Khi xuất gia là trong lòng đã kỳ hẹn làm rường cột
cho Phật pháp, gương mẫu cho đời sau, chứ không phải để ăn tiêu của tín thí,
không phải để làm con mọt đục chùa...
QUI SƠN CẢNH SÁCH
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần 8
Chánh Văn:
“Nhược bất như thử, lạm
xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí”.
Dịch:
Nếu chẳng như thế, xen lẫn
trong chúng tăng, ngôn hạnh hoang sơ, luống hao của tín thí.
Giảng:
Nếu chẳng làm được những điều
kể trênthì chỉ là kẻ lẫn lộn, làm ô danh chúng tăng, chứ chẳng phải là người
chân chánh xuất gia. Chữ “lạm xí” có nơi giải thích là “điểu thử Tăng” tức ông
thầy chim chuột. Nghĩa là dụ như con dơi gặp chim thì nó xòe cánh ra, bảo: tôi
đây là chim, gặp chuột thì hắn xếp cánh lại nói: tôi đây là chuột. Ông thầy chim
chuột là ông thầy cạo đầu mặc áo nhuộm trông giống người tu mà tâm chí thì lạng
quạng gặp chim làm theo chim, gặp chuột làm theo chuột. Sống như thế đó gọi là
“lạm xí tăng luân”. Phần đông tu sĩ bây giờ là thế ấy, thường là “điểu thử
tăng” hay có chỗ gọi là “phóc cư sĩ” tức là ông cư sĩ trọc đầu. Tuy đầu trọc mà
tâm niệm thì thế tục, làm tăng mà không có tâm hạnh của người xuất gia, lời nói
việc làm không phù hợp chánh pháp, nên gọi là cư sĩ trọc đầu. Người như thế chỉ
luống ăn tiêu của tín thí mà chẳng lợi ích gì cho đạo. Hãy tự kiểm vậy!
Chánh Văn:
“Tích niên hành xứ, thốn
bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị”
Dịch:
“Chỗ đi năm trước, tấc bước
không rời, lơ láo một đời, lấy chi nương tựa”.
Giảng:
Chúng ta thấy có người xuất
gia được 20 năm, 30 năm rồi, thế nhưng năm thứ nhứt thì Phật tại tiền, năm thứ
hai Phật thăng thiên, đến năm thứ ba, thứ tư…cho đến năm 30 thì chẳng còn thấy
Phật. Thế là càng tu càng lùi. Tôi thường nói rằng người tu giống như kẻ chèo
thuyền ngược nước, ngược gió. Trong trường hợp đó phải thế nào? Nếu quí vị có
cảm thấy quá mệt mỏi thì nên cắm sào bỏ neo đậu lại, đợi nghỉ ngơi cho khỏe rồi
tiếp tục chèo, chớ chẳng nên buông chèo mặc nó trôi giạt đến đâu cũng được. Như
vậy đâu có ý nghĩa chèo thuyền ngược dòng nữa. Chúng ta là kẻ đi ngược dòng
đời, thế gian mê ta tỉnh, thế gian đắm chìm trong ái dục, chúng ta là người
giải thoát khỏi dòng ái dục. Vì thế, chúng ta phải luôn cần mẫn, vững tay chèo
mới có cơ tiến nổi, bằng chúng ta lơ là ắt dòng đời như thác lũ kia sẽ kéo
phăng chúng ta trở lại dòng sanh tử. Chúng ta phải tự xét lại coi, từ khi xuất
gia đến giờ trải qua 5,10 năm rồi đã tiến được bao nhiêu hay vẫn còn nguyên chỗ
cũ? Có người thậm chí còn lùi nữa, thì than ôi, đời tu nào có ra gì! Thật đáng
hổ thẹn! Thật là : “Lơ láo một đời, lấy chi nương tựa?” Tổ cho một roi đau
điếng như vậy để chúng ta hổ thẹn, nhớ lại bổn phận của mình mà cố gắng.
Chánh Văn:
“Huống nãi đường đường
tăng tướng, dung mạo khả quan. Giai thị túc thực thiện căn, cảm tư dị báo. Tiện
nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân
khắc tựu. Khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lai nghiệp vô tì.”
Dịch:
Huống nãi đường đường tăng
tướng, (sáu căn đầy đủ) dung mạo dễ xem. Sở dĩ được như thế là do đời trước đã gieo
trồng căn lành nên đời này mới cảm quả báo thế ấy. Lại chỉ biết ngồi sửng
khoanh tay, chẳng tiếc thì giờ. Đạo nghiệp không nổ lực chuyên cần thì công quả
do đâu thành tựu? Chẳng những đời nay luống qua, đời sau cũng sẽ vô ích.
Giảng:
“Huống nãi đường đường tăng
tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo”.
Chúng ta ngày nay
được mang thân người, sáu căn đầy đủ, lại được xuất gia hình tướng như Phật. Đó
là do đời quá khứ đã gieo trồng căn lành, đời nay mới cảm được quả báo tốt như
vậy. Nhìn quả hiện tại biết nhân quá khứ. Cũng vậy, nhìn nhân hiện tại, biết
quả vị lai. Thế nên đời nay đã được duyên lành thì phải làm sao nữa, chứ chẳng
lẽ:
“Tiện nghĩ đoan
nhiên củng thủ bất quý thốn âm, sự nghiệp bất cần công quả vô nhân khắc tựu”.
Chỉ biết ngồi sửng khoanh tay ngu ngơ qua ngày tháng, thì chẳng những đời này không
lợi ích mà đời sau cũng không chỗ tựa nương. Ngài Hiếp tôn giả suốt đời lưng
không dính chiếu, Tổ Bá Trượng: “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”. (Một
ngày không làm, một ngày không ăn). Chúng ta ngày nay vào chùa thọ lãnh của thí
chủ thì nhiều mà không siêng tu phước huệ, không biết tiếc thời giờ, một mai
cởi áo cà sa, lui mất thân người, thì thật là đáng tiếc!
“Khởi khả nhất
sanh không quá, ức diệc lai nghiệp vô tì”. Đời này không có công đức gì làm sao
đời sau được tốt đẹp, Tổ Qui Sơn có tâm lão bà tha thiết, Ngài quở rầy xong lại
quở rầy. Thật là đắng miệng khô môi, chỉ vì muốn cho con cháu đời sau được nên
người xứng đáng.
Chánh Văn:
“Từ thân quyết chí phi
tri, ý dục đẳng siêu hà sở. Hiểu tịch tư thổn, khởi khả thiên diên quá thời”.
Dịch:
Từ giả thân quyến, quyết chí
mặc áo nhuộm là ý muốn vượt đến chỗ nào? Sớm tối lo nghĩ, đâu thể dần dà để
thời giờ qua mất.
Giảng:
Đây Tổ nhắc lại bổn phận của
người xuất gia, nhắc lại ước nguyện ban đầu của mình khi từ bỏ cha mẹ, anh em
vào chùa mặc áo nhuộm để chi? Chúng ta xuất gia là vì lý tưởng cao siêu giải
thoát, chớ đâu có ai nghĩ vào chùa để tìm chỗ an thân! Thế nhưng, dần dà chúng
ta quên mất bổn phận của mình. Vì vậy, ở đây Ngài nhắc chúng ta phải sớm tối suy
nghĩ, phải thường tự hỏi: “Tại sao mình đi tu?” Thường nghĩ nhớ lại tâm nguyện
xuất gia ban đầu để nổ lực vươn lên, chứ không nên bỏ lửng, ăn rồi giỡn cười để
ngày giờ qua mất.
Chánh Văn:
“Tâm kỳ Phật pháp đống
lương, dụng tác hậu lai qui cảnh. Thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương
ưng!”
Dịch:
Lòng tự hẹn làm rường cột cho
Phật pháp, gương mẫu cho đời sau. Thường xét nghĩ như thế mà còn chưa được chút
phần tương ưng.
Giảng:
Tổ nhắc chúng ta nên xét lại ý
nguyện xuất gia của mình. Khi xuất gia là trong lòng đã kỳ hẹn làm rường cột
cho Phật pháp, gương mẫu cho đời sau, chứ không phải để ăn tiêu của tín thí,
không phải để làm con mọt đục chùa. Hằng xét nét như thếmà còn chưa phù hợp
được một phần nhỏ của sự xuất gia thay, huống là tu bao nhiêu năm mà không biết
mình phải làm cái gì, thì thật là tệ! Mà muốn thực hiện được ý nguyện đó thì phải:
Chánh Văn:
“Xuất ngôn tu thiệp ư
điển chương, đàm thuyết nãi bạng ư kê cổ, hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn”.
Dịch:
Nói ra phải hợp với kinh điển,
luận bàn phải noi theo gương mẫu người xưa, hình dung đĩnh đạc, ý chí cao nhàn.
Giảng:
Nếu thực tình chúng ta muốn
làm rường cột cho Phật pháp, làm mẫu mực cho người sau, thì nói ra lời gì cũng
phải phù hợp với kinh điển, với lời Phật ý Tổ. Phải nói đúng đắn chân thật,
chẳng nên nói bướng, nói đùa hay đặt điều nói bậy. Về thân tướng thì phải trang
nghiêm, đi đứng chỉnh tề; ý chí phải thênh thang siêu thoát, chẳng nên có những
ý tưởng thấp thỏi, tầm thường. Tổ chỉ dạy thật tường tận từ ngôn ngữ, hình nghi
cho đến ý chí…Chúng ta phải cố gắng như lời Tổ dạy mới xứng đáng là Sa Môn
Thích tử, là người chơn chánh xuất gia.
Chánh Văn:
“Viễn hành yếu giả lương
bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị
văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu”.
Dịch:
Đi xa cần nương bạn lành để
thường gạn lọc tai mắt. Trú ở cần nên chọn bạn, thường được nghe điều chưa
nghe. Nên nói: sanh ta là cha mẹ, tác thành nên ta là bạn bè.
Giảng:
Chúng ta ra đi tìm Thầy học
đạo cốt phải nhờ bạn lành, Thầy tốt khiến tai mắt chúng ta được trong sạch,
được nghe lời hay, thấy được cái đẹp. Khi dừng ở cần phải chọn bạn chọn Thầy,
gần được Thầy hay bạn tốt, chúng ta mới nghe được điều lợi ích chưa từng nghe,
Bằng gần ông Thầy không hơn mình, bạn lại chẳng tốt thì dầu ở chung ngàn năm
cũng chẳng lợi gì, đôi khi lại còn lui sụt. Nên người tu cần phải chọn thầy,
chọn bạn là như thế. “Sanh ta là cha mẹ, làm nên ta là Thầy bạn”. Đây là sự
thật không nghi ngờ gì hết. Vì chúng ta có được hình vóc vẹn toàn này là từ cha
mẹ mà có, nhưng chúng ta có được trí tuệ, hiểu biết những điều siêu xuất thế
gian lại chính nhờ Thầy bạn nuôi dưỡng bồi đắp mà nên. Nhờ Thầy bạn chúng ta
mới thành người hữu ích cho chính mình và cho chúng sanh. Riêng tôi, nay được
biết đạo lý giảng dạy thế này hoàn toàn là nhờ thầy bạn, chứ cha mẹ thì không
thể làm được. Có nhiều người không may khi phát tâm xuất gia mà không gặp Thầy
hay, bạn tốt, nên ở chùa năm, mười năm hay hai, ba mươi năm rồi, vẫn lẩn quẩn
cũng chỉ trong hai thời khóa tụng, thật là tội nghiệp! Điều này cũng do phước
duyên của mỗi người, chứ thật ra lúc phát tâm đi tu, vào chùa gặp đâu ở đó, có
biết đâu mà chọn. Vì thế, chúng ta có phước duyên được gặp Thầy chỉ dạy nên
người hữu dụng thì công ơn ấy thật vô cùng to lớn.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment