"Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng
ta phải thường xuyên sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện
đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát
nguyện mãnh mẽ và ý thức rằng, làm ác
sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai sau, nhờ vậy mình mới đủ sức
vượt qua cạm bẫy cuộc đời..."
Thích Đạt Ma Phổ Giác
NGHIỆP
VÀ SỰ SỐNG
Tất
cả mọi người, ai
sinh ra trên cõi đời này đều phải chịu sự chi phối của nghiệp. Người
Phật tử mà không hiểu rõ ràng, cặn kẽ
về nghiệp báo, thì
sự tu hành khó mà đạt đến chỗ an lạc, giác ngộ và giải thoát. Vậy
nghiệp là gì mà Phật tử chúng ta cần phải hiểu để áp dụng trong
đời sống hằng ngày?
Nghiệp rất đa dạng, phức tạp và phong
phú, bởi nghiệp là sự kết tụ của những năng lực, những hành động
được lặp đi, lặp
lại nhiều lần qua thân-miệng-ý, lâu ngày
trở thành thói quen; rồi thói quen đó có sức mạnh chi phối, dẫn dắt
thần thức chúng ta đi vào trong luân hồi sanh tử.
Tuy nghiệp rất đa dạng và phức tạp,
không cố định như ta lầm tưởng, do đó mình có thể thay
đổi thông qua sự tinh cần tu tập, hành trì những lời Phật dạy,
chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Nghiệp gồm có cộng nghiệp và
biệt nghiệp. Cộng nghiệp là nghiệp chung của nhiều người, biệt
nghiệp là nghiệp riêng của từng người.
Nghiệp là thói quen huân tập lâu ngày
thuần thục, tạo
thành sức mạnh, có khả năng chi phối mọi người sinh hoạt trong cuộc
sống hằng ngày. Ngay từ khi mở mắt chào đời, con người đã chịu nghiệp
nhân của quá khứ, dần dần khôn lớn, con người tiếp tục tạo tác và
huân tập thêm những nghiệp nhân mới.
Ai biết sống gần gũi những người
hiền thiện, đạo đức, có
nhân cách và phẩm chất cao đẹp, hay làm những điều hay lẽ phải, nhờ sống gần
người hiền thiện nên mình cũng
bắt chước làm người tốt theo,
và có thể giúp ích cho gia đình,
xã hội, không vì quyền lợi cá nhân.
Còn người hay sống gần gũi những kẻ
xấu ác, bất lương, bất thiện, lâu ngày sẽ bị tiêm nhiễm thói hư, tật
xấu, tự
làm khổ mình, hại người, và sẽ
bị mọi người khinh chê, xa
lánh.
Cũng vậy, chúng ta sanh ra trong cuộc
đời này, mỗi người đều phải mang theo nghiệp riêng của mình. Vì thế,
trong một gia đình, nhiều người cùng sống chung với nhau, nhưng mỗi
người chấp giữ và làm theo nghiệp riêng của mình, nên không ai chịu
thừa nhận nghiệp riêng của người khác. Do đó, cha mẹ, vợ chồng, con cái,
anh em trong nhà không có sự hòa hợp với nhau là vậy đó, vì ta không
biết tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau.
Chính vì thế, trong một cộng đồng xã
hội mới có sự tranh chấp, cãi vã, xung đột, không chịu nhường nhịn,
gây đau khổ, bất hạnh cho nhau.Trong gia đình, người chồng huân tập nghiệp của người nam, người
vợ huân tập nghiệp của người nữ, hai nghiệp này không giống nhau, đôi
khi nghiệp của hai vợ chồng có nhiều điểm sai biệt và tương đồng với
nhau. Cho nên, có
nhiều cặp vợ chồng gây cãi, đánh
đập với nhau hoài, chỉ
vì người nào cũng chấp cái lý lẽ, cái hành động của mình là
đúng, không chịu thông cảm, tha thứ cho nhau, để tạo nên bầu không khí
gia đình ấm êm, an
lành, hạnh phúc.
Xưa có một gia đình nọ, người vợ
biết lo làm ăn, tiết kiệm, luôn tròn bổn phận người vợ đối với
chồng, biết quan tâm, lo
lắng, chăm
sóc cho con cái đàng hoàng. Ngược lại, người chồng thì bê tha, biếng
nhác, rượu chè, cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc bị thua, về nhà kiếm
chuyện gây gỗ với bà, nếu vợ không đáp ứng đủ các thứ cho ông, thì
bị ông chửi mắng, đánh đập tàn nhẫn. Người trong nhà và hàng xóm ai
thấy cũng thương tâm, không biết bà đã gieo tạo nghiệp nhân gì mà phải chịu quả báo
như thế. Mọi
người thắc mắc tại sao bà lại không chịu ly dị, bà nói vì bà vẫn còn thương
chồng, nên bà không ly
dị.
Bởi do mỗi người đều có nghiệp riêng
của mình, không ai giống ai. Kết nghĩa vợ chồng với nhau mà sống bất
hạnh, khổ đau như vậy là do hai người đã có tạo nghiệp ngang trái,
nợ nần với nhau, nên dù bị đánh đập, chửi
mắng, đối xử với nhau thậm tệ, mà
người ta vẫn cứ thương nhau, không thể rời xa nhau được.
Ai thấu hiểu được vấn đề nghiệp riêng
này, họ sẽ dễ dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Chỉ vì ta không
thường xuyên quán chiếu, hoặc
thiếu tu hành, nên
mới xảy ra nhiều điều bất hạnh như thế. Do vậy, chúng ta thấy, nhiều người
sinh ra trong một gia đình, cùng cha, cùng mẹ, cùng ăn, cùng ở, cùng
làm việc, cùng học hành, thế mà mỗi người mang một tính khí khác
nhau. Sự sai biệt ấy là do nghiệp riêng của mỗi người tạo nên, còn
việc họ được sinh ra và chung sống trong một gia đình là do họ cũng
có một số nghiệp chung với nhau. Những người có nghiệp duyên với nhau
là do họ đã có cộng nghiệp với nhau từ kiếp trước, nên đời này họ
mới phải chịu chung một hoàn cảnh nhất định nào đó.
NGHIỆP
CHUNG VÀ NGHIỆP RIÊNG
Trong thời Phật còn tại thế, tại núi
Linh Thứu, cùng
lúc có nhiều đoàn Tỳ kheo đi thiền hành. Đoàn thứ nhất đi theo ngài
Xá Lợi Phất, đoàn
thứ hai đi theo ngài Mục
Kiền Liên, đoàn
thứ ba đi theo ngài Phú
Lâu Na,
đoàn thứ tư đi theo ngài A
Na Luật,
đoàn thứ năm đi theo ngài Đề
Bà Đạt Đa… Khi thấy các
đoàn tỳ kheo hành thiền riêng biệt như vậy, đức Phật mới nói rằng, “đoàn Tỳ kheo
đi theo ngài Xá
Lợi Phất có
nghiệp chung với Ngài, nên
có trí tuệ đệ nhất.
Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài Mục Kiền
Liên có nghiệp chung là thần thông đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo
đi theo ngài Phú
Lâu Na có
cộng nghiệp là thuyết
pháp đệ nhất.
Đoàn Tỳ kheo đi theo ngài A
Na Luật có
nghiệp chung là thiên nhãn đệ nhất. Đoàn Tỳ kheo
đi theo ngài Đề Bà
Đạt Đa có nghiệp chung xấu ác, tranh giành, giết chóc,
sau này dễ bị đoạ lạc.
Tuy nhiên, không phải ai theo ngài Xá Lợi Phất là có
trí tuệ đệ nhất, mà
cần phải có thời gian hành trì, học
hỏi, vì ai cũng có nghiệp riêng của mình, nên mức độ đạt được tuỳ theo khả năng, không nhất
định là ai cũng được như vậy.
Do đó, nghiệp cũng không cố định, có
thể thay đổi được, vì sao?
Vì nghiệp từ thân-miệng-ý tạo tác
mà thành, tuy có tác ý nhưng không thật. Cái gốc của việc tạo
nghiệp lành, nghiệp ác không có thật, bởi do si mê, ngu muội, mà tạo tác
thành nghiệp dữ; nếu ta biết định tĩnh, sáng suốt, thì tạo tác
nên nghiệp lành.
Phật dạy, nghiệp là cái không thật,
tuy biết nó không thật, nhưng nếu si mê, để bị dính mắc nghiệp xấu ác, thì sẽ thọ
quả khổ đau không ai tránh khỏi, chỉ có người biết tu tập, làm nhiều
điều thiện lành thì quả xấu sẽ nhẹ hơn. Đối với thế gian, người
khôn ngoan có thể che giấu, trốn tránh tội lỗi, nhưng đối với nghiệp
báo thì ai tạo nghiệp gì thì
phải chịu quả ấy, không
thể trốn tránh vào đâu được;
vì khi tạo nghiệp thì mắt thấy, tai
nghe, thân thể cảm thọ, chủng từ nghiệp kết tụ, lưu trữ vào tàng
thức, chờ khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp sẽ trổ ra.
Có người cho rằng, thân này hành động tạo nghiệp
thiện hay ác, đến khi chết thì những hành động ấy đâu còn nữa, chỉ
còn lại cái xác nằm trơ, rồi thối rữa, rã tan, làm sao biết
được nghiệp ấy còn hay mất.
Đây là quan niệm hết sức sai lầm của không ít
người lầm chấp, cho
rằng chết là hết, không có nhân quả, không có tội phước, nên họ mặc
tình hưởng thụ các dục lạc thế gian, tha hồ gây tạo tội lỗi, có khi
gây nên tội ác tày trời
mà lòng không chút ân hận. Chính cũng vì quan niệm sai lầm như vậy
mà bản thân tôi
hơn nửa đời người đã gây ra biết bao lầm lỗi. Nhờ duyên gặp được
Tam Bảo, gặp được Phật pháp, gặp được bậc minh sư chân chánh, tôi mới
quay đầu làm lại cuộc đời, làm mới lại chính mình.
Nếu không nhờ Tam Bảo, nhờ Phật Pháp và minh sư
chỉ giáo, hôm nay tôi làm gì có cơ hội được chia sẻ cùng với quý
Phật tử ở đây.
Khoảng năm Mậu Thân (1968), lúc ấy tôi
chỉ là một cậu thiếu nhi mà đã biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc.
Vậy cái gì đã xuôi khiến, thúc giục tôi đi vào con đường hư hỏng, sa
đoạ quá sớm như vậy? Điều ấy trong nhà Phật gọi là tập nghiệp. Tập
nghiệp đời trước cộng với sở thích trong đời hiện tại đưa đẩy chúng
ta vào hố sâu tội lỗi.
Cho nên, ngay tại đây và bây giờ, quý vị đã có duyên được đến chùa nghe pháp, tụng
kinh, lễ
Phật, sám hối, tức
là quý vị đã có hạt giống nghiệp lành với nhau từ nhiều đời trước
rồi. Nếu không, bây giờ quý vị đã ngồi ở nhà mở truyền hình xem phim,
hoặc đi chơi chỗ này, chỗ
kia như bao người khác, chứ quý vị đâu có muốn đến chùa nghe pháp,
học Phật với nhau như thế này. Đây đúng thật là một duyên lành hạnh
phúc cho đời mình trong hiện tại, và nó sẽ còn lưu giữ để duy trì
tới kiếp sau.
Hiện tại, quý Phật tử đã có phước duyên thiện lành, tốt đẹp rồi,
quý vị hãy xem nó như một món ăn tinh thần, ráng mà duy trì, ráng mà
phát huy, lúc nào thiếu nó mà quý vị cảm thấy khó chịu thì quý
vị nên mừng, bởi vì quý vị đã huân tập được một thói quen tốt. Trong
nhà Phật thường nói, thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Ở đây, quý vị đã
có được thân người trọn vẹn, khoẻ mạnh, lại biết nghe Phật pháp, và còn biết áp
dụng Phật pháp để chuyển hóa nỗi khổ, niềm
đau thành an vui, hạnh
phúc.
Trong kinh, Phật thường nói,
“nghiệp theo ta như bóng với hình, dù trải qua trăm kiếp, ngàn đời
vẫn không bao giờ bị mất, khi nào hội đủ nhân duyên thì quả báo tự nó
hiện ra, không một ai cưỡng lại hay làm sai lệch được”.
Có một thí dụ cụ thể cho chúng ta thấy nghiệp
không bao giờ mất. Có hai
người khách qua sông, một người là thương gia mua bán, mang theo
nhiều tiền bạc, của cải;
một người chuyên nghề dạy học, chỉ
mang chút ít sách vở và tiền lộ phí. Thuyền qua đến giữa sông, bất
thần bị chìm, hai người may mắn được cứu và thoát chết, nhưng hành lý,
tư trang, tiền bạc của hai người đều bị dòng nước cuốn trôi mất hết. Cả hai người
đều trắng tay, riêng
cái hiểu biết của nhà giáo dục không bị mất mát chút nào. Vì sao? Vì
kiến thức là cái chuyên môn đã huân tập qua nhiều năm tháng, tức cái
sở trường riêng của mỗi người, còn gọi là nghề hay nghề nghiệp, nên nó không bị
mất.
Do đó, quý Phật tử tại gia nên lưu ý, khi ta mới sinh ra với hai bàn tay trắng, đến lúc
chết đi cũng không mang được gì, duy chỉ có nghiệp lành dữ, xấu tốt, là mình phải mang
theo. Lúc ấy, những
người thân thương mình nhất như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn
bè, không
giúp gì cho ta được. Vì vậy, quý vị cần nên thấy biết rõ ràng về nghiệp
quả, để
khi ta gặp nhiều bất
trắc, mình không
quá đau khổ, bi
lụy.
Và ta nên nhớ rằng, khi chúng ta đã
tạo được nhiều nghiệp lành, thì
dù cho qua nhiều biến đổi, thân xác này chết đi, tan rã thành cát
bụi, nhưng nghiệp thức tốt đó vẫn còn, không mất. Khi chúng ta rời bỏ
sự sống, bỏ lại thế gian tất cả gia tài, sự nghiệp, vợ chồng, con
cái, họ hàng, thân
tộc, bạn bè thân hữu, mình chỉ
mang theo nghiệp lành, nghiệp dữ mình đã gây tạo trong đời mà thôi. Đây
là một lẽ thật, quý vị cần biết để cố gắng gieo tạo nghiệp lành.
QUẢ
BÁO CỦA NGHIỆP
Một gia
đình nọ sống trong làng đánh cá, một bà
mẹ có thai và cả
làng làm ăn sa sút, nhiều chuyến ra khơi không đánh bắt được cá tôm
gì, nhiều
gia đình lâm vào cảnh khó khăn, đói kém. Trước tình hình như vậy,
các bô lão trong làng mới họp lại với nhau để bàn bạc, tìm xem nguyên
nhân vì sao dân
làng gặp vận hạn như thế.
Một số người cho rằng, do bà mẹ kia đã lớn tuổi
mà lại mang
thai là điều quái dị, không hợp luật trời, vì thế dân làng mới chịu cảnh
làm ăn thất bát, khó khăn. Một số người khác không nhất trí với ý
kiến ấy, cuối cùng làng chia ra làm hai nhóm ra khơi, đánh bắt
riêng biệt.
Trong nhiều chuyến ra khơi, nhóm người
không tin việc bà mẹ già
mang thai, thường
xuyên bị nạn, không đánh bắt được cá; nhóm người
tin việc ấy thì chuyến nào cũng đánh bắt đầy thuyền. Điều này khiến cả
làng tin rằng, bà mẹ mang thai kia
chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt, khó khăn của làng.
Cuối cùng, cả làng quyết định đuổi bà ấy khỏi làng, không cần
biết sự sống của bà sẽ
ra sao.
Bà ra đi trong tình cảnh vô cùng bi đát, không có
thứ gì mang theo, lại
đang lúc bụng mang dạ chửa, bà lang thang đó đây, vất vả xin
ăn sống qua ngày. Lúc ở nhà còn có chồng chăm lo, nhà cửa đàng
hoàng, giờ đây
với thân phận một người ăn mày không nhà, không cửa, sống bờ ngủ
bụi, nhiều khi vì quá mệt, không xin được chút gì, bị đói khát, bà
muốn phá đi cái thai trong bụng để tìm sự thảnh thơi cho riêng mình,
nhưng vì cái thai là sự đầu thai của một vị sẽ chứng A La Hán trong
kiếp này, nên thai
nhi có khả năng chuyển tâm, làm cho bà mẹ không đủ can đảm huỷ hoại
cái bào thai ấy.
Thời gian trôi qua, đứa con của bà
cũng được ra đời với bao khó khăn chồng chất. Trong những ngày sinh
con, bà phải một thân, một mình tự lo mọi thứ, khổ sở tột cùng, bà
vẫn cắn răng chịu đựng. Sinh con được mấy ngày, vừa khoẻ được một
chút, bà
lại phải ẵm con, tiếp
tục cuộc hành trình với thân phận ăn mày, rày đây mai đó, để kiếm chút
cơm thừa, canh
cặn.
Từ đây, trong cuộc mưu sinh, bà lại có
thêm đứa bé bên mình. Hai mẹ con cùng nhau lang thang hết làng này sang
xóm nọ, rong ruỗi khắp mọi nẻo đường, nhưng vẫn không đủ sống, phải đói khát, vật vờ. Ngày
qua ngày, bữa đói, bữa no, áo quần rách rưới, thật chẳng
giống ai, nhiều lúc đói lả tưởng chừng không sao sống nổi.
Vậy mà bà vẫn sống để nuôi đứa bé ốm
o, gầy mòn. Bà lang thang xin
ăn lây lất sống qua ngày, cho
đến năm chú bé khoảng ba bốn tuổi. Một hôm, hai mẹ con vào một gia đình
giàu có xin ăn, vì thương con phải chịu cảnh ăn mày, thiếu thốn, đói
khát thường xuyên, bà bỏ lại đứa con trong vườn của người nhà giàu
ấy, rồi trốn đi biệt tâm biệt tích, với hy
vọng con mình sẽ được người nhà ấy nuôi nấng tử tế, đàng hoàng.
Bà nghĩ rằng, làm như vậy
là để người giàu thương tâm mà nuôi đứa bé. Dù từ bỏ đứa con thân yêu, lòng bà xót xa, đau
đớn như đứt từng khúc ruột, lúc nào nước mắt cũng tuôn tràn, quên ăn, bỏ ngủ,
nhưng bà hy vọng con mình không khổ như kiếp ăn mày lâu nay.
Nhưng cuộc đời đâu có dễ dàng như
vậy, bởi vì nghiệp báo đâu cho phép mình muốn là được. Từ khi người mẹ bỏ đi, đứa
bé càng khốn khổ hơn, một
mình nó tự xin
ăn, có lúc phải lượm từng chút cơm thừa, canh cặn người ta vứt đi để
sống qua ngày. Nơi đầu đường xó chợ, người ta thường thấy một đứa
bé gầy còm, ốm yếu, đen đúa, lem luốc, ngồi co ro thật tội nghiệp.
Một
hôm, ngài Xá Lợi Phất trên
đường đi du hoá, thấy một chú bé khoảng chín mười tuổi, thân hình
gầy còm, đen đúa, nằm
co quắp bên vệ đường. Động lòng thương xót, Ngài đến bên hỏi rõ
nguyên nhân mới biết được hoàn cảnh bi đát của chú bé. Sau đó, Ngài mới nói
một bài pháp về nhân quả nghiệp báo cho chú bé nghe, rồi Ngài
bảo rằng, “con có
muốn xuất gia theo thầy không?”
Đứa bé than, “con là đứa ăn mày, một thân, một mình không nơi
nương tựa, không cha mẹ, không bà con, họ
hàng thân tộc, con thuộc giai cấp hạ tiện, làm sao con có thể xuất
gia theo Ngài.”
Thời bấy giờ, việc xuất gia chỉ dành riêng cho
giai cấp tôn quý. Nghe vậy, Ngài Xá Lợi
Phất mới giải thích, trong
giáo pháp của Phật Đà không có phân biệt giai cấp cao quý hay hạ tiện. Ai muốn sống
đời giải thoát thì phát tâm gia nhập vào Tăng đoàn. Chú bé vui mừng chấp
nhận và được Ngài Xá
Lợi Phất đưa
về Tăng đoàn. Nơi đây, chú bé lớn khôn, trưởng thành trong môi trường
phạm hạnh đầy trí tuệ.
Do tu hành tinh chuyên, chú được thọ giới đầy đủ, không bao lâu sau đã trở thành
một vị tỳ kheo
nổi tiếng phạm
hạnh, và
chứng quả A La Hán.
Câu chuyện trên đã cho chúng ta một
bài học quý báu về tích luỹ nghiệp trong quá khứ và hiện tại, không phải đơn
giản như nhiều người hiểu lầm chết là hết, mà chúng ta sẽ phải trả
một giá rất đắc nếu đã gây tạo nghiệp xấu ác.
Trên đời này, không có việc gì là không có
nguyên nhân sâu xa của nó.
Trong nhiều kiếp quá khứ, tiền thân của chú bé là người có tâm
tật đố, ghen tỵ, đã
ngăn cản nhiều cư sĩ cúng dường một vị Bích Chi Phật, và còn vu oan, xúi bảo người
khác không cúng dường. Do tiền kiếp đã gieo những nhân xấu như vậy, nên
đời này sinh ra phải làm một chú bé ăn xin nghèo hèn, thiếu thốn đầu đường xó chợ, không
chỉ có thân mình chịu quả báo khổ đau mà người sinh ra cậu cũng cùng
chung nghiệp ấy.
Khi biết
được lý nhân quả nghiệp báo
luôn đeo đuổi ta như bóng với hình,
mình mới thấy thật khốn khổ khi quả xấu đến. Nếu người
Phật tử không thông suốt lý nghiệp báo, sẽ dễ đi đến sai lầm, mà sai một li là đi xa ngàn
dặm, không
biết sẽ về đâu.
Vì vậy, chúng tôi mong quý Phật tử
là người hiểu Phật pháp, biết tu hành theo lời Phật dạy. Nếu chúng ta
không có khả năng bố thí, cúng dường, chia sẻ, giúp đỡ người nghèo
khó, thì
khi thấy người khác bố thí, cúng dường, làm điều phước thiện, chúng ta phải phát tâm tuỳ hỷ, vui theo việc làm
tốt đó, thì mình cũng
có phước đức không khác gì người bỏ tiền ra giúp đỡ.
Đức Phật thường dạy, “người phát
tâm bố thí, giúp đỡ, sẻ
chia, và
người tuỳ hỷ với việc bố thí ấy,
có phước báu ngang bằng nhau. Vì sao? Vì người bố thí cúng dường
thì được phước báo hiện tại và mai sau không nghèo hèn, thiếu thốn, khó khăn; còn ta thấy
người khác bố thí, cúng dường, mà
phát tâm tuỳ hỷ, vui
theo việc làm ấy, sẽ không
bị quả báo tật đố, ganh ghét. Người có tâm tật đố, ganh ghét dễ
dẫn đến hận thù, làm
những việc xấu ác; còn
người xúi bảo người khác làm việc xấu ác, thì quả báo lại càng nặng nề hơn.
Như trường hợp của dân làng đánh cá
trong câu chuyện trên,
cái đói khổ là do cộng nghiệp xấu. Khi đứa bé mới đầu thai vào bà mẹ, nghiệp nhân đã chiêu cảm
những quả xấu, nên cả làng
bị thiếu thốn, đói khát, dẫn
đến việc bà mẹ bị đuổi ra khỏi làng, người con phải thọ quả ăn mày
từ trong bụng mẹ mãi
đến khi chín, mười tuổi. Thật là khủng khiếp! Đó cũng chỉ
vì tuỳ hỷ hay xúi bảo với việc làm xấu ác mà ra.
Do đó,
khi học về giáo lý nghiệp báo, chúng ta nên cẩn thận với mọi hành vi
từ thân-miệng-ý, mình chỉ tán thán
và tuỳ hỷ khi thấy người khác làm việc phước thiện mà thôi; còn khi thấy
ai làm việc bất thiện,
mình nên tìm cách khuyên can, cả
hai việc ấy đều mang lại lợi ích trong hiện tại và mai sau.
Đối với khẩu nghiệp, chúng ta phải hết sức cẩn
trọng trong lời nói. Ta nên nói những lời có lợi cho mình và cho
người, còn những lời nói mình
cảm thấy có hại cho bản
thân hay cho người thì phải dè dặt. Muốn được như vậy, chúng ta phải
biết cách tu hành từ ý nghĩ khi chưa phát sinh ra lời nói. Ta nghĩ và nói
theo lời Phật dạy, biết tận dụng, tranh
thủ thời gian quán chiếu, suy xét, cho
đến khi nào mình cảm
thấy lời nói không có hại cho ai thì
mình mới nói.
Ai tu được như vậy, sẽ từng bước
chuyển hóa được nghiệp xấu ác huân tập từ nhiều đời, nhiều kiếp, không còn
nghi ngờ gì nữa, nhà Phật gọi đó
là niềm tin bất thoái chuyển. Người có niềm tin như thế sẽ càng
ngày càng sống
tốt hơn, nhờ
trí tuệ khai phát, do đó luôn sống vì tha nhân nhiều hơn.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật đã nói, “phàm cái gì
có tướng đều hư (giả) vọng. Hư vọng có nghĩa là không phải không có, mà là giả
có (không thật có).
Thân của chúng ta có phải thật là ta
hay không? Nếu thân này là thật, tại sao ai cũng sanh-già-bệnh-chết? Cái gì
thật thì trước sau như một, không biến đổi, trước như thế nào thì sau
như thế đó, dù trải qua thời gian vô cùng tận cũng không thay đổi. Còn
thân người luôn bị già-bệnh-chết chi phối, thì làm sao
nó là thật được. Vậy mà rất nhiều người trong chúng ta lầm chấp
thân này là thật, là ta, là của ta.
Từ chỗ
chấp thân này là thật, nên
mới sinh ra chuyện vợ chồng luôn tranh cãi, bất hòa với nhau, dẫn
đến ly dị, ly hôn, do không biết
nhường nhịn lẫn nhau. Những điều bất hạnh ấy đến với mình cũng chỉ
vì mình không
hiểu biết, thiếu tu hành mà thôi.
Do nghiệp xấu gieo tạo từ trước, nên khi sanh ra trong
đời này, cậu
bé phải chịu quả báo làm một đứa trẻ lang thang, ăn mày đầu
đường xó chợ, bữa đói bữa no, chín
mười năm trời. Tuy đã vào Tăng đoàn, được xuất gia tu hành, nhưng vẫn phải chịu nghiệp quả của sự
thiếu thốn. Trong lúc
đi khất thực hàng ngày, cứ hễ đến lượt ngài thì hết thức ăn, hoặc người cúng dường muốn
dân vật thực cho ngài
thì lại thấy trong bình bát của ngài
đầy ấp thức ăn, nên lại thôi, không
sớt bát nữa.
Bởi do ác nghiệp gieo tạo trong quá
khứ, nay khiến ngài phải trả quả
báo như vậy. Cho nên, trong
suốt thời gian tu hành trong Tăng đoàn, cùng đi khất thực với quý thầy, ấy thế mà ngài chưa bao
giờ có một lần
no đủ, mặc dù ngài
đã chứng quả A La Hán.
Thương tình vị đệ tử của mình suốt cuộc
đời không một bữa ăn no, Ngài Xá Lợi
Phất khất thực được một bát cơm thịnh soạn, bèn để ngài
dùng trước lúc nhập
diệt; nhưng khi ngài
vừa dùng xong, tất
cả thức ăn đều bị ói ra
hết. Quý vị đã thấy rõ sức mạnh
của nghiệp ác chiêu
cảm thế nào chưa, ngay đến cả bữa
ăn cuối cùng trong đời ngài
cũng không thể thọ
nhận, dú đã
chứng A La Hán quả.
Qua câu
chuyện trên, chúng ta thấy rằng, hễ gieo tạo nghiệp gì thì phải thọ
lãnh nghiệp quả
nấy, không sai một li nào, không trốn tránh vào đâu được, cho dù đó
là nghiệp riêng hay nghiệp chung.
Vì vậy, người Phật tử chân chính
phải hết sức cẩn trọng giữ gìn các hành vi của thân-miệng-ý cho chu
đáo, khi đã lỡ gây tạo nghiệp bất thiện rồi thì trăm kiếp, ngàn
đời, quả báo ấy cũng không hề mai một, mà chỉ nằm yên chờ đến lúc hội đủ nhân duyên thì sẽ trổ ra. Lúc
ấy, ta
không kêu cứu ai được, mà cũng không ai có thể cứu ta được. Chỉ có người
hiểu rõ đạo lý nhân quả, nghiệp báo, biết tu hành, thì mới
chấp nhận mà không phàn nàn, không than van hay oán trách một ai.
Còn đối với những bậc tu hành đã
vượt qua được vòng luân hồi sanh tử, khi những quả xấu trổ ra, các ngài không hề
sợ sệt, không hề oán than; có
khi các ngài còn khởi tâm vui vẻ
vì được trả quả trong kiếp này. Những vị cao Tăng, những bậc tu hành
chân chánh luôn giữ tâm an
trú nơi tính biết sáng suốt của mình, không còn dấy niệm về buồn, thương,
giận, ghét, nên
các ngài
lúc nào cũng an nhiên, tự
tại.
Do
đó, người Phật tử chân chính phải nên thường xuyên quán chiếu, soi sáng
lại chính mình, đừng
chờ đến lúc quả xấu trổ ra, rồi mới ngồi đó mà than thân, trách phận. Bồ
Tát nhờ ý thức được quả khổ đau, nên đã
kịp thời ngăn ngừa từ nhân, còn chúng ta chờ kết quả xấu đến thì làm
sao trở tay cho kịp.
Bởi thế, phàm phu khi trả quả thì
than thân, trách
phận, oán trời, trách
đất, đỗ thừa đủ thứ, rồi
sinh ra hận thù, tìm
cách trả đũa; do
vậy, nhân
quả vay trả, trả vay không có ngày cùng. Muốn dừng được nhân bất
thiện, chúng ta phải thường xuyên nghiền ngẫm lời Phật dạy, để biết
được nhân nào dẫn đến sa đoạ, khổ đau, nhân
nào dẫn đến an vui, hạnh phúc, nhân nào được giác ngộ, giải thoát, để mình lựa chọn mà
tu theo
tâm nguyện của mình; đừng
để nước tới chân mới nhảy thì làm
sao kịp, hay chờ khát nước rồi mới đào giếng thì đã quá muộn
màng.
Người học Phật phải biết phòng ngừa
quả xấu từ nhân. Muốn được như vậy, trước nhất ta phải tin sâu Tam
Bảo, cố gắng
thực hành lời Phật dạy. Phật nay
đã nhập diệt hơn 25 thế kỷ, nhưng giáo
pháp của Ngài vẫn còn đang lưu truyền nhờ chư Tăng, Ni. Nếu không có
chư Tăng, Ni hoằng truyền rộng rãi thì làm sao ta biết được điều hay dở, tốt xấu,
đúng sai trong
cuộc đời, để mình tu sửa, để
khỏi chìm đắm, trôi lăn trong vòng sinh tử, luân hồi.
Tin sâu Tam Bảo là tin sâu vào lời dạy
chân chính của Phật, không phải thần tượng vào vị thầy nào, vì thần tượng thì dễ bị sụp đổ.
Điều đó dễ dẫn ta đến cống cao ngã mạn, chỉ thấy có thầy mình là
tốt, là đúng, là hay, còn
các vị khác
đều sai, đều xấu. Đây là tai hoạ từ bệnh thần tượng cá nhân gây nên,
bởi chư vị Tăng, Ni đang tu hành cũng là người bình thường, nên không
sao tránh khỏi những khuyết điểm.
Biết được như vậy, chúng ta dễ dàng
cảm thông cho những sai sót của quý
Tăng, Ni, hay
các bạn đồng tu với nhau. Khi xét thấy chư Tăng, Ni nào đầy đủ đức
hạnh thì chúng ta cố gắng học theo;
còn chư vị Tăng, Ni nào chưa trọn vẹn, nhiều khiếm khuyết, thì chúng ta
cũng nên lấy đó làm bài học, để
không vấp phải lỗi lầm. Đó là điều người Phật tử cần phải nên biết, để tránh
việc khen mình, chê
người, chỉ
gây đau khổ cho nhau mà
thôi.
Đối với người Phật tử, việc tích
luỹ nghiệp rất là quan trọng, bởi chúng ta sanh ra trong đời là đã
mang theo nghiệp tốt xấu lẫn lộn của nhiều đời trước. Bên cạnh tích luỹ
nghiệp của quá khứ, việc tái sanh còn do lực tác động của cận tử
nghiệp, cũng
rất quan trọng. Cận tử nghiệp là nghiệp được tạo tác lúc sắp chết.
Tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có liên quan mật thiết với nhau,
nó kết thành yếu tố quyết định đưa thần thức người chết tái sanh
về cõi lành hay cõi dữ.
Thời Phật còn tại thế, vua Ma Ha Nam- con của Cam Lộ
Phạm Vương, là em nhà chú bác với đức Phật, ông tu tại gia, giữ năm
giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai. Một hôm, ông đến gặp đức Phật
và bạch rằng, “bạch
Thế Tôn, con giữ gìn năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai thường xuyên như
vậy, nếu chẳng may con bị chết bất đắc kỳ tử, sau khi chết,
con sẽ tái sanh được chỗ tốt đẹp hay không?”
Đức Phật không trả lời mà hỏi lại ông, “như có một cây
cổ thụ thân và cành nghiêng hẳn về một bên, vậy khi cưa gốc, cây đó
sẽ ngã về bên nào?”
Vua Ma Ha Nam trả lời, “dạ thưa Thế Tôn, cây sẽ ngã
về phía đang nghiêng”.
“Cũng
vậy, bình thường nhà vua hay làm điều lành, giữ giới liên tục, không gián
đoạn, khi gặp tai nạn bất thường, tuy có hơi bị khủng hoảng đôi chút,
nhưng do nghiệp thiện tích luỹ quá nhiều, nên sẽ được sinh về cảnh giới an lành, nhà vua
khỏi phải lo lắng, sợ hãi mà cứ yên tâm”.
Người tu hành chân chính phải biết
tích luỹ nghiệp lành khi còn trẻ khoẻ, chứ không phải chờ đến tuổi
già, sức
yếu, rồi
mới làm lành, lánh
dữ, và tu
hành, thì e
rằng không còn kịp nữa. Tránh dữ, làm
lành là phương pháp sống của người Phật tử, hễ khi có cơ hội
và nhân duyên thì mình phát
tâm làm ngay dù việc
lớn hay nhỏ.
Cho nên, tu là phải chịu khó hành trì
bền bỉ từ khi còn trẻ, ta chỉ làm một việc là kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ
cho đến lời nói và hành động cho được thuần nhất, không làm tổn hại cho mình và người.
Cận tử nghiệp đối vối việc tái sinh
trong đời sau rất quan trọng. Một người trong đời đã làm nhiều việc
thiện lành, tốt
đẹp, nhưng đến lúc sắp lâm chung lại khởi lên tâm niệm xấu ác, hay oán giận
ai, thì
chưa chắc được sinh về cõi an lành. Ngược lại, ai trong đời lỡ tạo
một vài nghiệp ác, đến lúc sắp lâm chung mà biết khởi tâm niệm lành
mạnh mẽ, người ấy có thể chuyển được nghiệp xấu và sanh về cảnh
giới an lành. Bởi nghiệp không cố định, nên ta có thể
chuyển hoá và thay đổi chúng.
Qua câu
chuyện trên, đức
Phật đã chỉ ra cho ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp, chúng ta
phải thường xuyên huân tập việc tốt bền bỉ, lâu dài. Lúc nào, ta
cũng ý thức việc làm ác sẽ gây quả xấu cho mình trong hiện tại và mai sau, nên không dám
lơ là, buông
lung, mà luôn cố gắng tinh
cần chuyển hóa chúng khi còn trong trứng nước, tu hành như vậy ta
mới có thể làm chủ tâm mình trước lúc lâm chung.
Cận tử nghiệp có thể chuyển hoá được
các nghiệp xấu ác
ta đã gây tạo ra từ trước. Nếu
trước đây, chúng
ta đã từng làm những việc xấu ác, đến lúc gần chết mình biết hồi
đầu chuyển hướng, khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, nhờ tâm niệm đó, mình có thể được
sanh về chỗ an vui, hạnh
phúc.
Ngoài việc tích luỹ nghiệp lành, người Phật tử
còn phải biết tu hạnh buông xả. Nghĩa là không chấp trước vào việc
làm thiện lành của mình. Người chấp trước vào việc tốt mà mình đã
làm thì dễ sanh tâm ngã mạn, lúc gặp duyên xấu không làm chủ được
bản thân, hay bị người khác xúi giục làm điều xấu ác không cưỡng lại
được, biết xấu mà vẫn làm, biết
mà cố phạm, vì thói xấu đã được thuần thục.
Trong đời, ta thấy có người hay làm
những việc xấu ác, bất thiện, bất nhân, bất nghĩa, mà họ vẫn
khoẻ mạnh, giàu có, không gặp hoạn nạn, là do nhiều đời,
nhiều kiếp, họ đã
gieo trồng quá nhiều nghiệp lành, tích luỹ nghiệp tốt của họ trong quá
khứ còn nhiều, nên những nghiệp xấu ác họ đã gây trong đời hiện tại
chưa đủ sức chi phối.
Có người thắc mắc cho rằng, tại sao
có người suốt đời toàn làm điều ác, mà họ vẫn sống đầy đủ, giàu có, chẳng thiếu
một thứ gì. Vậy
luật nhân quả nghiệp báo có chuẩn xác và công bằng hay không? Trong kinh
Phật dạy rất rõ ràng, “nếu
làm thiện sẽ được quả báo vui, làm
ác thì bị
quả báo khổ”.
Bởi tích luỹ nghiệp và cận tử
nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đối với người sắp lâm chung. Người làm
ác mà vẫn sống phây phây là do tích luỹ nghiệp thiện lành của họ
quá nhiều. Phật thường nói về nhân-duyên-quả, có nhân
thì phải có duyên, đủ duyên thì chiêu cảm quả báo. Nhưng nhân quả có
thể thay đổi được, nếu không chúng ta tu cũng tốn công, vô ích thôi.
Tu là mục đích chuyển khổ thành vui,
chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ. Như khi xưa ta chưa biết tu nên hay hút thuốc,
uống rượu; nay
nhờ biết tu, nên mình không uống rượu, hút thuốc nữa, vậy không phải đã chuyển là gì. Bỏ thuốc, bỏ
rượu là do ta bỏ, chứ
đâu có ông thần linh thượng đế nào giúp cho mình làm được điều này.
Chúng
ta nuốn được phước báo tốt, sống đời hiền thiện, đạo đức, thì phải cố gắng
tu trong mọi hoàn cảnh, đừng
chờ đến chùa rồi
mới tu. Tu như vậy là không thực tế. Một tháng chúng ta đến chùa
được mấy ngày? Không lẽ không đến chùa là không tu được hay sao? Quý
Phật tử hãy nên suy nghĩ chín chắn chỗ này. Tu chính là nền tảng
vững chắc để xây dựng hạnh phúc gia đình và xã hội. Một giờ tu là
một giờ hạnh phúc, một ngày tu là một ngày an lạc, giác ngộ, giải
thoát ngay tại đây và bây giờ.
Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng
ta phải thường xuyên sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện
đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát
nguyện mãnh mẽ và ý thức rằng, làm ác
sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai sau, nhờ vậy mình mới đủ sức
vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Phát nguyện để làm mới lại chính mình và
tin sâu Tam bảo, giúp chúng
ta có đủ niềm tin trên bước đường tu học. Mỗi khi gặp điều bất hạnh, ta biết đó
là nghiệp xấu quá khứ còn rơi rớt lại, nên không thối chí, nản lòng, mà còn cố gắng nhiều
hơn để vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.
Chúng ta hãy nên bắt chước ông vua Thiền sư
Phật hoàng Trần Nhân Tông, xem ngai vàng như dép rách, chẳng màng đến
vinh hoa phú quý, một lòng nhất tâm
tu hành, buông xả quyền cao chức trọng, để
sống đời trong sạch, giải
thoát.
HẾT (Nguồn: Thư Viện Hoa Sen)
0 Kommentare:
Post a Comment