"Tối thượng thừa
là bất cứ điều gì cũng không lìa tâm tánh, ngay nơi tâm tánh mà ứng dụng tu,
ngay nơi tâm tánh mà sống..."
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543
Phẩm
Thứ Tám: Đốn Tiệm
DỊCH
Khi ấy Tổ ở chùa
Bảo Lâm tại Tào Khê, còn Thần Tú đại sư ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ
hai tông thạnh hóa, người đều gọi là Nam Năng Bắc Tú nên có hai tông Nam Bắc,
chia ra đốn tiệm, mà người học không biết tông thú. Tổ bảo chúng rằng:
Pháp vốn một tông,
người có Nam Bắc, pháp tức là một thứ, thấy có mau và chậm. Sao gọi là đốn
tiệm? Pháp không có đốn tiệm, người có lợi căn, độn căn, nên gọi là đốn tiệm.
Nhưng đồ đệ của ngài
Thần Tú thường chê Tổ sư Nam tông là không biết một chữ, có cái gì hay. Thần Tú
nói rằng:
Kia (Tổ Huệ Năng) được
Trí vô sư, thâm ngộ được pháp thượng thừa, tôi không bằng vậy. Vả lại Thầy tôi
là Ngũ Tổ, chính Ngài truyền y pháp, há lại suông ư? Tôi hận không thể đi xa để
thân cận, luống thọ ân Quốc vương, vậy những người các ông không nên kẹt ở đây,
nên đến Tào Khê tham hỏi.
Một hôm Ngài sai đệ tử
là Chí Thành rằng:
Ông thông minh nhiều
trí, nên vì tôi mà đến Tào Khê nghe pháp, nếu nghe được điều gì, hết lòng ghi
lấy, trở về nói cho tôi nghe.
Chí Thành vâng mệnh đến
Tào Khê, theo chúng tham thỉnh, không nói từ đâu đến. Khi ấy Lục Tổ bảo chúng
rằng:
Ngày nay có người trộm
pháp đang ẩn trong hội này.
Chí Thành liền ra lễ
bái và thưa đầy đủ việc của ông. Tổ bảo:
Ông từ Ngọc Tuyền lại nên
là kẻ do thám.
Chí Thành đáp: Không
phải.
Tổ hỏi: Sao được không
phải?
Chí Thành thưa:
Chưa nói là phải, đã
thưa rồi là không phải.
Tổ bảo: Thầy ông dùng
cái gì chỉ dạy chúng?
Chí Thành thưa:
Thường chỉ dạy Đại
chúng trụ tâm quán tịnh, thường ngồi chẳng nằm.
Tổ bảo:
Trụ tâm quán tịnh là
bệnh chớ không phải thiền, thường ngồi là câu chấp nơi thân, đối với lý có lợi
ích gì.
Hãy lắng nghe bài kệ
của tôi đây:
Khi sống ngồi không nằm,
Khi chết nằm không ngồi,
Vốn là đầu xương thúi,
Vì sao lập công khóa.
Khi chết nằm không ngồi,
Vốn là đầu xương thúi,
Vì sao lập công khóa.
(Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.)
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.)
Chí Thành lại lễ bái
thưa rằng:
Đệ tử ở chỗ Đại sư Thần
Tú, học đạo chín năm mà không được khế ngộ. Ngày nay nghe Hòa thượng nói một
bài kệ liền khế ngộ được Bản tâm. Sanh tử là việc lớn, đệ tử xin Hòa thượng vì
lòng đại bi chỉ dạy thêm.
Tổ bảo:
Tôi nghe Thầy ông dạy
học nhân pháp giới định tuệ, chưa biết Thầy ông nói giới định tuệ, hành tướng
như thế nào, ông vì tôi nói xem.
Chí Thành thưa:
Đại sư Thần Tú nói:
“Các điều ác chớ làm gọi là giới, các điều thiện vâng làm gọi là tuệ, tự tịnh ý
mình gọi là định.” Ngài Thần Tú nói như thế, chưa biết Hòa thượng lấy pháp gì
dạy người?
Tổ bảo:
Nếu tôi nói có pháp cho
người tức là nói dối ông, chỉ tùy phương mở trói, giả danh là tam-muội. Như
Thầy ông nói giới định tuệ thật là không thể nghĩ bàn, nhưng chỗ thấy giới định
tuệ của tôi lại khác.
Chí Thành thưa:
Giới định tuệ chỉ là
một thứ vì sao lại có khác?
Tổ bảo:
Thầy ông nói giới định
tuệ là tiếp người Đại thừa, còn tôi nói giới định tuệ là tiếp người Tối thượng
thừa, ngộ hiểu chẳng đồng, thấy có mau và chậm; ông nghe tôi nói cùng với kia
đồng hay chăng? Tôi nói pháp chẳng lìa Tự tánh, lìa thể nói pháp thì gọi là nói
tướng, Tự tánh thường mê, phải biết tất cả muôn pháp đều từ nơi Tự tánh khởi dụng,
ấy là pháp Chân giới, Chân định, Chân tuệ, hãy lắng nghe tôi nói kệ đây:
Đất tâm không lỗi Tự tánh giới,
Đất tâm không si Tự tánh tuệ,
Đất tâm không loạn Tự tánh định.
Chẳng tăng chẳng giảm tự kim cang,
Thân đến thân đi vốn tam-muội.
Đất tâm không si Tự tánh tuệ,
Đất tâm không loạn Tự tánh định.
Chẳng tăng chẳng giảm tự kim cang,
Thân đến thân đi vốn tam-muội.
(Tâm địa vô phi Tự tánh giới,
Tâm địa vô si Tự tánh tuệ,
Tâm địa vô loạn Tự tánh định,
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bản tam muội.)
Tâm địa vô si Tự tánh tuệ,
Tâm địa vô loạn Tự tánh định,
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bản tam muội.)
Chí Thành nghe kệ
rồi hối tạ, mới trình một bài kệ:
Năm uẩn thân huyễn hóa,
Huyễn làm sao cứu kính,
Xoay lại tìm Chân như,
Pháp trở thành bất tịnh.
Huyễn làm sao cứu kính,
Xoay lại tìm Chân như,
Pháp trở thành bất tịnh.
(Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu kính,
Hồi thú Chân như,
Pháp hoàn bất tịnh.)
Huyễn hà cứu kính,
Hồi thú Chân như,
Pháp hoàn bất tịnh.)
Tổ liền ấn khả đó, lại bảo Chí Thành rằng:
Giới định tuệ của Thầy ông là khuyên dạy người tiểu căn
tiểu trí, còn giới định tuệ của tôi là dạy người đại căn đại trí. Nếu ngộ được
Tự tánh cũng chẳng lập Bồ-đề, Niết-bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến,
không một pháp có thể được mới hay dựng lập muôn pháp. Nếu hiểu được ý này cũng
gọi là thân Phật, cũng gọi là Bồ-đề Niết-bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến.
Người thấy tánh lập cũng được, không lập cũng được, đi lại tự do, không bị trệ
ngại, ứng dụng tùy việc làm, nói năng tùy đáp, khắp hiện Hóa thân, chẳng lìa Tự
tánh, liền được tự tại thần thông, du hí tam-muội, ấy gọi là kiến tánh.
Chí Thành lại thưa:
Thế nào là nghĩa chẳng
lập?
Tổ bảo:
Tự tánh không lỗi,
không si, không loạn, niệm niệm Bát-nhã quán chiếu, thường lìa Pháp tướng, tự
do tự tại, dọc ngang trọn được, có gì nên lập? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ, đốn tu
cũng không thứ lớp, cho nên chẳng lập tất cả pháp. Các pháp là lặng lẽ, có thứ
lớp gì?
Chí Thành liền lễ
bái, nguyện làm người hầu hạ, sớm chiều không lười mỏi. Chí Thành là người Thái
Hòa Cát Châu.
]
Tăng Chí Triệt, quê ở Giang Tây, họ Trương tên Hành Xương, thuở nhỏ là một hiệp
khách. Từ khi chia ra hai tông Nam Bắc, hai vị Tông chủ tuy quên bỉ ngã, nhưng
đồ chúng tranh nhau khởi yêu ghét. Khi ấy đệ tử của Bắc tông tự lập ngài Thần
Tú làm Tổ thứ sáu mà kỵ (vì) Lục Tổ được truyền y, mọi người đều nghe nên mới
dạy Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Tổ tâm thông dự biết việc ấy nên liền để mười
lượng vàng ở dưới tòa. Khi ấy ban đêm Hành Xương vào trong thất toan muốn hại
Tổ, Tổ đưa cổ cho chém, Hành Xương liền vung kiếm chặt ba lần đều không thương
tổn. Tổ bảo:
Kiếm chánh chẳng tà,
kiếm tà chẳng chánh, chỉ nợ vàng của ông, không nợ mạng của ông.
Hành Xương hoảng hốt té
xỉu, giây lâu mới tỉnh, cầu xin sám hối, liền nguyện xuất gia. Tổ liền cho vàng
bảo:
Ông hãy đi, e đồ chúng
trở lại hại ông, một ngày khác ông có thể đổi hình dáng mà trở lại, tôi sẽ nhận
ông.
Hành Xương vâng lời
dạy, giữa đêm trốn đi, sau theo Tăng xuất gia, thọ giới Cụ túc, tinh cần tu hành.
Một hôm ông nhớ lại lời Tổ, từ xa đến lễ ra mắt Tổ. Tổ bảo:
Tôi nhớ ông đã lâu, sao
ông đến muộn vậy?
Hành Xương thưa:
Trước nhờ ơn Hòa thượng
xá tội, ngày nay tuy xuất gia khổ hạnh, trọn khó đền đáp ân đức, đâu mong được
truyền pháp độ sanh ư? Đệ tử thường xem kinh Niết-bàn, chưa hiểu được nghĩa
thường và vô thường, cúi xin Hòa thượng từ bi lược vì giải nói.
Tổ bảo:
Vô thường tức là Phật
tánh, hữu thường tức là tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy.
Hành Xương thưa rằng:
Hòa thượng nói pháp rất
trái với văn kinh.
Tổ bảo:
Ta được truyền tâm ấn
của Phật, đâu dám trái với kinh Phật.
Hành Xương thưa:
Kinh nói Phật tánh là
thường, Hòa thượng lại nói là vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ-đề
đều là vô thường mà Hòa thượng lại nói là thường, đây tức trái nhau, khiến cho
học nhân càng thêm nghi ngờ.
Tổ bảo:
Kinh Niết-bàn thuở xưa
tôi có nghe Ni Vô Tận Tạng đọc một lần liền vì bà giảng nói, không có một chữ,
một nghĩa nào không hiệp với văn kinh, cho đến vì ông nói cũng trọn không có
hai thuyết.
Hành Xương thưa:
Học nhân thức lượng cạn
tối, cúi mong Hòa thượng lượng theo mà từ bi khai thị.
Tổ bảo:
Ông biết chăng, Phật
tánh nếu thường lại nói gì là các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một
người phát tâm Bồ-đề, nên tôi nói là vô thường, mà chính là đạo Chân thường của
Phật nói. Lại tất cả pháp nếu là vô thường, tức mỗi vật đều có Tự tánh, dung
thọ sanh tử mà tánh Chân thường có chỗ bất biến, nên tôi nói thường chính là Phật
nói nghĩa chân vô thường. Phật xưa vì phàm phu ngoại đạo chấp tà thường, còn các
hàng Nhị thừa thường mà chấp là vô thường, cọng thành tám thứ điên đảo, nên
trong giáo lý liễu nghĩa kinh Niết-bàn phá thiên kiến kia mà hiển bày Chân
thường, Chân lạc, Chân ngã, Chân tịnh. Nay ông y theo lời nói mà trái với
nghĩa, dùng đoạn diệt vô thường và xác định cái tử thường mà lầm hiểu lời nói
mầu nhiệm viên diệu tối hậu của Phật, dù có xem một ngàn biến kinh thì có lợi
ích gì?
Hành Xương bỗng
nhiên đại ngộ, liền nói kệ rằng:
Vì giữ tâm vô thường,
Phật nói có tánh thường,
Không biết được phương tiện,
Như ao xuân mò gạch.
Nay tôi chẳng thi công,
Mà Phật tánh hiện tiền,
Không phải thầy trao cho,
Tôi cũng không sở đắc.
Phật nói có tánh thường,
Không biết được phương tiện,
Như ao xuân mò gạch.
Nay tôi chẳng thi công,
Mà Phật tánh hiện tiền,
Không phải thầy trao cho,
Tôi cũng không sở đắc.
(Nhân thủ vô thường tâm,
Phật thuyết hữu thường tánh,
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền,
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.)
Phật thuyết hữu thường tánh,
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền,
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.)
Tổ bảo:
Nay ông mới triệt vậy,
nên đặt tên ông là Chí Triệt.
Chí Triệt lễ tạ mà lui.
]
Có một chú bé tên là Thần Hội ở Tương Dương, con nhà họ Cao, mười ba tuổi, từ
chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.
Tổ hỏi:
Tri thức từ xa nhọc
nhằn đến lại đem được cái gốc đến chăng? Nếu có gốc thì nên biết được Ông chủ,
thử nói xem?
Thần Hội thưa:
Lấy vô trụ làm gốc,
thấy tức là chủ.
Tổ bảo: Ông Sa-di này
đâu nên nói như thế.
Thần Hội liền hỏi:
Hòa thượng tọa thiền
lại thấy hay chẳng thấy?
Tổ cầm gậy đánh ba gậy
hỏi:
Tôi đánh ông đau hay
chẳng đau?
Thần Hội đáp: Cũng đau
cũng không đau.
Tổ bảo: Tôi cũng thấy
cũng chẳng thấy.
Thần Hội hỏi:
Thế nào là cũng thấy
cũng chẳng thấy?
Tổ bảo:
Chỗ thấy của tôi thường
thấy những lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy phải quấy tốt xấu của người khác,
ấy do cũng thấy mà cũng chẳng thấy. Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào?
Nếu ông chẳng đau thì đồng như cây đá, nếu ông đau thì đồng với phàm phu, tức
khởi sân hận, ông về trước thấy và chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh
diệt, ông Tự tánh lại chẳng thấy mà dám đùa với người.
Thần Hội liền lễ bái
sám hối. Tổ lại nói:
Tâm ông nếu mê chẳng
thấy thì hỏi Thiện tri thức để tìm đường, còn tâm ông nếu ngộ tức tự thấy tánh,
y pháp tu hành, ông tự mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng
thấy. Ta thấy thì tự biết há thay cái mê cho ông, nếu ông tự thấy cũng chẳng
thay được cái mê cho ta, sao chẳng tự biết tự thấy mà hỏi ta thấy cùng chẳng
thấy.
Thần Hội lại lễ hơn một
trăm lạy, xin sám hối tội lỗi rồi siêng năng hầu hạ bên cạnh không rời.
Một hôm Tổ bảo chúng:
Tôi có một vật không
đầu, không đuôi, không danh, không tự, không lưng, không mặt, các người lại biết
chăng?
Thần Hội bước ra nói
rằng:
Ấy là bản nguyên của
chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.
Tổ bảo:
Tôi đã nói với ông
không danh không tự, ông liền gọi là bản nguyên, là Phật tánh, ông nhằm đi lấy
cỏ tranh che đầu, cũng chỉ thành cái hạng tông đồ của tri giải.
Sau khi Tổ diệt
độ, ngài Thần Hội vào Kinh Lạc, hoằng truyền pháp đốn giáo Tào Khê, viết quyển
Hiển Tông Ký, thạnh hành ở đời, gọi là Thiền sư Hà Trạch.
Tổ thấy các tông
nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, phần nhiều nhóm ở dưới tòa của Tổ, Ngài thương
xót mới bảo rằng:
Người học đạo,
tất cả niệm thiện, niệm ác nên phải dẹp sạch, không tên có thể gọi, ấy gọi là
Tự tánh, tánh không hai ấy gọi là Thật tánh, trên Thật tánh dựng lập tất cả
giáo môn, ngay lời nói liền phải tự thấy.
Các người nghe nói,
thảy đều làm lễ, xin thờ Ngài làm thầy.
GIẢNG 1
CHÍ
THÀNH
Khi ấy Tổ ở chùa
Bảo Lâm tại Tào Khê, còn Thần Tú đại sư ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ
hai tông thạnh hóa, người đều gọi là Nam Năng Bắc Tú nên có hai tông Nam Bắc,
chia ra đốn tiệm, mà người học không biết tông thú. Tổ bảo chúng rằng:
Pháp vốn một tông,
người có Nam Bắc, pháp tức là một thứ, thấy có mau và chậm. Sao gọi là đốn
tiệm? Pháp không có đốn tiệm, người có lợi căn, độn căn, nên gọi là đốn tiệm.
Đến phẩm thứ tám nói về
đốn và tiệm.
Về tông thú tức về sự tu
hành không có chia ra Nam Bắc, đốn tiệm. Đốn là nhanh, tiệm là chậm, là thứ lớp.
Sở dĩ có thứ lớp là tại sao? Vì căn cơ của người, người thông minh nghe ít hiểu
nhiều, còn người tối tăm nghe nhiều hiểu ít; nghe nhiều hiểu ít phải tu từ từ,
phải từ thấp đi lên lần lần. Còn người thông minh nghe liền hiểu, hiểu liền ứng
dụng được thì đâu có từ từ, vì thế nói căn cơ lợi và độn; lợi căn tu nhanh, tiến
nhanh nên gọi là đốn, còn độn căn thì chậm nên gọi là tiệm, đốn tiệm chia ra là
tại căn cơ người, chớ không phải tại pháp chia ra như thế.
Nhưng đồ đệ của ngài
Thần Tú thường chê Tổ sư Nam tông là không biết một chữ, có cái gì hay.
Dưới ngài Thần Tú có người
đệ tử lớn là Phổ Tịch, kiêu ngạo, muốn làm Tổ thứ bảy, thành ra muốn đưa thầy
ông lên làm Tổ thứ sáu, nhưng thầy ông không được truyền y bát nên ông bực tức
nói Tổ Huệ Năng dốt không biết chữ, không có gì hay, chỉ thầy ông mới là giỏi
là hay v.v.. xứng đáng làm Tổ, do đó mới sanh ra sự tranh chấp. Không phải người
lớn tranh chấp, đó là đồ đệ ở dưới tranh chấp.
Thần Tú nói rằng:
Kia (Tổ Huệ Năng) được Trí vô sư, thâm ngộ được pháp thượng thừa, tôi
không bằng vậy. Vả lại Thầy tôi là Ngũ Tổ, chính Ngài truyền y pháp, há lại
suông ư?
Ngài Thần Tú thật rất tốt,
chính Ngài nhận rằng Tổ Huệ Năng được Trí vô sư, còn Ngài học nhiều nhưng là
Trí hữu sư, Tổ Huệ Năng đã thâm ngộ được pháp thượng thừa còn Ngài không bằng;
và chính Ngũ Tổ truyền y bát cho Tổ Huệ Năng thì đâu phải là chuyện nói suông!
Như vậy ông thầy thì hiểu, nhưng học trò vì ngô ngã nên sanh việc chia rẽ khinh
chê.
Tôi hận không thể đi xa
để thân cận, luống thọ ân Quốc vương, vậy những người các ông không nên kẹt ở
đây, - tức là không nên ngưng trệ ở đây - nên đến Tào Khê tham hỏi.
Như vậy thì quá tốt, sánh
với hiện nay có ai bì nổi ngài Thần Tú không? Có ai dám bảo học trò đi nơi khác
học không? Hay là bảo: “Thôi ở đây tôi dạy cho đủ rồi đi đâu làm chi, bỏ thầy
đi là bất hiếu v.v...”
Một hôm Ngài sai đệ tử
là Chí Thành rằng:
Ông thông minh nhiều
trí, nên vì tôi mà đến Tào Khê nghe pháp, nếu nghe được điều gì, hết lòng ghi
lấy, trở về nói cho tôi nghe.
Chí Thành vâng mệnh đến
Tào Khê, theo chúng tham thỉnh, không nói từ đâu đến.
Chí Thành đến Tào Khê
nhưng không có trình, không xin chi cả, cứ theo chúng vào học.
Khi ấy Lục Tổ bảo chúng
rằng:
Ngày nay có người trộm
pháp đang ẩn trong hội này.
Chí Thành liền ra lễ
bái và thưa đầy đủ việc của ông. Tổ bảo:
Ông từ Ngọc Tuyền lại
nên là kẻ do thám.
Chí Thành đáp: Không
phải.
Tổ hỏi: Sao được không
phải?
Chí Thành thưa:
Chưa nói là phải, đã
thưa rồi là không phải.
Tức là Ngài nói rõ đến mà
làm thinh là ăn trộm, còn đã thưa trình rồi thì không còn là ăn trộm nữa.
Tổ bảo: Thầy ông dùng
cái gì chỉ dạy chúng?
Chí Thành thưa:
Thường chỉ dạy đại
chúng trụ tâm quán tịnh, thường ngồi chẳng nằm.
Trụ tâm quán tịnh là
trụ tâm lại và nhìn thấy chỗ lặng lẽ đó và thường ngồi thiền chớ không có nằm.
Tổ bảo:
Trụ tâm quán tịnh là
bệnh chớ không phải thiền, thường ngồi là câu chấp nơi thân, đối với lý có lợi
ích gì.
Hãy lắng nghe bài kệ
của tôi đây:
Sanh lai tọa bất ngọa,
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.
Tử khứ ngọa bất tọa,
Nguyên thị xú cốt đầu,
Hà vi lập công khóa.
Khi sống ngồi thiền
mãi không nằm, khi chết nằm luôn không ngồi, có ai chết rồi mà ngồi dậy không? Như
vậy vốn là một khúc xương thúi, vì sao mà lập công khóa? Nằm và ngồi chẳng qua
là xương sống dựng đứng lên hay nằm ngã xuống, dựng lên gọi là ngồi, ngã xuống
gọi là nằm. Như vậy nằm ngồi vốn là một khúc xương thúi, là cái hình thức, đâu
có gì quan trọng mà lấy đó làm công phu tu hành. Tu hành là điểm nào nữa kia,
chớ không phải hình thức đó, nhưng hiện nay thấy ai ngồi được nhiều thì thiên
hạ phục lắm. Thế nên ở đây tuy dạy tu thiền nhưng ngồi tối đa là hai giờ rồi
xả, chớ không ngồi hoài vì chúng ta tu cũng phải có chút ít công khóa chừng
mực, nhưng thật ra chủ tâm là làm sao ngộ được đạo, chớ không phải lấy việc
ngồi làm sở trường.
Chí Thành lại lễ bái
thưa rằng:
Đệ tử ở chỗ Đại sư Thần
Tú, học đạo chín năm mà không được khế ngộ. Ngày nay nghe Hòa thượng nói một
bài kệ liền khế ngộ được Bản tâm. Sanh tử là việc lớn, đệ tử xin Hòa thượng vì
lòng đại bi chỉ dạy thêm.
Tổ bảo:
Tôi nghe Thầy ông dạy
học nhân pháp giới định tuệ, chưa biết Thầy ông nói giới định tuệ, hành tướng
như thế nào, ông vì tôi nói xem.
Chí Thành thưa:
Đại sư Thần Tú nói:
“Các điều ác chớ làm gọi là giới, các điều thiện vâng làm gọi là tuệ, tự tịnh ý
mình gọi là định.” Ngài Thần Tú nói như thế, chưa biết Hòa thượng lấy pháp gì
dạy người?
Hiện nay thường trên lá
phái bằng chữ nho, chúng ta thấy có mấy câu: “Chư
ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo.” Đây là
bốn câu kệ của Phật Ca-diếp, đó là lời dạy chung của chư Phật. Ngài Thần Tú
cũng dạy chư ác mạc tác là giới, chúng thiện phụng hành là tuệ, vì có trí tuệ
mới biết điều thiện mà làm, tự tịnh kỳ ý là định.
Tổ bảo:
Nếu tôi nói có pháp cho
người tức là nói dối ông, chỉ tùy phương mở trói, giả danh là tam-muội. Như
Thầy ông nói giới định tuệ thật là không thể nghĩ bàn, nhưng chỗ thấy giới định
tuệ của tôi lại khác.
Chí Thành thưa:
Giới định tuệ chỉ là
một thứ vì sao lại có khác?
Tổ bảo:
Thầy ông nói giới định
tuệ là tiếp người Đại thừa, còn tôi nói giới định tuệ là tiếp người Tối thượng thừa,
ngộ hiểu chẳng đồng, thấy có mau và chậm; ông nghe tôi nói cùng với kia đồng
hay chăng? Tôi nói pháp chẳng lìa Tự tánh, lìa thể nói pháp thì gọi là nói
tướng, Tự tánh thường mê, phải biết tất cả muôn pháp đều từ nơi Tự tánh khởi
dụng, ấy là pháp Chân giới, Chân định, Chân tuệ, hãy lắng nghe tôi nói kệ đây:
Tâm địa vô phi Tự tánh giới,
Tâm địa vô si Tự tánh tuệ,
Tâm địa vô loạn Tự tánh định,
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bản tam-muội.
Tâm địa vô si Tự tánh tuệ,
Tâm địa vô loạn Tự tánh định,
Bất tăng bất giảm tự kim cang,
Thân khứ thân lai bản tam-muội.
Ngay nơi đất tâm mình mà
không có lỗi gọi là Tự tánh giới; đất tâm không si tức là ngay nơi Bản tâm mình
mà hằng giác hằng liễu gọi là Tự tánh tuệ, chớ không phải vâng làm những điều
lành mới là tuệ; ngay nơi tâm mình không loạn gọi là Tự tánh định. Ba điểm này
để tâm nghiệm xét thì thấy hai bên dạy khác nhau. Không làm các điều ác gọi là giới;
làm các điều ác là thân làm, khẩu làm, thân và khẩu là tướng bên ngoài, ngoài
thân hành động, miệng nói năng mới gọi là phạm, thân khẩu ngừa tránh làm những
điều ác gọi là giới. Còn Tổ bảo: Ngay nơi tâm mình không dấy niệm ác đó là
giới, vừa dấy niệm ác thì đã phạm giới; thành ra một bên ở ngoài ngọn, một bên
đi tận gốc. Thế nên nói kia là tướng, đây là tánh, rõ ràng như vậy. Vâng làm
các điều lành là tuệ, nói và làm những điều lành tức là hành động, cũng là
tướng bên ngoài; lựa điều lành mà làm thì tuệ đó là tuệ của suy tư, của phán
xét, tuệ của cái động bên ngoài; còn ngay trong tâm mình hằng liễu liễu thường
tri thì tuệ đó là sẵn ở trong tâm, đó mới thật là tuệ. Chúng ta thấy rõ một bên
thuộc về tướng, một bên thuộc về tánh. Tướng là ở ngoài hành động, tánh là đi thẳng
vào cội nguồn của tâm. Định của ngài Thần Tú dạy là trụ tâm quán tịnh để định, như
vậy lấy cái lặng lẽ làm cảnh để quán, định đó có cảnh bị quán và người hay
quán; còn ngay nơi tâm mình không dấy loạn đó là định thì định đó không còn
năng sở nữa. Như vậy chúng ta thấy Lục Tổ chỉ thẳng chỗ tột cùng, nên nói kia
tiếp người Đại thừa, đây là tiếp người Tối thượng thừa. Tóm lại, người Đại thừa
làm những điều lành, nói những điều lành, cứu giúp người, ví như nói bố thí,
trì giới, nhẫn nhục v.v... nhưng vẫn còn là ở hình tướng, còn Tối thượng thừa
là bất cứ điều gì cũng không lìa tâm tánh, ngay nơi tâm tánh mà ứng dụng tu,
ngay nơi tâm tánh mà sống. Hiểu như thế mới không lầm lẫn, mới hiểu tại sao
Ngài nói Ngài là Tối thượng thừa, bên kia là Đại thừa, tức là thấp hơn Ngài một
bậc. Thấp tại chỗ nào? Vì bên kia ở ngoài tướng, còn đây là ngay trong tâm
tánh, pháp Tối thượng thừa là pháp chỉ thẳng tâm tánh.
“Chẳng tăng chẳng giảm tự
kim cang”, Tự thể kim cang của mình là không thêm không bớt, vừa thêm vừa bớt
tức là có sai biệt, có biến động, còn thể đó như như, không tăng không giảm,
gọi là kim cang. “Thân đến thân đi vốn tam-muội”, nếu nơi tâm mình hằng không
thêm, không bớt, không động, không tịnh thì dù thân này tới lui qua lại nhưng vẫn
ở trong chánh định, chánh định đó không xuất không nhập. Trái lại nếu ngồi kềm
mới được định, buông ra thì loạn, đó là có xuất có nhập, mà có xuất có nhập tức
không phải là đại định.
Chí Thành nghe kệ rồi
hối tạ, mới trình một bài kệ:
Ngũ uẩn huyễn thân,
Huyễn hà cứu kính,
Hồi thú Chân như,
Pháp hoàn bất tịnh.
Huyễn hà cứu kính,
Hồi thú Chân như,
Pháp hoàn bất tịnh.
Như vậy nghe Tổ nói, Chí
Thành liền tỉnh ngộ. Nơi ngài Thần Tú, Chí Thành thấy Ngài dạy về hình thức,
bắt ngồi nhiều, bắt làm lành và giữ không làm ác, tức là căn cứ trên thân ngũ
uẩn, nhưng thân ngũ uẩn là thân huyễn hóa, nếu y cứ vào thân huyễn hóa tu thì
làm sao được cứu kính? Nếu xoay lại để tìm Chân như thì pháp trở thành bất
tịnh, quán để cầu tịnh thì tịnh đó mất rồi! Tóm lại, hai câu trên là căn cứ vào
thân tướng mà tu nên chưa phải là cứu kính; hai câu sau là tìm Chân như, mà quán
tịnh thì trở thành bất tịnh. Như vậy là Chí Thành hiểu được ý của Lục Tổ, nên
Lục Tổ liền ấn khả.
Tổ liền ấn khả đó, lại
bảo Chí Thành rằng:
Giới định tuệ của Thầy
ông là khuyên dạy người tiểu căn tiểu trí, còn giới định tuệ của tôi là dạy
người đại căn đại trí. Nếu ngộ được Tự tánh cũng chẳng lập Bồ-đề, Niết-bàn,
cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, không một pháp có thể được mới hay dựng lập
muôn pháp. Nếu hiểu được ý này cũng gọi là thân Phật, cũng gọi là Bồ-đề
Niết-bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người thấy tánh lập cũng được, không
lập cũng được, đi lại tự do, không bị trệ ngại, ứng dụng tùy việc làm, nói năng
tùy đáp, khắp hiện Hóa thân, chẳng lìa Tự tánh, liền được tự tại thần thông, du
hí tam-muội, ấy gọi là kiến tánh.
Chí Thành lại thưa: Thế
nào là nghĩa chẳng lập?
Tổ bảo:
Tự tánh không lỗi,
không si, không loạn, niệm niệm Bát-nhã quán chiếu, thường lìa pháp tướng, tự
do tự tại, dọc ngang trọn được, có gì nên lập? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ, đốn tu
cũng không thứ lớp, cho nên chẳng lập tất cả pháp. Các pháp là lặng lẽ, có thứ
lớp gì?
Chúng ta thấy Tổ dạy thật
là thấu đáo. Tôi nhắc lại để thấy điểm Tổ nói. Tổ bảo: Nếu ngộ Tự tánh mà tu
thì không lập Bồ-đề, không lập Niết-bàn, không lập Chân như, giải thoát gì cả.
Tại sao không lập? Vì ngay thể đó là như vậy, nó không có tên, bởi không tên
nên không lập, nhưng vì tùy duyên muốn cho người ta hiểu nên lập Bồ-đề, Chân
như, Niết-bàn, vì thế lập cũng được, không lập cũng được. Còn người học đạo không
hiểu cứ chấp theo danh từ Bồ-đề, Chân như, Niết-bàn, nghe Tổ nói cái đó không
tên thì giật mình. Hiểu thì lập cũng được, không lập cũng được, còn không hiểu,
quen lập rồi nay nghe nói chỗ đó không có Chân như, Niết-bàn, liền hoảng hốt sợ
tu đến đó không có gì cả. Nhưng không ngờ khi thấy được cái thật thì cái thật
đó nguyên là không tên, sở dĩ có tên là tùy duyên lập để cho người ta hiểu
thôi, chớ đâu phải tên đó là thật! Cũng như mỗi người mang một cái tên, tên đó
là do bản chất của mình mà thành hay là cái tên giả đặt bên ngoài? Tên là cái
giả đặt bên ngoài, còn bản chất là cái của mình. Khi nói đến ai nếu không nói
tên, người ta thấy như khó hiểu, nên tên chỉ là giả danh để giản trạch người A
khác với người B, người C... Nghĩa là mỗi người khác nhau trên danh tự, chớ sự
thật bản chất của mỗi người tự là như thế, không có tên. Hiểu như vậy chúng ta mới
thấy chủ yếu của Tổ dạy là đi thẳng vào tâm tánh, người ngộ được tâm tánh thì lập
cũng được, không lập cũng được, còn không ngộ tâm tánh nghe nói tu không cần
Bồ-đề thì hoảng sợ, vì không cần Bồ-đề thì tu làm chi, chớ không ngờ đến được
chỗ đó rồi thì tên không còn quan trọng nữa. Người đến được chỗ đó thì đi lại
tự do không bị trệ ngại, ứng dụng thì tùy tác, nếu ai hỏi gì liền đối đáp không
cần phải suy nghĩ; nếu nhận được rồi thì không nói sai, còn chúng ta hiện nay
vì không thấy, vì chưa nhận được, dù suy nghĩ để nói cho đúng nhưng rồi cũng
sai. Tỉ dụ người ta hỏi “Tự tánh như thế nào”, chúng ta suy nghĩ một lúc rồi
nói “chắc Tự tánh như thế này, như thế kia v.v...” nhưng càng nói thì càng sai
vì chúng ta chưa thấy, còn người thấy rồi nói cách nào cũng được, có khi nạt,
có khi hét, có khi đánh, làm thế nào cũng đúng cả. Hiểu như thế chúng ta mới
thấy sự tự tại của chư Tổ.
Trở về Tự tánh rồi thì Tự tánh
là Bát-nhã, là không si, không loạn, không có lỗi, không kẹt với các tướng nên
nói thường lìa pháp tướng, đạt đến đó thì tung hoành tự do. Như vậy là chỗ tu,
không có gì là thứ lớp, ngay nơi đó là thể, không có dấy niệm xấu đó là giới,
hằng sáng suốt đó là tuệ, hằng yên lặng đó là định, chớ không có thêm cái gì
bên ngoài cả. Người tu thường nói tu phải đủ giới định tuệ, nếu chúng ta hướng
về Tự tánh thì Tự tánh đầy đủ giới định tuệ có thiếu sót gì đâu. Nhưng đa số
người cứ lập giới tướng, cho đó là tối thượng mà quên ngay Bản tánh! Nếu người
nào giữ suốt ngày không dấy niệm ác thì người đó có giữ giới chưa? Những giới
tướng Phật chế ra đối với người đó là dư rồi! Nếu người đó hằng ngày, hằng giờ
hằng sáng suốt thì đó là tuệ; còn tâm họ hằng lặng lẽ, đi, đứng, nằm, ngồi vẫn
lặng lẽ thì đó là định, đâu cần phải ngồi mới là định. Hiểu như thế chúng ta
mới thấy giới định tuệ sẵn nơi Bản tâm, người biết tu hướng về đó sống thì lúc nào
cũng có đủ giới định tuệ. Trái lại người không biết cứ chạy theo giới tướng, mà
chạy theo giới tướng nếu có giới nào giữ không được thì sầu khổ. Tỉ dụ như giới
gần nhất là Tỳ-kheo không rời ba y, giả sử có người cần đi đâu gấp, không kịp
mang theo đủ ba lá y thì sầu khổ vì phạm giới mất y. Nếu hướng về giới tánh mà
sống, chúng ta thấy nhẹ nhàng thảnh thơi, nghĩa là luôn luôn giữ tâm không dấy
niệm ác, đó là giữ giới, như vậy ai tu cũng được, xuất gia tại gia đều tu được
cả, vì thế Tổ bảo rằng tại gia, xuất gia đều tu được không phải đợi xuất gia
mới tu.
Chí Thành liền lễ bái,
nguyện làm người hầu hạ, sớm chiều không lười mỏi. Chí Thành là người Thái Hòa
Cát Châu.
Nghe được những lời
dạy này, ngài Chí Thành ngộ, nên đảnh lễ Tổ một lần nữa và nguyện làm người hầu
hạ sớm chiều không lười mỏi. Lúc này Ngài quên về trình lại thầy tức ngài Thần
Tú.
GIẢNG 2
CHÍ
TRIỆT
Thiền sư Chí
Triệt:
Tăng Chí Triệt, quê ở
Giang Tây, họ Trương tên Hành Xương, thuở nhỏ là một hiệp khách. Từ khi chia ra
hai tông Nam Bắc, hai vị Tông chủ tuy quên bỉ ngã, nhưng đồ chúng tranh nhau
khởi yêu ghét. Khi ấy đệ tử của Bắc tông tự lập ngài Thần Tú làm Tổ thứ sáu mà
kỵ (vì) Lục Tổ được truyền y, mọi người đều nghe nên mới dạy Hành Xương đến ám sát
Lục Tổ.
Người tu mà cũng còn có
những việc làm như vậy, giữ giới mà đi giết Tổ thì thế nào? Thế nên nhiều khi
ái pháp quá cũng thành bệnh nặng, tức là mình quí thầy của mình, muốn đưa thầy
mình lên, nhưng có ông thầy khác hơn thầy mình thì không bằng lòng, muốn giết
đi nên trở thành người ác, đó là tâm bệnh của người tu.
Tổ tâm thông dự biết
việc ấy nên liền để mười lượng vàng ở dưới tòa. Khi ấy ban đêm Hành Xương vào
trong thất toan muốn hại Tổ, Tổ đưa cổ cho chém, Hành Xương liền vung kiếm chặt
ba lần đều không thương tổn. Tổ bảo:
Kiếm chánh chẳng tà,
kiếm tà chẳng chánh, chỉ nợ vàng của ông, không nợ mạng của ông.
Hành Xương hoảng hốt té
xỉu, giây lâu mới tỉnh, cầu xin sám hối, liền nguyện xuất gia. Tổ liền cho vàng
bảo:
Ông hãy đi, e đồ chúng
trở lại hại ông, một ngày khác ông có thể đổi hình dáng mà trở lại, tôi sẽ nhận
ông.
Thật lòng đại từ đại bi
không thể kể xiết! Nếu có ai hại chúng ta như vậy, mình không đánh đuổi đi là
may rồi. Đây Tổ còn đem cho vàng, bảo đi đi, khi nào đổi hình dáng trở lại Tổ
độ cho. Sở dĩ Tổ từ bi như thế là do Ngài thấy được nguyên nhân, quả báo từ đời
trước nợ nần với nhau thế nào, Ngài thấy rõ không lầm nên dặn khi khác trở lại.
Hành Xương vâng lời dạy, giữa đêm trốn đi, sau theo Tăng xuất gia, thọ
giới Cụ túc, tinh cần tu hành. Một hôm ông nhớ lại lời Tổ, từ xa đến lễ ra mắt
Tổ. Tổ bảo:
Tôi nhớ ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy?
Lời này nếu không phải là
Thánh thì không nói được! Người hại mình khi trở lại cho mình độ thì lễ năm lần
mười lượt mình mới tiếp, chớ đâu có nói: Tôi trông ông đã lâu, sao ông đến muộn
vậy? Thật là lòng đại bi không có giới hạn, dù người hại mình nhưng vẫn nhớ độ họ
không quên, đó mới thật là đại bi.
Hành Xương thưa:
Trước nhờ ơn Hòa thượng
xá tội, ngày nay tuy xuất gia khổ hạnh, trọn khó đền đáp ân đức, đâu mong được
truyền pháp độ sanh ư? Đệ tử thường xem kinh Niết-bàn, chưa hiểu được nghĩa
thường và vô thường, cúi xin Hòa thượng từ bi lược vì giải nói.
Tổ bảo:
Vô thường tức là Phật tánh,
hữu thường tức là tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy.
Tổ nói như thế, ai
mà không nghi? Kinh Niết-bàn nói: Niết-bàn là thường, các pháp là vô thường,
nhưng nay hỏi thì Tổ bảo Phật tánh là vô thường, còn tâm phân biệt tất cả pháp thiện
ác là thường.
Hành Xương thưa rằng:
Hòa thượng nói pháp rất
trái với văn kinh.
Tổ bảo:
Ta được truyền tâm ấn
của Phật, đâu dám trái với kinh Phật.
Hành Xương thưa:
Kinh nói Phật tánh là
thường, Hòa thượng lại nói là vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ-đề
đều là vô thường mà Hòa thượng lại nói là thường, đây tức trái nhau, khiến cho
học nhân càng thêm nghi ngờ.
Tổ bảo:
Kinh Niết-bàn thuở xưa
tôi có nghe Ni Vô Tận Tạng đọc một lần liền vì bà giảng nói, không có một chữ,
một nghĩa nào không hiệp với văn kinh, cho đến vì ông nói cũng trọn không có
hai thuyết.
Hành Xương thưa:
Học nhân thức lượng cạn
tối, cúi mong Hòa thượng lượng theo mà từ bi khai thị.
Tổ bảo:
Ông biết chăng, Phật
tánh nếu thường lại nói gì là các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có một
người phát tâm Bồ-đề, nên tôi nói là vô thường, mà chính là đạo Chân thường của
Phật nói.
Nếu Phật tánh thường thì
làm sao nói các pháp từ Tự tánh sanh, Tự tánh tức là Phật tánh, nếu thường thì đâu
sanh các pháp. Nhưng nó sanh các pháp tức là vô thường, cho đến cùng kiếp không
có ai phát Bồ-đề tâm, có phát Bồ-đề tâm tức là vô thường, nghĩa là có ác rồi
mới phát tâm lành, nếu luôn lành thì có phát tâm lành chi nữa. Chúng ta thường
nói: tôi phát Bồ-đề tâm để học đạo, là vì trước không có nay mới có, như thế là
vô thường chớ không phải thường. Nhưng Tổ lại bảo tiếp: “Tôi nói vô thường mà
chính là đạo Chân thường của Phật nói!” Chúng ta nên hiểu rằng Phật nói Phật
tánh là thường là y cứ trên thể mà nói, còn Tổ nói vô thường
là y cứ trên dụng mà nói. Hành Xương nghe trong kinh Niết-bàn nói thì
quen chấp theo thể, nay ngược lại Tổ nói cái dụng cho ông thấy. Nói thể nói
dụng là phương tiện, đâu có thật, đây là cái khéo của Tổ.
Lại tất cả pháp nếu là
vô thường, tức mỗi vật đều có Tự tánh, dung thọ sanh tử mà tánh Chân thường có
chỗ bất biến, nên tôi nói thường chính là Phật nói nghĩa chân vô thường.
Ngài nói tất cả pháp nếu
vô thường thì mỗi vật đều có Tự tánh, tuy là thọ nhận sanh tử, có biến hoại
nhưng trong đó vẫn có một cái thường, vì có tánh thường mới hiện ra được. Chúng
ta có thể tạm ví dụ như làm thành bình, nồi, lò, lu v.v... là từ đất, như vậy
bình, lò, nồi, lu v.v... có hình, có tướng, có hình có tướng thì phải hoại,
những hình tướng đó hoại rồi, đất có mất hay không? Tất cả hình tướng đó là vô
thường nhưng đất là thường, dù khi chưa làm thành bình, đất vẫn là đất, khi tan
rã cũng trở về đất, có đổi thay chi đâu, đổi thay chỉ là đổi hình tướng của nồi
lu v.v... Cũng vậy, tất cả pháp sanh ra, tuy hình tướng là vô thường nhưng thể
của pháp có cái chân thường ở trong, vì vậy nên Ngài nói thẳng vào thể nó là
thường.
Trong đoạn trước bàn về
Phật tánh, kinh nói Phật tánh là thường là đứng về thể, ngược lại đứng về dụng
Ngài nói Phật tánh là vô thường, vì nếu là thường tại sao có sanh thiện ác, có
phát Bồ-đề tâm v.v...? Nếu có sanh thiện ác, có phát Bồ-đề tâm tức là vô
thường. Như vậy người ta chỉ nhận được cái thể trong kinh nói mà không nhận
được cái dụng, nên Ngài lấy dụng để cho người ta hiểu thể, thể
dụng đối lập để phương tiện giáo hóa. Đến đoạn này người ta chấp trên tướng trên
dụng là vô thường thì Ngài nói có tánh thường, đó là lối nói khéo của Ngài.
Phật xưa vì phàm phu
ngoại đạo chấp tà thường, còn các hàng Nhị thừa thường mà chấp là vô thường,
cọng thành tám thứ điên đảo, nên trong giáo lý liễu nghĩa kinh Niết-bàn phá
thiên kiến kia mà hiển bày Chân thường, Chân lạc, Chân ngã, Chân tịnh. Nay ông
y theo lời nói mà trái với nghĩa, dùng đoạn diệt vô thường và xác định cái tử
thường mà lầm hiểu lời nói mầu nhiệm viên diệu tối hậu của Phật, dù có xem một ngàn
biến kinh thì có lợi ích gì?
Tôi giải thích rõ đoạn
này. Tổ bảo xưa đức Phật vì phàm phu và Nhị thừa chấp tám thứ điên đảo. Phàm phu
có bốn điên đảo, đó là gì? Thân ngũ uẩn vô thường mà chấp là thường. Chúng ta
có chấp nó là thường không? Nếu ai cũng biết thân này là vô thường thì đâu có
chấp thường. Nếu ai cũng thấy nó vô thường thì lúc nào cũng phải có niệm mạng
sống chỉ trong hơi thở, nhưng chúng ta có thấy như vậy không? Chúng ta còn tính
kế trăm năm. Vì tính kế trăm năm nên chúng ta thấy nó là thường, nếu biết nó vô
thường thì tính kế trăm năm làm gì. Trên lý, nghe Phật nói vô thường chúng ta
cũng hiểu vậy, nhưng trong cuộc sống, chúng ta vẫn tính kế lâu dài, tính năm
nay làm việc gì, năm tới, năm tới nữa làm việc gì v.v... như thế là chúng ta
đâu thấy nó vô thường. Thế nên thấy dường như chúng ta không chấp, nhưng sự
thật chúng ta luôn luôn chấp thân là thường. Thân vô thường mà chấp là thường,
đó là cái điên đảo thứ nhất.
Đã là vô thường tức
là đổi thay, là bại hoại nên gọi là khổ, nhưng chúng ta lại thấy lúc nào cũng vui,
nên mở miệng ra là nói hạnh phúc v.v... Hãy kiểm lại xem một ngày chúng ta vui
được bao nhiêu giờ? Độ vài tiếng đồng hồ! Vì là vô thường nên gốc là khổ, không
phải vui mà chúng ta lại tưởng là vui, khổ mà tưởng là lạc, đó là cái điên đảo
thứ hai.
Thân này nhơ nhớp nhưng
chúng ta có nghĩ nó nhơ nhớp đâu. Có ai lúc nào cũng nhớ thân mình nhơ nhớp
không? Tắm rửa, chải đầu v.v... thấy mình cũng đẹp cũng sạch sẽ, nếu ai chê
mình dơ, hôi hám... là nổi giận liền. Nếu biết mình dơ thì người chê mình dơ,
mình đâu có giận. Trong nhà Phật thường nói thất khiếu cửu huyệt tức là bảy lỗ
hoặc chín lỗ thường rịn ra những chất, những chất đó sạch không? Rịn ra mũi, nước
mũi sạch không? Rịn ra tai sạch không? Đến khối ghèn ở mắt có sạch không? Đó là
nói phần trên mặt mà chúng ta còn không ưa nổi, huống nữa là những cặn bã đi
xuống, nếu thân sạch thì đâu có những chuyện đó. Rõ ràng như thế mà lúc nào
cũng thấy thân là sạch, thấy trái với lẽ thật không phải điên đảo là gì? Bất
tịnh mà tưởng là tịnh, đó là cái điên đảo thứ ba.
Lại chấp tứ đại, thân xác
thịt là ta, nhưng khi hỏi trong tứ đại cái gì là ta thì không ai đáp được. Đến
phần tinh thần, hỏi thọ tưởng hành thức, cái nào là ta cũng không nói được. Như
vậy chỉ là một hợp thể gồm nhiều thứ, tùy duyên hợp lại thành một khối tạm gọi
là ta mà chúng ta lại chấp thật mình có chủ tể, lúc nào cũng nói tôi, tôi làm
chủ. Vô ngã tưởng là ngã, không có chủ tể tưởng là có chủ tể là cái điên đảo thứ
tư.
Tóm lại trong nhà Phật gọi
bốn cái chấp điên đảo của phàm phu là vô thường chấp thường, khổ chấp lạc, bất
tịnh chấp tịnh, vô ngã chấp là ngã.
Trái lại hàng Nhị thừa
thấy thân này là vô thường, thân này là khổ, thân này là bất tịnh, thân này là
vô ngã nên các vị chán sợ mà nhập Niết-bàn, vì thế Phật nói đó cũng là bốn cái
điên đảo. Tại sao? Tuy thân này vô thường, nhưng trong cái vô thường đó có cái
Chân tánh thường; thân này là khổ, nhưng nếu ngộ được Chân tánh thì là lạc;
thân này tuy bất tịnh, nhưng ngộ được Chân tánh thì là tịnh; thân này là vô
ngã, nhưng Chân tánh là chủ thể, là ngã. Như khi chúng ta nhận được cái hằng
liễu tri của mình, thử hỏi cái đó tịnh hay bất tịnh? Nó là thanh tịnh nên nói
Pháp thân thanh tịnh, Pháp thân là ngã chớ gì, làm sao mất được. Như vậy đối với
phàm phu, các hàng Nhị thừa thấy đúng lẽ thật, nhưng thấy đúng lẽ thật trên
tướng mà không nhận ra tánh nên đó cũng là điên đảo.
Bốn điên đảo của Nhị thừa
cọng với bốn điên đảo của phàm phu thành ra bát đảo. Phật nói pháp là vì phá
cái chấp của phàm phu, rồi đến phá chấp của Nhị thừa, để đưa đến Niết-bàn đầy
đủ bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Đó là yếu chỉ của kinh Niết-bàn.
Hành Xương bỗng nhiên
đại ngộ, liền nói kệ rằng:
Nhân thủ vô thường tâm,
Phật thuyết hữu thường tánh,
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền,
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
Phật thuyết hữu thường tánh,
Bất tri phương tiện giả,
Du xuân trì thập lịch.
Ngã kim bất thi công,
Phật tánh nhi hiện tiền,
Phi sư tương thọ dữ,
Ngã diệc vô sở đắc.
Vì giữ tâm vô thường nên
Phật nói có tánh thường, tức là vì hàng Nhị thừa thấy các pháp là vô thường nên
đức Phật chỉ có tánh thường ở trong; không biết được phương tiện của Phật nói,
ví như mùa Xuân nhảy xuống ao để mò gạch. Đây là thí dụ trong kinh Niết-bàn để
phân biệt hàng Nhị thừa với Bồ-tát. Vào một mùa Xuân có một nhóm người bơi
thuyền dạo chơi trên hồ nước trong, có người cầm viên ngọc bất chợt sẩy tay
ngọc rớt xuống nước, ông ta hối bảo những người trên thuyền nhảy xuống hồ mò
tìm. Những người ấy nhảy ùm xuống quơ mò được hòn gạch liền nắm lấy đưa lên nói
được ngọc rồi, nhưng khi mở tay ra chỉ là hòn gạch. Khi ấy có một người trí chờ
nước lóng trong, thấy rõ viên ngọc nằm chỗ nào, mới từ từ lặn xuống, nhẹ nhẹ đưa
tay đến chỗ viên ngọc, nắm lấy đem lên. Hàng Nhị thừa giống như những người nhảy
xuống ao lượm gạch đưa lên nói là ngọc, vì cứ nghĩ dưới ao có ngọc nên vội nhảy
xuống, lượm được cái gì thì tin cái đó là ngọc, thật sự không phải ngọc mà lầm tưởng
là ngọc. Hàng Bồ-tát như người khôn ngoan kia, đợi thấy rõ viên ngọc ở đâu mới
từ từ lượm nó đem lên, đó mới là ngọc thật. Hàng Bồ-tát nhận được Phật tánh rồi
mới tiến tu đến chỗ giác ngộ không lầm, còn hàng Nhị thừa chấp vào phương tiện
Phật dạy để được định rồi hài lòng nơi đó, nhưng không ngờ là chưa đến cứu
kính. Thế nên người không hiểu phương tiện của Phật cũng chấp như người nhảy
xuống ao lượm gạch vậy.
Nay tôi chẳng cần thực
hiện công phu mà Phật tánh được hiện tiền, không phải thầy trao cho, tôi cũng
không sở đắc.
Tổ bảo:
Nay ông mới triệt vậy,
nên đặt tên ông là Chí Triệt.
Chí Triệt lễ tạ mà lui.
GIẢNG 3
THẦN
HỘI
Thiền sư Thần Hội:
Có một chú bé tên là
Thần Hội ở Tương Dương, con nhà họ Cao, mười ba tuổi, từ chùa Ngọc Tuyền đến
tham lễ.
Tổ hỏi:
Tri thức từ xa nhọc
nhằn đến lại đem được cái gốc đến chăng? Nếu có gốc thì nên biết được Ông chủ,
thử nói xem?
Thần Hội thưa:
Lấy vô trụ làm gốc,
thấy tức là chủ.
Ông Sa-di này có vẻ cứng
cỏi rồi!
Tổ bảo: Ông Sa-di này
đâu nên nói như thế.
Thần Hội liền hỏi:
Hòa thượng tọa thiền
lại thấy hay chẳng thấy?
Tức là Hòa thượng tọa
thiền lại thấy tánh hay không thấy tánh, rõ ràng là trẻ con, nếu không thấy
tánh sao được truyền y làm Tổ.
Tổ cầm gậy đánh ba gậy
hỏi:
Tôi đánh ông đau hay
chẳng đau?
Thần Hội cũng thật là gan.
Thần Hội đáp: Cũng đau
cũng không đau.
Giả sử hiện nay mấy chú Sa-di bị đánh
ba gậy thì cứ khóc thôi, chớ còn nói gì nữa!
Tổ bảo: Tôi cũng thấy
cũng chẳng thấy.
Thần Hội hỏi: Thế nào
là cũng thấy cũng chẳng thấy?
Tổ bảo:
Chỗ thấy của tôi thường
thấy những lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy phải quấy tốt xấu của người khác,
ấy do cũng thấy mà cũng chẳng thấy.
Vì là Sa-di nên Tổ phải dạy như thế.
Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào? Nếu
ông chẳng đau thì đồng như cây đá, nếu ông đau thì đồng với phàm phu, tức khởi sân
hận, ông về trước thấy và chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt,
ông Tự tánh lại chẳng thấy mà dám đùa với người.
Tổ quở nặng.
Thần Hội liền lễ bái sám hối. Tổ lại nói:
Tâm ông nếu mê chẳng thấy thì hỏi Thiện tri thức
để tìm đường, còn tâm ông nếu ngộ tức tự thấy tánh, y pháp tu hành, ông tự mê không
thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì tự biết há thay
cái mê cho ông, nếu ông tự thấy cũng chẳng thay được cái mê cho ta, sao chẳng
tự biết tự thấy mà hỏi ta thấy cùng chẳng thấy.
Tổ quở thêm một lần nữa. Ngài Thần Hội mới mười ba tuổi nhưng thông
minh, có lẽ cũng hơi hiểu nên tới lễ Tổ, khi Tổ hỏi thì đáp có vẻ cứng cỏi,
nhưng đến khi hỏi Tổ ngồi thiền có thấy tánh hay không, liền hiện ra tướng con
nít nên bị Tổ ra oai đập ba gậy. Người xưa đi học đạo là xem thường sự sống
chết nên dù bị đánh cũng vẫn đối đáp như thường, còn chúng ta hiện nay nếu bị
đánh như vậy thì khóc mướt rồi, đó là điểm đặc biệt.
Thần Hội lại lễ hơn một trăm lạy, xin sám hối
tội lỗi rồi siêng năng hầu hạ bên cạnh không rời.
Một hôm Tổ bảo chúng:
Tôi có một vật không đầu, không đuôi, không
danh, không tự, không lưng, không mặt, các người lại biết chăng?
Thần Hội bước ra nói rằng:
Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của
Thần Hội.
Vì Ngài còn trẻ, khi hiểu lời nói thì không thể
làm thinh, nên đứng ra nói liền: Ấy là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của
Thần Hội.
Tổ bảo:
Tôi đã nói với ông không danh không tự, ông liền
gọi là bản nguyên, là Phật tánh, ông nhằm đi lấy cỏ tranh che đầu, cũng chỉ thành
cái hạng tông đồ của tri giải.
Danh tự cũng như là một mớ cỏ che ngoài đầu chớ
không phải là cái thật, phải thấy cái thật đó chớ đừng dùng danh tự.
Sau khi Tổ diệt độ, Ngài Thần Hội vào Kinh Lạc(1), hoằng truyền pháp đốn giáo Tào Khê, viết
quyển Hiển Tông Ký thạnh hành ở đời, gọi là Thiền sư Hà Trạch.
Tổ thấy các tông nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác,
phần nhiều nhóm ở dưới tòa của Tổ, Ngài thương xót mới bảo rằng:
Người học đạo, tất cả niệm thiện, niệm ác nên
phải dẹp sạch, không tên có thể gọi, ấy gọi là Tự tánh, tánh không hai ấy gọi là
Thật tánh, trên Thật tánh dựng lập tất cả giáo môn, ngay lời nói liền phải tự
thấy.
Tổ thấy các tông phái khác nhau như về Thiền
thì có Nam Bắc, hoặc là Tịnh hoặc là Mật tông v.v... phần nhiều nhóm họp dưới tòa
của Tổ, vì họ thường nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, nên Tổ thương xót bảo cho tất
cả biết rằng còn có một niệm thiện hay một niệm ác cũng phải dẹp sạch, cái
không tên có thể gọi mới gọi là Tự tánh; nếu còn nói đây là đốn, kia là tiệm,
đây là Không tông, kia là Hữu tông v.v... còn chấp vào danh tự thì chưa phải là
cái thật. Tánh không hai ấy gọi là Thật tánh, trên Thật tánh đó dựng lập các
giáo môn, ngay đó mình phải thấy được Tự tánh chớ đừng chấp.
Các người nghe nói, thảy đều làm lễ, xin thờ
Ngài làm Thầy.
(1) Kinh Lạc tức là Lạc Dương, kinh đô nước Tàu về
đời Hán.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment