Loại người này rất ít, thiền sư Vân Cốc rất kinh ngạc, ba ngày ba đêm
chẳng khởi một
niệm, công phu này khá lắm!
Liền hỏi ông ta: “Ông tu như thế nào?” Ông ta
liền đáp lời, cũng rất thật thà: “Con chẳng có công phu gì! Số mạng đã được
người
khác đoán sẵn, khởi niệm vô ích, chẳng thà coi như xong, chẳng
khởi niệm nữa!” Thiền sư Vân Cốc cười, bảo: “Ta ngỡ ông là thánh nhân, hóa ra
ông vẫn là phàm phu”.
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Trong Thiền Định, thời gian và không gian chẳng còn nữa. Thời gian
và
không gian chẳng còn, chúng ta có thể tin chuyện này, vì sao? Có chứng minh
khoa học! Khoa học chứng
minh như thế nào? Thôi miên rất khoa học! Trong thôi miên, thời gian và không gian chẳng còn nữa!
Quý
vị thấy: Thôi miên hai tiếng, người được thôi miên có thể
nhớ được vài đời trong quá khứ. Lúc bị thôi miên, người ấy
có thể tới thiên đường, mà cũng có thể xuống địa ngục. Quý vị thấy đó: Đột phá thời gian lẫn không gian! Do chúng ta biết:
Thôi miên cũng là tinh thần phải buông
lỏng hết thảy, buông
xuống
hết thảy, trong tâm không có tạp niệm, có cùng một nguyên lý [với Thiền Định].
Công phu Thiền Định càng sâu hơn, thời gian [nhập Định] càng dài hơn, bảy ngày, hai mươi mốt ngày, trọn pháp giới hư không giới
quả thật đều có thể thấy rõ rệt, minh bạch. Thật ra, có cần tốn ngần
ấy thời gian hay không? Không cần! Chỉ trong một niệm! Trong một niệm bèn thông đạt, hiểu rõ,
tùy
thuộc quý vị buông xuống nhiều hay ít. Sai biệt chẳng do công phu cạn hay sâu, mà do quý vị buông xuống nhiều hay ít. Vì thế, quý vị muốn dụng công, ngàn muôn phần đừng chấp trước; buông xuống càng nhiều, tâm quý vị càng
thanh tịnh, càng gần với tự tánh. Trong cuốn [Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ VọngTận] Hoàn Nguyên Quán có nói: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, tức là càng
buông xuống nhiều, càng gần với tự tánh. Càng gần tự tánh, quý vị càng
liễu giải. Sau khi liễu giải chân tướng, lão nhân gia xuất Định, bắt đầu dạy học, vì sao bắt đầu dạy học? Tâm từ bi tự nhiên lưu lộ, chẳng có lý do,
không có điều kiện, thấy chúng
sanh
bèn muốn giúp họ trở về tự tánh. Vì lẽ gì? Họ và ta là một, không
hai. Người giác ngộ biết, kẻ mê chẳng biết [ta và
người] là một Thể. Làm như thế, dạy suốt bốn mươi chín năm, đức Thế Tôn
viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi. Từ năm ba mươi
tuổi bắt đầu dạy học tới
năm bảy mươi chín tuổi; do đó, Ngài giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết
pháp bốn mươi chín năm.
Chúng ta nhìn từ chỗ này, Ngài
dùng
thân phận nào? Mang chức
nghiệp giáo sư, suốt đời dạy học. Dạy gì?
Hết
thảy các
kinh
do Phật đã giảng
lúc
còn tại thế chưa chép thành văn tự, đều chỉ là miệng nói. Sau khi đức
Thế Tôn viên tịch, các học trò đem những gì thầy đã dạy, đã nói trong quá khứ ghi chép lại, đến khi ấy mới trở thành kinh
điển. Ghi chép cũng
chẳng
phải là chuyện đơn giản, phải tìm người nhắc lại, tìm ai? Tìm A Nan. A Nan là thị giả của đức Phật. Kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong một đời, ngài A Nan đều nghe qua. A Nan là em họ nhỏ nhất của đức Phật. Anh em
họ
của Ngài gồm tám người, Thích Ca Mâu Ni Phật lớn nhất, A Nan nhỏ nhất, tức lão Bát, kém Phật hai mươi tuổi. Do thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni
Phật giảng kinh từ hai mươi năm trước đó, tức là khi Thích Ca Mâu Ni Phật
bắt đầu giảng kinh, ngài A Nan mới sinh ra. Đức Phật đã giảng kinh suốt hai mươi
năm, ngài A Nan mới xuất gia năm hai mươi tuổi, những kinh Phật đã
giảng trong hai mươi năm trước, A Nan chưa được nghe. Vì thế, kinh có chép: Những lúc rảnh rỗi, đức Thế Tôn đem những gì đã nói trong quá khứ đều giảng lại cho ngài A Nan nghe, cho nên Ngài nghe kinh rất hoàn chỉnh.
Ngài A Nan có trí nhớ đặc biệt tốt, nghe một lần sẽ vĩnh viễn chẳng quên, giống như máy thâu âm, Ngài có thể nhắc lại nguyên văn, có khả năng hy hữu này. Trong các đệ tử Phật, chỉ có Ngài có trí nhớ cao nhất. Vì thế, sau
khi đức Phật diệt độ, mọi người thỉnh A Nan lên tòa giảng lại, năm trăm vị
A La Hán là các đệ tử đức Phật, trong
thuở
ấy, họ là những vị thường nghe
kinh, đều chứng
minh. Kinh nói ra phải được năm trăm A La Hán cùng đồng
ý “A Nan nói không sai, đức Phật đã nói như thế” rồi mới ghi chép lại. Nếu có [điều nào bị] một ai đó nghi ngờ, phải lược bỏ điều ấy, nhằm giữ chữ Tín với người đời sau. Kinh tạng được kết tập nghiêm ngặt như thế, chẳng phải
là
chuyện dễ dàng!
Văn tự dùng để kết tập thuở ấy là Phạn văn, hiện thời rất ít người hiểu cổ văn Ấn Độ. Kinh điển truyền
đến
Trung Quốc bằng tiếng Phạn, thuở ấy,
những lưu học sinh Trung Quốc (những vị cao tăng sang Thiên Trúc cầu pháp) đến Ấn Độ học tập cũng học Phạn văn, từ tiếng Phạn dịch sang tiếng
Hán mà có thể chẳng bị sai lầm ư? Nay chúng ta dịch một bài văn chương từ tiếng Anh sang tiếng Hán, có thể dịch đúng một trăm phần trăm hay không? Không thể nào! Nói chung là có sai lầm. Đừng nói ngôn ngữ ngoại quốc,
đối với cổ văn Trung
Quốc, quý vị lấy một bài văn chương của cổ nhân, tìm vài
người, hay tìm mười người, bảo họ dịch bài ấy thành văn Bạch Thoại, mười
người
dịch khác nhau, rốt cuộc dùng tiêu chuẩn nào [để phán định đúng sai]? Rất khó nói, điều này có thể khiến cho người ta tin tưởng [tính chính xác của kinh Phật] hay
chăng? Khi ấy, tôi đã thỉnh giáo tiên sinh Phương Đông Mỹ chuyện này, làm thế nào để khiến
chúng
ta sanh khởi lòng tin? Thầy Phương hết sức cảm khái, nói: Người Trung Quốc thời cổ chẳng giống
người
Trung Quốc hiện thời. Người Trung Quốc hiện
thời đánh mất lòng tự tin dân tộc, nên mới bị lăng nhục lớn lao như thế, chịu lắm khổ nạn như vậy.
Xưa kia, người Trung Quốc không như vậy, hết sức tự hào. Kinh điển tiếng Phạn sau khi dịch sang tiếng Hán, không những ý nghĩa chẳng bị sai lầm, mà văn tự còn đẹp đẽ, bóng bẩy hơn nguyên văn! Nói cách khác, đã
có bản tiếng Hán, có thể không
cần
đến bản tiếng Phạn, tự hào như thế đó! Tại Trung
Quốc
vào thời Tùy - Đường, người
Trung Quốc thật sự giống như người Trung Quốc, đâu phải như hiện thời? Thầy Phương dạy tôi như thế, hóa giải
nỗi nghi vấn của tôi.
Đúng không? Đúng! Từ xưa tới nay, Trung Quốc quả thật là một nước lễ nghĩa, là một nước to lớn mênh mông, mãi cho đến đời Thanh, lòng tự tin
ấy bị mất sạch. Vào cuối đời Thanh, vào cuối triều đại mới nẩy sanh vấn đề,
rất nhiều nhân tố khiến cho vấn
đề nẩy sanh, sử cận
đại
đã chép rất rõ ràng: Chẳng phải là truyền thống Trung Quốc có vấn đề, mà
do người lãnh đạo đất
nước thuở ấy là Từ Hy Thái Hậu có vấn đề. Đúng là “một người khiến đất nước hưng thịnh, một người khiến cho quốc gia, dân tộc bị diệt vong”, liên quan tới một cá nhân quá lớn! Nhà Thanh
từ thuở khai quốc cho đến đời
chồng
của bà ta là vua Hàm Phong, Từ Hy Thái Hậu là phi tử của Hàm Phong, đế vương
các đời đều mời các bậc cao nhân Nho, Thích, Đạo, nói theo danh từ hiện nay là “chuyên gia, học giả” vào hoàng cung. Hoàng đế
dẫn phi tần, văn võ đại thần nghe giảng mỗi ngày, học tập mỗi ngày, thật sự làm! Từ Hy phế trừ chế độ này; Từ Hy không theo những bậc đại đức Nho, Thích, Đạo nữa, không nghe lời họ nữa. Bà ta mê tín, cầu cơ, phò loan, ham
chuyện thần tiên, quốc gia
đại
sự đều đem thưa hỏi trong đàn cầu cơ. Do vậy
mất
nước! Chương Gia đại sư kể cho tôi biết chuyện này. Đời trước của ngài Chương Gia là quốc sư của các đời hoàng đế nhà Thanh; trong tứ đại lạt-ma2 chỉ mình Ngài có đạo tràng tại Bắc Kinh.
Chương Gia đại sư có trụ sở tại
Bắc
Kinh, Ngài thường
ở Bắc Kinh để làm cố vấn cho hoàng thượng. Lão nhân gia cho tôi biết:
Chuyện xấu do Từ Hy gây ra, bà ta phá hoại chế độ;
người
lãnh đạo coi rẻ truyền thống, dần dần ảnh hưởng tới quần chúng. Nếu
chúng ta truy cứu, truyền thống văn hóa tốt đẹp như thế, vì lẽ nào mà trở
thành nông nỗi như hiện thời? Đầu mối do Từ Hy. Chúng ta phải biết yêu
mến, phải làm thế nào để
khôi phục [truyền thống văn hóa].
Do vậy, sau khi chúng tôi hiểu rõ ràng, minh bạch chuyện này, mới biết Phật pháp thù thắng, càng học càng ham thích, khi ấy, mới phát hiện,
thật sự phát hiện của báu, phát hiện kinh giáo là món trân bảo thù thắng khôn sánh. Nhưng trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Phật
pháp vô
nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp không có người nói, thì tuy
có trí vẫn chẳng thể hiểu được). Hiện thời, sách vở thì có, nhưng thiếu người
truyền thừa. Trong
thời Dân Quốc, đúng là đời sau thua đời trước, đã đến
thuở mạt. Trong thời Kháng Chiến, nói chung còn có mười mấy vị xuất gia
và tại gia [hoằng dương Phật pháp]. Sau thời Kháng Chiến, ngày càng ít, bậc đại đức hiếm hoi, thiếu người kế tục, đặc biệt là trong năm mươi năm gần
đây.
Chúng ta biết: Phật giáo thật sự hoàn toàn chẳng có diện mục. Tại Đài
Loan, thật sự giảng kinh, dạy học chỉ có mình thầy Lý. Cụ mở một liên xã tại
Đài Trung, trong liên xã mở lớp dạy học. Cụ mở mười mấy lớp đều là
dạy truyền
thống văn hóa giống như giáo dục xã hội hoặc lớp huấn luyện bổ
túc, không nhận học phí. Bản thân thầy Lý lắm tài nhiều nghề, biết rất nhiều
thứ, có năng lực dạy dỗ. Cụ dạy học tại Đài Trung ba mươi tám năm, tịch
năm chín mươi bảy tuổi. Cụ giảng kinh tại Đài Trung suốt ba mươi tám năm chẳng gián đoạn, nhưng mỗi tuần chỉ giảng một buổi, ấn định buổi học nhằm ngày thứ Tư, thời gian cố định, nơi chốn cố định. Do vậy, cụ chẳng cần tuyên truyền, thứ Tư mỗi tuần đến Từ Quang Đồ Thư Quán ở Đài Trung, nhất định thấy cụ giảng kinh
ở đó,
mỗi tuần một lần. Cụ dạy lũ học sinh chúng tôi là những học sinh trẻ tuổi học giảng kinh cũng là mỗi tuần một lần nhằm ngày thứ Sáu, dạy chúng tôi giảng kinh; còn dạy cổ văn thì như một
lớp
học nhỏ của nhóm ông Giang Dật Tử, họ học thi từ với cụ. Ngoài ra, còn
có nhiều khoa mục, nhưng chính
thầy tìm không ra thời gian, phải mời giáo
viên từ bên ngoài đến
dạy. Do là giáo dục xã hội, nên xét về điểm này, rất
giống
với cách thức dạy dỗ thời Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đối với
Phật giáo trên
toàn
thế giới hiện thời, tôi nghĩ: Nếu nói đại
lược, tối thiểu có sáu hình thức khác nhau mà chúng ta phải biết. Loại thứ nhất là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, lão nhân gia suốt đời làm thầy;
nói theo cách
bây
giờ, Ngài là một nhà giáo dục văn hóa xã hội đa nguyên, Ngài mang thân phận là một người có nghĩa vụ làm công tác giáo dục văn
hóa
xã hội đa nguyên, không nhận học phí. Cuộc sống rất đơn giản, ăn một bữa
Ngọ, ngủ dưới gốc cây, suốt đời không
xây trường học. Giảng dạy ở chỗ
nào? Rừng núi, dưới cội cây, số người học chẳng ít! Vì thế, nay chúng ta nghĩ đến, thấy chẳng đơn giản. Thường Tùy Chúng là một ngàn hai trăm
năm mươi lăm người, những vị này chẳng rời khỏi Phật. Tôi nghĩ những
người tham dự khác, tối thiểu cũng bằng số này. Nói cách khác, khi Phật dạy học, thính chúng phải tới hai, ba ngàn người. Thuở ấy, đâu có máy khuếch
âm, ở trong đồng trống, nếu người ta nghe không
rõ ràng lắm, có còn hứng thú theo học với Phật nữa hay chăng? Buổi tối nghỉ dưới
cội
cây, gió thổi,
nắng hun, mưa táp đều chẳng ngại, thân kim cang bất hoại mà! Giữa trưa ăn một bữa, người ta cho gì ăn nấy, chẳng phân biệt tí nào. Đó là hạng người gì, thân thể gì vậy? Chúng
ta ngẫm lại, không có cách nào sánh bằng! Chúng
ta ra ngoài đồng ở một đêm, hôm sau về nhà bèn ngã bệnh, làm sao có thể sánh bằng? Chẳng phải là một hai ngày, mà là sống như vậy suốt bốn mươi chín năm, chẳng thể khiến kẻ
khác bội phục ư?
Thật sự có công phu, thân lẫn tâm đều khỏe mạnh. Đây chính là Phật giáo nguyên gốc của Thích
Ca Mâu Ni
Phật. Lão nhân gia
suốt đời chẳng
lập
đạo tràng là có lý của Ngài;
bởi
lẽ, lập đạo tràng sẽ có kẻ khởi ý niệm cong quẹo: “Làm thế nào để có đạo tràng ấy?” Ngài không có
đạo tràng, vì biết người đời sau [đối với đạo tràng] sẽ có tác dụng phụ (kiến giải chấp trước, tham cầu lệch lạc), thứ
gì cũng không có, chúng
ta nên học theo điều này!
Phật giáo truyền sang Trung Quốc, đạo tràng do quốc gia, hoặc những vị trưởng giả đại phú kiến tạo, đều gọi là “thập phương đạo tràng”, đều
chẳng thuộc tư nhân. Đạo tràng tự quản lý là cách thức rất hay, hết thảy những người điều hành đều được bầu ra. Do vậy, Phật môn có chế độ tuyển
cử sớm nhất. Trụ Trì hay Đương Gia đều do tuyển cử, nhiệm kỳ một năm. Vì lẽ gì? Đây là phục vụ; phục vụ thì chẳng
thể bắt người ta phải phục vụ mãi, mỗi cá nhân đều phải có nghĩa vụ này, hoàn toàn là nghĩa vụ. Vì thế,
mỗi cá nhân tối thiểu phải phục vụ một năm. Trong
chùa chiền, ngày Ba
Mươi tháng Chạp, các vị [chấp sự] cùng từ chức, bầu cử lại. Ngày hôm sau, những người mới được tuyển cử sẽ nhậm chức vào ngày mùng Một tháng
Giêng, đến hôm Ba Mươi [tháng Chạp năm ấy] sẽ cùng từ chức. Vì vậy, đây
là
một chế độ tốt đẹp, chẳng có ai tranh chấp, thật sự là tuyển lựa người
tài năng và đức độ làm Trụ Trì đạo tràng; bởi lẽ, đây là một cơ cấu giáo học. Tại Trung Quốc đã có chế độ này, chính thức đi vào khuôn
khổ,
chính thức tiến hành công tác giáo học. Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo học tư nhân, giống như Khổng lão phu tử cũng là giáo học tư nhân. Sau khi đạo Phật truyền đến Trung Quốc bèn
có chế độ, chế độ này được gọi là “chế độ tùng lâm”. Trong quá khứ, Phương tiên sinh đã nhiều lượt nói với tôi điều này, tối thiểu cũng phải mười mấy lần, tạo ấn tượng
rất sâu đậm. Thầy nói Phật giáo muốn hưng vượng, nhất định phải
khôi phục chế độ tùng lâm. Chế độ tùng
lâm là trường học, chính
thức
quản lý trường học:
Chủ tịch tùng lâm là hiệu trưởng, Thủ Tọa là giáo vụ trưởng, Duy Na là huấn đạo trưởng, Giám Viện
là
tổng vụ trưởng, hoàn toàn giống với cách phân chia trách nhiệm
trong
trường đại học. Tuy khác danh xưng, nhưng chức trách như nhau, quả thật là
một trường học. Đấy là trong quá khứ. Hiện thời chẳng còn nữa. Hiện nay, Phật giáo biến thành tôn giáo. Chúng ta nên biết điều này xảy ra từ thời vua Gia Khánh trở đi. Trong thời Càn Long - Gia Khánh, chùa chiền, tùng lâm Trung Quốc vẫn còn là nơi dạy học, đời nào cũng có bậc cao tăng, đại đức. Hiện nay
đã biến thành tôn giáo, chúng ta cũng chẳng thể không thừa nhận nó. Do vậy, loại
thứ hai là tôn giáo Phật giáo. Quý vị thấy loại này lấy kinh
sám Phật sự, pháp hội làm chính yếu, chẳng giảng kinh, dạy học, biến chất
rồi!
Loại thứ ba là biến thành học thuật. Trong trường đại học, ban Triết Học dùng
kinh Phật để giảng dạy, tôi cũng dạy mấy năm, Phật giáo biến thành
học
thuật, biến chất rồi! Loại thứ tư là du lịch vãn cảnh trong nước, tức là
loại Phật giáo tham quan du lịch. Còn có một loại rất mới, rất “hợp thời
trang” là xí nghiệp Phật giáo, nghe nói còn có cạnh tranh
trên thị trường, xí nghiệp
Phật giáo mà! Loại cuối cùng là tà giáo Phật giáo, đeo chiêu bài Phật giáo, thật ra chẳng ăn nhập gì với Phật giáo, giống như cái gọi là Pháp Luân Công, hoàn toàn sai lầm. Như vậy là tối thiểu
có sáu hình thức khác nhau, chúng
ta đang học loại nào, phải hiểu rõ điều này!
Do Chương Gia đại sư chỉ tôi đường lối này, dạy tôi hãy học về Thích
Ca Mâu Ni Phật, tôi cũng rất vâng lời, hết sức tôn kính thầy, vâng lời thầy chỉ dạy. Sau đấy, không những thầy dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật,
mà còn mong tôi hãy xuất gia, đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tôi làm theo, chứng
thực
lời cụ Phương đã nói: “Học Phật là hưởng thụ tối cao
trong đời người”, thật là hạnh phúc sung
sướng
mỹ mãn. Có thử thách
hay chăng? Thử thách hết
sức
nhiều, thử thách đều là khảo thí. Chúng ta học Phật, đối với người, đối với sự, đối với vật, phải vĩnh viễn giữ
tấm
lòng cảm ơn. Quý vị sẽ luôn gặp phải hủy báng, chướng ngại, thậm chí hãm hại, quý
vị phải cảm ơn những người ấy. Vì sao? Họ đến khảo ta, ta đều có thể vượt qua, chẳng oán hận, chỉ cảm ơn. Vì lẽ gì họ chướng ngại ta như thế? Đại khái là do hai nguyên nhân: Một là trong đời quá khứ, có lẽ ta đã chướng ngại họ.
Đấy là oan oan tương báo. Nay chúng ta hiểu rõ, giác ngộ, tiếp nhận
quả
báo này, hóa giải oan nghiệt
ấy. Ta chẳng trả thù họ, mà cũng đừng nên oán hận họ. Một nguyên nhân khác là từ xưa đến nay, đây là điều chẳng
thể tránh khỏi. Bị đố kỵ, chướng ngại là do bản thân chúng ta cư xử chẳng cẩn
thận, thái độ chẳng khiêm tốn, khiến kẻ khác sanh lòng ghen ghét. Đó là ta
sai,
chẳng phải kẻ ấy sai, chúng ta cũng phải cảm ơn kẻ ấy. Trong Phật pháp, nơi đâu hữu duyên bèn đến đó, hữu duyên được gọi là “thời tiết nhân duyên”. Cổ nhân Trung Quốc thường nói: “Nhân vô thiên nhật hảo, hoa vô bách
nhật hương” (người
chẳng tốt đẹp ngàn ngày, hoa chẳng thơm trăm
bữa). Người và người ở chung với nhau, có thể ở chung ba năm, quý vị bèn chán ngán, nẩy sanh vấn đề. Chúng ta phải biết dè dặt, cẩn thận trong
khởi tâm động niệm, lời lẽ, hành vi, phải lấy những lời chỉ dạy của Phật, Bồ Tát, thánh hiền làm tiêu chuẩn ứng xử cho chúng ta, nghiêm ngặt tuân thủ, chắc chắn sẽ có ích. Đối với những kẻ thương tổn chúng ta, chúng ta dùng tâm tình báo ân để đối đãi, lâu ngày họ sẽ biết, biết rồi cũng sẽ hối cải, nhưng như thế nào? Nói xin lỗi là vấn đề thể diện! Chúng ta biết điều ấy, trong tâm
kẻ ấy chẳng còn oán hận chúng ta, hóa giải rồi. Quý vị nói xem
chuyện này
có vui sướng lắm hay không, là chuyện tốt đẹp như thế đó!
Bởi lẽ, trong thế gian hiện tại, oan oan tương báo quá nhiều, vì lẽ gì?
Quý vị đối xử với người
khác, chẳng
ban bố ân đức, khó tránh kết oán với người khác. Nay vì sao con hiếu cháu hiền ít ỏi, quý vị ngẫm xem chính
mình có bố thí ân đức đối người ngoài hay chăng? Bố thí ân đức mới có kẻ
báo ân tìm đến. Bố thí tài vật mới có người tới trả nợ. Luôn luôn toan chiếm
phần tiện nghi hơn người, đó là gì? Con cháu của quý vị là kẻ đến đòi nợ. Đâu
đâu cũng ngạo nghễ, lấn áp người khác, như vậy là sẽ có kẻ tới
báo oán. Phiền phức ở chỗ này. Chúng ta nhất định phải hiểu điều này, đều là “tự làm,
tự chịu”. Mọi người
đều là người
tốt,
tổ tiên dạy chúng
ta “nhân tánh bổn
thiện” (tánh con người vốn lành), Đại Thừa Phật pháp dạy chúng
ta “tất cả chúng sanh vốn
là Phật”,
chúng ta thấy người khác như thế nào? Chúng ta
phải thấy người
khác, hết thảy chúng
sanh
đều là Bồ Tát, đều là Phật, thật đấy, chẳng giả đâu! Vì sao Thiện Tài chứng đắc Phật quả rốt ráo viên mãn
trong một đời?
Xưa
kia, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, cũng bỏ ra không ít thời gian;
đáng
tiếc là khi ấy ngay cả máy thâu âm
cũng
chưa có. Tôi giảng kinh được một nửa bèn hiểu rõ, biết bí quyết
thành tựu của Ngài chính là: Trong lòng Ngài, chúng
sanh
toàn là thiện tri thức, toàn là Phật, Bồ Tát, cho nên Ngài thành tựu. Tôi quan sát cẩn thận,
tìm ra thông tin này từ kinh điển: Thầy của Ngài là Văn Thù Bồ Tát. Ngài
đắc Căn Bản Trí nơi Văn Thù Bồ Tát, mà cũng là đắc thanh tịnh tâm, đại triệt đại ngộ. Ngộ rồi khởi tu, khởi tu
là
gì? Khởi tu là sống. Văn Thù Bồ Tát
bảo Ngài đi tham học, năm mươi
ba lần tham học, tham học là gì? Tiếp xúc
các tầng lớp trong xã hội, hết thảy mọi người mà quý vị tiếp xúc từ sáng đến
tối
toàn là Phật, toàn là Bồ Tát, chỉ có một mình
ta là phàm phu. Ngài mang
tâm thái như vậy, áp dụng toàn
bộ những điều đã học từ chỗ thầy vào cuộc sống, áp dụng
trong công việc, áp dụng
trong xử sự, đãi người, tiếp vật.
Khi thầy Phương giới thiệu kinh Hoa Nghiêm, đã bảo tôi: Kinh Hoa
Nghiêm có lý luận viên mãn, có phương pháp thiện xảo, cuối kinh lại còn có biểu diễn. Năm mươi
ba lần tham học là biểu diễn, quý vị thấy: Đem
đạo lý
và
phương pháp áp dụng vào cuộc sống, công tác, vào xử sự, đối nhân xử
thế
cho quý vị thấy. Cụ nói bộ sách giáo khoa này, cụ quan niệm kinh Hoa Nghiêm là Phật học khái luận bậc nhất trên thế giới, tìm chẳng ra loại tài liệu
giảng dạy thứ hai nào tốt đẹp như thế. Vì thế, vào tuổi xế
chiều, lão nhân gia
dạy Triết Học Hoa Nghiêm cho chương trình tiến sĩ ở đại học Phụ Nhân (đại học của giáo hội Công Giáo) đúng là thỏa thích. Chúng tôi được thầy chỉ dạy, mới biết Phật pháp thù thắng
khôn sánh. Phật pháp quả thật có thể giải
quyết
vấn đề của chính mình. Bản thân tôi có rất nhiều vấn đề, trong đời quá khứ chẳng
tu
phước báo. Số mạng có thật!
Quý vị đọc Liễu Phàm
Tứ
Huấn, thấy tiên sinh Liễu Phàm được Khổng tiên sinh đoán mạng, suốt hai mươi năm chẳng sai mảy may:
Thu
nhập hàng năm, thứ tự đỗ đạt, địa vị đẳng cấp
mỗi năm đã định trước trong số mạng. Trong cuộc sống hằng ngày, tiên sinh
Viên Liễu Phàm chuyện gì cũng chẳng
nghĩ
tới, cùng thiền sư Vân Cốc ngồi
trong Thiền Đường suốt ba ngày ba đêm, chẳng khởi một niệm. Loại người này rất ít, thiền sư Vân Cốc rất kinh ngạc, ba ngày ba đêm
chẳng khởi một
niệm, công phu này khá lắm!
Liền hỏi ông ta: “Ông tu như thế nào?” Ông ta
liền đáp lời, cũng rất thật thà: “Con chẳng có công phu gì! Số mạng đã được
người
khác đoán sẵn, khởi niệm vô ích, chẳng thà coi như xong, chẳng
khởi niệm nữa!” Thiền sư Vân Cốc cười, bảo: “Ta ngỡ ông là thánh nhân, hóa ra
ông vẫn là phàm phu”. Ông ta hỏi: “Sao thầy nói vậy?” Sư bèn giải thích. Đây là một người thật sự hiểu mạng vận, chẳng khởi vọng tưởng. Quý vị tin vào số mạng, hãy xem thiền sư Vân Cốc dạy ông Viên phương pháp sửa đổi số mạng. Số mạng của quý vị do đâu mà có? Do [các nghiệp nhân] trong đời
quá
khứ tạo thành.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment