [người nghe] chứng nhập sâu xa).
“Cõi Thường Tịch Quang”:
Các kinh Đại Thừa thường nói Thường Tịch
Quang Tịnh Độ là cảnh giới nơi quả
địa Như Lai. Theo cách nói của tông Thiên Thai thì Tạng
Giáo và Thông Giáo chỉ đoạn Kiến Tư phiền
não, chưa phá vô minh, đương nhiên không tính tới.
Thành Phật trong Biệt Giáo sẽ chứng nhập cõi
Thường Tịch Quang; nhưng nếu so sánh giữa Biệt
Giáo và Viên Giáo thì hàng Sơ Địa trong Biệt Giáo phá một
phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân, được
gọi là Pháp Thân đại sĩ, trên [địa vị] Thập
Địa Bồ Tát lại có thêm địa vị Đẳng
Giác, phá mười một phẩm vô minh [liền chứng địa
vị] Diệu Giác tức là thành Phật. [Như vậy]
thành Phật [trong Biệt Giáo] là phá cả mười hai phẩm
vô minh[1].
[Thế nhưng] vô minh có tất cả
bốn mươi hai phẩm, [vị Bồ Tát thành Phật
trong Biệt Giáo] chỉ mới phá được mười
hai phẩm, vẫn còn ba mươi phẩm [vô minh] chưa
phá. Đấy là quả vị Phật trong Biệt
Giáo. Cảnh giới được chứng bởi vị
ấy là uế độ của cõi Thường Tịch
Quang. [Đức Phật trong] Viên Giáo đã phá sạch bốn
mươi hai phẩm vô minh, viên mãn chứng đắc Phật
quả; cảnh giới của vị ấy là Thường
Tịch Quang Tịnh Độ.
Pháp môn Tịnh Độ hết sức đặc
biệt, lạ lùng, dẫu là kẻ đới nghiệp
vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng có thể
hưởng thụ cảnh giới Thường Tịch
Quang độ, các kinh, luận, pháp môn khác đều không
có chuyện này! Bởi lẽ, bọn phàm phu chúng ta trong một
đời chẳng thể nào chứng đắc ba cõi phía
trên (tức Thường Tịch Quang, Phương Tiện
Hữu Dư và Thật Báo Trang Nghiêm). Chúng ta muốn đoạn
phiền não quả thật chẳng dễ dàng. Dẫu
đoạn được Kiến Tư phiền não thì bất
quá cũng chỉ là địa vị A La Hán trong Tiểu Thừa
hay địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Nếu
muốn sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư, trong một
đời khó thể nào đạt được. Đối
với cõi Thật Báo và cõi Tịch Quang, khỏi cần phải
nhắc tới nữa! Riêng cõi Phàm Thánh Đồng Cư,
chỉ cần có thể chế phục phiền não là
được, chế phục dễ hơn đoạn trừ.
Nhưng chế phục phiền não cũng cần phải dụng
công, phiền não tuy có, nhưng giữ sao cho nó chẳng khởi
tác dụng. Theo đường lối thông thường thì
dùng Định, Định có thể chế phục phiền
não. Pháp môn Tịnh Tông thì dùng một câu Phật hiệu để
chế phục [phiền não], so với Thiền Định
dễ dàng hơn nhiều. Niệm Phật chỉ cần “nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối” là được. Chánh niệm
là một câu Phật hiệu, cổ đức thường
nói: “Buông xuống vạn duyên,
đề khởi chánh niệm”. Trừ một câu Phật
hiệu ra, tất cả hết thảy ý niệm đều
là vọng tưởng, không có gì là chân thật. Kinh Kim Cang dạy:
“Hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Pháp hữu vi bao gồm
hết thảy ý niệm, kiến giải, tư tưởng
của chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể sanh về cõi Phàm Thánh
Đồng Cư, chứ không thể lên cao hơn, nhưng
cả ba cõi trên đều có thể thụ dụng
được, thật là chẳng thể nghĩ bàn. Trong
các thế giới chư Phật khác, ắt phải đoạn
Kiến Tư phiền não thì mới có thể hưởng
thụ cõi Phương Tiện, phá một phần vô minh thì
mới có thể thụ dụng cõi Thật Báo, nhất
định phải dựa vào công phu [của chính mình].
Kinh dạy: Sanh về Tây Phương sẽ
cùng ở một chỗ với các vị thượng thiện
nhân; nếu chẳng thể đồng thời hưởng
thụ cảnh giới của ba cõi trên thì làm sao có thể
thấy được các vị thượng thiện
nhân? Thế giới Sa Bà của chúng ta cũng là cõi Phàm Thánh
Đồng Cư, nhưng chúng ta không thấy A La Hán, Bồ
Tát, càng chẳng thể thấy Văn Thù, Phổ Hiền,
Quán Âm, Thế Chí. Ở Tây Phương, hằng ngày gặp
gỡ các Ngài, vì có chuyện này nên trong kinh Vô Lượng Thọ
đức Phật đã dạy, A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung
chi vương” (quang minh tôn quý nhất, là vua trong các Phật).
Đọc đến chỗ này liền hiểu rõ: Do tín
nguyện trì danh, ắt sẽ đạt được
công đức và lợi ích thù thắng như trong kinh
đã dạy.
Phật có ba thân là Pháp Thân, Báo Thân và Ứng Hóa
Thân. Pháp Thân là Lý, Báo Thân và Hóa Thân là Sự. Lý là chủ thể
có công năng biến hiện (Năng Biến), Sự là cái
được biến hiện (Sở Biến). Lý chính là
Chân Như bổn tánh như trong kinh đã nói. Kinh Hoa Nghiêm
nói tới Nhất Chân pháp giới, lại nói “bất khả tư nghị giải
thoát cảnh giới” (cảnh giới giải thoát chẳng
thể nghĩ bàn) đều là nói về sự việc
này. Những danh từ, thuật ngữ đồng
nghĩa với Nhất Chân pháp giới nhiều đến
mấy chục thứ. Vì sao lại nói ra nhiều danh từ?
Nhằm mục đích khiến cho chúng ta đừng chấp
trước danh tướng, khiến cho chúng ta lìa khỏi
tướng danh tự, lìa tướng ngôn thuyết, lìa
tướng tâm duyên, thì mới có thể thật sự thấu
hiểu chân tướng của nó. “Bản thể của vũ
trụ vạn hữu” như các nhà triết học đã nói
chính là Pháp Thân. Báo Thân là trí huệ. Báo Thân là trí có khả
năng chứng đắc (năng chứng trí), Pháp Thân là
Lý được chứng (sở chứng lý) [bởi cái
trí ấy]. Lý và Trí là một, chẳng phải hai. Trong triết
học, Năng và Sở đối lập với nhau,
nhưng Phật pháp nói trí năng chứng và lý sở chứng
là một, chẳng thể tách rời. Hóa Thân còn gọi là Ứng
Thân nhằm lợi ích chúng sanh, nên dùng thân nào để
độ được bèn hiện thân ấy để
thuyết pháp. Chư Phật, Bồ Tát ứng hiện tùy
theo từng loại chúng sanh. Tam thân của chư Phật,
Bồ Tát rõ ràng, tam thân của chúng ta chẳng rõ ràng, vì tâm của
chúng ta bị vọng tưởng, chấp trước, thất
tình, ngũ dục mê hoặc. Sự giáo học của
đức Phật chỉ nhằm phá mê, khai ngộ. Hễ
ngộ sẽ liền chứng đắc Pháp Thân. Cái thân hiện
thời của chúng ta là thân nghiệp báo, thuận theo nghiệp
mà hứng chịu quả báo. Luân hồi trong lục đạo
là vì chính mình mê mất tự tánh, do tạo nghiệp thiện
hay ác mà biến hiện ra. Làm thế nào để khôi phục
tam thân, làm thế nào mới thụ dụng được
tam thân, đấy chính là những chủ đề dạy
dỗ chánh yếu của đức Phật.
Từ ngữ “Pháp
Thân đơn” chỉ Lý tánh được chứng. Lý
và Sự là một, Tánh và Tướng là một. Đấy
là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, mà cũng
chính là Pháp Thân. “Báo Thân
đơn” chính là công đức trí
huệ có công năng chứng được Lý Tánh. Hiểu
minh bạch, đích xác chân tướng của nhân sinh và
vũ trụ thì gọi là trí huệ, đấy là Báo Thân. “Hóa Thân đơn” chỉ
tướng hảo, sắc tướng được biến
hiện. Đấy là Tha Thụ Dụng. Vì sao có sanh, lão, bệnh,
tử? Là vì chúng ta có tự thụ dụng, tức là chính
mình mong cầu hưởng thụ. Chư Phật, Bồ
Tát chẳng tự thụ dụng, thân cũng không có tướng,
những tướng ấy nhằm để cho người
khác hưởng dùng (tha thụ dụng). Vì thế, các Ngài
không có sanh, lão, bệnh, tử. Phật pháp dạy Vô Ngã,
đối với chính mình thì nói là không có Ngã, nhưng
đối với người khác thì nói có Ngã. Có Ngã là để
cho người khác thụ dụng, [Ngã] là công cụ để
giáo hóa chúng sanh giác ngộ. Vì vậy, thân của chư Phật,
Bồ Tát tùy theo sự cảm ứng của chúng sanh mà hiện.
[Kinh điển kể ra] ba mươi hai ứng thân của
Quán Âm Bồ Tát [thì ba mươi hai ứng thân ấy] là những
loại tổng quát, hoàn toàn là vô tâm, mà cũng là vô niệm,
nên mới có thể cảm ứng. Như gõ chuông, gõ mạnh,
chuông ngân to; gõ nhẹ, chuông ngân nhỏ. Đức Phật
thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, giảng
kinh hơn ba trăm hội, đều là hễ hỏi liền
đáp, chẳng phải suy nghĩ. Do vậy, học Phật
trong hết thảy thời, trong hết thảy chỗ, trong
hết thảy cảnh duyên, chẳng sanh một niệm,
chỉ dùng một câu A Di Đà Phật, dùng nhất niệm
để dứt hết thảy vọng niệm. Pháp môn này
hay khéo, dễ dàng, [bởi lẽ], một niệm dễ tu
hơn vô niệm rất nhiều. Trong quá khứ, ta thấy
phương pháp tiếp dẫn chúng sanh của nhiều vị
đại đức là sử dụng thân giáo (dùng hành vi, ứng
xử nơi thân để giáo hóa), không dùng tới ngôn ngữ.
Có khi dùng ngôn giáo (dạy dỗ bằng lời nói) nhằm
giải nói tường tận. Tùy căn tánh và hoàn cảnh
khác biệt của từng người mà đều có thể
khiến cho chúng sanh được lợi ích. Pháp môn vô lượng
vô biên, nhưng mục tiêu chỉ có một, tuy khác
đường nhưng cùng về một nơi!
“Pháp Thân phức”:
Loại thứ nhất là Tự Tánh Thanh Tịnh Pháp Thân.
Thân này chỉ về bản
thể, cũng chính là Pháp Thân đơn, mọi người
chúng ta ai nấy đều có. Loại thứ hai là Ly Cấu
Diệu Cực Pháp Thân. Nói theo phương diện sự
tướng, “Cấu” (垢) là vô minh phiền não. Cũng xét theo quả vị
Như Lai trong Viên Giáo, bốn mươi mốt phẩm vô
minh đều đoạn sạch thì gọi là Ly Cấu Diệu
Cực Pháp Thân. Do Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phần
sanh tướng vô minh chưa phá nên chẳng
thể xưng là Diệu Cực. Khi thành Phật bèn có Diệu
Cực Pháp Thân, từ Bồ Tát trở xuống đều
không có.
“Báo
Thân phức” chia thành Tự Thụ Dụng Báo Thân và Tha
Thụ Dụng Báo Thân. Kinh Bát Nhã gọi Thật Trí là Tự
Thụ Dụng Báo Thân. Kinh Bát Nhã nói “Bát Nhã vô tri”, Tự Thụ Dụng là vô tri. Phật
vì chúng sanh thuyết pháp bèn sử dụng Quyền Trí, [còn
trí để] chính Phật tự
thọ dụng là Thật Trí. Phật là “nói mà không nói, không nói mà nói”. Tâm Phật thật sự
thanh tịnh.
“Hóa Thân phức”
chia thành Thị Sanh Hóa Thân và Ứng Hiện Hóa Thân. Thị
Sanh Hóa Thân (thân thị hiện cho chúng sanh) là như Phật
trụ trong thế gian, [thị hiện có thân hình] giống
hệt như người đời, giảng kinh, thuyết
pháp, tám mươi tuổi viên tịch. Ứng Hiện Hóa
Thân là thân cảm ứng xuất hiện khi cần thiết.
Trong quá khứ, trước thời Kháng Chiến[2],
vợ của tiên sinh Châu Bang Đạo sang Nam Kinh sống,
đã gặp Địa Tạng Vương Bồ Tát hóa
duyên. Đấy chính là Ứng Hiện Hóa Thân của Bồ
Tát. Họ Châu nhà cửa rất to, có ba lớp cửa. Một
hôm, có một vị xuất gia đến nhà họ, hướng
về Châu phu nhân hóa duyên, xin bà phát tâm cúng dường
năm cân dầu thơm. Thuở ấy, Châu phu nhân còn
chưa học Phật, chưa hề gật đầu
ưng chịu, tiếp đãi hời hợt khiến vị
xuất gia ấy bỏ đi. Sau đấy, Châu phu nhân
nghĩ lại, nhà ta có ba lớp cửa, đều chưa
mở khóa, làm sao vị xuất gia này lại bước
vào được, thật chẳng hiểu nổi! Về
sau, đến Đài Loan đem chuyện ấy hỏi thầy
Lý. Thầy Lý nói: “Vị xuất gia ấy chính là Địa
Tạng Bồ Tát”. Vợ chồng Châu tiên sinh nghe xong hết
sức hối tiếc.
“Phật Giới
Hóa Thân, Tùy Loại Hóa Thân”. Loại này (Phật Giới
Hóa Thân) chỉ riêng cho sự thị hiện dưới thân
tướng Phật, [tức là thân có] ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo, còn các thân thị hiện khác
chính là Tùy Loại Hóa Thân (hóa thân theo từng loài chúng sanh). “Tuy biện đơn phức tam
thân, thực phi nhất, phi tam, nhi tam, nhi nhất, bất
tung hoành, bất tịnh biệt, ly quá, tuyệt phi, bất
khả tư nghị” (Tuy phân biệt ba thân đơn và
kép, nhưng thật ra chẳng phải ba, chẳng phải
một, mà là ba, là một, chẳng dọc ngang, chẳng
cùng tồn tại hay sai khác, dứt lỗi, tuyệt sai, chẳng
thể nghĩ bàn). Đại sư [viết những lời
này vì] sợ chúng ta nghe xong bèn chấp trước [vào danh
tướng của ba thân] thì hỏng mất. Nói theo mặt
Lý thì có Thể, Tướng, Dụng, luận theo Phật
Giới thì có ba thân, nhưng ba món này viên dung, chẳng phân biệt
là theo chiều dọc (thời gian) hay chiều ngang (không
gian), cũng chẳng sai biệt. Nếu chấp trước
sẽ sai lầm. Nếu thuyết pháp và nghe pháp đều
hiểu nguyên tắc và nguyên lý này, sẽ chẳng khởi
tâm, chẳng động niệm, không phân biệt, không chấp
trước. Người thuyết pháp nói pháp thanh tịnh,
người nghe pháp chẳng chấp trước ngôn ngữ,
danh tướng. Chẳng khởi lên phân biệt và chấp
trước thì người nghe và kẻ nói đều có giác,
có ngộ.
A Di Đà
Phật được nói trong kinh này rốt cuộc thuộc
loại thân nào vậy? A Di Đà Phật trong cõi Phàm Thánh
Đồng Cư chính là Thị Sanh Hóa Thân. Ba ngàn năm
trước, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế
gian cũng là Thị Sanh Hóa Thân. Tuy cùng là Thị Sanh Hóa Thân,
nhưng tinh thần hoàn toàn khác nhau. Phật Thích Ca thị
hiện giáng sanh có đôi chút ý nghĩa “tùy duyên”. Đức
Phật xuất hiện trong thế gian, thuở ấy,
người thế gian thọ một trăm tuổi, đức
Phật tám mươi tuổi bèn viên tịch. Thứ nhất
là vì hóa duyên (duyên hóa độ) đã hết. Thứ hai là
vì Ma Vương Ba Tuần khải thỉnh, hắn bạch
Phật: “Ngài hóa độ chúng sanh đã nhiều lắm rồi,
hãy nên nhập Niết Bàn”. Phật nhận lời hắn
cũng là vì tùy thuận duyên thế gian.
A Di Đà
Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới
là Thị Sanh Hóa Thân, Ngài sáng tạo thế giới Cực
Lạc do nguyện vọng của hết thảy chúng sanh
trong tột cùng hư không trọn khắp pháp giới cảm
ứng, nên thân tướng và cõi nước đều là
Thị Sanh Hóa Thân, khác hẳn với cách thức hóa độ
chúng sanh của hết thảy chư Phật, hết sức
đặc biệt, thù thắng. Nhưng xét theo Hóa Thân ấy
để nói, thì nó cũng là Báo Thân, mà cũng là Pháp Thân, một
chính là ba, ba chính là một. Vì thọ mạng quá dài, dẫu
trong tương lai khi hóa duyên đã hết, Phật sẽ
nhập Niết Bàn, Quán Thế Âm Bồ Tát liền thành Phật
để nối ngôi trong thế giới Cực Lạc,
nhưng chuyện ấy xảy ra khi nào, không ai có thể
tính ra được! Trong phần trước, tôi đã
nói tường tận [điều này]. Chúng ta vãng sanh Tây
Phương, thọ mạng, trí huệ, thần thông, đức
năng đều giống như A Di Đà Phật, ai nấy
đều có phần. Nếu hiểu rõ sự thật này
thì mới biết niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ
là một đại sự bậc nhất trong đời
người, những thứ khác hoàn toàn là giả!
“Phục thứ, thế
giới cập Phật, giai ngôn hữu giả” (Lại
nữa, [trong chánh kinh, đối với] thế giới và
Phật, đều nói là “có”). Hai chữ “hữu” (tức hai chữ “hữu” trong câu “hữu
thế giới danh viết Cực Lạc” và “hữu Phật hiệu A Di
Đà”) này hết sức quan trọng. “Cụ tứ nghĩa” (có đủ bốn
nghĩa): [Bốn nghĩa ấy] chính là Tứ Tất
Đàn.
1) Thứ nhất, Thế Giới Tất
Đàn: Phật thí pháp cho hết thảy chúng sanh, “đích tiêu thật cảnh, linh
hân cầu cố” (nêu đích xác cảnh thật, khiến
cho chúng sanh ưa thích, mong cầu). Cực Lạc là có thật,
A Di Đà Phật cũng có thật, khiến cho tâm chúng sanh
hâm mộ, hướng về.
2) Thứ hai, Vị Nhân Tất Đàn: “Thành ngữ chỉ thị, linh
chuyên nhất cố” (lời thành thật chỉ dạy,
khiến cho chúng sanh chuyên nhất). Phật dùng lời nói
chân thành, chỉ dạy chúng ta tín, nguyện, trì danh, cầu
sanh Tịnh Độ, tin vào bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật, nguyện nào cũng thực tiễn,
giúp chúng sanh vãng sanh Tịnh Độ, viên thành Phật
đạo. Tin tưởng những lời tán thán A Di
Đà Phật của hết thảy chư Phật trong
mười phương thế giới câu nào cũng chân
thành, khiến cho chúng ta sanh khởi tín tâm chân thật, chuyên
học pháp môn này. Trong một đời này, nhất định
thành tựu viên mãn, được lợi ích vãng sanh.
3) Thứ ba, Đối Trị Tất Đàn:
Đại sư nói: “Giản
phi Càn thành, dương diệm, phi quyền hiện khúc thị,
phi duyên ảnh hư vọng, phi bảo chân thiên đản,
phá ma, tà, quyền, tiểu cố” (nhằm
phân biệt rõ ràng [cõi Cực Lạc] chẳng phải
là thành Càn Thát Bà[3],
là bóng nước gợn khi trời nắng gắt, chẳng phải là quyền
biến thị hiện hay nói phương tiện nhằm
thuận theo căn tánh, chẳng phải là bóng dáng hư vọng
của các duyên, chẳng phải là khư khư giữ lấy
thiên chân, phá dẹp ma, tà, quyền, tiểu). Đoạn
văn này nói Tây Phương Cực Lạc thế giới
và A Di Đà Phật chẳng phải là thành Càn Thát Bà. Thành
Càn Thát Bà là huyễn hóa. “Dương
diệm” cũng chẳng phải là thật, giống
như “dã mã” (ngựa hoang) do
Trang Tử đã nói (Chuyện “dã
mã” xin đọc thiên Tiêu Dao trong sách Trang Tử, ý nói: Mây
trôi trên không trung có hình giống như ngựa hoang, hư
huyễn, chẳng thật). Tại Đại Lục, trên
bình nguyên phương Bắc, hơi đất bốc lên
trông xa như có nước, đến gần chẳng có,
những con nai khát nước rảo chạy đến uống,
rốt cuộc tìm không ra. Câu “phi
quyền hiện khúc thị” (chẳng phải là quyền
biến thị hiện hay nói phương tiện nhằm
thuận theo căn tánh) chính là lời phản bác Lý Trưởng
Giả (Lý Thông Huyền). Lý Trưởng Giả là người
thời Đường, là một vị đại đức
lỗi lạc. Kinh Hoa Nghiêm từ xưa tới nay chỉ
có hai bản chú giải nổi danh nhất, một là bộ
Hoa Nghiêm Sớ Sao của Thanh Lương đại sư,
bộ kia là Hoa Nghiêm Hợp Luận của Lý Trưởng
Giả. Trong bộ Hoa Nghiêm Hợp Luận, Lý Trưởng
Giả cho rằng Tây Phương Cực Lạc thế giới
là quyền biến thị hiện, tức là A Di Đà Phật
nhằm tạo phương tiện tiếp dẫn chúng
sanh nên bày ra [cõi ấy]. Ở chỗ này, Ngẫu Ích đại
sư phản bác cách nói của Lý Trưởng Giả, nên mới
nói “phi quyền hiện khúc thị”.
Hàng Bồ Tát hiểu lầm thế giới Tây
Phương rất nhiều, Lý Trưởng Giả nói mấy
câu nói ấy có gì lạ đâu! Tây Phương thế giới
chỉ có chư Phật mới có thể hiểu thấu rốt
ráo. “Duyên ảnh”: Chúng sanh ngỡ
bóng dáng biến hiện của các duyên Lục Trần [trong
tâm thức] là cái tâm của chính mình, đó cũng là hư vọng.
Ngoài ra, từ ngữ “bảo
chân thiên đản” chỉ bậc Tiểu Thừa chứng
đắc Thiên Chân Niết Bàn. Đức Thế Tôn nói Niết
Bàn của Tiểu Thừa giống như trạm nghỉ
giữa đường, chưa phải là mục tiêu rốt
ráo. Đây là đả phá những kiến
giải sai lầm của ma, tà, quyền giáo, Tiểu Thừa
đối với Tịnh Tông.
4) Thứ
tư, Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn: Đại
sư nói: “Viên chương tánh
cụ, linh thâm chứng cố” (phô bày trọn vẹn
tánh vốn trọn đủ nhằm làm cho [người
nghe] chứng nhập sâu xa) nhằm dạy cho chúng ta biết
lợi ích do chứng quả. “Viên”
là viên mãn, “chương” (彰) là phơi bày rõ ràng, chẳng có mảy may ẩn giấu
nào. “Tánh cụ” là nói rõ y báo
và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương thế giới vốn
đều có sẵn trong tự tánh, chẳng phải là pháp
ở ngoài tâm, hoàn toàn phù hợp với những điều
đã được nói trong kinh luận Đại Thừa
Viên Giáo, quả thật có căn cứ lý luận, khiến
cho chúng ta tin sâu, chẳng nghi. Chính vì tánh ta và người sẵn
đủ [y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc
thế giới], khiến cho chúng ta càng thêm tin tưởng
sâu xa chính mình nhất định sẽ có thể vãng sanh chứng
quả. Nếu vẫn còn nghi ngờ, ắt sẽ tạo
thành chướng ngại lớn nhất cho việc vãng
sanh Tịnh Độ. Vì sao Ngẫu Ích đại sư viết
Di Đà Yếu Giải, vì sao Liên Trì đại sư viết
Di Đà Sớ Sao? Dụng tâm của các Ngài đều nhằm
đoạn nghi sanh tín cho chúng ta.
(Giải)
“Kim hiện tại thuyết pháp” giả, giản thượng
y, chánh nhị hữu, phi quá khứ dĩ diệt, vị
lai vị thành. Chánh ưng phát nguyện vãng sanh, thân cận
thính pháp, tốc thành Chánh Giác dã. Phục thứ, nhị hữu
hiện tại, khuyến tín tự dã. “Thế giới danh
Cực Lạc”, khuyến nguyện tự dã. “Phật hiệu
A Di Đà”, khuyến trì danh diệu hạnh tự dã. Phục
thứ, A Di tự Phật, “thuyết pháp” tự Pháp. Hiện
tại hải hội tự Tăng. Phật, Pháp, Tăng
đồng nhất Thật Tướng, tự Thể.
Tùng thử, khởi Tín Nguyện Hạnh, tự Tông. Tín Nguyện
Hạnh thành, tất đắc vãng sanh, kiến Phật
văn pháp, tự Dụng. Duy nhất Phật giới vi sở
duyên cảnh, bất tạp dư sự, tự Giáo Tướng
dã. Ngôn lược,
ý châu hỹ. Sơ, Tự Phần cánh.
(解) 今現在說法者。簡上依正二有。非過去已
滅。未來未成。正應發願往生。親覲聽法。速成正覺也。復次。二有現在。勸信序也。世界名極樂。勸願序也。佛號阿彌陀。勸持名妙行序也。復次。阿彌序佛。說
法序法。現在海會序僧。佛法僧同一實相。序體。從此起信願行。序宗。信願行成。必得往生。見佛聞法。序用。唯一佛界為所緣境。不雜餘事。序教相也。言略意
周矣。初序分竟。
(Giải: “Nay hiện đang thuyết pháp” nhằm phân định
trong hai thứ y báo và chánh báo đã có như đã nói trong phần
trên, chẳng phải là trong quá khứ, đã diệt, chẳng
phải là trong vị lai còn chưa thành, đúng là [người
nghe kinh] rất nên phát nguyện vãng sanh hòng thân cận, nghe
pháp, mau thành Chánh Giác. Lại nữa, hai chữ Hữu và chữ
“hiện tại” chính là phần Tựa nhằm khuyến
tín. “Thế giới tên là Cực Lạc” là phần Tựa khuyên
hãy nên phát nguyện. “Phật hiệu A Di Đà”, chính là phần
Tựa nhằm khuyên [thực hành] diệu hạnh Trì Danh. Lại
nữa, A Di Đà là lời Tựa giới thiệu Phật,
chữ “thuyết pháp” là lời Tựa giới thiệu
Pháp, hiện tại hải hội là lời Tựa giới
thiệu Tăng. Phật, Pháp, Tăng cùng một Thật
Tướng, đó là lời Tựa nói về Thể. Từ
đây, khởi lòng tin, phát nguyện, hành trì, là lời Tựa
nói về Tông. Tín - Nguyện - Hạnh thành tựu, ắt
được vãng sanh, thấy Phật nghe pháp, là lời Tựa
nói về Dụng. Chỉ dùng một Phật giới dùng
để làm cảnh sở duyên, chẳng xen tạp các sự
khác, là lời Tựa nói về Giáo Tướng. Lời lẽ
vắn tắt, nhưng ý trọn đủ. Phần thứ
nhất là Tự Phần đã giảng xong[4]).
Đoạn
văn chú giải này chỉ rõ tình hình của Phật và
đại chúng ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới là như thế nào. Chữ “kim” chỉ đời này, chứ không phải là
quá khứ hay vị lai. Đức Phật quán sát căn
cơ của chúng sanh trong thế gian, nói Nhĩ Căn của
chúng ta nhạy bén nhất. Trong hội Lăng Nghiêm, Văn
Thù Bồ Tát chọn lựa pháp Viên Thông, đã nói: “Thử phương chân giáo thể,
thanh tịnh tại âm văn” (Giáo thể chân thật của
phương này, thanh tịnh ở nơi nghe tiếng).
Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay chưa hề
có khả năng vượt thoát luân hồi lục đạo.
Nhĩ Căn của chúng sanh trong thế giới Sa Bà nhạy
bén nhất; do vậy, trong bốn mươi chín năm,
đức Phật luôn dùng âm thanh để giảng kinh,
thuyết pháp. Chúng sanh sanh về Tây Phương, tập khí
vẫn còn, nên A Di Đà Phật cũng thuyết pháp để
giáo hóa chúng sanh. Trong các kinh Đại Thừa nói mười
phương chúng sanh căn tánh bất đồng, có nơi
nhãn căn nhạy bén, cũng có nơi thiệt căn nhạy
bén, như trong nước Hương Tích[5]
dùng cơm thơm để làm Phật sự. Trong Tây
Phương thế giới, sáu trần thuyết pháp, bất
cứ căn tánh nào cũng đều có thể đạt
được lợi ích.
Nhà Phật
thường nói: “Thân người
khó được, Phật pháp khó nghe”. Trong sáu đường,
tuổi thọ con người chẳng dài, tuổi thọ
của chư thiên lâu dài. Tầng trời thứ nhất là
Tứ Vương Thiên. Một ngày trên Tứ Vương
Thiên là năm chục năm nhân gian, thọ mạng của
cõi trời này là năm trăm năm. Tính toán như vậy
thì thọ mạng của chư thiên cõi trời Tứ
Vương bằng chín trăm mười
hai vạn năm ngàn năm (9.125.000) trong nhân gian. Một
ngày trên trời Đao Lợi là một trăm năm trong
nhân gian, tuổi thọ của họ là một ngàn năm.
Thọ mạng của chư thiên Đao Lợi là ba ngàn sáu
trăm năm mươi vạn (36.500.000) năm trong nhân
gian. Càng lên cao, thọ mạng của chư thiên càng dài,
phước báo cũng càng lớn. Thọ mạng trong
địa ngục cũng dài. Trong tác phẩm Phật Học
Thập Tứ Giảng do thầy Lý biên soạn tại Từ
Quang Giảng Tòa ở Đài Trung cũng từng có nói một
ngày trong địa ngục bằng hai ngàn bảy trăm
năm (2.700) trong nhân gian. Trung Quốc nổi tiếng là
năm ngàn năm lịch sử, nhưng so với địa
ngục thì vẫn chưa đầy hai ngày! Kinh Lăng
Nghiêm giảng về địa ngục đặc biệt
rất tường tận “dễ vào, khó ra” nhằm cảnh
tỉnh chúng ta. Thọ mạng trong ngạ quỷ đạo
cũng dài, một ngày trong quỷ đạo bằng một
tháng trong nhân gian, tuổi thọ của họ là vài ngàn
năm. Đầu thời Dân Quốc, bậc đại
sư về Quốc Học[6]
là tiên sinh Chương Thái Viêm từng làm phán quan của
Đông Nhạc đại đế[7],
mỗi tối vào cõi âm để phán án, từng gặp những
người thuộc thời Đường, thời Tống,
cùng thảo luận văn chương với bọn họ.
Chuyện này do con rể của cụ
là lão cư sĩ Châu Kính Trụ kể cho tôi biết.
Súc sanh ngu si, thọ mạng ngắn ngủi, tâm lượng
nhỏ nhoi, hạn cuộc trong phạm vi cuộc sống
nhỏ nhoi của chúng, chấp trước thân của
chúng là chính mình, chết đi vẫn thụ thân súc sanh y
như cũ. Thời đức Phật, khi kiến tạo
Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên (tinh xá Kỳ Hoàn),
trông thấy một tổ kiến trên đất, Phật
mỉm cười nói: “Tổ kiến này đã trải qua
bảy đức Phật mà vẫn chưa thoát khỏi
thân kiến”. Trong lục đạo, chỉ có nhân đạo
có thể tiếp nhận Phật pháp. Cõi trời sung sướng,
tam ác đạo quá khổ, đều chẳng dễ học
đạo. Trong kinh, đức Phật từng nói: “Thân người đáng quý nhất”.
Thị hiện thành Phật độ chúng sanh nhất
định phải ở trong nhân đạo. Loài người
nghe pháp dễ giác ngộ, ngộ xong liền có thể
vượt thoát tam giới, vĩnh viễn thoát khỏi
luân hồi. Nếu được làm thân người, mà
chưa thể gặp Phật, nghe pháp, hoặc nghe mà
chưa thể nghiêm túc tu học, đời người có
gì đáng quý nữa? Chúng ta nghe pháp trọn chẳng phải
là do đức Phật trực tiếp truyền dạy;
vì thế, nghe rồi mà chưa thể khai ngộ. Trong thuở
đức Phật giảng kinh, giảng một bộ kinh
chưa xong mà đã có nhiều người khai ngộ, chứng
quả. Hiện thời nghe nói A Di Đà Phật đang
thuyết pháp tại Tây Phương, cơ hội thật
khó có.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế
Tôn nói thọ mạng của A Di Đà Phật là vô lượng
thọ, Ngài thị hiện thành Phật mới chỉ
mười kiếp ở Tây Phương. Nếu chúng ta
sanh về đó, trong tương lai sẽ thuộc vào bậc
nguyên lão. A Di Đà Phật là “quang
trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Nếu
đích thân nghe A Di Đà Phật thuyết pháp, lẽ
đâu chẳng khai ngộ? Cổ nhân nói: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất
khai ngộ?” (Chỉ được thấy Di Đà, lo
gì chẳng khai ngộ). Nếu hiểu rõ ràng rồi thì nhất
định phải buông xuống vạn duyên, chết lòng
sát đất niệm một câu Phật hiệu, chiếu
theo phương pháp dạy trong kinh Di Đà để tu học,
trong một đời này nhất định thấy Phật,
thấy Phật rồi sẽ thường theo học với
Phật, lẽ nào chẳng thành tựu?
Hơn nữa, “nhị
hữu hiện tại”, bốn chữ này nhằm khuyên
nên tin tưởng. “Thế giới
danh Cực Lạc” nhằm khuyên nên phát nguyện. Thế
gian khổ nạn quá nhiều, chuyện gì cũng chướng
ngại trùng trùng, chuyện chẳng như ý [trong mười
phần] thường có tới tám chín phần. Trong một
đời này, chúng ta chiêm nghiệm, nhất là trong xã hội
hiện thời, quả thật đúng như vậy. Nếu
nay đã biết Tây Phương Cực Lạc thế giới
ở đâu, nơi đó không có các nỗi khổ, chỉ
hưởng những niềm vui; hơn nữa, đức
Phật nói, chỉ cần quý vị chịu về đó,
ai nấy đều có thể tới đó, trọn chẳng
khó khăn gì. “Phật hiệu
A Di Đà, khuyến trì danh diệu hạnh tự dã” (Câu
“Phật hiệu là A Di Đà”
là lời tựa nhằm khuyên hành diệu hạnh Trì Danh).
A Di Đà Phật hằng ngày thuyết pháp bên đó, có thể
thành tựu học nghiệp và đạo nghiệp cho chúng
ta. Phương pháp chỉ là niệm
một câu Phật hiệu; do
vậy, Phật hiệu được xếp vào Hạnh
Môn.
“Phục thứ, A Di tự Phật, thuyết pháp tự
Pháp, hiện tại hải hội tự Tăng” (Lại nữa, A Di Đà là lời tựa
giới thiệu Phật, chữ “thuyết pháp” là phần tựa giới thiệu
Pháp, hiện tại hải hội là phần tựa giới
thiệu Tăng). Trong đoạn này, lời chú giải
đã phối hợp kinh văn với Tam Bảo Phật -
Pháp - Tăng. Phật, Pháp, Tăng có cùng một Thật
Tướng, Thật Tướng là chân tâm bổn tánh. Y
báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do chân tâm
biến hiện ra, duy tâm sở hiện, duy thức sở
biến. Do những sự thực và lý luận trong phần
trên mà sanh khởi tín tâm, nguyện tâm, chấp trì danh hiệu,
cầu nguyện vãng sanh, đấy là tông chỉ của
kinh này, mà cũng dụng ý của Phật khi nói kinh này. Tín,
Nguyện, Hạnh thành tựu, hoàn toàn không nghi hoặc sự
thật này, có nguyện vọng mạnh mẽ, có thể
buông bỏ thân, tâm, thế giới. Trong mười hai thời,
Phật hiệu không gián đoạn, nhất định sẽ
vãng sanh, thấy Phật, nghe pháp, tâm nguyện liền viên
mãn. Đức Thế Tôn giảng hết thảy kinh luận,
nội dung sâu rộng, có Sự, Lý, Tánh, Tướng, những
thứ để tâm duyên vào rất rộng. Pháp môn này chỉ
duyên nơi một vị A Di Đà Phật; trừ Phật
ra, hết thảy đều chẳng phan duyên (nắm níu),
chẳng xen tạp những chuyện khác, thanh tịnh khôn
sánh. Luận trên phương diện giáo học, bất cứ
răn dạy nào cũng đều chẳng thể sánh bằng
pháp này, lời lẽ tuy không nhiều, nhưng ý nghĩa trọn
vẹn, đầy đủ. Đến đây đã nói
xong Tự Phần, tiếp theo là Chánh Tông Phần.
4.2. Chánh
Tông Phần
4.2.1. Giảng
rộng về y báo và chánh báo để khơi gợi lòng
tin
(Giải)
Tín nguyện trì danh, nhất kinh yếu chỉ. Tín nguyện
vi Huệ Hạnh, trì danh vi Hành Hạnh. Đắc sanh dữ
phủ, toàn do tín nguyện chi hữu vô. Phẩm vị cao hạ,
toàn do trì danh chi thâm thiển. Cố Huệ Hạnh vi tiền
đạo, Hành Hạnh vi chánh tu. Như mục túc tịnh
vận dã.
(解) 信願持名。一經要旨。信願為慧行。持名為行行。得生與否。全由信願之有無。品位高下。全由持名之深淺。故慧行為前導。行行為正修。如目足並運也。
(Giải:
“Tín, nguyện, trì danh” là tông chỉ trọng yếu của
bộ kinh này. Tín và nguyện là Huệ Hạnh, trì danh là Hành
Hạnh. Được vãng sanh hay không hoàn toàn là do có tín, nguyện hay không. Phẩm vị cao
hay thấp, hoàn toàn là do trì danh sâu hay cạn. Vì thế, Huệ
Hạnh để hướng dẫn, Hành Hạnh là hạnh
tu chánh yếu. Giống như mắt và chân cùng vận dụng
vậy).
Mấy câu này của Ngẫu Ích đại
sư các bậc cổ đức từ trước đến
nay chưa hề nói tới, nhưng hoàn toàn phù hợp khít
khao tông chỉ của ba kinh Tịnh Độ. Điều
hiếm có là Ngài đã vì bọn chúng sanh Mạt pháp như
chúng ta mà nói rõ sự kiện sau đây: Điều kiện
tối trọng yếu để vãng sanh Tây Phương
chính là “đắc sanh dữ phủ,
toàn do tín nguyện chi hữu vô. Phẩm vị cao hạ,
toàn do trì danh chi thâm thiển” (được vãng sanh hay
không hoàn toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao
hay thấp, hoàn toàn là do trì danh sâu hay cạn). Tây
Phương có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm, phẩm vị
cao hay thấp chính là do trì danh sâu hay cạn. “Thâm” hay “thiển”
là do lấy sự thanh tịnh trong tâm làm tiêu chuẩn,
nghĩa là: “Thâm” là tin sâu,
nguyện sâu, hạnh sâu, niệm Phật hiệu cũng
sâu. Tín nguyện trì danh là ba món tư lương. Đại
sư giải thích kinh này, đối với Tự Phần,
Chánh Tông Phần, và Lưu Thông Phần, trong mỗi phần
đều bao hàm ý nghĩa Tín, Nguyện, Hạnh. Đây
chính là chỗ khác biệt giữa Ngài và các vị đại
đức khác. Hãy nên biết: Tín - Nguyện là Huệ, Hạnh
là phước, người niệm Phật phước huệ
song tu. Phước huệ do tu Niệm Phật chính là
phước huệ bậc nhất trong thế gian, mọi
người đừng sợ thiếu phước. Trong hết
thảy pháp môn, pháp môn này dễ dàng nhất. Ngay trong một
đời này, quý vị đã hưởng thụ phước
huệ mà người khác chẳng thể hưởng thụ được!
Có
người nói: Nếu tôi hằng ngày niệm Phật thì
làm sao duy trì đời sống? Quý vị đừng sợ,
chân chánh niệm Phật thì Phật, Bồ Tát sẽ cúng
dường quý vị. Thích Ca Mâu Ni Phật thuở ấy,
lẽ ra phải trụ thế một trăm năm,
nhưng tám mươi tuổi đã viên tịch, còn có hai
mươi năm phước báo để dành cho tứ
chúng đệ tử học Phật trong thế gian. Có một
năm kết hạ an cư, lão hòa thượng Linh Nguyên mời
tôi giảng kinh Lăng Nghiêm tại chùa Đại Giác ở
Cơ Long[8].
Giảng đường nằm sát vách điện Thiên Vương. Khi ấy, tôi khuyên bốn
mươi mấy người đàn ông hiện diện
hãy bớt làm Phật sự để niệm Phật nhiều
hơn. Nếu trong chùa mà thiếu lương thực,
đại chúng bị đói, thì Vi Đà Bồ Tát sẽ bị
cất chức, điều tra! Nếu chính mình lo kiếm sống
thì Vi Đà Bồ Tát được một phen vui hưởng
tiêu dao. Không cần phải lo lắng về lương thực!
Hãy nhất tâm tu đạo, chư Phật
hộ niệm, long thiên ủng hộ, phước ở
trong ấy. Đời Đường, pháp sư Đạo
Tuyên là tổ sư của Luật Tông, hằng ngày chỉ
ăn một bữa, mỗi ngày được chư thiên
đưa cơm đến là chuyện mọi người
đều biết cả rồi! Phước báo lớn nhất
là trong một đời vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi,
vãng sanh Tịnh Độ, viên thành Phật đạo.
Đấy chính là điều chư Phật, Bồ Tát
ngưỡng mộ. Tín Nguyện là động lực, là sự
dẫn đường, niệm Phật là chánh hạnh.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Bỉ độ hà cố danh
vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ,
đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc.
(Giải)
Chúng sanh thị Năng Thụ Dụng nhân, Đẳng Giác
dĩ hoàn giai khả danh. Kim thả ước nhân dân ngôn,
dĩ hạ hạ lệ thượng thượng dã. Sa
Bà khổ lạc tạp, kỳ thực, Khổ thị Khổ
Khổ, bức thân tâm cố. Lạc thị Hoại Khổ,
bất cửu trụ cố. Phi khổ phi lạc thị
Hành Khổ, tánh thiên lưu cố. Bỉ độ vĩnh
ly tam khổ, bất đồng thử độ đối
khổ chi lạc, nãi danh Cực Lạc.
(經) 舍利弗。彼土何故名為極樂。其國眾生。無有眾苦。但受諸樂。故名極樂。
(解) 眾生是能受用人。等覺以還皆可名。今且約人民言。以下下例上上也。娑婆苦樂雜。其實。苦是苦苦。偪身心故。樂是壞苦。不久住故。非苦非樂是行苦。性遷流故。彼土永離三苦。不同此土對苦之樂。乃名極樂。
(Chánh
kinh: Này Xá Lợi Phất!
Cõi kia vì cớ sao tên là Cực Lạc? Chúng sanh trong cõi ấy
không có các nỗi khổ, chỉ hưởng những niềm
vui, nên gọi là Cực Lạc.
Giải:
Chúng sanh là người thụ dụng. Từ Đẳng
Giác trở xuống đều có thể gọi là chúng sanh.
Nay ước theo nhân dân để nói, dùng [trạng huống
của] hạng hạ hạ để suy ra [tình trạng
của] hạng thượng thượng. Cõi Sa Bà khổ
và vui xen tạp, thật ra, Khổ là Khổ Khổ, vì [các
nỗi khổ] bức não thân tâm. Lạc là Hoại Khổ
vì nó chẳng tồn tại lâu dài. Chẳng khổ chẳng
vui là Hành Khổ vì tánh nó đổi dời. Cõi kia vĩnh viễn
thoát khỏi ba sự khổ này, chẳng giống như
cõi này, lạc là do so với khổ mà nói. Vì thế, cõi ấy
tên là Cực Lạc).
Trong kinh, hễ nhắc đến danh tự của
một người nào là nhằm làm cho người ấy chú
ý. Trong phần sau có những khai thị rất quan trọng.
Đức Phật gọi ngài Xá Lợi Phất bảo: “Cõi ấy vì sao gọi là Cực
Lạc?” Ngài Xá Lợi Phất trọn chẳng thể
đáp được, vì đấy là cảnh giới thuộc
Phật quả, ngài Xá Lợi Phất chưa thành Phật,
không thể đáp được. Do vậy, đức Phật
tiếp tục nói, chúng sanh trong thế giới ấy không
có các nỗi khổ, chỉ hưởng những niềm
vui. Vì thế, gọi là Cực Lạc. Đức Phật
dạy trong thế giới này của chúng ta, có năm thứ
Thọ (cảm nhận): Khổ, Lạc, Ưu, Hỷ, Xả.
Thân có hai thứ Thọ là Lạc và Khổ (sướng và
khổ), tâm có hai thứ Thọ là Ưu và Hỷ (buồn
và vui). Nếu không có bốn thứ Thọ trên đây thì là
Xả Thọ. Xả Thọ ngắn ngủi, tạm thời,
nếu giữ được một thời gian dài sẽ
là Định. Tuy đạt đến
Tứ Thiền, Bát Định thì vẫn là Xả Thọ,
chưa phải là tam-muội. Nếu vượt qua Bát
Định, đạt đến Cửu Thứ Đệ
Định thì mới vượt thoát tam giới.
“Chúng
sanh thị Năng Thụ Dụng nhân” (chúng sanh là người
thụ dụng). “Các duyên hòa hợp
mà sanh” thì gọi là “chúng
sanh”. Con người là do các duyên hòa hợp mà sanh.
Khăn lông cũng là do các duyên hòa hợp mà sanh. Không có một
pháp nào chẳng phải do các duyên hòa hợp. Từ Đẳng
Giác trở xuống đều gọi là “chúng sanh”. Trong chín
pháp giới, trừ lục đạo ra, Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát đều là học trò của Phật; trong
năm mươi mốt địa vị, Đẳng Giác
là cao nhất. Tại Tây Phương, hưởng thụ
bình đẳng; ngoài Tây Phương thế giới ra, sự
hưởng thụ của chúng sanh trong chín pháp giới
đều chẳng bình đẳng. Thế giới Sa Bà khổ nhiều, vui ít. Khổ
là thân lẫn tâm đều chịu áp lực. Thời gian
sung sướng cũng chẳng lâu dài nên gọi là Hoại
Khổ. Chẳng khổ chẳng sướng là Xả Thọ,
tâm chẳng thể thường giữ được [trạng
thái ấy] nên gọi là Hành Khổ. Trong kinh nói tới ba khổ
và tám khổ. Tám khổ là “sanh, lão, bệnh, tử, cầu
chẳng được, yêu thương phải chia lìa,
chán ghét phải gặp gỡ, năm Ấm lừng lẫy”.
Kinh Phật giảng Sanh Khổ hết sức thấu triệt,
thần thức phải ở trong bụng mẹ mười
tháng, cảm nhận như đang ở trong địa ngục.
Mẹ uống một chén nước lạnh, con như
đang ở trong địa ngục Hàn Băng, mẹ uống
một chén nước nóng, con như ở trong địa
ngục Bát Nhiệt. Ra khỏi thai, chuyện đời
trước quên sạch sành sanh. Lúc sanh ra, như trong địa
ngục Giáp Sơn (núi ép lại). Đẻ ra, tiếp xúc
không khí như địa ngục Phong Đao. Bệnh Khổ
(khổ vì bệnh tật), Lão Khổ (khổ vì già nua) bày
ra trước mắt, ai nấy đều cảm nhận
gián tiếp hay trực tiếp. Lúc chết, thần thức
tách lìa thân thể, giống như con rùa còn sống bị
bóc mai. Người học Phật có công phu thật sự
thì già, bệnh, chết đều không có. Tuổi già
nhưng thân thể khỏe mạnh, lâm chung biết trước
lúc mất, không bệnh tật mà qua đời. Trên đây
là bốn nỗi khổ “sanh, lão, bệnh, tử”. Thứ
năm là Cầu Bất Đắc Khổ, dục vọng
quá nhiều, không cách gì đạt được. Thứ
sáu là Oán Tắng Hội Ngộ Khổ, oan gia đối
đầu, chẳng mong chạm mặt mà cứ phải gặp
hoài. Thứ bảy, là Ái Biệt Ly Khổ, phải sanh ly tử
biệt với người mà ta đem lòng yêu thương.
Thứ tám là Ngũ Ấm Xí Thịnh Khổ. Ngũ Ấm
là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tức là những
tạo tác sinh lý và tâm lý. Ngũ Ấm là nhân, bảy thứ
khổ trước là quả.
“Lạc thị Hoại
Khổ, bất cửu trụ cố” (Lạc là Hoại
Khổ, vì chẳng tồn tại lâu dài). Giống như ma
túy, khổ là thật, sướng là giả. Sướng
biến thành khổ, khổ chẳng thể biến thành
sướng. Chẳng hạn như khiêu vũ là sung sướng,
nhưng khiêu vũ liên tiếp ba ngày ba đêm thì sướng
biến thành khổ. Ba ngày không ăn cơm, khổ chẳng
thể nói, đến bảy ngày thì lại càng khổ
hơn, trọn chẳng thể biến thành sướng.
Phi khổ phi lạc cố nhiên là tốt, nhưng nó có Hành
Khổ. Tục ngữ có câu “thanh
xuân bất trụ” (tuổi xuân chẳng còn mãi), già suy
trong từng sát-na. Nói thật ra, từ ngày được
sanh ra, con người đã bươn bả thẳng
đến mộ phần chưa hề tạm ngừng. Thế
giới Cực Lạc vĩnh viễn thoát khỏi tám khổ.
Khổ và Lạc là tương đối; tại Tây
Phương, Khổ lẫn Lạc đều không có, nên gọi
là Cực Lạc. Loại cảnh giới này chẳng thể
nghĩ bàn, chúng ta chẳng những nói không ra, mà ngay cả
tưởng tượng cũng không thể tưởng
tượng được. Kinh Hoa Nghiêm giảng về cảnh
giới Cực Lạc tường tận nhất. Đọc
kinh Hoa Nghiêm sẽ có thể tưởng tượng
được sự thù thắng trang nghiêm ở Tây
Phương. Trong quá khứ, pháp sư Từ Vân Quán Đảnh
là người sống vào đời Càn Long nhà Thanh, trước
tác hết sức phong phú, đã so sánh giữa Sa Bà và Cực
Lạc. Luận về khổ và lạc thì:
- Cõi này chẳng
gặp Phật là khổ. Sau khi vãng sanh Tây Phương, hoa
nở thấy Phật là vui.
- Cõi này nghe
pháp rất khó. Tây Phương sáu trần đều thuyết
pháp.
- Cõi này bị bạn
ác lôi kéo, buộc ràng, chẳng thể thỏa lòng tu đạo.
Tây Phương có các vị thượng thiện nhân tụ
hội một chỗ.
(Giải)
Nhất vãng phân biệt, Đồng Cư Ngũ Trược
khinh, vô phần đoạn, bát khổ. Đản thọ bất
bệnh, bất lão, tự tại du hành, thiên thực, thiên
y, chư thiện tụ hội đẳng lạc.
Phương Tiện thể quán xảo, vô trầm không trệ
tịch chi khổ. Đản thọ du hý, thần thông
đẳng lạc. Thật Báo tâm quán viên, vô cách biệt bất
dung chi khổ, đản thọ vô ngại bất tư
nghị lạc. Tịch Quang cứu cánh đẳng, vô Pháp
Thân sấm lậu, chân thường lưu chú chi khổ, đản
thọ xứng tánh viên mãn cứu cánh lạc. Nhiên Đồng
Cư chúng sanh, dĩ trì danh thiện căn, phước
đức đồng Phật cố, viên tịnh tứ
độ, viên thọ chư lạc dã. Phục thứ, Cực
Lạc tối thắng, bất tại thượng tam
độ, nhi tại Đồng Cư. Lương dĩ
thượng chi, tắc thập phương Đồng Cư
tốn kỳ thù đặc. Hạ hựu khả dữ thử
độ giảo lượng. Sở dĩ, phàm phu ưu
nhập nhi thung dung, hoành siêu nhi độ việt. Phật thuyết khổ
lạc, ý tại ư thử.
(解) 一往分別。同居五濁輕。無分段八苦。但受不病不老。自在遊行。天食
天衣。諸善聚會等樂。方便體觀巧。無沉空滯寂之苦。但受遊戲神通等樂。實報心觀圓。無隔別不融之苦。但受無礙不思議樂。寂光究竟等。無法身滲漏。真常流注
之苦。但受稱性圓滿究竟樂。然同居眾生。以持名善根福德同佛故。圓淨四土。圓受諸樂也。復次。極樂最勝。不在上三土。而在同居。良以上之。則十方同居。遜
其殊特。下又可與此土較量。所以凡夫優入而從容。橫超而度越。佛說苦樂。意在於此。
(Giải: Phân biệt đại khái thì trong cõi Đồng Cư, Ngũ Trược nhẹ, không
có phần đoạn sanh tử và tám khổ, chỉ hưởng
những điều vui như chẳng bệnh, chẳng
già, du hành tự tại, thức ăn trời, áo trời,
các vị thượng thiện nhân tụ hội v.v... Trong
cõi Phương Tiện, khéo léo quán Thể, không có nỗi khổ
vướng mắc, trầm trệ vào không tịch, chỉ
hưởng những sự vui như du hý, thần thông
v.v... Trong cõi Thật Báo, quán tâm viên mãn, không có sự khổ
cách biệt, chẳng dung thông, chỉ hưởng sự
vui không chướng ngại chẳng thể nghĩ bàn. Trong
cõi Tịch Quang rốt ráo bình đẳng, không các nỗi khổ
như Pháp Thân rò rỉ, chân thường tuôn chảy, chỉ
hưởng sự vui viên mãn rốt ráo xứng tánh.
Nhưng chúng sanh trong cõi Đồng Cư do thiện căn
trì danh nên phước đức giống như Phật,
thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi, hưởng trọn
vẹn các điều vui. Hơn nữa, Cực Lạc tối
thắng chẳng ở trong ba cõi trên mà là trong cõi Đồng
Cư. Ấy là vì: Trên thì các cõi Đồng Cư trong mười
phương phải nhường phần đặc biệt
thù thắng; dưới thì nếu so sánh với cõi này (tức
Sa Bà), [cõi Đồng Cư của thế giới Cực Lạc
vượt trỗi mọi mặt]. Do vậy, phàm phu hễ
được dự vào đó liền thong dong, vượt
khỏi [tam giới] theo chiều ngang để được
độ thoát. Đức Phật nói đến khổ và
vui là nhằm ý này).
“Nhất
vãng”
chính là đại khái, [“nhất
vãng phân biệt”] chính là nói đại khái tình trạng
trong bốn cõi Tây Phương. “Đồng
Cư Ngũ Trược khinh” là lời so sánh giữa
Tây Phương thế giới và Sa Bà. Người đới
nghiệp vãng sanh tuy đã khuất phục, nhưng chưa
đoạn được Kiến Tư, họ thật sự
có Ngũ Trược từ đời quá khứ, nhưng
nhẹ hơn. Mức độ [Ngũ Trược] nhẹ
nhàng ấy, nhân thiên thừa chẳng thể sánh bằng.
“Vô Phần Đoạn,
bát khổ”: Phần Đoạn là giai đoạn, tức
là chia thành từng phần lớn, mỗi đời là một
giai đoạn, đời kế tiếp lại là một
giai đoạn nữa. [Chữ Phần Đoạn] này chỉ
sự luân hồi. Nếu chia nhỏ ra thì mỗi sát-na là một
giai đoạn, sanh diệt trong từng sát-na, dời đổi
không ngừng.
Thời cổ, hoàn cảnh
đơn thuần, lòng người nồng hậu, giác ngộ
dễ dàng. Đối với thiện, ác, nhân quả, báo ứng,
tai đã quen nghe tường tận, khởi tâm động
niệm đều rất chú ý. Con người hiện thời
cứ tưởng khoa học phát triển, những chuyện
thiện ác, báo ứng đã nói từ trước đến
giờ đều là mê tín, đến nỗi đạo
đức chôn vùi, phong tục cõi đời ngày một
đi xuống. Những chuyện này chẳng phải là hễ
tin thì có, nếu chẳng tin bèn không còn nữa! Tục ngữ
có câu: “Thiện hữu thiện
báo, ác hữu ác báo, bất thị bất báo, thời khắc
vị đáo” (Thiện có thiện báo, ác có ác báo, chẳng
phải không báo, chưa tới lúc thôi).
“Tự tại
du hành”:
Du hành trong thế giới này tuy không bị hạn chế bởi
khu vực, nhưng phải xin giấy thông hành, mà cũng chỉ
giới hạn trong địa cầu. Sau khi sanh về Tây
Phương, có thể đi đến bất cứ cõi
nước nào, sánh với thế gian giống như trời
với đất.
“Thiên y, thiên thực”: Cuộc sống
vật chất nơi Tây Phương là hết thảy
cơm áo, sự cung ứng đều
thuận theo lòng muốn. Người trong cõi Tây
Phương vốn chẳng cần ăn uống, do tập
khí của chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay,
ăn uống đã trở thành thói quen. Do tập khí nên vẫn
còn có ý niệm ăn uống.
“Chư thiện
tụ hội”: Cổ đức nói, trong cuộc sống của
người thế gian đáng sợ nhất là người
đồng hành. Người đồng hành là oan gia, có quan
hệ rất lợi hại, khó tránh khỏi bị đôi
bên ganh ghét. Thiện nhân ở Tây Phương tụ hội,
nhất tâm tu đạo, trọn không có các nỗi khổ,
mà có niềm vui trong bốn cõi.
“Phương
Tiện thể quán xảo”: Người trong cõi
Phương Tiện Hữu Dư đã đoạn Kiến
Tư phiền não, công phu niệm Phật sâu xa, đắc
Sự nhất tâm bất loạn. “Thể Quán”: Trí huệ càng cao, sức lãnh ngộ
mạnh mẽ, biết vạn pháp đều là Không, hết
thảy pháp đều chẳng thể được.
Trong thế giới Sa Bà, người Tiểu Thừa tu
đến cảnh giới này thì được gọi là “nhập Thiên Chân Niết Bàn”.
Chân tướng của nhân sinh và vũ trụ phải
được quán sát từ ba phương diện là Thể,
Tướng và Dụng. Thể là Không, tuyệt đối
chẳng đạt được; Tướng là Có, để
có thể hưởng thụ thì phải sử dụng
Trung. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc đã biết sử
dụng Trung, nhà Phật gọi đó là Trung Đạo, Nho
gia gọi là Trung Dung. Đức Phật nói phàm phu sử dụng
Hữu, vì thế cảm nhận nhiều khổ não. Bậc
Tiểu Thừa dùng Không, thường ở trong Định,
chẳng khởi tác dụng, do vậy chìm đắm, trì trệ
trong Không Tịch. Bồ Tát biết sử dụng Trung, chẳng
vướng mắc vào hai bên [Có và Không], hết sức sống
động, chỉ hưởng những niềm vui như
du hý, thần thông v.v...
“Thật
Báo tâm quán viên”: Trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm sử dụng
Trung. Trong phần trước, tôi đã nói đến Thứ
Đệ Tam Quán (lần lượt quán Không, Giả, Trung
theo thứ tự). Ba môn Không Quán, Giả Quán, Trung Quán có thứ
lớp, có sai khác, cho nên có nỗi khổ cách biệt, chẳng
dung thông, Đại Thừa Bồ Tát [chưa đạt đến
Sơ Địa trong Viên Giáo] là như thế đó. Nhất
Tâm Tam Quán thì không có hiện tượng ấy, lấy bất
cứ một pháp nào cũng đều là Không, là Giả, là
Trung, ba tầng viên dung, không có nỗi khổ cách biệt,
chẳng dung thông. Đấy chính là “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”
như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Bồ Tát cùng chúng ta hòa lẫn
thành một khối, hòa quang đồng trần[9],
nhưng thụ dụng hoàn toàn khác hẳn. Lục căn của
chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, có Khổ,
Lạc, Ưu, Hỷ, Xả, nhưng Bồ Tát chẳng có,
vì đã nhập cảnh giới không chướng ngại
chẳng thể nghĩ bàn.
“Tịch
Quang cứu cánh đẳng, vô Pháp Thân sấm lậu, chân
thường lưu chú chi khổ” (Trong cõi Tịch Quang rốt
ráo bình đẳng, không các nỗi khổ như Pháp Thân rò rỉ,
chân thường tuôn chảy[10]):
Cõi Tịch Quang cao nhất trong bốn cõi Tịnh Độ.
“Pháp Thân sấm lậu” tức
là trong Chân Như bổn tánh vẫn còn chưa sạch hết
phiền não. Phật pháp nói đến Chân và Vọng, Chân là
sẵn có, Vọng thì vốn không. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ, đức tướng của Như Lai, chỉ
vì vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể
chứng đắc”. Một câu này của Phật đã
nói toạc căn bệnh của bọn phàm phu chúng ta. Tu học
trong Phật pháp bất quá là trừ sạch vọng tưởng,
chấp trước mà thôi; nhưng hãy cầu trừ Vọng,
chớ nên tìm Chân. Chấp trước phát triển thành Ngã
Chấp, phá Ngã Chấp liền chứng quả A La Hán. Nói
cách khác, nếu có Ngã Chấp, sẽ chẳng thể thoát khỏi
tam giới. Nếu có Pháp Chấp, sẽ chẳng thể kiến
tánh. Pháp môn Đại Tiểu Thừa trong Phật pháp
đều có thể giúp con người thoát khỏi tam giới.
Ngã Chấp phát triển thành Phiền Não Chướng, Pháp
Chấp phát triển thành Sở Tri Chướng. Phật
pháp từ đầu đến cuối chỉ là phá hai chấp
ấy mà thôi. Từ cõi Phương Tiện trở lên, không
có Ngã Chấp, cõi Đồng Cư vẫn còn Ngã Chấp. Ngã
Chấp không còn, Pháp Chấp đã phá được phần
lớn, nhưng vẫn còn có chút thừa sót, đó gọi
là “Pháp Thân sấm lậu”
(Pháp Thân rò rỉ). Cõi Tịch Quang đoạn sạch Pháp
Chấp, Chân Như bổn tánh hiển hiện viên mãn, sự
thụ dụng của người trong cảnh giới ấy
là “xứng tánh viên mãn cứu
cánh lạc” (sự vui xứng tánh viên mãn rốt ráo).
Đại Thừa Bồ Tát trong cõi Thật Báo đạt
Lý nhất tâm bất loạn, phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo
và chư Phật đều có thể gọi là “xứng
tánh”; tuy một đằng đã viên mãn, một đằng
chưa viên mãn, nhưng đều là xứng tánh. Đại
khái sự khổ và vui trong bốn cõi là như vậy.
“Nhiên
Đồng Cư chúng sanh, dĩ trì danh thiện căn,
phước đức đồng Phật cố, viên tịnh
tứ độ, viên thọ chư lạc dã” (Nhưng
chúng sanh trong cõi Đồng Cư, do thiện căn trì danh
nên phước đức giống như Phật, thanh tịnh
trọn vẹn bốn cõi, hưởng trọn vẹn các
niềm vui). Mấy câu chú giải này phải nhớ kỹ
trong lòng, hết thảy các kinh luận, pháp môn khác không có
điều này. Kinh này được xưng tụng là bậc
nhất trong hết thảy kinh Phật chính là do đạo
lý này. Chúng ta là đới nghiệp vãng sanh, nghiệp ấy
chính là Ngã Chấp và Pháp Chấp, phương pháp được
sử dụng là “tín, nguyện,
trì danh”. Tin tưởng tuyệt đối A Di Đà Phật
và Tây Phương thế giới, đấy là Tín. Nhất
tâm nhất ý hướng về Tây Phương, mong thấy
A Di Đà Phật, đó là Nguyện. Trọn đủ Tín
và Nguyện như thế, niệm một câu Phật hiệu,
đó là Trì. Thiện căn, phước đức của
người trì danh niệm Phật giống như A Di
Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật. Mười phương
ba đời hết thảy chư Phật tu hành cho đến
cuối cùng thành Phật đều là do niệm Phật mà
thành Phật.
“Viên
tịnh tứ độ”: Viên (圓) là viên mãn, chẳng có mảy
may thiếu khuyết nào! Đẳng Giác Bồ Tát còn có một
phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, chẳng thể gọi
là viên mãn, nhưng chúng ta đới nghiệp vãng sanh liền
có thể thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi, hưởng
trọn các niềm vui. Ngẫu Ích đại
sư nói những lời này có quá lố hay không? Xin quý vị
đọc bốn mươi tám lời nguyện trong
chương sáu của kinh Vô Lượng Thọ sẽ thấy
là đúng hay là sai! Đại sư dựa theo kinh điển
để nói; ngày nay chúng ta gặp được bộ
kinh này đúng là cơ hội khó gặp trong ngàn năm mà ta
nay may mắn gặp được.
“Cực
Lạc tối thắng, bất tại thượng tam
độ, nhi tại Đồng Cư” (Cực Lạc tối
thắng không do ba cõi trên, mà là do cõi Đồng Cư). Vì sao
đức Phật nói Cực Lạc là tối thắng? “Chán
khổ, cầu vui” là chuyện thường tình của con
người. Tục ngữ có câu “nhất ẩm, nhất trác, mạc phi tiền định”
(một miếng ăn, một hớp uống, không gì chẳng
phải đã định sẵn). Phú quý, cùng quẫn, hanh
thông cho đến sanh tử đều có số mạng sẵn.
Cầu là vọng tưởng, cầu thần thánh ban
ơn, cầu Thượng Đế giáng phước,
đều là mê tín, không giúp được gì! Đức Phật
dạy chúng ta, muốn cầu quả báo tốt, chỉ có
tu phước, tích đức. Tu nhân sẽ đắc quả:
Tài Thí đắc của cải, Pháp Thí đắc thông minh,
trí huệ, Vô Úy Thí đắc khỏe mạnh, trường
thọ. Chớ nên tiếc của, mà cũng đừng
tham của. Đấy là tiểu nhân tiểu quả thế
gian! Niệm Phật là đại phước đức tối
thượng khôn sánh, trực tiếp dùng thiện nhân, thiện
quả do A Di Đà Phật đã tu hành trong vô lượng kiếp
để chính mình tu nhân trong hiện tại. Quả báo của
niệm Phật là có thể vượt thoát luân hồi lục
đạo. Sanh về Tây Phương sẽ có thể thành
Phật ngay trong thân này. Hết thảy các cõi Phật trong
mười phương đều có bốn cõi Tịnh
Độ, nhưng các cõi Phàm Thánh Đồng Cư trong
đó đều thua cõi Đồng Cư của Tây
Phương một bậc. Phàm phu trong thế giới Sa Bà
muốn vượt thoát lục đạo là chuyện hết
sức khó khăn, đoạn hết phiền não thì mới
có thể vượt thoát. Tứ Thiền, Bát Định mới
có thể khống chế phiền não chẳng cho nó khởi
tác dụng. Tầng trời cao nhất trong Tứ Không Thiên
là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên có thể khống
chế phiền não trong tám vạn đại kiếp, thuộc
về Thiền Định thế gian. Đạt đến
Cửu Thứ Đệ Định, thành A La Hán mới
thoát khỏi tam giới, thật chẳng dễ dàng! Như
nay chỉ cần đầy đủ Tín - Nguyện - Hạnh,
thật thà niệm Phật, liền có thể vượt
thoát tam giới theo chiều ngang, chẳng cần phải
trải qua Tứ Thiền Bát Định, muôn người
tu, muôn người vãng sanh. Dẫu tạo tội Ngũ Nghịch,
Thập Ác mà nếu quả báo còn chưa hiện tiền
thì vẫn có thể thong dong tiến nhập Tây
Phương thế giới.
(Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Cực
Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất
trùng la võng, thất trùng hàng thụ, giai thị tứ bảo,
châu táp vi nhiễu. Thị cố bỉ quốc,
danh vi Cực Lạc.
(經) 又舍利弗。極樂國土。七重欄楯。七重羅網。七重行樹。皆是四寶。周匝圍繞。是故彼國。名為極樂。
(Chánh kinh: Lại này, Xá Lợi Phất! Cõi nước
Cực Lạc bảy tầng lan can, bảy tầng lưới
giăng, bảy tầng hàng cây, đều bằng bảy
báu vây quanh trọn khắp. Vì thế, cõi ấy tên là Cực
Lạc).
Đoạn kinh này nói rõ sự
vui thuộc về địa lợi trong Tây Phương thế
giới, cũng chính là hoàn cảnh
cư trú. Nếu các vị có thời gian rảnh rỗi, có
thể sang thăm Hoàng Cung tại Bắc Kinh bên Đại
Lục, kiến trúc của nó từng hàng lan can. “Lan thuẫn” chính là lan can, Lan
(欄) là [những thanh chắn đặt nằm]
theo chiều ngang, Thuẫn (楯) là [những thanh chắn dựng]
theo chiều dọc. Tôi chưa được thấy “la võng” (lưới mành) tại
Trung Quốc, nhưng ở Nhật Bản thì vẫn còn. Phật
giáo Nhật Bản cũng rất hưng thịnh, gìn giữ chùa miếu hết sức tốt
đẹp. Khi tôi sang thăm Nhật Bản, chẳng thể
nào không bội phục dân tộc ấy. Họ toàn tâm toàn lực
hấp thụ văn minh khoa học kỹ thuật của
Tây Phương, nhưng bảo vệ, giữ gìn những
kiến trúc cổ cố hữu của chính mình hết sức
hoàn chỉnh. Chùa miếu của họ đều là kiến
trúc từ thời Đường, thời Tống, kết
cấu kiến trúc theo mô thức thời Hán, thời
Đường, điện vũ rất lớn mà chẳng
dính một hạt bụi nào. Những vật liệu
được dùng [để xây cất] nếu bị tổn
hoại thì khi trùng tu vẫn dùng những vật liệu giống
hệt như vậy để khôi phục nguyên trạng.
Điện vũ rộng rãi, đồ sộ, ngăn nắp,
sạch sẽ, chẳng thể nào không khiến cho người
khác kính phục. Chúng tôi thấy rồi bèn sanh tâm hổ thẹn,
nhất là vì phong tục theo cổ lễ Trung Quốc thì ngay
tại Trung Quốc đã chẳng còn thấy nữa,
nhưng phương thức sinh hoạt giống như sách
Lễ Ký đã chép vẫn còn được bảo tồn
tại Nhật Bản. Y phục của người Nhật
mặc được gọi là “Hòa phục” (Wafuku), còn gọi
là “Ngô phục” (Gofuku), tức là [y phục] theo cách thức
của xứ Ngô Việt vào thời đại Xuân Thu Chiến
Quốc, một mực bảo tồn đến tận
bây giờ. [Cách phục sức ấy] tại Trung Quốc
đã tuyệt tích, lòng yêu mến và bảo tồn cổ
tích của họ quả thật là hạng nhất trên thế
giới. Trong những ngôi chùa miếu lớn ở Nhật
Bản, chúng tôi trông thấy “la
võng” bện bằng những sợi đồng để
bảo vệ kèo cột. Kèo cột đều là những
tác phẩm nghệ thuật cao cấp, ngoài ra, “la võng” lại
còn có thể ngăn chim sẻ làm tổ.
“Thất trùng hàng thụ”, “hàng thụ” là cây cối. Chữ “thất” chỉ bốn phương, trên, dưới
và chính giữa, tượng trưng cho ý nghĩa viên mãn,
hoàn toàn chẳng phải là con số. Ngẫu Ích đại
sư nói “thất” biểu
thị “thất khoa đạo
phẩm”; “tứ bảo” biểu thị “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”, đều nhằm
biểu thị pháp, nhưng sự biểu thị chẳng
phải chỉ có vậy. Những nghĩa trên đây đều
được giảng tường tận trong kinh Vô
Lượng Thọ.
(Giải)
“Thất trùng” biểu thất khoa đạo phẩm, “tứ
bảo” biểu Thường, Lạc, Ngã, Tịnh tứ
đức. “Châu táp nhiễu” giả, Phật, Bồ Tát
đẳng vô lượng trụ xứ dã, giai tứ bảo,
tắc tự công đức thâm. “Châu táp vi nhiễu” tắc
tha hiền thánh biến, thử Cực Lạc chân nhân duyên
dã.
(解) 七重表七科道品。四寶表常樂我淨四德。周匝繞者。佛菩薩等無量住處也。皆四寶。則自功德深。周匝圍繞。則他賢聖遍。此極樂真因緣也。
(Giải: “Thất trùng” biểu thị bảy
khoa đạo phẩm, “tứ bảo” biểu thị bốn
đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. “Châu táp nhiễu”:
Vô lượng trụ xứ của Phật, Bồ Tát
v.v... đều bằng bốn báu, ấy là công đức
của chính mình sâu xa, “châu táp vi nhiễu” nghĩa là những
vị hiền thánh khác đều trọn khắp, đấy
chính là nhân duyên thật sự của cõi Cực Lạc vậy).
Đây là nói tổng quát về sự thù thắng
của Tây Phương thế giới, sự thù thắng ấy
do đâu mà có? Một là do công đức của chính mình sâu
nặng, hai là do các vị hiền thánh khác [hiện diện]
trọn khắp. Chúng ta phát nguyện vãng sanh Tây
Phương, vì trong thế giới [Sa Bà] này đoạn ác
tu thiện, tích lũy công đức hết sức khó
khăn, vì hoàn cảnh tu học có rất nhiều chướng
ngại, đâu đâu cũng bị ngăn trở, quấy
nhiễu. Người sanh về Tây Phương được
bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia
trì, lại được ở cùng một chỗ với
các vị thượng thiện nhân cõi Tây Phương. Tây
Phương thế giới không có ai mang ác niệm,
được tôn là bậc nhất trong hết thảy cõi
Phật. Trong đoạn văn này, trong bảy thứ biểu
thị pháp, đại sư chỉ nêu đại lược
một thứ, tức là Thất Khoa Đạo Phẩm (Thất
Khoa Đạo Phẩm chính là ba mươi bảy đạo
phẩm, [chia thành bảy khoa] gồm Tứ Niệm Xứ,
Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ
Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo).
“Tứ bảo” là tánh
đức, tức “Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh”. Nói thông thường thì ba thứ
Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, mỗi thứ đều có
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, có thể nói là [bốn
đức ấy bao gồm] trọn khắp hết thảy
pháp, nhưng chỉ người kiến tánh mới có. Phàm
phu đang mê, đối với bốn chữ này chỉ là
“hữu danh vô thực”. Chúng ta cảm thấy thế giới
này vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Nếu
chính mình không có công đức chân thật, sẽ chẳng
thể nào cảm nhận Thường, Lạc, Ngã, Tịnh!
Mọi sự, mọi vật trong thế giới ấy
đều có bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh,
nhưng chúng ta nhìn không ra mà nghĩ cũng không nổi! Từ
mười phương thế giới, những người
vãng sanh Tây Phương vô lượng vô biên, một mình A Di
Đà Phật làm sao có thể chỉ dạy chúng sanh
đông đảo như thế? Đúng là chẳng biết
hóa thân của A Di Đà Phật là vô lượng vô biên, hóa
thân và chân thân chẳng hai, chẳng khác! Do vậy, mỗi một
người vãng sanh đều có thể thấy A Di Đà
Phật bất cứ lúc nào. Kinh nói trong cõi Tây Phương
các cây báu rất nhiều, dưới mỗi cội cây báu
đều có Tây Phương Tam Thánh thuyết pháp. “Châu táp vi nhiễu” là vô lượng
hóa Phật, Bồ Tát, đại sư gọi là “tha hiền thánh biến” (các vị
hiền thánh khác trọn khắp). Thông thường, “hiền” chỉ Tam Hiền
(Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng),
“thánh” chỉ bậc Bồ
Tát đăng địa (từ Sơ Địa trở lên).
Ở đây, “hiền” chỉ
các Bồ Tát, “thánh” chỉ A
Di Đà Phật.
(Giải)
Thử đẳng trang nghiêm, Đồng Cư độ
thị tăng thượng thiện nghiệp sở cảm,
diệc Viên Ngũ Phẩm Quán sở cảm. Dĩ duyên sanh thắng
diệu Ngũ Trần vi Thể.
(解) 此等莊嚴。同居土是增上善業所感。亦圓五品觀所感。以緣生勝妙五塵為體。
(Giải: Có những sự trang nghiêm
như thế là vì cõi Đồng Cư do thiện nghiệp
tăng thượng cảm thành, mà cũng do Ngũ Phẩm
Quán trong Viên Giáo cảm thành, [cõi Đồng Cư] lấy
Ngũ Trần[11]
thù thắng nhiệm mầu do duyên sanh làm Thể).
Đại sư lại giải thích nhân duyên của
sự trang nghiêm trong bốn cõi. [Nhân duyên thứ nhất]: Cõi
Đồng Cư là do thiện nghiệp tăng thượng
cảm thành. “Tăng thượng
thiện” chính là “chỉ
ư chí thiện” (đạt đến chí thiện), thứ
thiện nghiệp này cảm thành cõi Đồng Cư. Phàm
phu chẳng thể tu [“tăng thượng thiện”]. Ở
đây, “lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, thật
thà niệm Phật” chính là “tăng
thượng thiện nghiệp”. Điều thiện thế
gian hay xuất thế gian nào cũng chẳng thể sánh với
điều thiện này. Điều thiện này có thể
làm cho con người thoát khỏi tam giới theo chiều
ngang, vãng sanh Tịnh Độ, bất thoái thành Phật. Huống
chi, trong kinh này, đức Phật dạy “tín nguyện trì
danh, thật thà niệm Phật” chính là nhiều thiện
căn, nhiều phước đức, lắm nhân duyên.
Phàm phu thấy người niệm Phật chẳng có gì đáng
nể, nhưng chư Phật, Bồ Tát thấy người
niệm Phật đương nhiên sẽ kính trọng. Bởi
lẽ, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.
Người ấy có thể lập tức thành Phật,
long thiên, quỷ thần cùng ủng hộ.
Nhân duyên thứ
hai là [cõi Đồng Cư Tịnh Độ] do Ngũ Phẩm
Quán trong Viên Giáo cảm thành. Thiên Thai Trí Giả đại
sư nương theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh để
tu hành, tức là tu các pháp quán tưởng, quán tượng.
Lúc lâm chung, đồ chúng hỏi Ngài sanh về Tây
Phương sẽ đạt quả vị nào. Ngài nói
địa vị của Ngài chỉ là Ngũ Phẩm trong
Viên Giáo. Ngũ Phẩm trong Viên Giáo chính là cõi Phàm Thánh Đồng
Cư. Ngài nói cả đời Ngài hoằng pháp lợi sanh,
hoàn toàn chẳng chuyên tu. Ý nằm ngoài lời: Nếu Ngài chuyên
tu, phẩm vị ắt cao! Tông Thiên Thai nói đến
Ngũ Phẩm thì: Thứ nhất là tùy hỷ, thứ hai là
đọc tụng, thứ ba là giải nói (giảng kinh,
thuyết pháp), thứ tư là kiêm tu Lục Độ, thứ
năm là chánh tu Lục Độ. Đây chính là nghiệp
nhân của cõi Phàm Thánh Đồng Cư, bao gồm hết
thảy pháp môn tu học trong Đại Thừa, như kinh
Vô Lượng Thọ có nói ba bậc
vãng sanh. “Nhất tâm tam bối”
như pháp sư Từ Châu đã giảng là do Ngũ Phẩm
Quán trong Viên Giáo thành tựu[12].
Dùng sự thành tựu ấy để hồi hướng
cầu sanh Tịnh Độ thì cũng được vãng
sanh.
Cõi Đồng Cư “dùng Ngũ Trần thù thắng
nhiệm mầu do duyên sanh để làm Thể”. “Duyên”
chính là nhân duyên sanh pháp (các pháp sanh bởi nhân duyên). Thế
giới này của chúng ta cũng là duyên sanh, nhưng chỗ
sai biệt là: Trong cõi Tây Phương, Ngũ Trần thù thắng
nhiệm mầu, còn Ngũ Trần của chúng ta chẳng
thù thắng mà cũng chẳng nhiệm mầu. Vì đâu mà
có sai biệt? Hai câu trên đây đã nói rất rõ ràng. Điều
kiện tối thiểu để một người sanh
về Tây Phương thế giới là thiện nghiệp
tăng thượng. Chúng ta tạo nghiệp thiện, nghiệp
ác, là nhiễm nghiệp, chứ không phải là tịnh nghiệp.
Do vậy, [Sa Bà] được gọi là uế độ,
ô nhiễm nghiêm trọng. Trước hết là tâm địa
ô nhiễm, nên biến hiện ra thế giới toàn là lục
trần ô nhiễm.
(Giải)
Phương Tiện Tịnh Độ, thị tức Không
Quán Trí sở cảm, diệc Tương Tự Tam Quán sở
cảm. Dĩ diệu Chân Đế, vô lậu Ngũ Trần
vi Thể.
(解) 方便淨土。是即空觀智所感。亦相似三觀所感。以妙真諦。無漏五塵為體。
(Giải: Phương Tiện Tịnh Độ chính là do
Không Quán Trí cảm thành, mà cũng do Tương Tự Tam
Quán cảm thành.
Dùng
vô lậu Ngũ Trần
trong Chân Đế mầu nhiệm để làm Thể).
[Người sanh về] cõi
Phương Tiện Hữu Dư đã đoạn Kiến
Tư phiền não, nhưng chưa đoạn Trần Sa và
Vô Minh. Nghiệp nhân của cõi ấy là Không Quán Trí và Tương
Tự Tam Quán. Chúng đều là giáo nghĩa trong Viên Giáo. Tam
Quán là Không, Giả, Trung. Tương Tự Tam Quán chính là
địa vị Tương Tự trong Viên Giáo, trên thực
tế, phương pháp dụng công là Nhất Tâm Tam Quán, tức
là trong một niệm viên mãn trọn đủ Không, Giả,
Trung. Đấy là nghiệp nhân [của cõi Phương Tiện
Hữu Dư]. Tịnh Độ được cảm bởi
cái nhân ấy là Chân Đế mầu nhiệm, mà cũng là
Chân Đế chẳng thể nghĩ bàn được nói
trong Viên Giáo.
“Vô lậu Ngũ Trần vi
Thể” (Ngũ Trần vô lậu làm Thể): Thế giới
này của chúng ta là hữu lậu, còn Tịnh Độ là
vô lậu. “Lậu” (漏) là tên gọi
khác của phiền não. Có phiền não và vọng tưởng
thì là Hữu Lậu, giống như chén trà có vết nứt,
rót nước vào sẽ rịn ra, tỷ dụ trong Chân
Như bổn tánh xuất hiện vấn đề, công
đức nơi chân tánh bị rò rỉ mất. Căn bệnh
là do có phiền não, nên Bát Nhã, trí huệ, vô lượng công
đức bị rỉ mất, bị phiền não gây chướng
ngại, chẳng thể khởi tác dụng. Dẫu có khởi
tác dụng thì cũng như không. Người trong cõi Phàm
Thánh Đồng Cư chưa đoạn phiền não,
nhưng sự hưởng thụ là do công đức của
A Di Đà Phật biến hiện, [nên Ngũ Trần trong cõi
Đồng Cư] được gọi là “thắng diệu Ngũ Trần”. Bản thân cõi
Phương Tiện Hữu Dư đã có một phần
công đức, đồng thời lại được
A Di Đà Phật gia bị nên [Ngũ Trần trong cõi Phương
Tiện Hữu Dư] gọi là “vô
lậu Ngũ Trần”.
(Giải) Thật Báo Tịnh
Độ, thị diệu Giả Quán Trí sở cảm, diệc
Phần Chứng Tam Quán sở cảm. Dĩ diệu Tục
Đế, vô tận Ngũ Trần vi Thể.
(解) 實報淨土。是妙假觀智所感。亦分證三觀所感。以妙俗諦。無盡五塵為體。
(Giải: Thật Báo Tịnh
Độ do Giả Quán Trí mầu nhiệm tạo thành, mà
cũng do Phần Chứng Tam Quán cảm thành,
lấy vô tận Ngũ Trần trong Tục Đế
mầu nhiệm làm Thể).
Cõi Phương
Tiện thiên trọng tu hành cho chính mình, do trí huệ, đức
năng của chính mình còn chưa đủ, tuy có lợi
tha, nhưng trên thực tế là tự lợi. Cõi Thật
Báo không giống như vậy, năng lực của chính
mình kiện toàn, trí huệ hiển lộ, nên thiên trọng
lợi tha. Để lợi tha thì phải nhập Giả
(nhập Tục Đế), đến mười
phương thế giới giúp Phật giáo hóa. Chúng sanh có cảm,
Bồ Tát liền có ứng. Biết nguyên lý này sẽ chẳng
cảm thấy lạ lùng nữa! Pháp Thân trọn khắp hết
thảy chỗ. Giống như làn sóng vô tuyến điện[13]
trọn khắp hết thảy chỗ, chỉ cần bắt
đúng băng tần là nghe được. Bồ Tát hóa
thân cũng giống như vậy. Chúng sanh có tâm cảm, còn
Phật, Bồ Tát vô tâm mà ứng. Phương thức ứng
hiện là tùy loại hóa thân. Trước kia, lý này rất
khó hiểu, hiện thời có thể nhờ vào khoa học,
kỹ thuật để chứng minh nhiều chuyện chẳng
thể nghĩ bàn trong Phật học.
Tam Quán gồm Chân, Giả, Trung: Chân là còn gọi là
Không Quán, tức là quán bản thể của hết thảy
các pháp; Giả là quán tướng của hết thảy các
pháp. “Diệu Giả Quán Trí”
tức là biết “Có chính là Không, Không chính là Có” như Tâm
Kinh đã dạy: “Sắc bất
dị Không, Không bất dị Sắc. Sắc tức thị
Không, Không tức thị Sắc”. Đó gọi là Diệu,
mà cũng có thể gọi là Phần Chứng Tam Quán. Tam
Quán của Viên Giáo chẳng thể nghĩ bàn. Ở đây,
[từ ngữ “Diệu Giả
Quán Trí”] chỉ [quán trí của] những vị Phần
Chứng Bồ Tát trong Viên Giáo, tức bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ. Trong Tịnh Tông,
[Diệu Giả Quán Trí] được gọi là Lý nhất
tâm bất loạn. [Do Diệu Giả Quán Trí] cảm
được cõi Tịnh Độ là “diệu Tục Đế”, nó cũng là “Tục
Đế chẳng thể nghĩ bàn” trong Viên Giáo, vừa
là Chân, vừa là Giả, vừa là Trung. Quán Trí trong một
niệm có thể giác quán Không, Giả, Trung. Sắc tướng
bên ngoài đích thực là Không, Giả, Trung, đó là Tam
Đế (Chân Đế, Tục Đế, Trung Đế)
chẳng thể nghĩ bàn, không một pháp nào chẳng phải
là Tam Đế mầu nhiệm.
“Vô tận Ngũ Trần vi
Thể” (vô tận Ngũ Trần làm Thể [của cõi Thật
Báo]) giống như kinh Hoa Nghiêm đã nói: Thế giới vô
lượng vô biên. Nơi hết thảy phàm phu sanh tử
luân hồi cũng chính là nơi chư Phật, Bồ Tát tiếp
dẫn, độ thoát chúng sanh. Chúng sanh vô lượng, thế
giới vô biên, chư Phật, Bồ Tát cũng vô lượng
vô biên. “Vô tận Ngũ Trần
làm Thể” hiển thị Phật pháp rộng lớn vô
biên.
(Giải) Thường Tịch
Quang độ, thị tức Trung Quán Trí sở cảm, diệc
Cứu Cánh Tam Quán sở cảm, dĩ diệu Trung Đế,
xứng tánh Ngũ Trần vi Thể.
(解) 常寂光土。是即中觀智所感。亦究竟三觀所感。以妙中諦。稱性五塵為體。
(Giải: Cõi Thường Tịch Quang do Trung Quán Trí cảm
nên, mà cũng do Cứu Cánh Tam Quán cảm nên, dùng Ngũ Trần
xứng tánh trong Trung Đế mầu nhiệm làm Thể).
Đến chỗ
này, quả vị Phật siêu việt bốn mươi mốt
địa vị Bồ Tát. Khi ấy, vô minh phiền não
hoàn toàn đoạn sạch, công đức nơi tự
tánh viên mãn, chẳng có mảy may thiếu khuyết nào, chân
tướng của nhân sinh và vũ trụ mới hiện
tiền. Trung Quán Trí được nói ở đây chính là Cứu
Cánh Tam Quán, tức là đã đạt đến cảnh giới
viên mãn rốt ráo trong sự tu học của Đại Thừa.
Thiên Thai đại sư nói Tam Chỉ, Tam Quán, nội dung của
pháp ấy xuyên suốt Tông Môn, Giáo Hạ. Tuy Tịnh Tông
chuyên niệm một câu Phật hiệu, công phu niệm Phật
hiệu có sâu hay cạn khác nhau, nhưng xét trên cảnh giới
thì cũng chẳng trái nghịch nguyên tắc Tam Quán. Chẳng
hạn như Tịnh Tông thường nói tới Sự nhất
tâm bất loạn và Lý nhất tâm bất loạn; còn
như công phu thành phiến cũng được gộp
trong Sự nhất tâm bất loạn là vì “thành phiến”
chính là công phu ở mức độ cạn nhất của
Sự nhất tâm bất loạn. Có thể khống chế
Kiến Tư phiền não chẳng cho chúng nó hiện hành thì
gọi là “thành phiến”. Nếu đoạn được
Kiến Tư, thì là viên mãn chứng được “Sự
nhất tâm”, đoạn được bốn mươi
mốt phẩm vô minh chính là viên mãn chứng được
“Lý nhất tâm”. Nếu một câu Phật hiệu cũng trải
qua những cảnh giới này, tương ứng với nội
hàm[14]
của phép Chỉ Quán như Thiên Thai đại sư
đã giảng, cõi Tịnh Độ cảm được
sẽ là Diệu Trung Đế. “Xứng
tánh Ngũ Trần làm Thể”, đến lúc ấy,
Ngũ Trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp hoàn
toàn là tự tánh, do tánh đức hiện ra, là lý thể của
cõi Thường Tịch Quang.
Đoạn
văn giải thích này chứa đựng ý nghĩa rất
sâu, cảnh giới rất cao, người tu hành đã lâu
ít nhiều gì cũng thấu hiểu được mấy
phần, đến đây mới là đạt đến
rốt ráo viên mãn. Tuy Tây Phương có bốn cõi, nhưng
khác với bốn cõi của mười phương thế
giới. Trong mười phương, bốn cõi Tịnh
Độ khác biệt, trong cõi Đồng Cư chẳng thể
thấy được Bồ Tát, La Hán trong cõi Thật Báo
hoặc cõi Phương Tiện. Bốn cõi Tịnh Độ
của Tây Phương là hiền thánh ở cùng một chỗ;
hễ ai sanh về đó đều có thể thấy
được. Các kinh điển Đại Thừa khác
chưa hề nói tới chỗ thù thắng này.
(Giải) Dục linh dị giải,
tác thử phân biệt. Thật tứ độ trang nghiêm,
vô phi nhân duyên sở sanh pháp, vô bất tức Không, Giả,
Trung. Sở dĩ Cực Lạc Đồng Cư tịnh
cảnh, Chân, Tục viên dung, bất khả hạn lượng,
hạ giai phỏng thử.
(解) 欲令易解。作此分別。實四土莊嚴。無非因緣所生法。無不即空假中。所以極樂同居淨境。真俗圓融。不可限量。下皆倣此。
(Giải: Muốn cho [người đọc]
dễ hiểu, nên phân biệt như vậy. Thật ra, sự
trang nghiêm trong bốn cõi không gì chẳng phải là pháp do
nhân duyên sanh, không gì chẳng chính là Không, Giả, Trung. Do vậy,
tịnh cảnh trong cõi Đồng Cư của Cực Lạc
là Chân và Tục viên dung chẳng thể hạn lượng.
Những [lời giải thích trong những] phần dưới
đều phỏng theo [cách luận định] ở
đây).
Trạng huống chân thật
trong Tây Phương thế giới là bốn cõi viên dung,
nhưng Phật hoàn toàn sử dụng những kiến thức
thông thường, so đo của phàm phu để giới
thiệu cõi Tây Phương cho chúng ta. Nói “cõi Tây
Phương có các đẳng cấp Thanh Văn, Bồ Tát”
thì chính là đức Phật đã nói một cách phương
tiện cho chúng ta dễ hiểu. Chứ thật ra, trạng
huống của A Di Đà Phật và Tây Phương Cực
Lạc thế giới là: Trên thực tế, tuy có bốn
cõi, nhưng viên dung, không hề cách biệt. Nói “người, trời” nhằm
biểu thị pháp sanh bởi nhân duyên, nói “La Hán” nhằm biểu thị [các pháp do nhân duyên
sanh ấy] chính là Không, nói “Bồ
Tát” nhằm biểu chúng chính là Giả, nói “Phật” nhằm biểu thị
chúng chính là Trung. Bốn cõi đều là Trung. Ở đây
là nói phương tiện, chứ trên thực tế, tịnh
cảnh trong cõi Đồng Cư của Cực Lạc là “Chân
và Tục viên dung, vừa là Không, vừa là Giả, vừa
là Trung” chẳng thể hạn lượng!
(Giải) Vấn: Tịch Quang duy
lý tánh, hà đắc hữu thử trang nghiêm?
Đáp: Nhất nhất trang
nghiêm, toàn thể lý tánh. Nhất nhất lý tánh, cụ túc
trang nghiêm, phương thị chư Phật cứu cánh y quả.
Nhược Tịch Quang bất cụ thắng diệu
ngũ trần, hà dị Thiên Chân Pháp Tánh?
(解) 問。寂光唯理性。何得有此莊嚴。答。一一莊嚴。全體理性。一一理性。具足莊嚴。方是諸佛究竟依果。若寂光不具勝妙五塵。何異偏真法性。
(Giải: Hỏi: - Tịch Quang chỉ là
lý tánh, sao lại có những thứ trang nghiêm ấy?
Đáp: - Trong mỗi
một thứ trang nghiêm, toàn bộ cái Thể của nó là
lý tánh. Mỗi một lý tánh có đầy đủ sự
trang nghiêm thì mới là y báo rốt ráo nơi quả vị của
chư Phật. Nếu cõi Tịch Quang chẳng trọn đủ
Ngũ Trần thù thắng nhiệm mầu thì có khác gì Thiên
Chân Pháp Tánh?)
Hành giả do nghiên cứu kinh luận
tràn lan quá mức liền nêu ra nghi vấn, cho rằng “ba cõi
trước trong bốn cõi Tịnh Độ là Sự, còn
cõi Tịch Quang là Lý”. Sự thì có tướng, chứ Lý làm
sao có tướng được? Sao lại nói đến
sự trang nghiêm [trong cõi Tịch Quang]? Người ấy
thật chẳng biết Sự và Lý là một, chẳng phải
hai. Xét theo Sự thì có thể nói tới sự trang nghiêm, nhưng
xét theo Lý, đương nhiên cũng có thể nói tới sự
trang nghiêm. Nói theo mặt Sự, cõi Phương Tiện, cõi
Thật Báo, toàn thể đều do Lý thể biến hiện
ra. Do vậy, nói: “Mỗi một
trang nghiêm, toàn bộ cái Thể của nó là lý tánh”. Chẳng
riêng gì A Di Đà Phật là như thế, mà y báo của hết
thảy chư Phật đều chẳng ra ngoài lệ ấy.
Chỉ là do Bồ Tát và phàm phu nhìn thấy, cảm nhận
khác nhau! Phật là giác chứ
không mê, phàm phu là mê chứ chẳng giác, sai biệt ở chỗ
này.
Nếu luận về Lý và Sự thì phàm và thánh giống
hệt như nhau. Nếu cõi Tịch Quang chẳng trọn
đủ Ngũ Trần thù thắng nhiệm mầu thì có
khác gì La Hán trong Tiểu Thừa? Tiểu Thừa La Hán khôi
thân diệt trí[15],
nhập Thiên Chân Niết Bàn, thứ gì cũng chẳng có, vạn
pháp đều là Không, giống như Tứ Không Thiên,
nhưng Phật thì có Ngũ Trần thù thắng mầu nhiệm
để lợi lạc khắp các chúng sanh.
Đoạn văn chú giải
này đã khải thị cho ta mấy điều sau:
1. Pháp giới vốn là Nhất
Chân, kinh Hoa Nghiêm nói điều này rất thấu triệt,
pháp giới vốn luôn là Nhất Chân. Chân thì chẳng biến
đổi, Giả sẽ bị biến đổi. Đeo
cặp kính màu sẽ nhìn thấy màu sắc của những
thứ bên ngoài bị biến đổi hoàn toàn; thật
ra, sự vật bên ngoài hoàn toàn chẳng biến đổi.
Vốn là Nhất Chân mà biến thành mười pháp giới!
Mười pháp giới là do cảm nhận sai lầm, chẳng
phải là sự thật. Sự thật là Nhất Chân. Nhận
biết sai lầm phát sanh từ vọng tưởng, chấp
trước; do vọng tưởng, chấp trước
mà thấy pháp giới khác nhau. Nếu trừ sạch vọng
tưởng, chấp trước, sẽ thấy được
Nhất Chân pháp giới, vì nó vốn ở ngay trước
mắt. Đức Phật nói mười pháp giới chỉ
do Thức biến, chúng là giả; Nhất Chân pháp giới
chỉ do tâm hiện, nó là thật. Có thể thấy rằng:
Chân và Giả giống hệt như nhau, Lý và Sự chẳng
hai, hễ gỡ cặp kính xuống thì sẽ giống hệt.
2.
Kinh còn dạy: “Hết thảy
pháp sanh từ tâm tưởng”. Đây chính là “duy thức sở biến”. Chủ
thể của sự biến hiện (năng biến) là
tâm tưởng, cái được biến hiện (sở
biến) chính là vạn vật và cảnh giới. Lý tuy sâu,
nhưng là sự thật. Phàm phu chỉ có thể thấy
được cõi Đồng Cư. Thanh Văn sống
trong cõi Phương Tiện, có thể thấy cõi Đồng
Cư. Bồ Tát có thể thấy cõi Phương Tiện lẫn
cõi Đồng Cư. Chỉ có Phật là có thể thấy
các cõi. Đây chính là cách nói thông thường; nếu sanh về
Tây Phương thì do bốn cõi viên dung, cho nên [chúng sanh trong
cõi Cực Lạc] đều có thể thấy trọn hết
[bốn cõi Tịnh Độ]. Đức Phật khuyên con
người niệm Phật là do đạo lý này. Trong những
thế giới Phật phương khác, bốn cõi tách rời,
nhưng người trong cõi Tây Phương cũng có thể
thấy khắp bốn cõi Tịnh Độ của hết
thảy thế giới chư Phật trong mười
phương, thật chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Cực
Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát
công đức thủy, sung mãn kỳ trung. Trì để thuần
dĩ kim sa bố địa, tứ biên giai đạo, kim,
ngân, lưu ly, pha lê hợp thành. Thượng hữu lâu các,
diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã
não, nhi nghiêm sức chi. Trì trung liên hoa, đại như xa
luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc
xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu
hương khiết.
(Giải) Thượng minh trụ
xứ, kim minh sanh xứ. Bảo trì kim, ngân đẳng sở thành, bất đồng
thử phương thổ, thạch dã. Bát công đức
thủy giả: Nhất trừng thanh, dị thử
phương hồn trược. Nhị thanh lãnh, dị hàn
nhiệt. Tam cam mỹ, dị hàm đạm liệt vị.
Tứ khinh nhuyễn, dị trầm trọng. Ngũ nhuận
trạch, dị súc hủ thốn sắc. Lục an hòa,
dị cấp bạo. Thất trừ cơ khát, dị sanh
lãnh. Bát trưởng dưỡng chư căn, dị tổn
hoại chư căn, cập lệ lệ tăng bệnh
một nịch đẳng dã. Sung mãn kỳ trung, dị khô
kiệt, phiếm lạm. Để thuần kim sa, dị ô
nê.
(經) 又舍利弗。極樂國土。有七寶池。八功德水。充滿其中。池底純以金沙布地。四邊階道。金銀琉璃。玻璃合成。上有樓閣。亦以金銀琉璃。玻璃硨磲。赤珠瑪瑙。而嚴飾之。池中蓮華。大如車輪。青色青光。黃色黃光。赤色赤光。白色白光。微妙香潔。
(解) 上明住處。今明生處。寶池金銀等所成。不同此方土石也。八功德水者。一澄清。異此方渾濁。二清冷。異寒爇。三甘美。異鹹淡劣味。四輕軟。異沉重。五潤澤。異縮腐褪色。六安和。異急暴。七除饑渴。異生冷。八長養諸根。異損壞諸根。及沴戾增病沒溺等也。充滿其中。異枯竭汎濫。底純金沙。異汙泥。
(Chánh kinh: Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực
Lạc có ao bằng bảy báu, nước tám công đức
chứa đầy trong ấy. Đáy ao thuần dùng cát vàng
trải đất, bậc lên, lối đi ở bốn
phía đều do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành.
Phía trên có lầu, gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha
lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng. Hoa sen trong ao
to như bánh xe, hoa màu xanh tỏa ánh sáng xanh, hoa màu vàng tỏa
ánh sáng vàng, hoa màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ, hoa màu
trắng tỏa ánh sáng trắng, vi diệu, thơm, sạch.
Giải: Đoạn trên nói về
chỗ ở, đoạn này nói về chỗ [hành nhân vãng
sanh Tịnh Độ sẽ] sanh ra. Ao báu bằng vàng, bạc
v.v... hợp thành, chẳng giống như phương này
ao bằng đất, đá. Nước tám công đức
là:
1. Trong lắng,
khác với nước phương này vẩn đục,
dơ bẩn.
2. Trong mát, khác với
nước phương này nóng, lạnh.
3. Ngọt
ngào, khác với nước
phương này mặn, nhạt, hoặc có vị hèn tệ.
4. Mềm nhẹ,
khác với nước phương này thô nặng.
5. Tươi nhuận, khác với
nước phương này thối rữa, màu sắc bệch
bạc.
6. An hòa, khác với
nước phương này chảy xiết dữ dội.
7. Trừ đói
khát, khác với nước phương này [khiến người
uống vào hay đụng đến] phát rét.
8. Tăng trưởng
các căn, khác với nước phương này tổn hoại
các căn và tăng thêm những bệnh dịch dữ dội,
chết chìm v.v...
“Đầy ắp trong ấy”:
Khác với nước phương này hoặc khô cạn,
hoặc tràn ngập. “Đáy ao thuần là cát bằng vàng”
khác với phương này đáy ao là bùn lầy).
Đoạn
kinh này chỉ rõ sanh về Tây Phương là “liên hoa hóa sanh”, không có thai sanh
(sanh trong bào thai) và các thứ khổ khác. Hoàn cảnh của
chỗ sanh là ao báu do bảy chất báu hợp thành. A Di
Đà Phật phước cực lớn, vô lượng kiếp
tu trì, mỗi một kẻ vãng sanh tối thiểu đều
tu thiện nhân tăng thượng, phước báo của
chúng sanh quá lớn. Do vậy, hoàn cảnh y báo đều bằng
các thứ báu hợp thành, hoàn toàn khác Sa Bà. Nước
cũng như vậy, có rất nhiều ưu điểm,
rõ ràng nhất là tám điều:
(1)
Trong lắng: Chẳng có mảy may tạp chất nào.
(2)
Trong mát: Vĩnh viễn giữ cùng một nhiệt độ.
(3) Ngon
ngọt: Hết sức ngon miệng.
(4) Mềm nhẹ: Có
thể chảy ngược lên trên.
(5)
Tươi nhuận: Chẳng bị hư rữa.
(6) An
hòa: Không có sóng to, sóng dữ.
(7) Trừ
đói khát: Chẳng những hết khát mà còn khỏi
đói.
(8)
Trưởng dưỡng các căn: Khiến cho con người
khỏe mạnh, sống lâu.
Quán Kinh nói nước
[trong cõi Cực Lạc] có thể chảy quanh thân cây lên tận
ngọn cây, cực kỳ mềm mại, nhẹ nhàng, đẹp
mắt. Không chỉ có rất nhiều ưu điểm
như thế mà còn có thể thuyết pháp. Nước chảy
vang ra tiếng diễn nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô
Ngã, các Ba La Mật và các pháp Đại, Tiểu Thừa.
Nước vốn là vật vô tình, A Di Đà Phật dùng
trí huệ đức năng của chính mình biến nó trở
thành công cụ để thuyết pháp, nhằm thỏa mãn
nhu cầu nghe pháp của chúng sanh, thật chẳng thể
nghĩ bàn!
(Giải) Giai đạo tứ bảo,
dị chuyên thạch. Bệ cấp danh Giai, thản đồ
viết Đạo. Trùng ốc vi lâu, sầm lâu danh các. Thất
bảo lâu các, dị thử phương thổ, mộc,
đan thanh dã. Lâu các thị trụ xứ cập pháp hội
xứ. Đản đắc bảo trì, liên bào khai phu, tiện
khả đăng tứ ngạn, nhập pháp hội, kiến
Phật, văn pháp dã. Hoa luân giả,
Luân Vương kim luân, đại tứ thập lý, thả
cử tối tiểu giả ngôn. Nhược cứ Quán
Kinh, cập Vô Lượng Thọ hội, đại tiểu
thật bất khả lượng. Do Đồng Cư Tịnh
Độ, thân tướng bất đẳng cố dã.
Thanh sắc danh Ưu Bát La, hoàng sắc danh Câu Vật Đầu,
xích sắc danh Bát Đầu Ma, bạch sắc danh Phân
Đà Lợi. Do sanh thân hữu quang, cố liên bào diệc hữu
quang. Nhiên Cực Lạc liên hoa, quang sắc vô lượng,
thử diệc lược ngôn nhĩ. “Vi diệu
hương khiết”: Lược thán liên hoa tứ đức.
Chất nhi phi hình viết Vi. Vô ngại viết Diệu. Phi
hình tắc phi trần, cố Khiết dã. Liên bào như thử,
sanh thân khả tri.
(解) 階道四寶。異磚石。陛級名階。坦途曰道。重屋為樓。岑樓名閣。七寶
樓閣。異此方土木丹青也。樓閣是住處。及法會處。但得寶池。蓮胞開敷。便可登四岸。入法會。見佛聞法也。華輪者。輪王金輪。大四十里。且舉最小者言。若據
觀經。及無量壽會。大小實不可量。由同居淨土。身相不等故也。青色名優缽羅。黃色名拘勿頭。赤色名缽頭摩。白色名芬陀利。由生身有光。故蓮胞亦有光。然極
樂蓮華。光色無量。此亦略言耳。微妙香潔。略歎蓮華四德。質而非形曰微。無礙曰妙。非形則非塵。故潔也。蓮胞如此。生身可知。
(Giải: Bậc lên, lối đi bằng
bốn báu nhằm phân biệt khác [với cõi này, bậc
lên, lối đi] bằng gạch, đá. Có tầng bậc
gọi là Giai, đường
bằng phẳng gọi là Đạo. Nhà
nhiều tầng là Lâu, lầu cao là Các. Lầu gác bằng bảy
báu, khác với phương này, lầu các được dựng
bằng đất, gỗ, sơn màu xanh đỏ. Lầu
gác là chỗ ở và nơi cử hành pháp hội. Nhưng hễ
được sanh vào ao báu, thì khi búp sen nở, liền có
thể lên bốn bờ, vào pháp hội, thấy Phật,
nghe pháp. Hoa sen to như bánh xe:
Kim luân của Chuyển Luân thánh vương to bốn
mươi dặm. Hơn nữa, ở đây chỉ nêu ra
hoa nhỏ nhất. Nếu căn cứ theo Quán Kinh và pháp hội
Vô Lượng Thọ [trong kinh Đại Bảo Tích] thì
hoa sen lớn hay nhỏ thật sự chẳng thể
lường được, vì thân tướng [của những
người] trong cõi Đồng Cư khác nhau. Hoa sen màu xanh
gọi là Ưu Bát La (Utpala), hoa màu vàng gọi là Câu Vật
Đầu (Kumuda), hoa đỏ gọi là Bát Đầu Ma
(Padma), hoa trắng gọi là Phân Đà Lợi (Pundarīka).
Do thân của người sanh về
đó có quang minh nên búp sen cũng có quang minh. Nhưng hoa sen
trong Cực Lạc màu sắc và quang minh vô lượng, ở
đây cũng chỉ là nói đại lược mà thôi. “Vi
diệu hương khiết” là từ ngữ khen ngợi
đại lược bốn đức của hoa sen. Có
chất mà không có hình thì gọi là Vi. Vô ngại là Diệu. Không
có hình thì không có trần, nên là Khiết. Búp sen như thế
thì thân của người được vãng sanh [cứ suy
theo đó] sẽ có thể biết được).
Chung quanh ao bảy báu là
đường đi, đều bằng bảy báu tạo
thành. Lâu (樓) có hai tầng, còn Các (閣) có hai, ba tầng như hình bảo
tháp, trên đỉnh nhỏ dần. Những vật liệu
xây dựng đều bằng bảy báu. Lâu các là nơi ở, mà cũng là chỗ để giảng
kinh, thuyết pháp. Chúng sanh từ mười phương
thế giới sanh về Tây Phương đều là liên
hoa hóa sanh. Hoa sen ở trong ao bảy báu. Hoa nở, thấy
Phật, ngộ Vô Sanh, cảnh giới ấy là cõi Thật
Báo Trang Nghiêm, đều thuộc về cảnh giới của
Pháp Thân đại sĩ, thấy được Báo Thân của
Phật. Khi hoa chưa nở cũng được thấy
Phật, nhưng thấy Ứng Hóa Thân của Phật. Chính
mình chưa tu đến cảnh giới ấy, nhưng nhờ
bổn nguyện, oai thần của A Di Đà Phật gia
trì, cũng có hưởng thụ cõi Thật Báo. Nếu có
thể “hoa nở, thấy Phật” thì chính mình thật sự
đạt đến cảnh giới ấy.
Kinh nói hoa sen to như bánh xe. Trong lời chú giải
có nói [bánh xe ở đây là] kim luân (bánh xe vàng) của Luân
Vương (Cakra-varti-ràja:
Chuyển Luân Thánh Vương) to bốn mươi dặm.
Ở đây, lời chú giải cho biết trên thế giới
có người thống trị, được gọi là
Luân Vương, ông ta là người thống trị toàn thế
giới. Trong lịch sử, chưa có Luân Vương xuất
hiện. Đức Phật nói Luân Vương thống trị
một đơn vị thế giới được mặt
trời, mặt trăng chiếu sáng, gồm bốn đại
bộ châu, lấy núi Tu Di làm trung tâm, mặt trời, mặt
trăng xoay quanh núi Tu Di. Trước kia, người ta
thường nghĩ một thế giới là một hệ
Thái Dương, lấy mặt trời
làm trung tâm. Trên thực tế, kinh nói lấy núi Tu Di làm trung
tâm. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cho rằng mặt trời
xoay quanh hệ Ngân Hà, trung tâm của hệ Ngân Hà
được các nhà Thiên Văn Học gọi là lỗ
đen (black hole)[16].
Cái lỗ đen ấy có thể là núi Tu Di. Nếu thuyết
ấy là sự thật thì một đơn vị thế
giới chính là một hệ Ngân Hà. Người thống trị
cả một hệ Ngân Hà gọi là Kim Luân Vương.
Người cai quản ba phần tư hệ Ngân Hà là Ngân
Luân Vương. Cai quả một nửa hệ Ngân Hà là
Đồng Luân Vương. Người cai quản một
phần tư hệ Ngân Hà là Thiết Luân Vương. Tuy
các vị vua này tồn tại, chúng ta cũng không thấy họ
được. Luân vương có một vật báu, Ngài
thường dùng nó làm phương tiện giao thông, trong một
ngày đêm có thể tuần tra giáp vòng hệ Ngân Hà.
Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh đều
nói phàm ai sanh về Tây Phương thế giới thì thân thể,
dung mạo, sự thụ dụng của người
đó sẽ được A Di Đà Phật gia trì, đều
cùng giống hệt, chỉ riêng hoa sen là lớn hay nhỏ
khác nhau; bởi lẽ, hoa sen lớn hay nhỏ là do công phu
niệm Phật của chính mình sai khác. Do vậy, Ngẫu
Ích đại sư nói: “Được
vãng sanh hay không, hoàn toàn do có tín nguyện hay không. Phẩm vị
cao thấp, hoàn toàn do trì danh sâu hay cạn”. Hoa sen và phẩm
vị có quan hệ mật thiết.
Người
ở Tây Phương thế giới thân có quang minh, hoa sen
cũng có quang minh. Quang minh có vô lượng màu, ở
đây chỉ nói có bốn màu là nói đại lược.
Hoa sen vi diệu thơm sạch, cũng bằng các chất
báu hợp thành, hình dạng tùy theo niệm lực mà lớn
hay nhỏ khác nhau. Hết thảy thụ dụng trong Tây
Phương không gì chẳng thuận theo lòng muốn, tự
tại vô ngại chẳng thể nghĩ bàn, dẫu có hình
sắc cũng thông suốt vô ngại, tức là “Sự Sự
vô ngại” như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Cảnh giới từ
chư thiên trở lên đã là Sự Sự vô ngại, huống
hồ sự trang nghiêm nơi quả địa Như Lai
này! Chúng sanh trong mười phương thế giới
nghe nói danh hiệu A Di Đà Phật, biết ở
phương Tây có một thế giới tên Cực Lạc.
Nếu có thể tin tưởng, phát nguyện, niệm Phật
cầu sanh thì trong ao bảy báu ở Tây Phương sẽ
trổ một búp sen, trên hoa có ghi tên họ của chính mình.
Chúng ta niệm Phật trong nhân gian, hoa sen trong ao bảy báu
sẽ càng niệm càng lớn dần. Nếu đổi
sang tin tưởng pháp môn khác hoặc tham Thiền, hoặc
học Mật, hoa ấy liền khô héo. Hết thảy cảnh
sắc trong Tây Phương thế giới đều là bất
sanh bất diệt, chỉ riêng hoa sen là biến hóa vô
thường. Trong Đại Kinh (kinh Vô Lượng Thọ)
có nói các thứ báu trong Tây Phương thế giới không chỉ
quang minh, màu sắc vi diệu mà còn có mùi thơm. Vì thế,
Tây Phương còn được gọi là Hương
Quang Trang Nghiêm (cõi được trang nghiêm bằng hương
thơm và quang minh), quả thật là cảnh tượng tột
bậc mầu nhiệm. Hoa sen không có hình dạng nhất
định, tuy biến hóa, hiện hữu, nhưng trọn
chẳng phải là Sắc Trần. Vì thế, không bị ô
nhiễm, thuần là khiết tịnh, chỉ do tâm hiện
ra. Hoa sen thù thắng viên mãn như thế chính là chỗ
để [người vãng sanh] sanh vào. Vì thế, thân thể,
sắc tướng của người ấy so với hoa
sen càng thù thắng hơn nữa!
(Kinh) Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ
thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
(Giải)
Minh thượng trụ xứ, sanh xứ, chủng chủng
trang nghiêm, giai thị A Di Đà Phật đại nguyện,
đại hạnh, xứng tánh công đức chi sở
thành tựu. Cố năng biến nghiêm tứ chủng Tịnh
Độ, phổ nhiếp thập phương tam thế
nhất thiết phàm thánh, linh vãng sanh dã. Phục thứ, Phật
dĩ đại nguyện, tác chúng sanh đa thiện
căn chi nhân, dĩ đại hạnh, tác chúng sanh đa
phước đức chi duyên, linh tín nguyện trì danh giả
niệm niệm thành tựu như thị công đức,
nhi giai thị dĩ thành, phi kim, phi đương.
(經) 舍利弗。極樂國土成就如是功德莊嚴。
(解) 明上住處生處。種種莊嚴。皆是阿彌陀佛。大願大行。稱性功德之所成就。故能遍嚴四種淨土。普攝十方三世一切凡聖。令往生也。復次佛以大願。作眾生多善根之因。以大行。作眾生多福德之緣。令信願持名者。念念成就如是功德。而皆是已成。非今非當。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi
Phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức
trang nghiêm như thế đấy.
Giải: Câu này nói
rõ các thứ trang nghiêm nơi chỗ ở và chỗ sanh về
đều được thành tựu bởi đại
nguyện, đại hạnh và công đức xứng tánh
của A Di Đà Phật. Vì thế, có thể trang nghiêm trọn
khắp bốn thứ Tịnh Độ, có thể nhiếp
khắp hết thảy phàm thánh trong mười
phương thế giới vãng sanh. Lại nữa, Phật
dùng đại nguyện để làm cái nhân nhiều thiện
căn cho chúng sanh, dùng đại hạnh để làm cái
nhân lắm phước đức cho chúng sanh, khiến những
kẻ tín nguyện trì danh trong mỗi niệm thành tựu
công đức như thế, [những công đức
như thế] đều là đã thành, chứ không phải
là trong hiện tại hay tương lai mới thành).
Chỗ
ở trong Tây Phương thế giới là đại hoàn
cảnh, còn chỗ để thọ sanh là tiểu hoàn cảnh,
đều được thành tựu bởi đại
nguyện đại hạnh và công đức xứng tánh của
A Di Đà Phật. Nói theo mặt Lý, trí huệ, đức
năng, tài nghệ của mười phương chư
Phật đều là bình đẳng, bổn nguyện
độ sanh cũng giống nhau, nhưng phương pháp
tiếp dẫn chúng sanh hoàn toàn khác biệt. Do duyên bất
đồng nên A Di Đà Phật đặc biệt hữu
duyên với mười phương chúng sanh. Duyên liên quan
đến nguyện. Tuy hằng ngày niệm câu “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ” trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện,
nhưng trên thực tế, [chúng ta] hoàn toàn không có tâm lượng
ấy. Chỉ nghĩ độ chúng sanh trong thành của
mình hay trong nước của mình là đã khá lắm rồi,
nhưng vẫn còn hữu hạn. Mỗi một vị Phật
lấy một đại thiên thế giới làm khu vực
giáo hóa, chỉ riêng A Di Đà Phật nguyện lực vô
lượng vô biên, không có giới hạn. Lúc Ngài còn tu nhân,
đã phát nguyện không giống những vị Phật
khác. Hết thảy chư Phật có duyên với một thế
giới nào đó, liền đến thế giới ấy
để hóa độ chúng sanh. Nhưng thế giới
được Phật giáo hóa ấy vốn đã có sẵn,
ắt [chư Phật] phải dời sang thế giới ấy
để biến lời phát nguyện thành sự thật.
Tây Phương thế giới là do A Di Đà Phật sáng tạo,
phàm những ai muốn sanh sang đấy phải hội
đủ điều kiện là “tín, nguyện, trì danh, trong
tâm thanh tịnh”. Nếu không, sẽ chẳng có hy vọng
vãng sanh.
A Di
Đà Phật nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn,
rộng lớn, bao la, sâu thẳm, tích lũy công đức,
do công đức xứng tánh lưu lộ từ Chân Như
bổn tánh mà thành tựu. Nói theo Lý, thế giới này của
chúng ta là xứng tánh, nhưng nói theo Sự thì chẳng xứng
tánh; bởi lẽ, bổn tánh của chúng ta có chướng
ngại, có Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh. Mọi sự,
mọi vật quả thật xứng tánh, nhưng rọi
qua ba thứ phiền não ấy, đều bị biến
chất, khác hẳn Chân Tánh. Công đức xứng tánh ở
Tây Phương được bổn nguyện, oai thần
của A Di Đà Phật gìn giữ. Người từ
mười phương sanh về Cực Lạc, ai nấy
đều được tự tại, đều có thể
tự độ. Do vậy, ở Tây Phương, ba thứ
phiền não chẳng sanh, hết thảy những thứ xứng
tánh chẳng bị biến chất. Đồng thời, [cõi
Cực Lạc thành tựu trang nghiêm] cũng là do oai thần
của mười phương hết thảy chư Phật
Như Lai gia trì A Di Đà Phật và thế giới Cực
Lạc, cũng như gia trì mỗi một người niệm
Phật vãng sanh. Trong hết thảy các cõi Phật, chỉ
có Tây Phương Cực Lạc thế giới là vĩnh
viễn giữ được công đức xứng tánh,
không bị biến chất mảy may, đúng là chẳng thể
nghĩ bàn. Thế giới này của chúng ta là uế độ,
xã hội rất loạn, phong khí bại hoại, tham ăn
của hối lộ, làm việc trái pháp, chỗ nào cũng
đều như thế. Do vậy, người thông minh thật
sự giác ngộ liền buông xuống hết thảy, nhất
tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Phật Di
Đà do đại nguyện, đại hạnh, sáng lập
một trường sở tu học tốt đẹp, có bốn
thứ Tịnh Độ trang nghiêm trọn khắp, viên
dung vô ngại, nhiếp trọn khắp hết thảy phàm
thánh trong mười phương ba đời sanh về đấy.
Ngay cả Phật cũng muốn vãng sanh [Cực Lạc].
Tông Thiên Thai nói những quả vị Phật trong Tạng
Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo, trừ quả vị Phật
trong Viên Giáo ra, những quả vị trong ba giáo Tạng,
Thông, Biệt đều đã chứng quả nhưng
chưa viên mãn, cũng muốn vãng sanh.
Có nguyện thì ắt phải có
hạnh, bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật
đều đã viên mãn; Ngài đã thành Phật mười
kiếp, chứng tỏ mỗi một nguyện đều
được thực hiện viên mãn. Cùng một đạo
lý, chúng ta hiện thời đang tu nhân, nguyện đã phát
cũng phải được thực hiện, tận tâm
tận lực làm, tuyệt đối chớ nên nói xuông, mà
phải thật sự có trí huệ, phương tiện
thiện xảo thì mới có thể tương ứng với
Phật đôi chút. Kinh dạy: “Chẳng
thể dùng chút thiện căn, phước đức, nhân
duyên để được sanh về cõi ấy”.
Người học pháp môn này rất nhiều, người
vãng sanh ít ỏi. Lắng lòng quán sát sẽ thấy là do thiện
căn, phước đức chẳng đủ. Niệm
Phật là phải biến thiện căn, phước
đức của A Di Đà Phật thành thiện căn,
phước đức của chính mình, biến như thế
nào, đó là vấn đề. Kinh Vô Lượng Thọ dạy
“người thiện căn, phước đức chín muồi
sẽ chịu tiếp nhận, còn kẻ chưa chín muồi,
có đưa cho họ, họ cũng chẳng muốn”. Thiện
căn, phước đức chín muồi tuyệt đối
chẳng phải là ngẫu nhiên. Trong kinh Vô Lượng Thọ,
vương tử A Xà Thế và năm trăm vị trưởng
giả trong đời quá khứ đã từng cúng dường
bốn trăm ức Phật, nghe Phật Thích Ca giảng
kinh Vô Lượng Thọ bèn mong mỏi trong tương lai
chính mình sẽ thành Phật giống hệt A Di Đà Phật,
nhưng hoàn toàn chẳng phát nguyện vãng sanh. Thiện
căn cúng dường bốn trăm ức Phật vẫn
chưa đủ, chưa thể khơi gợi bọn họ
phát ra lòng tin chân thật, nguyện thiết ra, thật là
khó nói! Có những người vừa nghe nói pháp môn Niệm
Phật liền lập tức tiếp nhận, sốt sắng
phụng hành, tin giữ không sai chạy, phần nhiều là
hạng ông già bà cả ăn chay trong làng quê! Những
người ấy từ vô thỉ kiếp
đến nay đã cúng dường vô lượng chư
Phật Như Lai, thiện căn, phước đức
đã chín muồi, đã đem thân, tâm, thế giới,
buông xuống hết thảy. Một niệm tương ứng
với đại nguyện, đại hạnh của A Di
Đà Phật, thiện căn, phước đức của
chính mình đã chín muồi, đồng thời lại tiếp
nhận thiện căn, phước đức của A Di
Đà Phật để tăng thêm cho bản thân, lẽ
đâu họ chẳng vãng sanh? Biểu hiện của sự
chín muồi thật sự thì thứ nhất là hoan hỷ,
trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật
ra, không có chuyện gì khiến họ hoan hỷ. Niệm Phật
như thế sẽ có thể biến bổn nguyện của
A Di Đà Phật thành thiện căn tăng thượng
của chính mình, biến đại hạnh của A Di
Đà Phật thành phước đức tăng thượng
của chính mình.
“Phi kim,
phi đương” có nghĩa là công đức của
A Di Đà Phật đã thành tựu viên mãn, chẳng phải
là hiện thời mới tu, cũng chẳng phải là sẽ
tu trong tương lai, [công đức của Phật] khiến
cho người tín nguyện trì danh, niệm niệm thành tựu
công đức giống hệt như thế. Trong lúc này,
người niệm Phật còn chưa vãng sanh, còn đang
trong thời gian tu hành, “một
niệm tương ứng một niệm Phật, niệm
niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Nếu
tương ứng thì tâm của hành nhân sẽ giống
như tâm Phật.
(Giải) Thử tắc
dĩ A Di chủng chủng trang nghiêm, tác tăng thượng
bản chất, đới khởi chúng sanh tự tâm chủng
chủng trang nghiêm, toàn Phật tức sanh, toàn tha tức tự,
cố viết: “Thành tựu như thị công đức
trang nghiêm”.
(解) 此則以阿彌種種莊嚴。作增上本質。帶起眾生自心。種種莊嚴。全佛即生。全他即自。 故曰成就如是功 莊
嚴。
(Giải: Đây chính là dùng các thứ trang
nghiêm của A Di Đà Phật để làm bản chất
tăng thượng nhằm dẫn khởi những thứ
trang nghiêm trong tự tâm của chúng sanh. Toàn thể Phật
chính là chúng sanh, toàn thể Tha chính là Tự. Vì thế, nói:
“Thành tựu công đức trang nghiêm như thế đấy”).
Trong Phật pháp, kinh luận,
tông phái tuy nhiều, nhưng quy nạp lại thì chẳng
ngoài hai tông là Tánh và Tướng, cũng tức là hai tông
Không và Hữu. Ở đây, đại sư nói các thứ
trang nghiêm của A Di Đà Phật đều được
thành tựu bởi công đức xứng tánh của A Di
Đà Phật; điều này thuộc về Tánh Tông. Nói “làm
bản chất tăng thượng nhằm dẫn khởi
những thứ trang nghiêm trong tự tâm của chúng sanh” thì
thuộc về Tướng Tông. Nói tới bản chất
và dẫn khởi thì tôi nêu lên một tỷ dụ. Giống
như cuộn phim trong máy chụp hình, đó là bản chất,
là rỗng rang. [Ánh sáng] chiếu qua một tấm phim thì
hình ảnh [trong tấm phim ấy] bèn được in ra,
trở thành một tấm hình. Đấy chính là sự
trang nghiêm [trong tự tâm của chúng sanh] được dẫn
khởi. Chúng ta đọc ba kinh một luận Tịnh
Độ, trong tâm ta vốn chẳng có thế giới Cực
Lạc, nghe kinh xong, trong tâm liền nẩy sanh ấn tượng
về thế giới Cực Lạc. Duyên có bốn thứ,
tức là Thân Nhân Duyên, Vô Gián Duyên, Sở Duyên Duyên và Tăng
Thượng Duyên[17]:
1) Thân Nhân Duyên chính là chân tâm bản
tánh của chính mình chẳng hai, chẳng khác với hết
thảy chư Phật. Tự tánh đầy đủ vô
lượng công đức trang nghiêm. Trong bản tánh chứa
đựng những chủng tử, không gì chẳng bao gồm.
Y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, hết
thảy vạn pháp đều do tánh của chính mình biến
hiện ra. Đấy chính là những thứ sẵn có trong
Chân Như bản tánh. Nếu chỉ có mình Thân Nhân Duyên mà
không có ba thứ duyên sau đó thì cũng chẳng có cách nào kết
quả. Nhà Phật nói nhân quả, nhưng thật ra là “nhân
duyên quả”. Hết thảy pháp đều thuộc về
duyên sanh, nhưng chẳng nói là “nhân sanh” vì nếu có nhân mà
chẳng có duyên thì cũng chẳng thể sanh được.
2) Loại thứ hai là Thứ
Đệ Duyên, còn gọi là Vô Gián Duyên. Chúng sanh và Phật
khác nhau, Phật không có vọng niệm, chánh niệm
vĩnh viễn chẳng đoạn. Chúng ta có vọng niệm,
biến đổi trong từng sát-na.
3) Loại thứ ba là Sở
Duyên Duyên, lại càng khác biệt. Đức Phật duyên
vào Thường Tịch Quang, chúng ta duyên theo thiên biến vạn
hóa.
4) Loại thứ tư là
Tăng Thượng Duyên. Chúng ta nghĩ đến tham, sân,
si, mạn, yêu ma, quỷ quái liền làm Tăng Thượng
Duyên cho chúng ta. Nghĩ đến Phật, Phật liền
làm Tăng Thượng Duyên cho chúng ta. Vật tụ họp
theo từng loài, người họp theo bầy. Các thứ
trang nghiêm trong Tịnh Độ do A Di Đà Phật biến
hiện tạo thành Tăng Thượng Duyên hết sức
thù thắng, dẫn khởi ba thứ duyên kia (tức Thân Nhân
Duyên, Vô Gián Duyên và Sở Duyên Duyên) của chúng ta, khiến
cho tánh đức của chúng ta chẳng hai, chẳng khác với
tánh đức của A Di Đà Phật, tánh đức hoàn
toàn lưu lộ. A Di Đà Phật nêu gương, đó là
“bản chất”. Như bốn mươi tám nguyện
trong kinh Vô Lượng là bản chất của A Di Đà
Phật. Chúng ta đọc thuộc bốn mươi tám
nguyện, hiểu rõ bốn mươi tám nguyện, sau đó
chúng ta học theo A Di Đà Phật, cũng phát đại
nguyện như thế, dẫn khởi những nguyện
nơi tâm tánh của chúng ta biến hiện [thành các sự trang
nghiêm nơi y báo và chánh báo].
“Toàn Phật
tức sanh, toàn tự tức tha”: Ý
nghĩa này rộng lớn vô biên, không có cùng tận. Ví dụ
như nói: “Toàn Sự tức
Lý, toàn Tánh tức Tướng” thì cũng là đồng
nghĩa. Nếu khế nhập cảnh giới ấy thì
chẳng những không có phiền não, mà sanh tử cũng
không. Ngộ đạo lý này thì chính là Phật, Bồ Tát,
mê đạo lý này thì chính là phàm phu. Hễ ngộ thì là Nhất
Chân pháp giới, hễ mê thì là mười pháp giới. Mê
càng sâu, càng sẽ đọa xuống. Chữ “toàn Phật” chỉ bản chất
của Phật và các thứ trang nghiêm nơi y báo và chánh báo
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tánh
đức của mỗi một người vãng sanh hoàn
toàn chưa hiển lộ, trông thấy cảnh giới của
A Di Đà Phật thì tánh đức của họ sẽ tự
nhiên dấy động. Tây Phương thế giới là
như vậy, mà thế giới hiện tại của
chúng ta (tức thế giới Sa Bà) cũng chưa bao giờ
chẳng giống như vậy. Hiện thời, chúng ta
dùng nghiệp lực của mọi người làm “bản
chất tăng thượng”; cách nghĩ, cách nhìn, cách làm của
mọi người trong hiện tại đều chẳng
phải là thiện nghiệp. Bản thân chúng ta vốn sẵn
tốt lành, nhưng ở trong Sa Bà đã lâu, tự nhiên bị
nhiễm rất nhiều tập khí ác, đấy là vì hoàn cảnh
xui khiến như vậy. Tây Phương thế giới A
Di Đà Phật tự tánh viên mãn, lấy tánh đức ấy
làm bản chất cho chúng ta. Do vậy, hễ sanh về Tây
Phương, chẳng mấy chốc, chúng ta sẽ được
huân nhiễm, trở thành có phẩm đức thù thắng.
Tây Phương thế giới khác biệt những thế
giới khác ở chỗ này. Chữ Tha trong câu “toàn Tha tức Tự” chỉ
A Di Đà Phật, tức là Tự Tánh Di Đà. Đấy
là quả, cho nên nói: “Thành tựu
như thị công đức trang nghiêm” (thành tựu công
đức trang nghiêm như thế). Đại sư sử
dụng văn tự không nhiều, nhưng giảng giải
Tây Phương thế giới, bất luận Sự hay
Lý, Tánh hay Tướng, đều giảng hết sức
thấu triệt. Quả thật là một bộ sách hay,
khó có!
(Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ
Phật quốc độ thường tác thiên nhạc,
hoàng kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên Mạn
Đà La hoa. Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ
thanh đán, các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa, cúng
dường tha phương thập vạn ức Phật,
tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn
thực kinh hành.
(經) 又舍利弗。彼佛國土。常作天樂。黃金為地。晝夜六時。雨天曼陀羅華。其土眾生。常以清旦。各以衣裓。盛眾妙華。供養他方十萬億佛。即以食時。還到本國。飯食經行。
(Chánh kinh: Lại này Xá Lợi Phất! Cõi
nước Phật ấy thường tấu nhạc trời,
vàng ròng làm đất. Ngày đêm sáu thời tuôn mưa hoa Mạn
Đà La. Chúng sanh cõi ấy, thường vào sáng sớm, ai nấy dùng lẵng
đựng hoa, đựng các hoa đẹp, cúng dường
mười vạn ức Phật ở phương khác. Liền
trong khoảng bữa ăn, trở về nước mình,
dùng cơm xong đi kinh hành)
Tây Phương thế giới
thường có nhạc trời tấu trên không trung, tùy theo
ý thích của từng người mà nghe loại âm nhạc
mình yêu thích. Mặt đất và đường đi
đều phủ vàng ròng. “Trú
dạ lục thời, vũ thiên Mạn Đà La hoa”
(Ngày đêm sáu thời, tuôn mưa hoa Mạn Đà La). Đức
Phật thuận theo quan niệm về thời gian của
chúng sanh trong cõi này (Sa Bà) mà nói “ngày đêm sáu thời” chứ
thật ra, ở Tây Phương không có ngày đêm!
“Mạn
Đà La” (Māndārava,
Mandāraka) là tiếng
Phạn, dịch nghĩa là “Thích
Ý”, tức là thấy và nghe đều đẹp ý mình. Về
tình trạng sinh sống của chúng sanh cõi ấy, họ có
thần thông rộng lớn, thường vào lúc sáng sớm,
ai nấy dùng lẵng đựng hoa đựng các loại
hoa đẹp, cúng dường mười vạn
ức Phật trong những phương khác. “Mười vạn ức” ở
đây cũng là nói phương tiện, chứ thật ra
chẳng phải chỉ có mười vạn ức, [nói như
vậy] nhằm thích hợp với những người
vãng sanh từ thế giới Sa Bà, tình ý rất sâu, chẳng
bỏ được quê nhà, mỗi ngày đều có thể
quay về nhìn ngó, đồng thời cúng dường
mười vạn ức Phật ở những
phương khác. Đủ thấy họ có thuật phân
thân. Những người vãng sanh Tây Phương đều
có năng lực này. Cúng Phật phước đức lớn
nhất, mỗi ngày nghe Phật thuyết pháp, thiện căn,
phước đức ngày ngày tăng trưởng, chúng ta
cũng chẳng thể nào tưởng tượng
được. Tại Tây Phương thành Phật dễ
dàng, đạo lý là ở chỗ này. Từ kinh điển,
chúng ta đọc thấy khi Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
kinh, thuyết pháp, trong thính chúng có người vừa nghe một
nửa bộ kinh đã chứng quả. Nếu nghe hết
thảy chư Phật thuyết pháp, lẽ đâu chẳng
đại triệt đại ngộ? Sanh về các cõi Phật
khác, chỉ nghe một vị Phật thuyết pháp, còn tại
Tây Phương có thể tham lễ, nghe kinh, nghe pháp với
khắp các vị Phật, chẳng thể so sánh được!
Sáng dậy đi cúng dường chư Phật, lúc quay trở
về nhằm đúng lúc ăn cơm trưa. Ăn xong tản
bộ, cuộc sống tiêu dao, tự tại. Vãng sanh Tây
Phương thì phạm vi hoạt động là tận
hư không, trọn pháp giới, nguyện lực
tương ứng với A Di Đà Phật.
(Giải) Nhạc thị Thanh Trần.
Địa thị Sắc Trần. Hoa thị Sắc,
Hương nhị Trần. Thực thị Vị Trần.
Thịnh hoa, tán hoa, kinh hành thị Xúc Trần. Chúng sanh
Ngũ Căn đối Ngũ Trần khả tri. “Thường
tác” giả, tức lục thời dã. “Hoàng kim vi địa”
giả, thất bảo sở nghiêm địa giới. Thể
thị hoàng kim dã. Nhật phân sơ, trung, hậu, danh “trú
tam thời”. Dạ phân sơ, trung, hậu, danh “dạ tam thời”.
Cố vân “trú dạ lục thời”. Nhiên bỉ độ
y chánh các hữu quang minh, bất giả nhật nguyệt,
an phân trú dạ? Thả thuận thử phương, giả
thuyết phân tế nhĩ.
(解) 樂
是聲塵。地是色塵。華是色香二塵。食是味塵。盛華散華經行是觸塵。眾生五根對五塵可知。常作者。即六時也。黃金為地者。七寶所嚴地界。體是黃金也。日分初
中後。名晝三時。夜分初中後。名夜三時。故云晝夜六時。然彼土依正。各有光明。不假日月。安分晝夜。且順此方。假說分際耳。
(Giải: Nhạc là Thanh Trần, đất là Sắc Trần,
hoa là hai trần Sắc và Hương. Thức ăn là Vị
Trần. Đựng hoa, rải hoa, kinh hành là Xúc Trần. Ta
có thể nhận biết đây là kinh văn đem Ngũ
Căn của chúng sanh đối ứng Ngũ Trần.
“Thường tấu” là suốt cả sáu thời. “Vàng ròng
làm đất” là cõi đất được trang nghiêm bằng
bảy báu, Thể là vàng ròng. Ngày chia thành sơ, trung, hậu,
gọi là ngày ba thời. Đêm chia thành sơ, trung, hậu,
gọi là đêm ba thời. Vì thế, nói: “Ngày đêm sáu thời”.
Nhưng y báo và chánh báo trong cõi ấy
mỗi thứ đều có quang minh, chẳng cần đến
mặt trời, mặt trăng, há chia thành ngày đêm? Chỉ
thuận theo phương này mà giả nói có phân chia thời
hạn vậy)
Trong thế giới Sa Bà, [đối tượng
nhận thức của năm căn được quy nạp
thành] năm loại lớn, tức Sắc, Thanh, Hương,
Vị, Xúc, Pháp, đều chẳng thanh tịnh. Do vậy,
dùng chữ Trần để biểu thị. Trần (塵: bụi bặm) có nghĩa “ô nhiễm”. Cái bàn hai ngày không lau sẽ phủ
một lớp bụi. Đức Phật nói năm thứ
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc ô nhiễm tâm thanh tịnh
và bản tánh của chúng ta; vì thế gọi là Trần. Tây
Phương cũng có năm thứ này, nhưng hoàn toàn chẳng
ô nhiễm, vì thế gọi là “thắng
diệu Ngũ Trần”. Thắng diệu (nhiệm mầu
tột bậc) ở chỗ chẳng ô nhiễm. Ngũ Căn
của chúng ta tiếp xúc Ngũ Trần, kết quả có
thể suy ra được. Chữ “thường tác” ý nói: Ngày đêm sáu thời không gián
đoạn. “Hoàng kim vi địa”:
Chẳng qua là dùng tất cả những thứ đang có
trong thế giới của chúng ta làm tỷ dụ để
nói, chứ vàng của chúng ta mà đem so với vàng trong Tây
Phương thế giới thì bất luận chất lượng,
màu sắc, quang minh đều chẳng thể sánh bằng.
Ngày chia làm Sơ, Trung, Hậu, gọi là “ngày ba thời”; đêm
chia làm Sơ, Trung, Hậu, gọi là “đêm ba thời”. Đấy
là cách chia thời gian ở Ấn Độ như trong phần
trước đã giải thích. Y báo và chánh báo trong Tây
Phương thế giới mỗi thứ đều có quang
minh. Thế giới ấy được gọi là “thế
giới quang minh”, không có mặt trời, mặt trăng,
tinh tú, chẳng chia ra ngày và đêm nên không có quan niệm thời
gian. Quan niệm không gian cũng chẳng có. Tây Phương
thế giới có đường đi nhưng không tên đường,
số nhà. Đây kia có thể giao tiếp bằng cách dùng tâm
cảm. Phật nói “ngày đêm
sáu thời” là thuận theo phương này mà giả nói có
phân chia như vậy.
(Giải) Mạn Đà La, thử vân
Thích Ý, hựu vân Bạch Hoa. “Y kích” thị thịnh hoa khí.
“Chúng diệu hoa”, minh phi Mạn Đà La nhất chủng.
Ưng như Diệu Kinh tứ hoa, biểu tứ nhân vị.
Cúng dường tha phương Phật, biểu chân nhân hội
xu cực quả, quả đức vô bất biến dã. Thả
cứ Sa Bà ngôn thập vạn ức Phật, ý hiển sanh
Cực Lạc dĩ, hoàn cúng Thích Ca, Di Lặc, giai bất
nan nhĩ. Nhược A Di thần lực sở gia, hà viễn
bất đáo tai!
(解) 曼陀羅。此云適意。又云白華。衣裓是盛華器。眾妙華。明非曼陀羅一種。應如妙經四華。表四因位。供養他方佛。表真因會趨極果。果德無不遍也。且據娑婆言十萬億佛。意顯生極樂已。還供釋迦彌勒。皆不難耳。若阿彌神力所加。何遠不到哉。
(Giải:
Mạn Đà La, cõi này dịch
là Thích Ý, còn dịch là Bạch Hoa. “Y kích” là dụng cụ
đựng hoa. “Chúng diệu hoa” chỉ rõ chẳng phải
chỉ có một loại hoa Mạn Đà La. Hãy nên hiểu là
bốn loại hoa như trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhằm
biểu thị bốn địa vị tu nhân[18].
“Cúng dường Phật ở phương khác” biểu thị do nhân chân thật
sẽ tiến đến quả cùng tột, quả đức
không gì chẳng trọn khắp. Hơn nữa, dựa theo
Sa Bà mà nói mười vạn ức Phật, nhằm nêu rõ
ý: Đã sanh về Cực Lạc, trở về cúng dường
Thích Ca, Di Lặc đều chẳng khó khăn gì! Nếu
được thần lực của A Di Đà Phật gia
bị thì xa cách mấy mà chẳng đến được
ư?)
“Mạn
Đà La”, Hán dịch là Thích Ý, còn dịch
là Bạch Liên Hoa. “Y kích”[19]
là dụng cụ đựng hoa. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói bốn
thứ hoa cũng nhằm biểu thị pháp, mỗi thứ
đều có vô lượng phẩm loại, tùy ý thích của
mỗi người mà biến hóa. “Cúng dường tha phương Phật, biểu chân
nhân hội xu cực quả, quả đức vô bất biến
dã” (Cúng dường chư Phật ở phương khác
nhằm biểu thị do cái nhân chân chánh sẽ tiến đến
cái quả tột cùng, quả đức không gì chẳng trọn
khắp). Tây Phương thế giới hoàn toàn dùng chân Phật,
chân sự để làm cảnh giới sở duyên, chẳng
giống như chúng ta vẽ một bức tượng Phật.
Tượng Phật chẳng phải là Phật thật.
Trong Tây Phương thế giới, hoàn toàn là thật, lại
còn thật sự là Báo Thân viên mãn, chứ không phải Ứng
Hóa Thân. Do vậy, thành Phật nhanh chóng, không có bất cứ
chướng ngại nào, nguyên nhân là do điều này. Trong
những thế giới khác chẳng dễ gì thấy Phật,
ngay như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, các vị
đệ tử thường tùy chúng là một ngàn hai trăm
năm mươi lăm người, hoàn toàn không phải là
mỗi người ngày nào cũng có cơ hội thỉnh
giáo. Nếu lấy cảnh giới của Phật làm nhân địa
tu hành của chính mình thì sẽ có thể thành tựu Phật
quả viên mãn. Ân đức của Phật Thích Ca đối
với chúng ta rất lớn. Trong tương lai, đức
Thích Ca đã diệt độ, Di Lặc thành Phật, nếu
quý vị đã sanh về Tây Phương mà vẫn còn muốn
trở lại Sa Bà nhìn ngó người nhà, quyến thuộc
thì mỗi ngày đều có thể trở về. Người
Tây Phương thiên nhãn thấy thấu suốt, thiên nhĩ
nghe thông suốt. Túc Mạng Thông của A La Hán chỉ có thể
biết chuyện trong năm trăm đời. Năng lực
của thiên nhãn chỉ giới hạn trong một tiểu
thiên thế giới, không thể thấy đến một
trung thiên thế giới. Người đới nghiệp
vãng sanh vào Tây Phương thế giới, chưa đoạn
Kiến Tư phiền não, Thiên Nhĩ của họ có thể
nghe thấu âm thanh ngoài mười vạn ức cõi Phật,
Thiên Nhãn cũng giống như thế. Tha Tâm Thông có thể
biết khởi tâm động niệm của chúng sanh ở
ngoài mười vạn ức cõi Phật. Năng lực ấy
chẳng phải do chính mình tu được, mà là do bổn
nguyện của A Di Đà Phật gia trì. Do vậy, đại
sư nói: “Nhược A Di thần
lực sở gia, hà viễn bất năng đáo!” (Nếu
được thần lực của A Di Đà Phật gia
trì thì xa đến đâu mà chẳng thấu tới).
PHẬT THUYẾT A DI
ĐÀ KINH YẾU GIẢI GIẢNG KÝ
Phần 4 hết
[1] Theo Tứ Giáo Nghi Tập Chú, để
chứng Sơ Địa trong Biệt Giáo, phải trừ
một phẩm vô minh đầu tiên (thường gọi
là Tối Sơ Vô Minh). Từ Sơ Địa lên Đẳng
Giác, mỗi địa vị phải phá một phẩm vô
minh, tức là lần lượt phải phá thêm mười
một phẩm vô minh nữa mới lên được Diệu
Giác. Như vậy để đạt lên địa vị
Diệu Giác phải phá tất cả mười hai phẩm
vô minh.
[2] Kháng Chiến ở đây là nói tắt của
từ ngữ “Kháng Nhật Chiến
Tranh” (còn gọi là Trung Nhật Chiến Tranh), tức thời
gian dân Trung Hoa chống lại cuộc chiến xâm lược
của quân phiệt Nhật (từ ngày 7 tháng 7 năm 1937
đến ngày 15 tháng 8 năm 1945). Trước đó, từ
năm 1931, Nhật đã xâm chiếm ba tỉnh Đông Bắc
(Đông Tam Tỉnh) của Trung Quốc. Ngày 7 tháng 7 năm
1937, một toán quân Nhật đồn trú tại huyện
Uyển Bình (phụ cận Bắc Kinh) tập trận,
đến tối, lấy cớ một số binh lính Nhật
mất tích, quân Nhật đòi chánh quyền thành Uyển
Bình phải mở cửa thành cho họ lục soát. Khi bị
cự tuyệt, quân Nhật đã ra lệnh nổ súng tấn
công thành Uyển Bình và chiếm đóng cầu Lư Câu (trên
sông Vĩnh Định). Do sự cố này, chiến tranh
Trung Nhật nổ ra trên quy mô lớn. Vì vậy, sự kiện
này được gọi là Lư Câu Kiều Sự Biến
(盧溝橋事變). Chiến tranh kéo dài
cho đến khi phe Trục đầu hàng Đồng Minh
vô điều kiện.
[3] Càn Thát Bà Thành (Gandharva-nagara), còn gọi là Kiện
Đạt Bà Thành hoặc Kiện Đạt Phược
Thành, Càn Thành, hoặc Hương Thành. Đây là từ ngữ
được dùng để chỉ những huyễn cảnh
trông giống như cung điện, lầu quán, thành quách xuất
hiện trên không trung tại các vùng rừng núi, sa mạc hoặc
biển khơi. Thần thoại Ấn Độ cho rằng
những huyễn cảnh đó là do các vị Càn Thát Bà
(Hương thần) biến hiện. Do vậy, kinh điển
nhà Phật thường mượn từ ngữ này để
tỷ dụ những gì không thật, huyễn hóa.
[4] Đây là lời giảng rất đặc
sắc của Ngẫu Ích đại sư: Từ trong một
đoạn ngắn, đại sư chỉ rõ Tự Phần
của kinh này giới thiệu trọn đủ ba môn Tín,
Nguyện, Hạnh, Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), có
đủ Thể, Tông, Tướng, Dụng, dẫn khởi
ba phần Lưu Thông (khuyến tín, khuyến nguyện, khuyến
hạnh). Trong các bản chú giải khác, chưa ai chỉ rõ
chi tiết như vậy.
[5] Theo Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh,
nơi phương trên của thế giới Sa Bà, lên đến
tột cùng có một cõi Phật tên là Chúng Hương. Trong
cõi này, mùi hương vi diệu nhất. Mọi thứ
đều do hương tạo thành, đức Phật
trong cõi ấy có tên là Hương Tích Như Lai. Ngài Duy Ma Cật
xin cơm thơm từ nước ấy về ban cho
đại chúng, mọi người ăn vào thân thể có
mùi thơm bất tuyệt, ngài Duy Ma Cật bảo: “Mùi thơm ấy còn mãi cho đến
khi cơm hoàn toàn tiêu hết”. Nhân đó, đức Phật
cho biết trong cõi Chúng Hương, Hương Tích Như
Lai dùng hương thơm để làm Phật sự, giáo
hóa chúng sanh.
[6] Quốc Học: Một ngành học
chuyên nghiên cứu về văn hóa Trung Quốc trên mọi
phương diện như văn chương, triết học,
trào lưu tư tưởng, thư pháp v.v...
[7] Đông Nhạc Đại Đế là
thần cai quản Hoa Sơn (Thái Sơn), còn được
gọi là Đông Nhạc Đế Quan, Thái Sơn phủ
Quân, hoặc Nhạc Đế. Dân gian Trung Quốc tin vị
thần này cai quản những người vừa mới
chết, chưa tới chỗ Diêm Vương phán án, hoặc
đã phán án, nhưng chưa đi đầu thai. Có phái
Đạo Giáo còn cho rằng Đông Nhạc Đại
Đế chưởng quản sự sanh tử của con
người. Đạo Giáo đã đưa ra nhiều thuyết
nhằm giải thích nguồn gốc vị thần này:
1. Cát Hồng cho rằng Đông Nhạc
Đại Đế chính là Thái Hạo (thuộc họ Phục
Hy, lãnh tụ của tộc Đông Di thời cổ). Các
nước chư hầu như Nhậm, Túc v.v... ở
lưu vực sông Tế Thủy là hậu duệ của
Thái Hạo.
2. Đông Nhạc là hậu duệ của
Bàn Cổ, tức Kim Hồng Thị, tu luyện đắc
đạo tại Thái Sơn, nên được phong làm
Đông Nhạc Đại Đế.
3. Đông Nhạc Đại Đế
là đại tướng Hoàng Phi Hổ, một đại
thần của vua Trụ.
[8] Cơ Long là một thành phố ở cực
Bắc của Đài Loan.
[9] “Hòa quang
đồng trần” là một thành ngữ dựa theo câu
nói “hòa kỳ quang, đồng
kỳ trần” của Lão Tử. Nhà Phật mượn
thuật ngữ này để nói lên hạnh Đồng Sự
trong Tứ Nhiếp Pháp của hàng Đại Thừa Bồ
Tát: Hiện đủ mọi thân thích ứng tùy loại
căn cơ, thị hiện có cùng việc làm, cùng nghề
nghiệp, cùng giai cấp, cùng môi trường sống
như họ để thân cận, hướng dẫn họ
bỏ ác tu thiện. Nếu cần, Bồ Tát có thể hiện
nghịch hạnh (những hạnh trái nghịch thanh quy,
như ngài Tế Điên uống rượu, ăn thịt
chó) để nhiếp độ họ, nhưng tâm các Ngài
vẫn thanh tịnh, như như bất động.
[10] Do ở đây Hòa Thượng không giải
thích câu này, mạt nhân xin ghi thêm như sau: “Lưu chú”
cũng có nghĩa giống như “sấm lậu”, đều
có nghĩa là rò rỉ, tuôn chảy. Nói cách khác, chúng chính là những
tên gọi khác của Lậu (phiền não), do chưa hoàn
toàn viên chứng Pháp Thân, chưa viên ngộ chân thường,
chỉ là phần chứng, phần ngộ, vẫn còn xen tạp
vi tế vô minh trong ấy nên Chân Thường chưa trọn
vẹn, còn bị thiếu khuyết, giống như cái bình
bị rò rỉ, không hoàn bị, nên mới nói là “chân thường lưu chú”.
[11] Ngũ Trần (còn gọi là Ngũ Cảnh)
là năm trần đầu trong Lục Trần, tức Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc.
[12] Khi pháp sư Từ Châu soạn
khoa phán cho kinh Vô Lượng Thọ (bản hội tập
của lão cư sĩ Hạ Liên Cư), Ngài đã phán định
đoạn kinh nằm ngay sau phần giảng về Tam Bối
Vãng Sanh là giảng về Nhất
Tâm Tam Bối, tức là ngoài Tam Bối Vãng Sanh còn có một
loại vãng sanh nữa, gọi là Nhất Tâm Tam Bối.
Đoạn kinh ấy như sau: “Nhược hữu chúng
sanh trụ Đại Thừa giả, dĩ thanh tịnh
tâm, hướng Vô Lượng Thọ, nãi chí thập niệm,
nguyện sanh kỳ quốc, văn thậm thâm pháp, tức
sanh tín giải, nãi chí hoạch đắc nhất niệm tịnh
tâm, phát nhất niệm tâm niệm ư bỉ Phật. Thử nhân lâm mạng
chung thời, như tại mộng trung, kiến A Di Đà
Phật, định sanh bỉ quốc, đắc Bất
Thoái Chuyển Vô Thượng Bồ Đề” (Nếu có chúng sanh trụ
trong Ðại Thừa, dùng tâm thanh tịnh hướng về
Vô Lượng Thọ Phật, dẫu chỉ mười
niệm nguyện sanh cõi kia, nghe pháp thậm thâm liền sanh
tin hiểu; thậm chí đạt được một niệm
tịnh tâm, phát nhất niệm tâm để niệm đức
Phật kia thì lúc mạng người ấy sắp dứt,
giống như ở trong mộng, thấy A Di Ðà Phật,
quyết định sanh trong cõi ấy, được chẳng
thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Ðề).
[13] Nguyên văn “điện ba” (電波). Đây là từ ngữ người Hoa
dùng để dịch chữ “radio wave”.
[14] Nội hàm (connotation): Những ý nghĩa
được chứa đựng trong một từ ngữ,
khái niệm hoặc một thuật ngữ triết học.
[15] Khôi thân diệt trí: Còn gọi là Vô Dư
Khôi Đoạn, Phần Thân Diệt Trí, gọi tắt là Diệt
Trí, hoặc Khôi Đoạn. Hiểu theo nghĩa đen là
“thiêu xác thân thành tro, diệt trừ tâm trí”. Từ ngữ
này chỉ cảnh giới của hàng La Hán trong Tiểu Thừa,
đem hết thân tâm dốc vào nơi sự không tịch của
Vô Vi Niết Bàn. Do không còn thấy có xác thân nên gọi là
“khôi thân”, trí vắng lặng, không duyên theo trần cảnh
nữa, chỉ có Tịch mà thiếu tác dụng Chiếu
nên gọi là “Diệt Trí”.
[16] Lỗ đen (black hole) là một khu vực
trong không gian có sức hút rất mạnh, không có gì thoát khỏi
nó được, kể cả ánh sáng. Tuy gọi là “lỗ”,
nhưng tại khu vực này có mật độ vật chất
rất cao. Thiên Văn Học vẫn chưa đưa ra lời
giải đáp thỏa đáng về cấu trúc và sự
hình thành lỗ đen trong không gian.
[17] Thân Nhân Duyên (Hetu-pratyaya): Nhân duyên trực tiếp
tạo nên sự sanh khởi của một pháp, tức là
nguyên nhân chánh yếu sanh ra cái quả. Chẳng hạn
như Thân Nhân Duyên của Nhãn Thức là Căn và Trần.
Nhãn Thức lấy Nhãn Căn làm Nhân, lấy Sắc Trần
làm Duyên.
Đẳng Vô Gián Duyên (Samanantara-pratyaya):
Còn gọi là Vô Gián Duyên hay Thứ Đệ Duyên. Có nghĩa
là tâm và tâm sở liên tục tiếp nối, tâm (ở
đây là vọng tâm) và tâm sở diệt trong sát-na trước
bèn sanh ngay trong sát-na sau. Do có thứ tự tiếp nối,
không gián đoạn nên gọi là Thứ Đệ Duyên hoặc
Vô Gián Duyên.
Sở Duyên Duyên (Ālambana-pratyaya): Đối
tượng của tâm và tâm sở tạo thành nguyên nhân. Khi
tâm và tâm sở sanh ra kết quả thì đối tượng
của tâm và tâm sở được gọi là Sở Duyên
Duyên. Nói cách khác, Sở Duyên Duyên là những đối
tượng tạo ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp đến Thân Nhân Duyên. Chẳng hạn như
hết thảy Sắc là Sở Duyên Duyên của Nhãn Thức.
Tăng Thượng Duyên (Adhipati-pratyaya):
Những duyên khác phụ trợ cho ba duyên trên đây thành tựu.
Trên đây, Hòa Thượng chỉ
giảng về Tứ Duyên của thế giới Cực Lạc
như sau:
1. Thân Nhân Duyên là trong Chân Như
bản tánh có sẵn các thứ trang nghiêm.
2. Vô Gián Duyên là chánh niệm của
Phật và chúng sanh trong cõi Tịnh Độ vĩnh viễn
chẳng đoạn.
3. Sở Duyên Duyên là Phật và
chúng sanh trong cõi Tịnh Độ luôn duyên theo cảnh giới
Thường Tịch Quang.
4. Tăng Thượng Duyên là
chúng sanh trong cõi Cực Lạc luôn tưởng đến
Phật, nên Phật trở
thành Tăng Thượng Duyên giúp hành nhân vãng sanh Tịnh
Độ. Đồng thời y báo trang nghiêm của cõi Cực
Lạc cũng là Tăng Thượng Duyên.
[18] Pháp sư Viên Anh giảng
câu này như sau: “Kinh Pháp Hoa chép
‘trời mưa xuống Mạn Đà La Hoa, Ma Ha Mạn
Đà La Hoa, Mạn Thù Sa Hoa (Nhu Nhuyễn Hoa), Ma Ha Mạn
Thù Sa Hoa’. Dùng bốn loại
hoa này để cúng dường các vị Phật nơi
phương khác, nhằm biểu thị do cái nhân chân thật
có thể tiến đến Phật quả, quả đức
không gì chẳng trọn khắp. Các địa vị Bồ
Tát Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa phá vô minh, thấy Pháp Thân, đấy
chính là chân nhân. Niệm niệm tiến hướng Phật
quả Diệu Giác, quả đức
trọn khắp mười phương nên nói cúng
dường tha phương thập vạn ức Phật”.
Theo lời giải thích này thì “bốn địa vị tu
nhân” như ngài Ngẫu Ích đã nói trong đoạn văn
này chính là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng và Thập Địa.
[19] Kích (裓) có
nghĩa gốc là vạt áo, hoặc cái tấm địu
(tấm vải có dây buộc bốn góc để buộc
đứa con vào lưng mẹ). Do vậy, có một số
vị cổ đức còn cho rằng “y kích” là vạt áo.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment