"Hiện thời,
thân mọi người bất động, cốt sao nhàn hạ,
sung sướng cái thân, còn tâm thì suốt ngày từ sáng
đến tối suy nghĩ loạn xạ, hết sức
tương phản..."
Phần
5
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập dịch kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí
Húc chú giải vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng
thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù
ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Phật
Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
(Giải) Thực thời, tức
thanh đán, cố vân “tức dĩ”, minh kỳ Thần Túc
bất khả tư nghị. Bất ly bỉ độ, thường
biến thập phương, bất giả du thời hồi
hoàn dã. Thử văn hiển Cực Lạc, nhất thanh,
nhất trần, nhất sát-na, nãi chí khóa bộ, đàn chỉ,
tất dữ thập phương Tam Bảo, quán triệt
vô ngại. Hựu, hiển tại Sa Bà, tắc trược
trọng ác chướng, dữ Cực Lạc bất cách
nhi cách, sanh Cực Lạc, tắc công đức thậm
thâm, dữ Sa Bà cách nhi bất cách dã.
(解) 食時。即清旦。故云即以。明其神足不可思議。不離彼土。常遍十方。不假逾時回還也。此文顯極樂。一聲。一塵。一剎那。乃至跨步彈指。悉與十方三寶。貫徹無礙。又。顯在娑婆。則濁重惡障。與極樂不隔而隔。生極樂。則功德甚深。與娑婆隔而不隔也。
(Giải: “Thực thời” chính là lúc sáng
sớm, nên nói “tức dĩ” (liền ngay), chỉ rõ Thần
Túc chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng lìa cõi ấy mà
thường trọn khắp mười phương, chẳng
mất thời gian quay trở lại. Đoạn văn
này nêu rõ một thanh, một trần, một sát-na, thậm
chí cất bước, khảy ngón tay trong cõi Cực Lạc
đều cùng với mười phương Tam Bảo
quán triệt vô ngại. Lại còn, chỉ rõ: Trong Sa Bà,
trược nặng, ác chướng, chẳng cách ngăn Cực
Lạc mà thành ngăn cách. Sanh về Cực Lạc, công
đức rất sâu, tuy cách ngăn Sa Bà mà chẳng hề
ngăn cách).
Trong sáu thứ thần thông, có một thứ
gọi là Thần Túc Thông. “Thần”
(神) là thần kỳ chẳng thể lường, chẳng
thể suy nghĩ được. “Túc” (足) là viên
mãn, biểu thị biến hóa tự tại. Truyện Tây
Du Ký nói Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến
hóa, đấy chính là thần thông. Người sanh về
Tây Phương nghe kinh, nghe pháp trong giảng đường
của A Di Đà Phật, đồng thời phân thân đến
khắp các cõi Phật trong mười phương để
cúng Phật, độ chúng sanh, đi về tự tại.
Phân thân đến mười phương thế giới,
ở lại đó một thời gian tùy theo duyên của
chúng sanh. Hết thảy chúng sanh sanh về Tây Phương
đều viên mãn đầy đủ sáu thứ thần
thông, đều cùng mười phương Tam Bảo quán
triệt vô ngại, một thanh, một trần, một
sát-na, cho đến trong một động tác nhỏ nhặt
trong khoảng thời gian khảy ngón tay trong cuộc sống
thường nhật, tùy tiện lấy một pháp nào cũng
là toàn thể pháp giới. Do vậy, mười
phương ba đời hết thảy chư Phật
Như Lai không ngừng hướng về hành giả nói
pháp là chuyện có thể xảy ra; bởi lẽ, hết
thảy vô ngại. Như trong kinh Đại Thừa có nói “trong một đầu lông chuyển
đại pháp luân, không có mảy may chướng ngại
nào”. Kinh Hoa Nghiêm bảo “một
chính là nhiều, nhiều chính là một. Một và nhiều
viên dung, tự tại vô ngại”.
“Hựu hiển tại Sa Bà, tắc
trược trọng ác chướng, dữ Cực Lạc
bất cách nhi cách” (Lại nữa,
hiển thị trong cõi Sa Bà, do trược nặng, ác
chướng, chẳng cách ngăn Cực Lạc mà thành
ngăn cách). Thế giới này của chúng ta ô nhiễm rất
nặng, các nhà khoa học đã đưa ra lời cảnh
cáo: Nếu chẳng cấp tốc giảm thiểu sự
ô nhiễm môi trường, năm mươi năm sau, quả
địa cầu sẽ chẳng thích hợp cho con người
sống nữa. Có thể đạt được hiệu
quả hay không, tôi cảm thấy hết sức khó
khăn. Nhà Phật nói: “Y báo
chuyển theo chánh báo”. Y báo là hoàn cảnh, chánh báo là lòng
người. Trong tâm chúng ta bị ô nhiễm còn nghiêm trọng
hơn hoàn cảnh bị ô nhiễm. Do tư tưởng,
kiến giải của chúng ta sai lầm mà dẫn đến
những hành vi sai lầm. Muốn cầu xã hội an định,
ắt phải dốc sức tịnh hóa lòng người.
Trong giai đoạn hiện thời này, hết sức khó
khăn. Người tạo Thập Ác trong xã hội rất
nhiều. Trước kia, tạo Thập Ác còn có tâm hổ
thẹn, hiện thời lại coi đó như một hiện
tượng bình thường! Do thế giới Sa Bà có những
thứ trược nặng, ác chướng ấy, cho nên
xa cách Cực Lạc; hai thế giới chẳng ngăn
cách mà thành ngăn cách!
Trong các bộ
Cao Tăng Truyện và Cư Sĩ Truyện của Trung Quốc,
có không ít người đã được chứng kiến
[cảnh giới của thánh nhân], như câu chuyện thiền
sư Pháp Chiếu của Tịnh Độ Tông đến
Đại Thánh Trúc Lâm Tự ở Ngũ Đài Sơn, thấy
Văn Thù Bồ Tát mà tôi đã nhắc đến trong phần
Huyền Nghĩa. Sau khi Bồ Tát thuyết pháp xong, Sư
hướng về Văn Thù Bồ Tát thưa hỏi: “Trong
thời kỳ Mạt Pháp, chúng sanh tu pháp nào thì thích hợp?”
Văn Thù Bồ Tát bảo: “Tu pháp Ngũ Hội Niệm Phật
là thích hợp nhất”. Văn Thù Bồ Tát còn niệm mấy
câu cho Sư nghe. Ngài Pháp Chiếu vốn học Thiền, qua
cuộc kỳ ngộ ấy, bèn chuyên tu Tịnh Độ.
Về sau, Ngài trở thành tổ sư đời thứ
tư của Tịnh Độ Tông.
Thế
giới này của chúng ta là cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Ngài Văn Thù là thánh nhân, chúng ta không thấy
được; tuy không ngăn cách với chúng ta mà thành
ngăn cách. Trong Cao Tăng Truyện, những tình huống
giống như vậy rất nhiều. Lại như trong
Tam Muội Thủy Sám, quốc sư Ngộ Đạt gặp
tôn giả Ca Nặc Ca, cũng như hoa Đàm thoáng hiện.
(Giải)
“Phạn thực kinh hành” giả, niệm thực, thực
chí, bất giả an bài. Thực tất, bát khứ, bất
lao cử thức. Đản kinh hành kim địa, hoa nhạc
ngu lạc, nhậm vận tấn tu nhi dĩ.
(解) 飯食經行者。念食食至。不假安排。食畢缽去。不勞舉拭。但經行金地。華樂娛樂。任運進修而已。
(Giải: “Phạn thực kinh hành” là nghĩ
tới ăn, đồ ăn hiện tới, chẳng mất
công xếp đặt. Ăn xong, bát biến mất, chẳng
mất công lau, cất. Chỉ kinh hành trên đất vàng,
vui hưởng hoa, âm nhạc, tùy ý tấn tu mà thôi)
Đoạn này giảng
đại lược về tình hình cuộc sống của
đại chúng trong Tây Phương thế giới. Trong phần
trên, tôi đã có nói, từ cõi trời Sắc Giới trở
lên, không có ham muốn ăn uống. Từ Dục Giới
thiên trở xuống, ai nấy đều chẳng thể
tránh khỏi Ngũ Dục. Trong Sắc Giới Thiên, từ
tầng trời Sơ Thiền trở lên, chẳng có Ngũ
Dục, lấy Thiền Duyệt làm thức ăn. Tây
Phương thế giới vượt trỗi chư thiên
rất nhiều, mười tám tầng trời của Sắc
Giới [trong cõi Sa Bà] trọn chẳng thể sánh bằng.
Thanh Văn, Duyên Giác cũng chẳng thể sánh bằng.
Phàm phu đới nghiệp vãng sanh từ vô thỉ kiếp
đến nay có tập khí này, chẳng thể đoạn
được, có lúc khởi lên ý niệm muốn ăn
cơm. Ý niệm vừa dấy, cảnh giới liền hiện
tiền, hết thảy thụ dụng thuận theo ý nghĩ
hiện ra, chẳng cần phải sắp đặt.
Ăn xong, bát biến mất, chẳng mất công rửa
chén, rửa đũa. Hết thảy thụ dụng trong
Tây Phương thế giới đều ứng theo ý nghĩ
mà xuất hiện, bất luận hoàn cảnh vật chất
hay hoàn cảnh nhân sinh đều thù thắng nhất. Từ
đây, ta có thể biết rõ tình trạng cuộc sống
hằng ngày của các vị thượng thiện nhân.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thành tựu
như thị công đức trang nghiêm.
(經) 舍利弗。極樂國土。成就如是功德莊嚴。
(Chánh
kinh: Này Xá Lợi Phất!
Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức
trang nghiêm như thế đấy)
Người
đới nghiệp vãng sanh hoàn toàn dựa vào công đức
gia trì từ bổn nguyện của A Di Đà Phật,
điều khó có gì đáng quý hơn là họ có thể tùy ý
phân thân qua lại các cõi Phật trong mười
phương, cúng Phật, nghe pháp, độ sanh, giống
như các vị Pháp Thân đại sĩ chẳng hai, chẳng
khác. Như Quán Kinh và Vô Lượng Thọ Kinh đã dạy,
phàm ai vãng sanh đều có năng lực gần giống
như Phật. Phật có thể từ trong tay biến hiện
vật dụng thường ngày, như quần áo, thức
ăn và tràng, phan, lọng báu, hoa trời, âm nhạc để
cúng Phật và cũng đồng thời lợi ích hết
thảy chúng sanh. Mười phương thế giới chẳng
có việc này, chỉ riêng Tây Phương là như thế.
(Kinh)
Phục thứ, Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường
hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi
điểu, bạch hạc, khổng tước, anh vũ,
xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu.
Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất
hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ
Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo
Phần, như thị đẳng pháp. Kỳ độ
chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng.
(經) 復次舍利弗。彼國常有種種奇妙雜色之鳥。白鶴。孔雀。鸚鵡。舍利。迦陵頻伽。共命之鳥。是諸眾鳥。晝夜六時。出和雅音。其音演暢。五根五力。七菩提分。八聖道分。如是等法。其土眾生。聞是音已。皆悉念佛。念法。念僧。
(Chánh
kinh: Lại này, Xá Lợi
Phất! Cõi ấy thường có các loài chim nhiều màu, kỳ
diệu như bạch hạc, chim công, chim vẹt, xá-lợi,
ca-lăng-tần-già, cộng mạng. Những con chim ấy
ngày đêm sáu thời hót tiếng hòa nhã. Tiếng hót ấy
diễn nói thông suốt Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất
Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần... những
pháp giống như vậy. Chúng sanh cõi ấy nghe tiếng ấy
rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng)
Phần đẹp đẽ tinh diệu nhất
trong cuộc sống của đại chúng ở Tây
Phương thế giới chính là thuyết pháp trang nghiêm.
Giống như trong một trường học, sinh hoạt
thường ngày của thầy và trò là học tập. Thời
gian đẹp nhất của con người là lúc đi học,
hễ bước chân ra xã hội khổ nạn trùng trùng.
Người trong Tây Phương thế giới cuộc sống
hết sức tự tại, có thể học môn gì mình
thích học, làm những chuyện mình thích làm. Trong nhà trường,
lúc vào lớp, hoặc khi nghe thầy thuyết pháp hết sức
nghiêm túc, ắt phải cung kính. Hễ có chút tùy tiện nào
liền cảm thấy thiếu tôn kính, oai nghi bị khiếm
khuyết. A Di Đà Phật hiểu tâm lý của chúng sanh;
do vậy, biến hóa rất nhiều loài chim để thuyết
pháp khiến cho mọi người có thể tùy ý nghe pháp,
chẳng bị bó buộc mảy may nào! Các loài chim ấy,
ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã, diễn nói các pháp.
Đại chúng muốn nghe pháp nào, chúng liền nói pháp ấy.
“Kỳ âm diễn sướng[1]
Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần,
Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp”
(Âm thanh ấy diễn nói thông suốt Ngũ Căn, Ngũ
Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo
Phần, các pháp giống như vậy). Mấy câu này bao gồm
hết thảy giáo nghĩa Đại Tiểu Thừa. Nghe
Phật pháp xong, tâm an, lý đắc, tâm an thì không có tạp
niệm, [mọi ý niệm] thảy đều là niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng. Ngũ Căn, Ngũ Lực
v..v.. là nói đến thánh giáo, còn niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng là nói tới tu hành.
(Giải)
“Chủng chủng kỳ diệu tạp sắc”, ngôn đa
thả mỹ dã. Hạ lược xuất lục chủng.
Xá-lợi, cựu vân Thu Lộ, Kỳ thiền sư vân thị
Xuân Oanh, hoặc nhiên. Ca-lăng-tần-già, thử vân Diệu
Âm, vị xuất xác thời, âm siêu chúng điểu. Cộng
mạng, nhất thân, lưỡng đầu, thức biệt,
báo đồng. Thử nhị chủng, Tây Vực Tuyết
Sơn đẳng xứ hữu chi, giai ký thử gian ái
thưởng giả, ngôn kỳ tự nhi dĩ. Lục thời xuất âm, tắc tri Tịnh
Độ bất dĩ điểu thê vi dạ.
Lương dĩ liên hoa thác sanh chi thân, bổn vô hôn thùy, bất
giả dạ ngọa dã. Ngũ Căn đẳng giả,
Tam Thập Thất Đạo Phẩm dã. Sở vị
Tứ Niệm Xứ,
nhất Thân Niệm Xứ, nhị Thọ Niệm Xứ,
tam Tâm Niệm Xứ, tứ Pháp Niệm Xứ.
(解) 種種奇妙雜色。言多且美也。下略出六種。舍利。舊云鶖鷺。琦禪師云是春鶯。或然。迦陵頻伽。此云妙音。未出殼時。音超眾鳥。共命。一身兩頭。識別報同。此二種。西域雪山等處有之。皆寄此間愛賞者。言其似而已。六時出音。則知淨土不以鳥棲為夜。良以蓮華託生之身。本無昏睡。不假夜臥也。五根等者。三十七道品也。所謂四念處。一身念處。二受念處。三心念處。四法念處。
(Giải:
“Chủng chủng kỳ diệu
tạp sắc” ý nói [các loài chim trong cõi Cực Lạc]
đã nhiều còn đẹp. Tiếp đó, kinh nêu đại
lược sáu loại. Xá-lợi, thời cổ dịch là
Thu Lộ, Kỳ thiền sư nói nó chính là chim Xuân Oanh, chắc
có lẽ là đúng. Ca-lăng-tần-già, cõi này dịch là Diệu
Âm. Chim này khi chưa ra khỏi vỏ trứng, tiếng hót
của nó đã vượt trỗi các loài chim khác. Cộng
Mạng là chim có hai đầu một thân, mỗi đầu
có thần thức khác biệt, nhưng có chung một báo
thân. Hai loại chim này có ở những nơi như Tuyết
Sơn v.v... bên Tây Vực. Đều là mượn tên những
loài chim được yêu thích, tán thưởng trong cõi này
để tạm mô tả [những loài chim trong cõi Cực
Lạc] mà thôi. [Do kinh chép] “sáu thời vang tiếng hót” nên biết
là trong Tịnh Độ chẳng coi
chim đậu là đêm[2];
ấy là vì thân sanh từ hoa sen sanh ra, vốn chẳng có buồn
ngủ, nên đêm chẳng cần ngủ. Ngũ Căn
v.v... là nói về ba mươi bảy đạo phẩm,
nghĩa là: Tứ Niệm Xứ gồm một là Thân Niệm
Xứ, hai là Thọ Niệm Xứ, ba là Tâm Niệm Xứ,
bốn là Pháp Niệm Xứ).
“Chủng chủng kỳ diệu
tạp sắc chi điểu” nghĩa là chủng loại
rất nhiều. Tiếp đó, kinh
văn chỉ nêu đại lược sáu loài. Bạch hạc,
chim công, chim vẹt, đều là những thứ ai cũng
biết, chẳng cần phải bàn tới. “Xá-lợi” (Śāri),
thời cổ dịch là Thu Lộ, Kỳ thiền sư[3]
đời Tống bảo nó là chim Xuân Oanh, cũng có lý. “Ca-lăng-tần-già” (Kalavinka) là tiếng Phạn, dịch
thành Diệu Âm. Khi chim chưa ra khỏi vỏ trứng
đã có thể hót tiếng du dương. Cộng Mạng
(Jivajivaka) là loại chim một
thân hai đầu, có hai thần thức. Tại Trung Quốc,
chưa hề thấy loại chim này. Tương truyền,
ở núi Hỷ Mã Lạp Nhã (Himalaya) có loại chim này. Nhằm ứng
với những loài chim xinh đẹp người đời
ưa thích, A Di Đà Phật dùng thần lực biến hiện
nhiều loài chim đẹp đẽ chẳng có trong nhân
gian. Do Tây Phương không có tối
tăm, nên loài cầm điểu thuyết pháp suốt ngày
đêm sáu thời không gián đoạn. Người trong cõi
Tây Phương liên hoa hóa sanh, vốn không ngủ nghỉ;
vì thế, ăn uống lẫn ngủ nghê đều chẳng
cần. Khi tinh thần con người sung mãn thì thời
gian ngủ rất ít. Người thật sự có công phu,
ít vọng niệm, ít phiền não, tinh thần bị tiêu hao
cũng ít. Thuở đức Phật tại thế, quy
định các đệ tử chỉ ngủ trong lúc Trung
Dạ, tức là mười giờ đi ngủ, hai giờ
đêm thức dậy. Hiện thời có người ngủ
tám tiếng vẫn chưa đủ, lãng phí thời gian tốt
đẹp nhất, thật là đáng tiếc. Hễ tinh thần
tốt đẹp, nhất định cuộc sống sẽ
sung sướng.
“Ngũ Căn đẳng giả,
tam thập thất đạo phẩm dã” (Ngũ Căn
v.v... là ba mươi bảy đạo phẩm). Câu này là
nói tổng quát. Trong kinh chỉ nói bốn thứ “Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất
Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần”. Ba
mươi bảy đạo phẩm được chia
thành bảy loại, Ngẫu Ích đại sư bổ sung
ba thứ còn lại để nói. Ba thứ ấy là Tứ
Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc. Thông
thường, chúng ta chỉ biết ba mươi bảy
đạo phẩm là pháp Tiểu Thừa; thật ra, pháp
này chung cho cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa.
Trong kinh Niết Bàn, đức Phật dạy: “Nếu ai có thể quán Bát Chánh
Đạo thì sẽ minh tâm kiến tánh”. Câu này giảng
rõ ba mươi bảy đạo phẩm là pháp Đại
Thừa. Trong Đại Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ
Tát cũng nói ba mươi bảy phẩm không gì chẳng
thâu nhiếp, vô lượng đạo phẩm đều
nằm trong ấy. Ngài còn nói ba mươi bảy đạo
phẩm bao gồm hết thảy Phật pháp Đại Thừa.
Tây Phương là Đại Thừa viên đốn, há có Tiểu
Thừa ư?
Tứ Niệm
Xứ thuộc về Quán Trí, người ta thường gọi
là nhân sinh quan, vũ trụ quan. Trong ấy có mê, có ngộ.
Niệm (念) là trí huệ quán sát, chứ không phải
ý niệm. Chữ Xứ (處) chỉ cảnh giới được quán. Tứ
Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc có ích rất
lớn cho người sơ học. Thường [có
người] nói “tu học rất lâu, niệm Phật, tham
Thiền, trì chú, tu Định, công phu đều chẳng
đắc lực”, nguyên nhân là vì đã coi thường ba
phương pháp tu học cơ bản này. Nhưng vì sao
trong kinh đức Phật chẳng nói tới ba thứ
này, mà lại bắt đầu bằng Ngũ Căn, Ngũ
Lực? Vì Ngũ Căn, Ngũ Lực là pháp của người
trong cõi Tây Phương tu hành; họ đã tu ba môn trước
rồi, không cần phải nói lại nữa. Nhưng
đối với hàng sơ học chúng ta thì nhất định
phải nói rõ. Tứ Niệm Xứ là:
1) “Quán thân bất tịnh”: Thân chẳng
sạch sẽ. Người tu hành lợi dụng thân thể
để thành tựu đạo nghiệp, chẳng cần
phải đắm đuối nó. Người thế gian lợi
dụng nó để tạo nghiệp, đáng tiếc quá!
Những thứ do thân thể bài tiết ra đều không
sạch sẽ. Quán thân thể của chính mình bất tịnh,
chẳng đáng tham ái, thì làm sao tham ái thân thể của
người khác cho được? Muốn buông xuống hết
thảy thân, tâm, thế giới thì phải bắt đầu
từ cái thân của chính mình. Chẳng còn phải nhọc
lòng vì cái thân thể này nữa thì mới có thể dưỡng
sinh tốt đẹp. Người biết dưỡng
sinh ít bệnh tật, có thể trường thọ. Thân thể
con người và toàn thể vũ trụ là một. Thuận
theo tự nhiên sẽ mạnh khỏe. Chẳng hạn
như thức ăn trong mùa Đông phải ăn đồ
mát, mùa Hạ phải ăn đồ nóng. Hiện thời
con người làm ngược lại, hoàn toàn chẳng
tương ứng với tự nhiên. Vì vậy, trăm thứ
bệnh đổ ra. Thiên Nguyệt Lệnh trong bộ sách
cổ Lễ Ký của Trung Quốc có nói về cách sinh sống,
ăn ở, một năm bốn mùa mười hai tháng, mỗi
tháng ăn gì đều ghi chép tường tận. Cách
ăn và dùng loại củi nào để nấu đều
quy định cặn kẽ, những điều này gần
như đã thất truyền. Nguyên tắc dưỡng
sinh trong Phật pháp là coi thân thể như một cỗ
máy, thân phải động, tâm phải tịnh. Hiện thời,
thân mọi người bất động, cốt sao nhàn hạ,
sung sướng cái thân, còn tâm thì suốt ngày từ sáng
đến tối suy nghĩ loạn xạ, hết sức
tương phản. Người trong cõi Tây Phương
thân Kim Cang bất hoại, chẳng cần
ăn uống nên không bị bệnh tật.
2) “Quán Thọ thị khổ”: Con người suốt đời phấn đấu
là vì lẽ gì? Đạt được gì? Đến tuổi
già càng khổ, sống rất quạnh quẽ. Những
chung cư dành cho người nhà ở Mỹ chăm sóc
người già kể ra cũng chu đáo, nhưng vẫn
khó tránh khỏi bệnh tật rề rề, khổ vì nằm
bẹp giường, chỉ ngồi ăn đợi chết
mà thôi. Đức Phật nói tam giới đều khổ.
Cũng có lúc vui, nhưng thời gian vui chẳng dài, vui rồi
lại khổ nên gọi là Hoại Khổ, chẳng khổ
chẳng vui là Hành Khổ, vì nó dời đổi không ngừng,
biến hóa vô thường. Nói thật đấy! Người
học Phật cuộc sống khác hẳn, có viễn cảnh
tương lai sáng sủa. Niệm Phật thân tâm thanh tịnh,
đọc kinh sẽ khai ngộ. Huống chi kinh dạy: “Nhớ Phật, niệm Phật,
hiện tiền tương lai, nhất định
thấy Phật”. Cư sĩ
Bành Tế Thanh đã chép trong Vãng Sanh Truyện chẳng
ít vị nam nữ tại gia cư sĩ lúc lâm chung biết
trước lúc mất. Nói chung [những người ấy]
sống vào cuối đời Minh, đầu đời
Thanh. Bốn chục năm qua, tại Đài Loan, tôi
đích thân mắt thấy tai nghe người đứng
qua đời, người ngồi mà mất, chứng tích
đều hãy còn, tuyệt đối chẳng phải là bịa
chuyện.
3) “Quán tâm vô
thường”: Người thế gian khổ nhất là
ý niệm nẩy sanh không ngừng. Đấy là tập khí
từ vô thỉ kiếp đến nay, đó cũng là nhân
tạo nên luân hồi trong lục đạo. Phật giáo
tuy có nhiều pháp môn, nhưng đều nhằm mục
đích tu Định, phương pháp khác nhau, nhưng mục
đích là một. Định là bổn tâm, ý niệm là vọng
tâm. Làm thế nào để trừ bỏ vọng tâm, khôi phục
bổn tâm, đấy là công phu thật sự. Vọng tâm
là cội nguồn của hết thảy vọng tưởng,
phiền não. Chẳng những khi thức nó nẩy sanh liên
tục không ngừng, mà khi ngủ nó cũng biến thành mộng.
Vọng tâm sanh diệt trong từng sát-na, thấy hết thảy
cảnh giới đều là sanh diệt. Trong kinh Phật
nói hết thảy pháp bất sanh bất diệt, chúng ta nhìn
không ra. Phật dùng Định tâm chẳng sanh diệt nên
thấy hết thảy pháp bất sanh bất diệt. Chúng
ta dùng cái tâm sanh diệt để nhìn hết thảy pháp
nên hết thảy pháp đều có sanh diệt. Chẳng hạn
như, hết thảy động vật đều có
sanh, lão, bệnh, tử. Đức Phật nói bất sanh bất
diệt là thật, sanh diệt là giả. Không có ý niệm
là nhất tâm, những gì được hiện bởi nhất
tâm là chân. Đấy là Nhất Chân pháp giới. Hễ ý niệm
dấy lên thì sẽ thấy mười pháp giới. Vọng
tâm vô thường, hãy nên bỏ đi, phải tích cực
tu Định, người trong thế giới Tây
Phương đều giữ được chân tâm
thường trụ. Thường trụ là bất động.
Chúng ta tập khí nặng nề, lại thêm hoàn cảnh quyến
rũ, mê hoặc, khó thể thường trụ bất
động.
4) “Quán pháp vô ngã”:
Ba thứ đầu trong Tứ Niệm Xứ thuộc về
nhân sinh quan của bản thân chúng ta. Loại thứ tư
chính là vũ trụ quan. Chữ Ngã trong “quán pháp vô ngã” có nghĩa là “tự tại”. Kinh Kim
Cang dạy: “Phàm những gì có
hình tướng đều là hư vọng”. Kinh còn dạy:
“Hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Đấy là “quán pháp vô ngã”. Mọi người
thường cho rằng hết thảy pháp đều có thật;
do vậy, khởi lên lắm thứ phiền não như tham,
sân, si, mạn. Kẻ ngu muội ngỡ thân có thật, hết
thảy vạn vật cũng có thật; do vậy, hết
sức đoạt lấy, tạo tác Thập Ác, chẳng mảy
may cân nhắc, e dè, nhưng tạo nghiệp ắt có quả
báo. Đời sau phải đền trả, sợ rằng
phải mang lông đội sừng. Người đầu
óc tỉnh táo chẳng tạo ác nghiệp, biết đời
người sống trong cõi này, hết thảy thụ dụng
đều có số mạng định sẵn, chẳng cần
phải mong cầu xằng bậy. Kẻ thông minh hơn
thì biết tuy số mạng đã định sẵn,
nhưng làm lành có thể xoay chuyển số mạng. Bậc
có đại trí huệ có thể thoát khỏi tam giới, vĩnh
viễn thoát khỏi luân hồi.
Tứ Niệm Xứ
thuyết minh chân tướng của vũ trụ và nhân
sinh. Người học Phật trọn chẳng có ưu lự,
chẳng vì riêng mình mà tính toán tương lai, đoạn ác,
tu thiện, hết thảy tạo tác chẳng suy tính cho
chính mình, mà nghĩ tưởng cho đại chúng. Hành
như thế thì hoàn cảnh sinh hoạt ắt sẽ mỗi
ngày chuyển biến dần dần tốt đẹp
hơn. Dẫu trong đời trước có oan gia đối
đầu thì đến cuối cùng cũng biến thành bạn
tốt, hết thảy chướng ngại cũng dần
dần hóa giải. Đời sống phải chú trọng
tiết kiệm, tiết kiệm một phần sẽ có
thể giúp đỡ người khác một phần.
Điều này có thể thực hiện được, chứ
không phải là một yêu cầu cao xa gì! Do chúng ta coi thường
bốn cách tu trì này mà công phu chẳng đắc lực, trí
huệ chẳng mở mang, tam-muội chẳng thành. Nếu
lưu ý những điều này, buông thân, tâm, thế giới
xuống, hy sinh mình vì người khác thì chẳng những
công phu đắc lực, mà còn tăng trưởng phước
huệ, tín tâm ngày càng mạnh, trong cuộc sống sẽ cảm
nhận được nhiều cảm ứng, [những
thứ cảm ứng ấy] tuyệt đối là chân thật,
chẳng hư dối!
(Giải) Tứ Chánh Cần: Nhất,
dĩ sanh ác pháp linh đoạn, nhị, vị sanh ác pháp
linh bất sanh, tam, vị sanh thiện pháp linh sanh, tứ, dĩ
sanh thiện pháp linh tăng trưởng. Tứ Như Ý
Túc: Nhất, Dục Như Ý Túc, nhị, Tinh Tấn Như Ý
Túc, tam, Tâm Như Ý Túc, tứ, Tư Duy Như Ý Túc.
(解) 四正勤。一。已生惡法令斷。二。
未生惡法令不生。三。未生善法令生。四。已生善法令增長。四如意足。一。欲如意足。二。精進如意足。三。心如意足。四。思惟如意足。
(Giải:
Tứ Chánh Cần: 1. Pháp ác
đã sanh khiến đoạn. 2. Pháp ác chưa sanh làm cho chẳng
sanh. 3. Pháp thiện chưa sanh khiến sanh. 4. Pháp thiện
đã sanh khiến cho tăng trưởng. Tứ Như Ý
Túc: 1. Dục Như Ý Túc. 2. Tinh Tấn Như Ý Túc. 3. Tâm
Như Ý Túc 4. Tư Duy Như Ý Túc)
Ba mươi bảy đạo phẩm chia
thành bảy loại lớn, còn gọi là “bảy khoa”. Thứ
nhất là Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là
dùng trí huệ quán sát vũ trụ và nhân sinh, đấy là
“thấy thấu suốt” (khán phá). Thấy thấu suốt
rồi mà nếu chẳng tích cực đoạn ác tu thiện
thì sẽ biến thành tiêu cực. Do vậy, lại nói tới
khoa thứ hai là Tứ Chánh Cần. “Cần” (勤) là siêng
năng gắng sức đoạn ác tu thiện. Tiêu chuẩn
thiện ác xưa nay, trong nước, ngoài nước khác
nhau, có sai khác đôi chút, hãy nên lấy Phật pháp làm chuẩn.
Phật pháp lấy Giới Luật làm chuẩn. Giới
khác Thiện. Mục đích của Thiện là được
phước, mục đích của Giới là đắc
Định. Giới có thể xuất tam giới, nhưng
phước báo thì chẳng thể. Kinh luận nói bậc
chứng quả La Hán liền vượt thoát tam giới, sở
chứng của họ là Cửu Thứ Đệ Định,
nghĩa là loại Thiền Định xuất thế gian.
Những thứ như Tứ Thiền Bát Định
được gọi là Thiền Định thế gian.
Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đã từng
nói “những gì tương ứng
với tự tánh thì là thiện, nhũng gì chẳng
tương ứng tự tánh là ác”. Tiêu chuẩn này rất
cao, thực hiện cũng khó. Nếu nói theo tiêu chuẩn của
Tịnh Tông thì thực hiện hoàn toàn chẳng khó khăn
gì!
Phật hiệu là danh hiệu của tánh
đức, niệm một câu A Di Đà Phật chính là “xứng tánh khởi tu, toàn thể
tu chính là tánh”. Chẳng có mấy người niệm Phật
thật sự biết đạo lý trong ấy: “Từng tiếng Phật hiệu
đều tương ứng với tự tánh”. Niệm
Phật là điều lành nhất trong những điều
lành, đạt đến tột cùng điều thiện.
Nếu chẳng thể đạt đến cảnh giới
này thì cũng có thể lùi xuống mong cầu mức độ
thấp hơn, tức là lấy Giới Luật làm chuẩn
mực. Nói theo người hiện thời, trì giới là
“vâng giữ phép tắc”. Giới (戒) là răn cấm, Luật (律) là pháp luật. Đức Phật chế
định Giới Luật không giống với pháp luật
thế gian. Pháp luật thế gian nhằm duy trì luân thường,
đạo lý, giữ cho xã hội an định, hòa bình; còn
Giới Luật của Phật pháp nhằm làm cho chúng sanh
ra khỏi tam giới, thoát luân hồi, mục đích khác
nhau. Văn kiện pháp luật thế gian cứ sau bao nhiêu
năm là phải sửa đổi, điều chỉnh,
vì xã hội biến đổi rất lớn. Pháp luật
xưa nay, trong nước, ngoài nước đều khác
nhau. Giới Luật nhà Phật ngàn đời bất biến,
do nó siêu việt thời gian và không gian. Giới Luật do
đức Phật chế định từ ba ngàn năm
trước thích hợp với con người thuộc bất
cứ thời đại ấy, giúp họ đắc
Định, khai Huệ, liễu sanh tử, thoát tam giới.
Ngày nay, căn cứ vào Giới Luật trước kia
để tu trì thì vẫn có thể đắc Định,
khai Huệ, liễu sanh tử, thoát tam giới giống hệt
như vậy!
Nhà Phật thường nói đến Tam Tụ
Tịnh Giới[4].
Trong Giới Luật, phần lớn nói về Oai Nghi, tức những quy định, khuôn phép trong
cuộc sống thường ngày. Chẳng hạn như Cụ
Túc Giới của người xuất gia gồm hai
trăm năm mươi điều, trong ấy, những
điều thật sự là Giới Luật không nhiều,
chỉ có bốn giới trọng, tức “giết, trộm,
dâm, dối”. Tiếp theo là mười ba điều gọi
Tăng Tàn Giới[5],
tổng cộng gồm mười bảy điều là Giới
Luật. Những điều khác liên quan đến oai nghi,
xử thế, đãi người, tiếp vật,
sinh hoạt thường nhật, ăn uống, cử
động. Những điều ấy cũng giống
như văn kiện mang tánh chất kỷ niệm, vì cuộc
sống hiện tại của chúng ta và người thời
cổ Ấn Độ đã hoàn toàn khác nhau, phải hiểu
rõ tinh thần thật sự của Giới Luật rồi
mới có thể biết trì giới như thế nào. Trên
phương diện vận dụng thì phải tuân thủ
pháp luật, phong tục, tập quán của con người
hiện đại, nhập gia tùy tục[6],
đến bất cứ quốc gia nào cũng phải sao
cho thích ứng với bối cảnh văn hóa, phong tục,
tập quán của nước ấy. Hễ đến một
địa phương khác thì phải hòa lẫn thành một
khối với địa phương ấy, để khỏi
đến nỗi nẩy sanh hiểu lầm. Đức Phật
nói: “Hễ những gì là tự
lợi thì đều là ác, phàm những gì lợi tha thì
đều là thiện”. Lễ Phật, lễ Bồ Tát
tuy cũng gọi là thiện, nhưng cái đạt
được là phước. Nếu muốn [nhờ vào
đó để] đắc Định, liễu sanh tử,
thoát tam giới thì chẳng thể được. Qua kinh
luận, chúng ta đọc thấy rất nhiều: Luân hồi
trong tam giới lục đạo do chính mình tạo ra.
Nguyên nhân chủ yếu là Ngã Chấp, khởi tâm động
niệm đều có Ngã, gia đình của ta, tài sản của
ta, đấy là cái nhân tạo ra luân hồi. Nếu chuyển
được ý niệm, nghĩ đến hết thảy
chúng sanh trong quốc gia và trên thế giới, tâm lượng
mở rộng, Ngã Chấp sẽ dần dần nhạt bớt,
từ từ bỏ được Ngã Chấp, lục
đạo luân hồi sẽ không còn nữa. Vì sao người
niệm Phật lúc lâm chung chẳng thể vãng sanh? Chính là
vì tham luyến người nhà, quyến thuộc, tài sản,
sự nghiệp của chính mình, bỏ không được.
Sau khi chết đi sẽ thành quỷ giữ thây. Ở Mỹ,
nghe nói có rất nhiều ngôi nhà có ma, [là vì những người
chủ nhà] chết đi rồi vẫn bỏ không
được căn nhà ấy. Đấy đều là vì
Ngã Chấp quá nặng, niệm niệm luôn nghĩ đến
hạnh phúc của chính mình, sai lầm quá đỗi!
Tứ Chánh Cần gồm bốn điều,
ở đây tôi chia ra trình bày như sau:
1) “Ác pháp đã
sanh khiến dứt”: Phàm những chuyện gì lợi
mình tổn người đều là ác, nhất định
phải đoạn dứt, từ nay trở đi không làm
nữa! Quả báo của ác niệm và ác hạnh là trong tam
ác đạo. Nếu đã tạo ác niệm, ác hạnh thì
từ nay trở đi đừng làm nữa. Không có ác duyên
nên cũng chẳng bị đọa vào tam đồ. Nhân
quả chẳng thể tiêu được, nhân chẳng thể
nắm bắt được, nhưng duyên thì có thể nắm
bắt. Đoạn trừ ác duyên khiến cho thiện duyên
tăng trưởng thì quả báo mong mỏi sẽ có thể
đạt được.
2) “Ác pháp chưa
sanh khiến cho chẳng sanh”: Thời
thời, khắc khắc luôn
đề phòng sợ phạm lỗi ác niệm, ác hạnh,
ác khẩu, chẳng để cho chúng nẩy
sanh, ắt phải chú trọng cả Sự lẫn Lý. Nếu
chẳng hiểu thấu triệt lý luận, dù hết sức
đè nén chúng trên mặt Sự vẫn khó thể đạt
được. Nói cách khác, mức độ nhẫn nại
có hạn. Nếu lý luận dung hợp sự thật, sẽ
nhẫn nại vô hạn. Về Lý thì phải đọc
kinh, về Sự thì tốt nhất là niệm Phật.
Chúng ta là phàm phu, tập khí từ vô thỉ kiếp đến
nay chưa đoạn, vọng niệm và ác niệm có
thể khởi lên bất cứ lúc nào, có lúc chẳng khống
chế chúng được. Ý niệm vừa dấy lên,
ngay lập tức niệm Phật, ác niệm sẽ chẳng
tiếp tục nữa. Một câu Phật hiệu là Giác.
3) “Pháp thiện
chưa sanh khiến sanh”: Trong kinh, đức Phật nói
rất nhiều thiện pháp, chúng ta chẳng nghĩ tới
mà cũng chưa làm được. Phải thường
đọc kinh Phật, lại còn phải đọc nhuyễn
nhừ, ghi nhớ trong lòng, hễ gặp cảnh giới
hiện tiền, lời Phật giáo huấn sẽ bừng
bừng phát sanh. Thời cổ, cuộc sống an định,
quan hệ giữa con người với nhau tốt đẹp.
Đọc sách thánh hiền, ghi nhớ kỹ càng giáo huấn
của thánh hiền trong lòng, chẳng đến nỗi
trái nghịch quá mức. Phật pháp truyền sang Trung Quốc
đã hai ngàn năm, dân gian cũng lấy giáo huấn của
Phật làm tiêu chuẩn. Từ sau cuộc vận động
Ngũ Tứ[7]
đầu thời Dân Quốc, “đả đảo Khổng
gia điếm”[8],
không đọc sách Nho nữa. Phật pháp thuộc về
tôn giáo, là mê tín, cũng bỏ đi. Cuộc sống không
còn tiêu chuẩn để noi theo nữa! Trong thời đại
này, đặc biệt hữu hiệu
là chân tướng nhân sinh vũ trụ như trong Phật
pháp đã giảng. Phật pháp chẳng phải là những
giáo thuyết do những tôn giáo tôn thờ thần thánh lập
ra, mà cũng chẳng phải là một tôn giáo nhằm mục
đích khuyến thiện, mà thực sự là một nền
giáo dục cao tột vô thượng. Những giáo huấn
hết sức quý báu của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc
cũng rất nhiều. Trong bốn mươi năm đầu
thời Dân Quốc, tại các trường đại
học ở Đài Loan có mấy vị giáo sư dốc sức
gìn giữ và xiển dương nền văn hóa cố hữu.
Thuở ấy, ở Đài Bắc có một viện bảo
tàng nghệ thuật văn hóa, người chủ trì là một
vị giáo sư đại học của Đài Loan, chuyên
in những cổ thư Trung Hoa. Về sau, Thương Vụ
Ấn Thư Quán cũng đem bộ Tứ Khố Toàn
Thư in ra. Thế Giới Thư Cục cũng in bộ Tứ
Khố Hội Yếu[9].
Đại Tạng Kinh cũng được in mấy lần.
Đối với công tác duy trì, bảo vệ sách vở cổ,
quả thật đảo báu Đài Loan
đã có cống hiến. Tuy xuất bản thật phong
phú, nhưng nếu không có người đọc thì
có khác gì giấy lộn? Phân lượng của bộ Tứ
Khố Toàn Thư quá lớn, mỗi cá nhân đọc suốt
đời cũng không hết. Tôi nghĩ như thế này:
Trích lục những câu văn tinh yếu trong bộ sách ấy,
nhất là những lời giáo huấn cần thiết nhất
cho xã hội chúng ta hiện thời như tu thân, tề gia,
luân lý, đạo đức, tha thứ, thông cảm lẫn
nhau, chung sống hòa bình. Đối với toàn thể nhân
loại [những lời giáo huấn ấy] đều là
nhu cầu bức thiết. Sau khi hội tập, biên soạn
thành một cuốn sách nhỏ lưu truyền trong cõi
đời, đối với đại chúng sẽ có lợi
ích không gì lớn bằng.
4) “Pháp thiện
đã sanh khiến cho tăng trưởng”: Đã làm chuyện
lành thì tiếp tục làm cho tăng trưởng, chẳng
để nó lui sụt.
Tứ Niệm Xứ là thấy thấu suốt,
Tứ Như Ý Túc là buông xuống. Buông xuống là tự tại,
Như Ý là “quay đầu”. Nhà Phật nói “hồi đầu thị ngạn” (quay đầu
là bờ). Trong quá khứ, người phú quý tay thường
cầm một cây Như Ý[10].
Đầu cây Như Ý uốn cong vòng lại, chính là nhằm
biểu thị pháp, phải biết “hồi đầu”. Đức Phật dạy bốn
việc:
1) Thứ
nhất là Dục Như Ý Túc. Dục (欲) là
dục vọng, bất luận là vật chất hay tinh thần
hãy đều nên biết đủ. Hễ biết đủ
sẽ được đại tự tại. Hưởng
thụ vật chất không cần phải truy cầu (mong
cầu, theo đuổi) quá lố. Truy cầu vật chất
không thể nào chẳng tạo nghiệp, phước báo
tuy có cũng sẽ bị giảm bớt. Nếu xoay chuyển
ý niệm, vì xã hội, đại chúng tạo phước
thì sẽ được vui sướng ngay trong ấy. Nếu
chỉ vì chính mình mà truy cầu, ắt sẽ có được,
mất. Hễ có mất, ắt sẽ đau khổ. Nếu
vì đại chúng, chuyện chẳng thành tựu thì là đại
chúng vô phước, ta chẳng thẹn với lòng.
2) Thứ
hai là Tinh Tấn Như Ý Túc. Dùng cách nói hiện thời
để giải thích câu này thì là “thường lạc”.
Trên phương diện tu trì, hễ có lãnh ngộ thì bất
luận tiến nhiều hay tiến ít, trong tâm ắt cảm
thấy vui sướng.
3) Thứ
ba là Tâm Như Ý Túc. Từ ngữ này có khi được dịch
là Niệm Như Ý Túc, có nghĩa là “an tâm”. Mọi sự chỉ
cầu sao cho tâm được yên.
4) Thứ
tư là Tư Duy Như Ý Túc, có nghĩa là “lý đắc” (thấu
hiểu lý). Trong thế gian, người có hạnh phúc chân
thật nhất chính là người chẳng bỏ uổng
một đời, sống có giá trị, có ý nghĩa, không
gì hơn niệm Phật vãng sanh, viên thành Phật đạo.
Vấn đề là làm thế nào để tâm an trụ
trong pháp môn Niệm Phật. Người ta thường
nghe rồi chẳng thể tiếp nhận là vì nghĩ
trong kinh luận Đại Thừa còn có những pháp môn thù
thắng hơn, sao chẳng tận hết sức học rộng,
nghe nhiều, sẽ có ích cho sự tu hành? Có kiểu suy
tưởng này thì quả thật là vì người ấy vẫn
chưa hiểu trọn vẹn lý luận. Trong một đời,
nếu gặp được một vị thầy tốt,
cùng với đồng tu đạo hữu tốt dùi mài lẫn
nhau thì còn có hy vọng thành tựu, nhưng [điều này]
chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu. Nếu
chẳng gặp được thiện tri thức, thì lại
nên như thế nào? Trong thời đại hiện tại,
tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng. Gặp
phải một gã tà sư, bị hắn ta dạy dỗ
sai lầm! Điều gì được nghe đầu tiên
sẽ là chánh yếu. Nếu gặp gỡ chánh pháp, ngược
ngạo sanh lòng chống đối, không có khả năng
phân biệt đúng, sai, chân, vọng, chịu thua thiệt
to lớn thì thật đáng sợ quá! Tu học trong thời
này, chẳng thể không chú ý, cẩn thận. Điều
thứ nhất là phải nhận biết bản chất của
Phật giáo: Phật pháp là nền giáo dục viên mãn chí thiện
đối với hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới.
Đức Phật nói hết thảy pháp trong bốn
mươi chín năm, nội dung chính là nói rõ chân tướng
vũ trụ và nhân sinh. Để hiểu rõ chân tướng,
lý đắc thì tâm an, chỉ có một phương pháp là
đọc kinh. Cổ nhân dùng đọc tụng kinh điển
để nhập môn, thông thường lấy năm
năm làm hạn, nghe lời thầy chỉ dạy. Các tông
phái khác nhau [sẽ phải đọc tụng các kinh luận
khác nhau]. Như học Hoa Nghiêm thì phải đọc kinh
Hoa Nghiêm, hễ không thuộc sẽ không có cách nào quán chiếu
được! Mấy năm gần đây, có người
đến hỏi tôi nhập môn như thế nào? Tôi nói:
“Đọc Vô Lượng Thọ Kinh mỗi ngày ba biến.
Trước hết, hãy đọc ba năm. Đọc xong
ba ngàn biến sẽ biết đãi người, xử thế
như thế nào, sẽ tâm an lý đắc trong cuộc sống,
pháp hỷ sung mãn, niệm một câu A Di Đà Phật mới
đắc lực”.
Kinh
này không nhắc tới cả ba khoa trên đây là vì nói theo
thói quen: Nói phần sau sẽ bao gồm cả phần
trước, dẫu không nói thì vẫn được bao gồm
trong ấy. Ba khoa gồm mười hai điều (tức
Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần và Tứ Như Ý
Túc) trong phần này, người Tây Phương đã sớm
tu hành viên mãn. Đại sư chú giải kinh vẫn nhắc
tới [những khoa mục này] là vì muốn giảng trọn
vẹn [ba mươi bảy đạo phẩm] cho chúng
sanh trong đời sau. Mười hai khoa này có ích rất lớn
đối với người niệm Phật. Công phu Niệm
Phật chẳng đắc lực, nguyên nhân chủ yếu
là vì xem nhẹ mười hai khoa mục tu hành này. Do vậy,
người niệm Phật đối với mười
hai khoa mục này phải đặc biệt lưu ý. Hãy
đoạn trừ quan niệm tự lợi, luôn luôn dấy
lên ý niệm lợi người nhằm tạo phước
cho xã hội, buông thân, tâm, thế giới xuống, biết
đủ, thường vui, tâm an, lý đắc, tín nguyện
trì danh, lẽ nào chẳng vãng sanh?
(Giải)
Ngũ Căn giả, tín chánh đạo, cập trợ
đạo pháp, danh Tín Căn. Hành chánh đạo cập
chư trợ đạo thiện pháp, cần cầu bất
tức, danh Tinh Tấn Căn. Niệm chánh đạo cập
chư trợ đạo thiện pháp, cánh vô tha niệm,
danh Niệm Căn. Nhiếp tâm tại chánh đạo cập
chư trợ đạo thiện pháp trung, tương ứng
bất tán, danh Định Căn. Vị chánh đạo cập
chư trợ đạo thiện pháp, quán ư Khổ
đẳng Tứ Đế, danh Huệ Căn.
(解) 五根者。信正道及助道法。名信根。行正道及諸助道善法。勤求不息。名精進根。念正道及諸助道善法。更無他念。名念根。攝心在正道及諸助道善法中。相應不散。名定根。為正道及諸助道善法。觀於苦等四諦。名慧根。
(Giải: Ngũ Căn: Tin vào chánh đạo và pháp trợ
đạo, gọi là Tín Căn. Hành chánh đạo và các thiện
pháp trợ đạo, siêng cầu chẳng nghỉ, gọi
là Tinh Tấn Căn. Niệm chánh đạo và các thiện
pháp trợ đạo, trọn không có niệm nào khác, gọi
là Niệm Căn. Nhiếp tâm nơi chánh đạo và các
thiện pháp trợ đạo, tương ứng, chẳng
tán loạn, gọi là Định Căn. Vì chánh đạo
và các thiện pháp trợ đạo mà quán Tứ Đế
như Khổ v.v... thì gọi là Huệ Căn)
Đây là khoa thứ tư trong ba mươi
bảy đạo phẩm. “Căn”
(根) là nói tỷ
dụ, như thảo mộc có rễ, có thể sanh trưởng,
mang ý nghĩa gìn giữ, nên gọi là Căn. Tổng cộng
gồm năm điều, tức là “Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ”. Khoa mục
tiếp theo là Ngũ Lực, danh xưng hoàn toàn tương
đồng. Trong kinh Di Đà, đức Phật nói: Người
trong thế giới Tây Phương, bất luận từ
xứ nào sanh về, phẩm vị cao hay thấp, đều
phải tu học năm điều này.
1) Tín Căn: Tín là tin vào chánh đạo.
Đức Phật nói rất nhiều pháp môn đều là
chánh đạo, nhưng hoàn toàn chẳng thể thích hợp
với căn cơ của hết thảy mọi người.
Như vào tiệm thuốc, trăm ngàn thứ thuốc tễ
đều là thuốc hay, tùy theo căn bệnh mà cắt
thuốc, uống vào sẽ hết bệnh. Do vậy, cổ
đức thường răn dạy chúng ta phải chọn
lựa pháp môn để thâm nhập một môn, còn chuyện
quảng học đa văn là vì [lợi lạc] người
khác. Nếu muốn làm thầy thuốc thì thứ gì cũng
phải hiểu. Quý vị biên toa thuốc là cho người
khác uống, chứ không phải để chính mình uống.
Người tu Tịnh Độ lấy “tín, nguyện, trì
danh” làm chánh đạo. Trong ba kinh một luận Tịnh
Độ có rất nhiều phương pháp đoạn ác
tu thiện, như ba phước trong Quán Kinh đều thuộc
về pháp trợ đạo, giúp chúng ta thành tựu nhất
tâm bất loạn và Niệm Phật tam-muội. Nếu tin
sâu chẳng nghi những điều này thì là “có Căn”. Nếu nghe pháp môn
này cũng sanh lòng hoan hỷ, nhưng chưa hạ quyết
tâm, tức là có Tín nhưng không có Căn. Hoặc là Thiền
Tịnh Song Tu, Mật Tịnh Song Tu cho đến Mật Tịnh
Thiền Tam Tu đều là “không
có Căn”. Nếu Tín có Căn thì sẽ khởi lên tinh tấn.
2) Tấn Căn: Tinh tấn là chân tu, Tinh (精) là
tinh thuần, Tấn (進) là chẳng lùi. Nếu có Tấn mà chẳng
tinh ròng thì là Tạp Tấn, sức mạnh bị phân tán,
tinh thần chẳng thể tập trung. Tín và Tấn nếu
không có Căn, xét đến nguyên nhân vẫn là do thiếu
sót cơ sở tốt đẹp là mười hai điều
trong ba khoa trước. Phân tích tỉ mỉ, ngày nay niệm
Phật chẳng đắc lực, tinh thần tán loạn,
muốn cho thân tâm thanh tịnh, công phu đắc lực thì
chẳng thể không càng thêm nghiêm túc tu tập ba khoa trước,
chẳng mệt mỏi, chẳng biếng nhác. Trong học
tập, phát sanh pháp hỷ và phát sanh trí huệ.
3) Niệm Căn: Niệm chánh đạo và
các thiện pháp trợ đạo, không nghĩ gì khác. Trong
mười hai thời, thường niệm danh hiệu Phật,
đấy chính là pháp chánh đạo; thường nghĩ
tới lời Phật giáo huấn, đấy là trợ
đạo thiện pháp. Hoàn toàn không xen tạp vọng niệm;
niệm như vậy thì mới có thể sanh ra sức mạnh,
tự có cảm ứng. Phiền não, vọng niệm ít
đi thì tâm thanh tịnh, trí huệ tăng trưởng.
Đấy chính là hiệu quả tương ứng. Đọc
kinh hiểu rõ hơn trước, càng niệm càng cảm thấy
có ý nghĩa mới mẻ, pháp vị mới mẻ, công phu
càng sâu, thấu hiểu càng rộng.
4) Định Căn: Nhiếp tâm nơi chánh
đạo và các thiện pháp trợ đạo,
tương ứng không tán loạn. Các địa vị Bồ
Tát đều chẳng tách rời phương pháp tu học
này.
5) Huệ Căn: Chánh đạo và trợ
đạo trọng yếu như nhau. Liên Trì đại
sư coi “tín, nguyện, trì danh” là chánh đạo mà cũng
coi đó là trợ đạo. Chánh Trợ Song Tu đều
là tín nguyện trì danh. Những vị tổ sư đại
đức khác cho rằng phép quán tưởng và quán tượng
trong Quán Kinh là trợ đạo. Những khai thị ấy
đối với người có thiện căn sâu dầy
thì có ích không chi lớn bằng, nhưng đối với
chúng ta thì chẳng đúng bệnh cho lắm. Là vì chúng ta
trước hết phải hiểu rõ trạng huống
thân tâm của chính mình, rồi lại còn phải coi trọng
cả hiểu lẫn hành ba phước trong Quán Kinh và ba
khoa trước [của ba mươi bảy đạo phẩm]
trong sách Yếu Giải thì mới có hiệu quả thật sự.
Có những kẻ cho rằng
chuyên niệm một bộ kinh dường như vẫn
chưa đủ, cần phải học nhiều hơn.
Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ dạy người học
Phật phải học nhiều kinh luận, cụ từng
chỉ định từ mười đến hai mươi thứ,
nhưng tôi dạy người học Phật phải
chuyên, là vì tôi thấy có nhiều người khi lâm chung biết
trước lúc mất, tự tại vãng sanh, lúc sống họ
chưa từng đọc một bộ kinh nào. Đủ
thấy một bộ kinh đủ lắm rồi, nhiều
quá sẽ tạp. Chúng ta thấy Phật pháp mênh mông như
sương khói tỏa trên mặt biển, làm sao không
ngưỡng mộ, khâm phục? Hễ ngưỡng mộ,
khâm phục sẽ mê! Do vậy, tôi thường nói “Phật
pháp là mê cung”[11],
người học Phật chẳng thể không cẩn thận.
Phật Thích Ca không hề có ý gạt người, Ngài muốn
phổ độ chúng sanh, chứ không chuyên độ một
mình quý vị! Huống chi kinh Đại Thừa nói: “Một kinh thông, hết thảy
kinh thông!” Như Huệ Năng đại sư của
Thiền Tông, Sư chưa hề đọc một bộ
kinh nào. Thiên thứ nhất trong Đàn Kinh thuật tiểu
sử của Sư. Sư là người bán củi,
đưa củi đến giao cho người ta, ngẫu
nhiên nghe có người đọc kinh Kim Cang, Sư vừa
nghe liền khai ngộ. Về sau, tới núi Hoàng Mai yết
kiến Ngũ Tổ, Ngũ Tổ sai Sư làm việc nặng
trong nhà bếp. Lão hòa thượng muốn truyền pháp,
đệ tử Thần Tú giữ chức Thủ Tọa
viết một bài kệ. Đại sư nghe xong bèn sửa
lại [bài kệ ấy]. Do nhân duyên đó, Ngũ Tổ bèn
đem y bát truyền cho Sư. Lúc ấy, Sư mới hai
mươi bốn tuổi. Ngũ Tổ bảo Sư hãy bỏ
trốn để lánh nạn. Giữa đường,
Sư gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng đem kinh Niết Bàn thỉnh giáo Sư. Kinh
Niết Bàn có tới ba mươi sáu quyển. Sư nói
Sư không biết chữ, bảo bà Vô Tận Tạng đọc
cho Sư nghe. Sư nghe xong liền giảng giải cho Vô Tận
Tạng, giảng hết một bộ. Ở Tào Khê, những
chuyện giống như vậy thật nhiều. Như
thiền sư Pháp Đạt niệm kinh Pháp Hoa ba ngàn biến
mà vẫn chưa khai ngộ. Kinh Pháp Hoa gồm bảy quyển,
niệm ba ngàn biến phải mất mười năm
công phu. Tới thỉnh giáo ngài Huệ Năng, ngài Huệ
Năng nói: “Ông đọc cho ta nghe!” Sư nghe xong hai phẩm,
phẩm thứ hai là phẩm Phương Tiện, Lục Tổ
liền giảng những ý nghĩa trong kinh giảng cho Pháp
Đạt, Pháp Đạt nghe xong cũng khai ngộ.
Một kinh
thông, hết thảy kinh thông. Chúng ta cần gì phải kiếm
thêm phiền toái? Cứ nhờ vào một câu Phật hiệu,
niệm đến nhất tâm bất loạn thì chính là Niệm
Phật tam-muội, Định, Huệ hiện tiền.
Định hiện tiền thì chẳng bị ngoại giới
lay động, Huệ hiện tiền sẽ thông đạt
hết thảy pháp thế gian lẫn xuất thế gian.
Người thông minh chẳng làm chuyện ngốc nghếch.
Tôi giảng kinh gần bốn mươi năm, ở
Đài Trung, tôi theo học [kinh luận] với thầy Lý
hơn ba mươi thứ, nhưng tôi thật sự dụng
công chỉ có năm bộ kinh. Như kinh Hoa Nghiêm tôi chỉ
nghe giảng một quyển, mà một bộ Hoa Nghiêm tôi cũng
giảng được. Kinh Pháp Hoa và kinh Địa Tạng
tôi đều chưa học, nhưng cũng đã giảng
Pháp Hoa Đại Ý và kinh Địa Tạng. Kinh điển
Thiền Tông là kinh Kim Cang tôi chưa từng học, Chứng
Đạo Ca của ngài Vĩnh Gia, Tín Tâm Minh, Đại
Châu Hòa Thượng Ngữ Lục[12]
tôi cũng giảng rất nhiều lần, nhưng những
thứ ấy tôi đều chưa học qua. Nếu thâm
nhập một môn sẽ hiểu được tinh tủy
của môn ấy, nhất là kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng
Thọ đều là những bộ kinh Đại Thừa
chẳng thể nghĩ bàn, phân lượng không nhiều,
nhưng nội dung gần như không gì chẳng bao gồm,
hết thảy pháp môn đều chẳng thể vượt
ra ngoài phạm vi của hai kinh này. Nếu thâm nhập một
môn, sẽ có thể dùng thời gian ít nhất mà thật sự
đạt được Định - Huệ. Thông đạt
Sự, Lý, nhất định phải chuyên, phải tinh thì
mới có thể tương ứng, không tán loạn.
“Vị chánh đạo cập chư trợ đạo
thiện pháp, quán ư Khổ đẳng Tứ Đế,
danh Huệ Căn” (Vì chánh
đạo và các thiện pháp trợ đạo mà quán Tứ
Đế như Khổ v.v..., gọi là Huệ Căn). Phàm
phu tuy thông minh, nhưng thiếu trí huệ, thông minh là do tâm
ý thức sanh ra, còn trí huệ thì phải lìa tâm ý thức. Huệ
là do Định sanh, tâm địa thanh tịnh có thể
sanh ra trí huệ. Trí huệ hiện tiền, có thể nhận
thức chánh đạo và trợ đạo rõ ràng, Tứ
Niệm Xứ Quán chính là nhân sinh quan chánh xác đối với
chân tướng của vũ trụ.
(Giải)
Ngũ Lực giả, Tín Căn tăng trưởng,
năng phá nghi hoặc, phá chư tà tín, cập phá phiền
não, danh Tín Lực.
(解) 五力者。信根增長。能破疑惑。破諸邪信。及破煩惱。名信力。
(Giải: Ngũ Lực: Tín Căn tăng
trưởng có thể phá nghi hoặc, phá các tà tín và phá phiền
não, gọi là Tín Lực)
Lực (力) là tu hành có công phu. Cây cối đến
giai đoạn trưởng thành liền có sức mạnh.
Trong Tín có trí huệ chân thật. Quán Kinh nói ra chân lý sau
đây: “Thị tâm thị Phật,
thị tâm tác Phật” (Tâm này là Phật, tâm này làm Phật).
Đây là lý luận căn bản nhất. Tin tưởng
chắc chắn điều này chẳng nghi thì trong đời
này sẽ nắm chắc vãng sanh. Trong Di Đà Yếu Giải,
Ngẫu Ích đại sư đã nói Tín gồm có sáu thứ.
Điều thứ nhất là phải Tín Tự, tức là
[tin tưởng vào] cái được gọi là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh
Độ”. Thế giới Cực Lạc và A Di Đà Phật
là do tâm tánh của chính mình biến hiện, thế giới
Sa Bà cũng là do tự tánh của chính mình biến hiện.
Y báo và chánh báo chẳng tách rời tâm tánh, tâm tánh mới
chính là “tạo vật chủ”
(tạo hóa) thật sự. Thiền Tông nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Thiền
dùng phương pháp tham cứu; chúng ta dùng phương pháp
niệm Phật. Niệm đến mức Sự nhất
tâm bất loạn liền đoạn phiền não. Niệm
đến mức Lý nhất tâm bất loạn liền kiến
tánh. Hiểu rõ đạo lý này thì nghi hoặc “có thể
vãng sanh để một đời thành Phật hay không? Có
thể thông đạt hết thảy pháp môn hay không” sẽ
tiêu trừ. Do vậy nói “Tín
Căn tăng trưởng, năng phá nghi hoặc” (Tín
Căn tăng trưởng, phá được nghi hoặc).
“Phá chư tà tín, cập phá phiền
não” (Phá các tà tín và phá phiền não): Ở đây, “tà tín”
bao gồm hết thảy tín ngưỡng, thậm chí [những
điều tin tưởng] của Tiểu Thừa Thanh
Văn, Duyên Giác và Quyền Giáo Bồ Tát trong Phật giáo,
[những thứ ấy] so với Đại Thừa đều
là chẳng chánh. Nếu nâng lên mức cao hơn, nâng lên tới
tiêu chuẩn tuyệt đối, chỉ có pháp môn Niệm
Phật tín nguyện trì danh là chân chánh nhất trong các pháp
chân chánh, những pháp môn Đại Thừa khác đều
là những pháp thiên lệch trong các pháp môn được
coi là chân chánh. Thiện Đạo đại sư nói: “Sở dĩ Như Lai xuất hiện
trong cõi đời, chỉ nhằm nói ra Di Đà nguyện hải”.
Tín tâm kiên cố sẽ có sức mạnh, tự nhiên phá
được các phiền não. Phá sạch phiền não sẽ
sanh về cõi Phương Tiện Hữu Dư.
(Giải)
Tinh Tấn Căn tăng trưởng, phá chủng chủng
thân tâm giải đãi, thành biện xuất thế đại
sự, danh Tinh Tấn Lực.
(解) 精進根增長。破種種身心懈怠。成辦出世大事。名精進力。
(Giải: Tinh Tấn
Căn tăng trưởng, phá các thứ biếng nhác
nơi thân tâm, hoàn thành đại sự xuất thế, gọi
là Tinh Tấn Lực).
Trong
Đại Thừa Phật pháp, thiện căn duy nhất
của Đại Thừa Bồ Tát là Tinh Tấn. Thiện
căn thế gian gồm ba loại là “không tham, không sân,
không si”. Tất cả hết thảy thiện pháp trong lục
đạo của thế gian đều do ba thiện
căn này sanh ra. Người ta làm bất luận chuyện
gì cũng dễ dàng biếng nhác, lui sụt. Người tu
pháp xuất thế gian đông đảo, nhưng người
thành tựu ít ỏi, nguyên nhân là do biếng nhác, lui sụt.
Đối với đại sự xuất thế gian mà
luôn có thể tinh tấn, không lui sụt thì những chuyện
nhỏ nhặt trong thế gian chẳng cần phải nói
nữa. Chính mình thường trách móc tại sao công phu của
bản thân không đắc lực, lấy niệm Phật
để nói thì có người niệm ba năm, năm
năm, chẳng có một tí hiệu nghiệm nào hết! Ấn
Quang đại sư dạy:
“Khi niệm Phật, vọng niệm xen tạp vào đấy
thì đó là hiện tượng bình thường, chẳng
cần phải bận lòng lo lắng. Hễ nó khởi lên,
cứ mặc kệ nó, chỉ chú ý vào Phật hiệu”.
Dẫu có vọng niệm cũng có thể nhờ nó để
trắc nghiệm công phu của chính mình. Nói chung, ai trong khoảng
thời gian tàn một cây hương (một tiếng
rưỡi) mà có dăm ba vọng niệm thì công phu đã
khá lắm rồi. Công phu như vậy cần phải mất
ba năm. Nếu chẳng tích cực thì niệm ba
mươi năm cũng chẳng đạt được!
Nếu thật sự hiểu rõ sự thật, sẽ nhất
định coi cầu sanh Tịnh Độ là đại sự
bậc nhất trong một đời, ắt phải tinh tấn,
không ăn cơm cũng chẳng sao, không có áo mặc cũng
chẳng trở ngại gì, không có việc làm cũng không
quan trọng, chứ không niệm Phật là không được.
Dùng tinh thần ấy để niệm Phật, một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật. Xã hội này khổ
nạn quá nhiều, lo buồn chẳng thể giải quyết
được, hết thảy vọng tưởng, chấp
trước, so đo đều chẳng thể giải
quyết vấn đề. Nhất là sống trong thời
đại này, khiến cho chúng ta cảm thấy đời
người khó khăn, khổ sở. Nếu chẳng cầu
thoát lìa thì chỉ có liên tục chịu tội mà thôi!
(Giải) Niệm
Căn tăng trưởng, phá chư tà niệm, thành tựu
nhất thiết xuất thế chánh niệm công đức,
danh Niệm Lực.
(解) 念根增長。破諸邪念。成就一切出世正念功德。名念力。
(Giải: Niệm Căn tăng trưởng,
phá các tà niệm, thành tựu hết thảy công đức
chánh niệm xuất thế, gọi là Niệm Lực)
Những cách nhìn và cách nghĩ sai lầm
vừa nói trong phần trên đều là tà niệm. Thậm
chí, đối với Phật pháp cũng có những cách
nhìn và cách nghĩ sai lầm giống như vậy thì sẽ
gây trở ngại rất lớn trong sự tu học. Niệm
Căn đắc lực thì hết thảy sai lầm không
còn nữa. So sánh trên phương diện tu trì, pháp môn Tịnh
Tông đơn giản hơn. Càng đơn giản, càng dễ
thành tựu. Nhất tâm chuyên trì danh hiệu Di Đà, nhất
tâm chuyên cầu vãng sanh Tịnh Độ thì niệm ấy
có sức mạnh, những vọng niệm khác tự nhiên
chẳng sanh. Nhất tâm có sức mạnh, nhị tâm sẽ
phân tán. Khi trí huệ chưa hiện tiền, Định Huệ
chưa thành tựu thì chánh hay tà đều chẳng liên quan
gì đến ta, tạm thời bỏ chúng qua một bên. “Hết thảy công đức
chánh niệm xuất thế” chính là tín nguyện trì danh,
mà cũng là như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói:
“Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm liên tục”. Có như vậy thì Niệm Căn mới
có thể thành tựu.
(Giải)
Định Căn tăng trưởng, năng phá loạn
tưởng, phát chư Sự Lý Thiền Định, danh
Định Lực.
(解) 定根增長。能破亂想。發諸事理禪定。名定力。
(Giải: Định
Căn tăng trưởng, phá được loạn
tưởng, phát khởi các Sự Lý Thiền Định,
gọi là Định Lực).
Định
phá được phiền não. Chữ “loạn tưởng” chỉ tham, sân, si, mạn, nghi.
Định có thể phá được năm loại sai lầm
lớn về mặt tư tưởng ấy. Sự và Lý
bao gồm hết thảy pháp thế gian và xuất thế
gian. Hiểu rõ Lý rồi thì lý đắc, tâm an. Sự và Lý
đều rất phức tạp: Hễ có một Lý ắt
có một Sự, có một Sự ắt có một Lý. Chẳng
thể nào có Sự ở ngoài Lý hoặc Lý ở ngoài Sự
được! Thiền Định là ngoài chẳng chấp
tướng, trong chẳng dấy lên phân biệt. Hết thảy
sự đều thông đạt là Chiếu Kiến, chẳng
phải là nghiên cứu. Nghiên cứu là dùng ý thức. Phật
pháp dùng tham cứu, lìa tâm ý thức để tham cứu.
“Thức” là thức thứ sáu có công năng phân biệt, Ý
là thức thứ bảy (Mạt Na Thức) có đặc
tánh chấp trước, Tâm là thức thứ tám (A Lại
Da Thức), chứa đựng chủng tử. “Lìa tâm ý thức” là chẳng
phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ
lại ấn tượng.
(Giải)
Huệ Căn tăng trưởng, năng giá thông biệt
chư Hoặc, phát chân vô lậu, danh Huệ Lực.
(解) 慧根增長。能遮通別諸惑。發眞無漏,名慧力。
(Giải:
Huệ Căn tăng trưởng,
có thể ngăn chặn các Hoặc chung và riêng, phát khởi
vô lậu chân thật, gọi là Huệ Lực)
“Giá” (遮) có nghĩa là ngăn dứt. “Hoặc” (惑) là mê hoặc. Nói
đơn giản, tất cả hết thảy mê hoặc
đều chẳng ngoài ba loại lớn là Kiến Tư,
Trần Sa, Vô Minh. Ba loại lớn này biến hiện thành
vô lượng tư tưởng, kiến giải, hành vi
sai lầm cho đến quả báo sướng khổ khác
nhau. Chỉ có trí huệ chân thật mới có thể
ngăn dứt ba loại phiền não lớn này. Từ Tiểu
Thừa Sơ Quả cho đến Đại Thừa
Đẳng Giác Bồ Tát đều chẳng thể lìa khỏi
nguyên tắc, nguyên lý tu học của Ngũ Căn và Ngũ
Lực.
(Giải)
Thất Bồ Đề Phần, diệc danh Thất Giác
Phần. Trí huệ quán chư pháp thời, thiện năng
giản biệt chân ngụy, bất mậu thủ chư
hư ngụy pháp, danh Trạch Pháp Giác Phần.
(解) 七菩提分。亦名七覺分。智慧觀諸法時。善能簡別眞偽。不謬取諸虛偽法。名擇法覺分。
(Giải: Thất Bồ Đề Phần
còn gọi là Thất Giác Phần. Khi dùng trí huệ quán các
pháp, có thể khéo phân biệt chân và ngụy, chẳng lầm
lẫn giữ lấy pháp hư ngụy thì gọi là Trạch
Pháp Giác Phần).
Bồ Đề (Boddhi) là tiếng Phạn, nghĩa
là Giác. Nó có tác dụng ngăn ngừa chướng ngại
phát sanh trong quá trình tu học của hành giả. Trí huệ
do Căn và Lực sanh ra. Môn cuối cùng trong Ngũ Căn
và Ngũ Lực trong phần trên đều là trí huệ. Nếu
không có Căn và Lực thì sẽ không có cách nào phân định
hết thảy pháp là chân hay vọng. Nói tới “chân - vọng”
thì từ ngữ này bao quát rất nhiều thứ, đúng
- sai, tà - chánh, thiện - ác, thiên - viên, đều bao gồm
trong ấy. Ắt phải có trí huệ chân thật thì mới
có thể phân biệt pháp môn nào cần phải học.
Đối với căn tánh của chính mình cũng phải
dùng trí huệ để quán sát, chẳng thể xử sự
theo tình cảm; bởi lẽ, một pháp [dù vi diệu
đến mấy] cũng chưa chắc đã khế hợp
căn tánh của chính mình. “Chư
pháp” bao gồm pháp thế gian và xuất
thế gian. Ba khoa trước trong ba mươi bảy
đạo phẩm, tức Tứ Niệm Xứ, Tứ
Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, dễ hiểu, dễ học.
Còn khoa này khó hiểu, khó học vì chúng ta không có trí huệ
chân thật, chẳng dễ gì phân biệt hết thảy
các pháp chân - vọng, tà - chánh. Thường chọn lầm
pháp môn, lãng phí tinh lực lẫn thời gian. Nếu có thể
sớm quay đầu lại thì còn được; nếu
chấp mê chẳng ngộ, khó thể thành tựu ngay trong một
đời. Nếu là người không có trí huệ,
nhưng thật sự có thiện căn, phước đức
thì cũng có thể thành tựu. Người có thiện
căn sẽ có thể tin, người có phước đức
sẽ chịu tu, người thật thà, trung hậu dễ
thành tựu. Từ xưa đến nay, những người
niệm Phật vãng sanh trong Tịnh Tông quá nửa là nhờ
vào thiện căn, phước đức mà được
thành tựu. Tâm địa chân thành, cung kính, nghe đến
pháp môn này sẽ tin vào Thánh Ngôn Lượng[13],
Phật, Bồ Tát, tổ sư, đại đức chẳng
gạt ai. “Thật thà” chính
là bí quyết thành công. Nói đến thành phần tri thức
thì phiền lắm. Họ nhất định phải hiểu
rõ sự tình; nếu không, sẽ chẳng thể hoàn toàn tin
tưởng, sốt sắng tu học. Thuở đức
Phật tại thế, thuyết pháp bốn mươi chín
năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, chuyên nhằm
xây dựng tín tâm, phá mê khai ngộ cho những kẻ ấy.
Dùng trí huệ
quán sát thế gian, hiểu rõ chân tướng của pháp thế
gian, chẳng lãng phí thời gian làm những chuyện chẳng
liên can. Bất luận tạo thiện nghiệp tạo ác
nghiệp đều là tạo nghiệp luân hồi lục
đạo. Phật dạy chúng ta đoạn ác tu thiện;
“thiện” ấy không phải là thiện trong “thiện, ác”.
Thiện và ác là tương đối, hai bên đều lìa
bỏ thì mới là chân thiện. Trong cuộc sống thường
ngày có chuyện tốt lẫn chuyện xấu, khởi lên
ý niệm tạo tác ắt sẽ rớt vào một bên. Dẫu
làm hết thảy thiện sự, trong tâm chẳng giữ
lại ấn tượng, tận hết sức thực
hiện những chuyện tạo lợi ích cho chúng sanh
trong thế gian. Trong tâm gìn giữ sự thanh tịnh, đạt
đến mức tam luân thể không. Học Phật thì hết
thảy pháp môn đều tốt lành, hết thảy kinh
điển Đại Tiểu Thừa do đức Phật
nói đều có thể khiến cho con người viên thành
Phật đạo. Nói theo mặt Lý là như thế,
nhưng trên mặt Sự, căn tánh mỗi người
khác nhau. Trong thuở ấy, đức Phật giáo hóa chúng
sanh, người đến chẳng cự tuyệt, kẻ
đi chẳng giữ lại, không có sách giáo khoa, cũng
không có kinh bổn. Trong đại hội, hễ ai hỏi,
Phật liền đáp. Người đương cơ
nghe giảng sẽ đạt được lợi ích. Lợi
ích đạt được sâu hay cạn tỷ lệ thuận
với căn cơ dầy hay mỏng, như có người
may mắn gặp Phật, đích thân nghe pháp âm, có thể
là nghe xong liền khai ngộ, chứng quả. Chúng sanh
đời sau có duyên với Phật kém hơn một bậc.
Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử kết
tập lời Phật thuyết pháp thành Tam Tạng Kinh - Luật
- Luận, người đời sau đọc đến,
lắng lòng suy nghĩ xem căn tánh của chính mình có khế
hợp pháp môn do đức Phật đã dạy hay không? Nếu
chính mình không có năng lực chọn lựa pháp môn thì Phật
đặc biệt từ bi dạy chúng ta hãy tu pháp môn Niệm
Phật. Trong kinh Đại Tập, đức Phật dạy:
“Thời kỳ Chánh Pháp, Giới
Luật thành tựu. Thời kỳ Tượng Pháp, Thiền
Định thành tựu. Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh
Độ thành tựu”, giống như đức Phật
đã thọ ký cho chúng ta. Trong kinh Vô Lượng Thọ,
đức Phật nói: “Thời
Mạt Pháp, đến cuối cùng, hết thảy kinh
điển đều bị diệt sạch, vẫn giữ
lại kinh Vô Lượng Thọ tồn tại một
trăm năm trong cõi đời”. Kinh A Di Đà và kinh Vô
Lượng Thọ là cùng một bộ kinh. Kinh Vô Lượng
Thọ được gọi là Đại Bổn, kinh A Di
Đà được gọi là Tiểu Bổn, hết sức
thích hợp cho thời pháp diệt tận, chỉ cần
chịu tu, sẽ có thể thành tựu ngay trong một
đời. Vì thế, được gọi là Phật pháp
“đương sanh thành tựu”
(thành tựu ngay trong một đời). Từ xưa, tổ
sư, đại đức đã căn cứ trên kinh
văn, chia thời gian sau khi đức Phật diệt
độ thành năm thời kỳ, mỗi thời kỳ
dài năm trăm năm:
- Năm trăm năm
thứ nhất là Giới Luật kiên cố.
- Thứ hai là Thiền
Định kiên cố.
- Thứ ba là Đa
Văn kiên cố, nhằm đúng vào thời đại
hoàng kim của Phật pháp trong triều đại Tùy -
Đường. Mọi người đều nghiên cứu
lý luận, trước thuật rất nhiều.
- Thứ tư là tháp miếu
kiên cố, ít người thật sự tu hành, chỉ lo dựng
chùa.
- Thứ
năm là đấu tranh kiên cố, trong thời kỳ này
có lắm sự tranh đấu. Vì vậy, Ngẫu Ích đại
sư bảo chúng ta hãy “tùy thuận
giáo huấn chân thật” của chư Phật, “chư Phật” chính là A Di
Đà Phật, “giáo huấn”
là tín nguyện trì danh. Không riêng gì A Di Đà Phật, thậm
chí Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và mười
phương ba đời hết thảy chư Phật cũng
dị khẩu đồng âm hộ trì, tán thán, khuyên khắp
các chúng sanh trong đời sau hãy cầu sanh Tịnh Độ.
Chúng
ta phải biết: Pháp thế gian dù chân hay vọng đều
chớ nên giữ lấy. Nếu chẳng tu thiện sẽ
trái nghịch bổn nguyện độ sanh của chư
Phật. Chúng ta đoạn ác tu thiện, sốt sắng nỗ
lực thực hành, nhưng chẳng mong cầu gì! Trong Phật
pháp, chuyên tu pháp môn Niệm Phật thì có thể gọi là
“khéo chọn lựa pháp”.
(Giải)
Tinh tấn tu chư đạo pháp thời, thiện
năng giác liễu, bất mậu hành ư vô ích khổ hạnh,
thường cần tâm tại chân pháp trung hành, danh Tinh Tấn
Giác Phần.
(解) 精進修諸道法時。善能覺了。不謬行於無益苦行。常勤心在眞法中行。名精進覺分。
(Giải: Khi tinh tấn tu các pháp đạo, có thể khéo hiểu
rõ, chẳng lầm lạc hành các khổ hạnh vô ích,
thường dốc lòng siêng năng hành pháp chân thật thì
gọi là Tinh Tấn Giác Phần).
“Tinh” là tinh thuần không tạp, “tấn” là chẳng lùi. Tinh tấn nhất định
phải là cầu giác ngộ trong Phật pháp bằng tịnh
niệm. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta “nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối” mới là chân tinh tấn. Trong
sáu căn, sự giao tiếp giữa trong và ngoài được
cai quản chủ yếu bởi ý thức. Tác dụng của
năm căn là nhận biết sự vật, chứ không
phân biệt. Thức thứ sáu là Ý Thức khởi tác dụng,
phân biệt thiện, ác, tốt, xấu. Mắt chỉ thấy,
chứ không phân biệt, thì tâm định. Hiểu khá rõ
ràng tướng của sáu trần bên ngoài, đó là Huệ.
Chẳng khởi tâm động niệm là Định. Vĩnh
viễn trụ trong Định Huệ là chân tinh tấn.
Định và Huệ là một, chứ không phải hai.
Định - Huệ bình đẳng, Định là Thể
của Huệ, Huệ là Dụng của Định; mà cũng
có thể nói Huệ là Thể của Định, Định
là Dụng của Huệ. Hiểu rõ sự thật này
nhưng rất khó thực hiện được. Nếu
chúng ta phân biệt, chấp trước thì dùng phương
pháp Niệm Phật để phân biệt, chấp trước
nơi A Di Đà Phật. Công phu đã vận dụng thuần
thục rồi thì lại bỏ A Di Đà Phật đi.
Dùng một câu danh hiệu A Di Đà Phật này để
làm phương tiện hòng đạt đến Lý nhất
tâm bất loạn. Đạt đến cảnh giới
này, tuy vẫn niệm, nhưng niệm mà vô niệm, vô niệm
mà niệm. Niệm Phật chỉ nhằm làm gương
cho người khác, còn chính mình thì vô niệm. Niệm: Chẳng
rớt vào Không; vô niệm: Chẳng rớt vào Có thì gọi
là Trung Đạo. Câu Phật hiệu này quả thật chẳng
thể nghĩ bàn! Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm, tới
cuối cùng là niệm Phật. Đức Phật nói kinh
Pháp Hoa đến cuối cùng cũng là niệm Phật. Thậm
chí các tông phái Tánh, Tướng đến cuối cùng vẫn
là niệm Phật. Tại Trung Quốc, Thiền Tông thịnh
hành nhất. Trong Thiền Môn Nhật Tụng, đến tối
bèn niệm A Di Đà Kinh, niệm A Di Đà Phật. Đấy
là sự giác ngộ triệt để của các vị tổ
sư. Tổ sư nói: “Phàm ai học
Phật mà chẳng muốn cầu sanh Tịnh Độ
thì kẻ ấy chẳng thông hiểu Phật pháp”.
“Thiện năng giác liễu” (có thể khéo giác ngộ) là do công phu tu
học mà thấu hiểu, chứng nghiệm. Mỗi lần
đọc kinh một lượt là một lượt giác
ngộ, nhưng càng ngộ càng sâu. Đấy là “thiện năng giác liễu”.
Chớ nên tu những khổ hạnh, chẳng hạn
như “không ăn quá Ngọ”, người Tiểu Thừa
hết sức coi trọng điều này. Sau giờ Ngọ
có thể dùng những thực phẩm nhẹ như uống
nước đường, sữa v.v... Những phần
lắng xuống trong các loại nước ấy đều
chẳng được ăn. Pháp Đại Thừa tán
thán ăn chay với mục đích bồi dưỡng lòng
từ bi, gián tiếp không sát sanh. Huống chi hiện thời
do ăn thịt mà chúng ta bị bệnh nhiều lắm. Tại
Mỹ, rau xanh còn ăn được, ít dùng thuốc trừ
sâu, chứ ở Đài Loan, rau xanh nhìn rất đẹp mắt,
nhưng chẳng ngon lành gì. Có lẽ là do phun thuốc trừ
sâu nhiều quá, có mùi vị khác hẳn rau xanh trồng tại
Đại Lục.
(Giải)
Nhược tâm đắc pháp hỷ, thiện năng giác
liễu thử hỷ, bất y điên đảo chi pháp
nhi hỷ, trụ chân pháp hỷ, danh Hỷ Giác Phần.
(解) 若心得法喜。善能覺了此喜。不依顛倒之法而喜。住眞法喜。名喜覺分。
(Giải: Nếu tâm đắc pháp hỷ, khéo có thể hiểu
rõ niềm vui này, chẳng vui theo những pháp điên đảo,
trụ trong chân pháp hỷ, thì gọi là Hỷ Giác Phần)
Trong pháp thế gian cũng có
“pháp hỷ”, như câu thứ
nhất trong Luận Ngữ là: “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?”
(Học rồi tập luyện, chẳng vui lắm sao). Chữ
Duyệt này chính là pháp hỷ. Pháp hỷ từ nội tâm
phát ra. Dùng tâm chân thành, cung kính đọc kinh, cảm thấy
có chỗ ngộ, ý vị vô cùng, đấy là pháp hỷ.
Trước kia, học trò nhỏ đi học trường
tư, bảy tám tuổi học Tứ Thư. Tới
năm bảy tám mươi tuổi, đọc những
sách ấy vẫn thấy ý vị tràn trề, là do quả
thật có lãnh ngộ, tức là cảm thấy vui sướng.
Niềm vui do đọc sách là sự hưởng thụ tối
cao trong đời người.
Đại sư nói: “Bất y điên đảo chi pháp nhi hỷ” (Chẳng
vui theo pháp điên đảo). So với sách vở thế tục
thì kinh điển Nho gia là chánh, nhưng nếu đem so với
Phật pháp thì Phật pháp là chánh. Mục tiêu tu học của
Nho gia không ngoài “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”,
chẳng thể thoát khỏi tam giới! Đem pháp Tiểu
Thừa so với pháp Đại Thừa, pháp Đại Thừa
là chánh. Đem Đại Thừa Phật pháp so với trì
danh niệm Phật thì trì danh niệm Phật là thuần
chánh, vượt trỗi hết thảy pháp môn Đại
Thừa. Nếu lại tu học những pháp môn khác, chính
là đã lãng phí hết sạch tinh lực và thời gian rồi.
Cơ hội hy hữu khó gặp từ vô lượng kiếp
đến nay, hôm nay đã được gặp, hãy sốt
sắng tu học! Càng học thì sự lãnh ngộ càng sâu,
càng học thì tín tâm đối với sự vãng sanh Tây
Phương thế giới càng chân thật, thiết tha.
(Giải) Nhược đoạn trừ chư kiến
phiền não chi thời, thiện năng giác liễu, trừ
chư hư ngụy, bất tổn chân chánh thiện
căn, danh Trừ Giác Phần.
(解) 若斷除諸見煩惱之時。善能覺了。除諸虛偽。不損眞正善根。名除覺分。
(Giải: Nếu khi
đoạn trừ các kiến phiền não, khéo có thể
giác ngộ, trừ các hư ngụy, chẳng tổn hoại
thiện căn chân chánh thì gọi là Trừ Giác Phần)
Đây chính là chi thứ tư trong Thất
Giác Chi, tức Trừ Giác Phần, rất gần gũi với
chi thứ năm là Xả Giác Phần. Trừ là đối
nội, Xả là đối ngoại. Phân chia như vậy
cho dễ hiểu. “Chư kiến
phiền não” chính là Kiến Tư phiền não như các
kinh luận đã nói, hoặc còn gọi là Kiến Tư Hoặc.
Đây chính là tên gọi chung của phiền não, và cũng
là cội nguồn của tam giới lục đạo. Nếu
đoạn trừ Kiến Tư phiền não thì luân hồi
lục đạo sẽ không còn nữa. Trong Chứng Đạo
Ca của Vĩnh Gia đại sư có câu: “Mộng lý minh minh hữu lục thú, giác hậu không
không vô đại thiên” (Trong mộng rành rành trọn sáu nẻo,
tỉnh rồi tam giới rỗng toang hoang). Kiến Tư
Hoặc chia thành hai thứ là Kiến Hoặc và Tư Hoặc.
Kiến Hoặc là Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ
Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến, Tà Kiến. Tư
Hoặc là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi. Trong phần sau sẽ giải
thích cặn kẽ,
ở
đây không cần phải nói rườm rà.
Sự tu học trong Tịnh Tông dựa trên
kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ. Kinh văn của
kinh A Di Đà chẳng dễ hiểu cho
lắm, may là có hai tác phẩm bất hủ là Sớ
Sao của Liên Trì đại sư và Di Đà Yếu Giải
của Ngẫu Ích đại sư, giúp ích cho sự tu học
của chúng ta không chi lớn bằng. Chỉ cần công phu
niệm Phật thuần thục, chúng ta cũng sẽ
đạt được cảnh giới và hiệu quả
như trong Thiền Tông. Họ dùng phương pháp tham cứu,
không phải ai cũng có thể làm được. Chúng ta
dùng phương pháp nhất tâm chuyên niệm thì ai cũng có
thể thực hiện được. Trong khi đoạn
trừ các kiến phiền não, bèn hết sức khéo léo trừ
các hư ngụy, trọn chẳng tổn hại thiện
căn chân chánh. Ba thứ thiện căn trong pháp thế
gian là vô tham, vô sân, vô si. Giả sử trừ được
phiền não thì đương nhiên sẽ chẳng làm những
chuyện xấu, nhưng chuyện tốt cũng không làm
thì thiện căn chân chánh đã bị tổn hại, lại
đi chệch đường rồi. Đoạn ác tu thiện
dù trong pháp thế gian hay xuất thế gian đều là
chuyện phải làm hằng ngày. Không có ác, cố ý làm một
chút ác; không có thiện, cố ý làm một chút thiện, nhằm
khơi gợi sự giác ngộ của chính mình. Trong cuộc
sống vẫn là biểu diễn. Đấy là
phương tiện thiện xảo, không làm là tự lợi,
còn làm thì là lợi tha. Thiện căn trong pháp xuất thế
chỉ có một điều, tức là tinh tấn. Dũng
mãnh tinh tấn, không mỏi mệt, chán ngán, chẳng tổn
hại thiện căn chân chánh. “Trừ
các hư ngụy”: Tiếng tăm, lợi dưỡng
và sự hưởng thụ cá nhân đều là hư ngụy.
Người thế gian đoạn ác tu thiện là vì có mục
đích, chứ hoàn toàn chẳng phải vô điều kiện.
Điều gì không có lợi ích họ sẽ chẳng làm.
Chư Phật, Bồ Tát vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi, Bi có thể dẹp khổ, Từ có
thể ban vui. Từ bi lại thêm vào một chữ “đại” tức là vô điều
kiện, hết thảy những thứ gì có điều kiện
đều là hư ngụy.
(Giải) Nhược xả sở kiến niệm
trước cảnh thời, thiện năng giác liễu sở
xả chi cảnh, hư ngụy bất thực, vĩnh bất
truy ức, danh Xả Giác Phần.
(解) 若捨所見念著境時。善能覺了所捨之境。虛偽不實。永不追憶。名捨覺分。
(Giải: Nếu buông bỏ sự chấp trước vào cảnh
trong khi thấy nghĩ, khéo có thể hiểu rõ cảnh bị
bỏ là hư ngụy, chẳng thật, vĩnh viễn chẳng
theo đuổi, nhớ tưởng chúng thì gọi là Xả
Giác Phần)
Xả là
đối với cảnh bên ngoài mà nói, mà cũng chính là những
thứ ta thường gọi là “vật ngoài thân”. Bên trong
buông Kiến Tư phiền não xuống, bên ngoài buông ngũ
dục lục trần, tiếng tăm, lợi dưỡng
xuống. “Cảnh” là cảnh
giới; những gì do mắt thấy đều gọi là
Sắc, do tai nghe thì gọi là Thanh, do mũi ngửi gọi
là Hương, cho đến Ý, Ý chính là ý niệm. Cái để
ý duyên vào thì gọi là Pháp. Lục Căn là Nhãn, Nhĩ, Tỷ,
Thiệt, Thân, Ý, tương ứng với sáu loại cảnh
giới lớn bên ngoài là Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp. Sáu loại cảnh giới lớn này hư huyễn,
không thật. Hễ nói tới “chân thật” thì phải tồn
tại vĩnh viễn, không bị biến đổi. Nếu
bị biến đổi sẽ là hư ngụy. Thân thể
con người có sanh, lão, bệnh, tử, thời thời
khắc khắc biến hóa, chẳng phải là chân thật.
Thực vật có sanh, trụ, dị, diệt. Khoáng vật
có thành, trụ, hoại, không. Thiên Thân Bồ Tát quy nạp
hết thảy các pháp thành một trăm loại lớn, gọi
là Bách Pháp. Trong Tướng Tông có cuốn Bách Pháp Minh Môn Luận
là sách nhập môn của Đại Thừa. Trong một
trăm pháp ấy, lại chia ra pháp hữu vi và pháp vô vi.
Pháp hữu vi có sanh, có diệt. Pháp vô vi vô sanh vô diệt.
Pháp vô vi có sáu thứ, pháp hữu vi bao gồm tâm, tâm sở,
sắc, bất tương ứng hành, gồm chín
mươi bốn thứ. Trong các pháp vô vi có hư không vô
vi. Dường như từ cổ đến nay, hư
không chẳng biến hóa. Hễ biến hóa thì chẳng phải
là chân thật, chớ nên chấp trước. Hễ chấp
trước, phiền não liền sanh, đấy là do chính
mình chuốc lấy. Đã biết chúng chẳng phải là
thật, cũng phải biết nguồn cội của
chúng rồi mới có thể thật sự buông xuống
được. Đức Phật nói: Trong mười pháp
giới, y báo và chánh báo trang nghiêm là Tướng Phần
trong chân tâm bổn tánh của chúng ta. Bổn tánh là chủ
thể có công năng biến hiện (Năng Biến),
Tướng Phần là cái được biến hiện
(Sở Biến) bởi bổn tánh. Có thể thấy rằng
Năng Biến là chân, Sở Biến là giả hữu. Bổn
tánh là Chân Không, Lục Tổ nói: “Bổn
lai vô nhất vật” (Vốn chẳng có một vật),
nhưng có thể biến hiện hết thảy pháp. Do vậy,
bổn tánh là Thể, Tướng là hình tượng
được hiện ra. Kinh Hoa Nghiêm dạy “hết thảy pháp chỉ do Tâm
hiện, chỉ do Thức biến”. Tướng có biến
hóa, do Thức khởi tác dụng. Thức là phân biệt, chấp
trước. Nếu như bổn tánh hiện tướng
thì tướng ấy được gọi là Nhất Chân
Pháp Giới. Trong tâm có Kiến, Tư, phân biệt, chấp
trước, liền biến hiện ra lục đạo,
luân hồi.
Mười
phương vô lượng vô biên các thế giới Phật,
hết thảy các vị Phật, Bồ Tát cũng là vật
được biến hiện từ tâm tánh của chính
mình, thường nói “duy tâm Tịnh
Độ, tự tánh Di Đà”. Hiện tại, chúng ta có
bao giờ chẳng phải là “duy
tâm uế độ, tự tánh Thích Ca” chăng? Lìa khỏi
tâm tánh sẽ không có một pháp nào để được.
Đấy chính là “thiện
năng giác liễu” (khéo có thể hiểu rõ). Huống
chi, trong kinh Phật đã khai thị: “Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh”. Tâm
tưởng điều gì liền biến ra điều ấy.
Đại đa số mọi người chết đi sẽ
đọa vào tam ác đạo, [là do] họ nghĩ đến
tham bèn đọa ngạ quỷ, nghĩ đến sân bèn
đọa địa ngục, nghĩ đến si, chẳng
phân biệt tà - chánh, thiện - ác, lợi - hại rõ ràng, hồ
đồ mờ mịt, bèn đọa vào súc sanh. Niệm
Phật tưởng Phật, nhất định sẽ
thành Phật, niệm trời tưởng trời, nhất
định sẽ sanh lên trời. Chuyện sanh lên trời
trong Cơ Đốc Giáo hay Thiên Chúa Giáo là thật, chẳng
phải là giả. Nếu niệm Phật, tưởng Phật,
trong tâm lại tưởng tham, sân, si thì tam ác đạo vẫn
có phần, không về Tây Phương được! Phải
hiểu rõ ràng đạo lý ấy, phải buông xuống hết
thảy, chết lòng sát đất niệm một câu A Di
Đà Phật, trong một đời này có thể thật
sự vượt thoát tam giới, đồng thời tùy
duyên tùy phận giúp đỡ người khác khai ngộ,
lìa khổ, được vui. Đấy là tâm đại từ
bi của chính mình, không có bất cứ điều kiện
nào. [Coi những điều đó như] những chuyện
thuộc về bổn phận phải làm; bởi lẽ, hết
thảy chúng sanh và ta đồng thể, “đồng thể
đại bi”, từ đó sanh ra “vô duyên đại từ”,
như cha mẹ yêu thương con cái vô điều kiện.
Ngũ dục, lục trần, tiếng tăm, lợi
dưỡng đã là hư vọng thì phải bỏ. Bỏ
xong, vĩnh viễn chẳng còn tưởng nhớ, đó
gọi là Xả Giác Phần.
(Giải) Nhược phát chư Thiền Định
chi thời, thiện năng giác liễu chư Thiền
hư giả, bất sanh ái kiến vọng tưởng,
danh Định Giác Phần.
(解) 若發諸禪定之時。善能覺了諸禪虛假。
不生愛見 妄想。名定覺分。
(Giải: Nếu lúc phát khởi các Thiền Định mà khéo
có thể hiểu rõ các môn Thiền là hư giả, chẳng
sanh ái kiến, vọng tưởng, thì gọi là Định
Giác Phần)
Đối với hai loại trên, nếu thực
hiện đến mức có hiệu quả chân thật thì
sẽ đắc Thiền Định. Trừ Giác Phần
khiến cho nội tâm thanh tịnh, tách lìa hết thảy
phân biệt, chấp trước; Xả Giác Phần [khiến
cho hành giả] quyết định chẳng bị cảnh
giới bên ngoài lay động, Thiền Định tự
nhiên hiện tiền. Công phu Trừ và Xả sâu đậm
thì công phu định lực cũng sâu. Định là trạm
dừng giữa đường, chẳng phải là mục
tiêu rốt ráo. Hơn nữa, Thiền Định sâu hay cạn
vô lượng vô biên, tuyệt đối chớ nên
“được chút ít đã cho là đủ”, khoe khoang với
người khác. Tứ Thiền Bát Định là Thiền
Định thế gian. Vì sao chẳng thể đạt
đến Cửu Thứ Đệ Định, chứng
quả La Hán, vượt thoát tam giới? Gốc bệnh là
ở chỗ “ái kiến, vọng
tưởng”. Hành giả hết sức ưa thích những
cảnh giới trong Định, lại còn hiểu lầm
là đã nhập Niết Bàn! Nếu chẳng sanh ái kiến
vọng tưởng thì Thiền Định sẽ sanh ra
trí huệ. Người niệm Phật niệm đến
mức “công phu thành phiến” sẽ rất gần với
Thiền Định. Niệm đến mức Sự nhất
tâm bất loạn chính là Thiền Định. Khi ấy, trọn
chớ nên sanh khởi ái kiến vọng tưởng. Câu niệm
Phật này cứ một mực niệm mãi, hãy thường
so sánh với Phật, Bồ Tát, đừng so sánh với
phàm phu, để khỏi sanh tâm ngạo nghễ, ngã mạn,
vĩnh viễn giữ được lòng khiêm hư, cung
kính hết thảy. Đấy là Định Giác Phần.
(Giải) Nhược tu xuất thế đạo thời,
thiện năng giác liễu, thường sử Định
Huệ quân bình, hoặc tâm trầm một, đương
niệm dụng Trạch Pháp, Tinh Tấn, Hỷ tam giác phần,
dĩ sát khởi chi. Hoặc tâm phù động,
đương niệm dụng Trừ, Xả, Định
tam giác phần, dĩ nhiếp trì chi, điều hòa thích
trung, danh Niệm Giác Phần.
(解) 若修出世道時。善能覺了。常使定慧均平。或心沉沒。當念用擇法精進喜三覺分。以察起之。或心浮動。當念用除捨定三覺分。以攝持之。調和適中。名念覺分。
(Giải: Nếu khi tu đạo xuất
thế, khéo có thể hiểu rõ, thường khiến cho
Định và Huệ cân bằng. Nếu tâm chìm đắm,
hãy nên nghĩ dùng ba thứ Giác Phần là Trạch Pháp, Tinh Tấn
và Hỷ để dấy lên sự quán sát. Nếu tâm phập
phều, chao động, hãy nên nghĩ dùng ba môn Giác Phần
là Trừ, Xả và Định để nhiếp trì cái
tâm, điều hòa cho thích hợp, thì gọi là Niệm Giác
Phần)
Hãy nên dùng Thất Bồ Đề Phần
trong công phu tu hành bình thường, dùng sao cho ổn thỏa
thì sẽ giúp ích rất lớn cho sự tu học. Bất
cứ tông phái, pháp môn nào cũng đều có hai loại bệnh:
- Một là
hôn trầm, thường cảm thấy mệt mỏi,
tinh thần trì trệ. Niệm Phật chưa được
bao lâu, hễ vừa Chỉ Tịnh liền ngủ gục.
Công phu nhất định phải giữ cho Định và
Huệ cân bằng. Định nhiều sẽ hôn trầm,
Huệ nhiều sẽ cảm thấy trong tâm lao xao, vọng
niệm lên xuống nhộn nhịp. Nếu gặp tình trạng
như vậy, liền sử dụng ba môn Giác Phần trong
phần trước là Trạch Pháp, Tinh Tấn và Hỷ
để điều chỉnh. Khi đả tọa gặp
hiện tượng ấy, liền đứng lên nhiễu
Phật hoặc lễ Phật, hoặc tưởng A Di
Đà Phật lúc đang tu nhân nỗ lực tinh tấn tu
hành, thấy người hiền liền mong được
bằng. Trong Niệm Phật Đường thời cổ
phải nương tựa vào đại chúng, có hoàn cảnh
tu học tốt đẹp. Hiện thời, những
đạo tràng lớn đều biến thành địa
điểm du lịch, xe du khách ra vào không ngớt, khó thể
thanh tịnh. Hiện thời, thật sự dụng công vẫn
chẳng bằng tại nhà. Ngày nay có băng thâu âm, băng
thâu hình, máy niệm Phật, thuận tiện hơn trước
kia. Mời mấy người chí đồng đạo hợp
tu chung với nhau. Đạo tràng Dallas của chúng ta chia
thành ba khu nhiễu Phật, lễ Phật, tịnh tọa
niệm Phật, mỗi khu chẳng làm rộn lẫn nhau.
Không có pháp sư hướng dẫn thì mở máy niệm Phật,
tiếng niệm Phật không ngừng. Bước vào Phật
đường một câu cũng không nói, thấy người
khác không chào hỏi, hoàn toàn dựa theo Phật hiệu
để niệm Phật, không có bất cứ áp lực
nào.
- Nếu
trong tâm rất nhiều vọng niệm, phập phều vọng
động lao xao, đấy chính là tập khí từ vô thỉ
kiếp đến nay, tu luyện trong cuộc sống
thường ngày hãy dùng ba môn Giác Phần là Trừ, Xả
và Định để nhiếp trì, luôn điều hòa sao
cho thích đáng, làm cho tâm chẳng bị xen tạp. Tuy trong
một lúc chẳng thể trừ sạch, chớ nên gấp
rút mong trừ được, chớ nên miễn cưỡng,
nhất định phải sao cho thân tâm thoải mái, hoan hỷ,
càng học tâm càng thanh tịnh, phiền não ngày càng giảm,
trí huệ tăng trưởng là được.
(Giải)
Bát Thánh Đạo Phần, diệc danh Bát Chánh Đạo
Phần. Tu vô lậu hạnh quán, kiến Tứ Đế
phân minh, danh Chánh Kiến.
(解) 八聖道分。亦名八正道分。修無漏行觀。見四諦分明。名正見。
(Giải: Bát Thánh Đạo Phần còn gọi
là Bát Chánh Đạo Phần. Tu vô lậu hạnh quán, thấy
Tứ Đế rành mạch, thì gọi là Chánh Kiến)
Khoa cuối cùng trong ba mươi bảy
đạo phẩm là Bát Chánh Đạo, còn gọi là Bát
Thánh Đạo. Bát Chánh Đạo là khoa mục trọng yếu
nhất trong Phật môn, tiêu chuẩn rất nhiều. Tiểu
Thừa cũng có Bát Chánh Đạo, mỗi một tông phái
trong Đại Thừa cũng có Bát Chánh Đạo, tiêu chuẩn
[trong mỗi một tông phái] khác nhau. Ở đây, đại
sư giảng Bát Chánh Đạo theo tánh chất nguyên tắc.
“Tu vô lậu hạnh quán, kiến Tứ Đế
phân minh”: Tứ Đế
chính là danh xưng chung của pháp thế gian và xuất thế
gian, tức Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ là
quả báo thế gian. Tập là nhân duyên thế gian, nói rõ
chân tướng của pháp thế gian. Diệt và Đạo
là pháp xuất thế gian. Diệt là diệt phiền não, diệt
sanh tử. Diệt là quả xuất thế gian, Đạo
là nhân xuất thế gian. Khổ, Tập, Diệt, Đạo
là hai tầng nhân quả, mà cũng là chân tướng của
nhân sinh và vũ trụ. Nếu muốn thấy đạo
thì phải tu vô lậu hạnh quán; câu này bao gồm hết
thảy phương pháp tu học Đại Tiểu Thừa.
“Lậu” (漏) là
tên gọi khác của phiền não, là danh từ phản nghĩa
của Chân Như bổn tánh. Đấy chính là tỷ dụ
Chân Như bổn tánh có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, khiến cho Bát Nhã, trí huệ, vô lượng
công đức vốn sẵn có trong bổn tánh bị rò rỉ.
Nếu tương ứng với bổn tánh thì gọi là
“vô lậu”. Do vậy, phải tu pháp vô lậu thì mới có
thể thấy được chân tướng của nhân
sinh và vũ trụ. Thánh nhân Tiểu Thừa đoạn
được Kiến Tư phiền não, nên gọi là “vô lậu”,
nhưng so với Đại Thừa thì tuy đoạn
được Kiến Tư, vẫn còn có Trần Sa và Vô
Minh chưa đoạn, chẳng thể gọi là “chân vô lậu”. Ắt phải
đoạn sạch Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh thì sẽ
là phẩm vị Thập Địa Bồ Tát trong Đại
Thừa Viên Giáo. Hàng Địa Thượng Bồ Tát (tức
Bồ Tát đắc Sơ Địa Bồ Tát trong Viên Giáo
trở lên) còn được gọi là Đại A La Hán, cũng
gọi là Vô Học, [ngụ ý] đã tốt nghiệp rồi
[không cần phải học nữa]. Thông thường, bậc
Bồ Tát phá một phần vô minh, thấy một phần
chân tánh thì vị ấy cũng được xếp vào
hàng “chân thật vô lậu hạnh quán”, tức là từ bậc
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo trở lên, hoặc
Đăng Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. Do vậy,
tiêu chuẩn của Bát Chánh Đạo rất cao; trong các
tông phái khác, đạt đến cảnh giới này chẳng
dễ dàng. Tịnh Tông là pháp môn bình đẳng thành Phật.
Hết thảy chúng sanh tu pháp bình đẳng: Đẳng
Giác Bồ Tát lẫn phàm phu cùng tu học và chứng đắc
một pháp “tín, nguyện, trì danh, cầu nguyện vãng sanh”.
Nếu tin tưởng chẳng hoài nghi sự trang nghiêm
nơi y báo và chánh báo của Tây Phương thì đấy
chính là Chánh Kiến trong Tịnh Tông, có cùng kiến giải
với chư Phật Như Lai.
(Giải)
Dĩ vô lậu tâm tương ứng tư duy, động
phát giác tri trù lượng, vị linh tăng trưởng,
nhập đại Niết Bàn, danh Chánh Tư Duy.
(解) 以無漏心相應思惟。動發覺知籌量。為令增長。入大涅槃。名正思惟。
(Giải: Dùng tâm vô lậu để tư
duy tương ứng, dấy khởi sự hay biết,
tính toán, so sánh, nhằm tăng trưởng, nhập đại
Niết Bàn, thì gọi là Chánh Tư Duy).
“Vô lậu tâm” là chân tâm, vọng
tâm là hữu lậu, chẳng thanh tịnh. Quán Kinh nói “chí thành tâm”, Đại Thừa
Khởi Tín Luận nói “trực
tâm”, Nho gia nói “thành ý chánh
tâm”, [những tâm ấy] cũng tương tự với
vô lậu tâm ở đây. Thanh tịnh tâm khởi tác dụng
là trí huệ. Vô lậu tâm chính là Thật Trí, khởi ra tác dụng
là Quyền Trí. Câu “động
phát giác tri trù lượng” là nói về sự khởi tác
dụng, chính là “chiếu kiến”
như trong Tâm Kinh đã nói. “Tư
duy” được nói ở đây hoàn toàn chẳng phải
là sự nghiên cứu, suy xét thuộc phạm vi ý thức
như chúng ta thường nói. Ở đây, “tư duy” biểu thị sự thông đạt,
hiểu rõ hết thảy các pháp, sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần bên ngoài liền thông đạt, hiểu
rõ, có thể tăng trưởng, tiến nhập Đại
Niết Bàn là cảnh giới chứng đắc trong quả
địa Như Lai. Đấy chính là Chánh Tư Duy. Trong Tịnh
Độ Tông, [hành nhân] dùng thức thứ sáu là Ý Thức
để suốt ngày từ sáng đến tối nghĩ
tới sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, nghĩ tới
A Di Đà Phật. Đấy là Chánh Tư Duy. Quả báo là
vãng sanh Tịnh Độ, đã vãng sanh rồi thì trong một
đời sẽ nhất định chứng đắc
Đại Niết Bàn.
(Giải)
Dĩ vô lậu huệ, trừ tứ tà mạng, nhiếp
chư khẩu nghiệp, trụ nhất thiết chánh ngữ
trung, danh Chánh Ngữ.
(解) 以無漏慧。除四邪命。攝諸口業。住一切正語中。名正語。
(Giải: Dùng vô lậu huệ trừ bốn thứ tà mạng,
giữ gìn các khẩu nghiệp, luôn nói hết thảy lời
lẽ chân chánh thì gọi là Chánh Ngữ).
“Tứ tà mạng” ở đây là “tri kiến, tư tưởng,
và phương pháp mưu sinh bất chánh”.
Thứ nhất là
Phương Khẩu Thực (方口食). Chữ Phương (方) chỉ
bốn phương. Giao tế bốn phương, đến
các nơi du ngoạn, ve vãn, nịnh hót, bợ đỡ những
kẻ hào môn, quyền quý để tham cầu cúng dường.
Thứ hai
là Duy Khẩu Thực (維口食), tức là dùng chú thuật trị bệnh, bói toán cát
hung, đoán mạng, xem tướng, xem Phong Thủy.
Thứ ba
là Ngưỡng Khẩu Thực (仰口食) tức ngửa mặt lên trời coi
tinh tú, để tiên đoán hên xui, đều [là những
mánh khóe] thuộc loại mê hoặc chúng sanh.
Thứ tư
là Hạ Khẩu Thực (下口食), tự mình cày cấy để duy trì cuộc sống.
Sau khi Phật
Giáo truyền đến Trung Quốc, bốn thứ này vẫn
tồn tại. Trung Quốc khác với Ấn Độ, Ấn
Độ hết sức cung kính người xuất gia.
Người xuất gia ôm bát khất thực, dân chúng cúng
dường, nhưng ở Trung Quốc, rất dễ mang
lòng khinh miệt, chê cười kẻ xuất gia khất
thực. Sợ chúng sanh tạo tội nghiệp nên không thể
hành [hạnh khất thực]. Trong phần trước, tôi
có nói ngài Kiều Phạm Ba Đề là một vị đắc
đạo, Ngài có tật miệng thường nhai nhóp nhép,
sợ người ta chê cười tạo tội nghiệp,
nên Phật không cho phép Ngài khất thực, bảo hãy nhận
sự cúng dường của chư thiên. [Quy định
chư Tăng ban đêm] ngủ dưới gốc cây ở
Trung Quốc cũng không thực hiện được.
Cao tăng Ấn Độ đến Trung Hoa là do quốc
vương, triều đình lễ thỉnh mà tới.
Người Trung Quốc tôn sư trọng đạo,
đâu thể nào bảo thầy qua đêm dưới gốc
cây! Do vậy, Trung Quốc lo toan chuyện ăn ở cho
các vị cao tăng đến mức tốt đẹp nhất,
há lại bảo thầy ngủ dưới gốc cây? Vì
thế, nhất loạt phế bỏ cách thức sống
theo lối Ấn Độ. Đạo tràng Trung Quốc hễ
được tạo dựng đều có núi, có ruộng
cho nông dân cấy rẽ, định thời hạn nộp
tô. Cuộc sống trong chùa miếu khá an định, tâm an
thì đạo sẽ hưng vượng. Ngày nay, phải dựa
vào tín đồ cúng dường, nên chẳng dám làm mất
lòng tín đồ. Do vậy, bốn thứ tà mạng này khó
thể trừ hết được.
Chúng ta tách
lìa bốn thứ tà mạng này, sống hết sức
đơn giản thì cũng xong. Nếu chẳng thể chịu
khổ, khó thể thành tựu đạo nghiệp. Lời
dặn dò tha thiết tối hậu của đức Phật
là “hãy lấy Giới làm thầy”.
Hơn nữa, kinh điển còn chép “lấy khổ làm thầy”. Sống thanh bần
khiến cho con người có ý tưởng xuất ly, mà cũng
có thể nêu gương tốt đẹp nhất cho
người tu hành. Buông xuống hết thảy, một
lòng với đạo, nhất là đối với pháp môn
này, sẽ thành tựu nhanh chóng không chi sánh được.
Nếu thật sự chịu tu, kinh dạy “hoặc một ngày, hoặc bảy
ngày, sẽ có thể thành tựu”. Kinh này là kinh được
hết thảy chư Phật hộ niệm. Đã
được chư Phật hộ niệm thì hết thảy
thiên long bát bộ, hộ pháp, quỷ thần tự nhiên nhất
loạt hộ trì. Chúng ta cứ việc yên tâm, cuộc sống
giao trọn cho Phật, Bồ Tát, chẳng cần phải
băn khoăn. Nghe nói kiểu này, chắc những đồng
tu sơ cơ không thể tiếp nhận mà cũng chẳng
dám làm.
Thứ nhất
là do chưa hiểu biết rõ ràng pháp môn này. Thứ hai là vì
thiện căn, phước đức chẳng đủ.
Lúc tôi mới học Phật, Chương Gia đại
sư bảo tôi: “Cả một
đời ông chuyên tâm tu học, hoằng dương Phật
pháp thì đối với thân thể và cuộc sống của
chính mình chẳng cần phải lo nghĩ nữa, nhất
loạt đều do Phật, Bồ Tát an bài. Dẫu sống
thanh bần cũng không sao hết, dẫu thế nào cũng
chẳng cần phải bận tâm”. Tôi hết sức
tôn kính Chương Gia đại sư, nghiêm túc y giáo phụng
hành, tôi đạt được một chút tốt đẹp,
được tự tại một chút đều nhờ
ân huệ của Chương Gia đại sư.
“Nhiếp chư khẩu nghiệp”: Đừng nói người khác
đúng, sai, hay, dở, đừng nói lời thô lỗ,
đừng hoa ngôn xảo ngữ. “Trụ nhất thiết chánh ngữ trung”, cũng
chính là ăn nói đúng với bổn phận. Không riêng gì
trong đạo tràng Tịnh Độ, mà trong các chùa miếu
thông thường, người xuất gia hễ đôi bên
hỏi han nhau đều dùng A Di Đà Phật để
đáp lời. Đấy chính là chánh ngữ thông dụng
trong hết thảy tông phái.
(Giải)
Dĩ vô lậu huệ, trừ thân nhất thiết tà nghiệp,
trụ thanh tịnh chánh thân nghiệp trung, danh Chánh Nghiệp.
(解) 以無漏慧。除身一切邪業。住清淨正身業中。名正業。
(Giải: Dùng vô lậu huệ để trừ
hết thảy tà nghiệp nơi thân, trụ trong thân nghiệp
thanh tịnh chân chánh thì gọi là Chánh Nghiệp).
Khi
chúng ta tạo tác thì gọi là Sự, cũng gọi là “hành
vi”, kết quả của nó được gọi là Nghiệp.
Xét theo phương diện nhân quả thì Hành (thực hiện,
hành vi) và Sự là nhân, Nghiệp là quả. Nghiệp có thiện
và ác. Khởi tâm, động niệm, tư duy, tưởng
tượng, thuộc về Ý Nghiệp; ý tạo nghiệp.
Nói năng là miệng tạo nghiệp. Do thân thể tạo
tác thì gọi là Thân Nghiệp. Người Hoa nói tới lễ
tiết; Lễ là chế độ[14],
nhất cử nhất động đều hợp với
lễ tiết, duy trì trật tự xã hội, nhưng chẳng
thể quá mức, mà phải thích đáng phù hợp. Trong thời
đại hiện tại, lễ tiết theo Nho gia không còn
nữa, oai nghi của nhà Phật cũng không còn nữa.
Chúng ta không có sức cứu vãn, nhưng phải cảnh
giác, giữ gìn tiết tháo[15]
của chính mình. Lễ phép, khiêm nhượng đối với
người khác, tự khiêm, đề cao người khác,
chẳng tạo hết thảy ác nghiệp, lợi dụng
thân thể này để miệng niệm Phật, tâm tưởng
Phật, thân lễ Phật, dựa theo những nghi thức
tu niệm để chuyên tu lễ bái. Trong khi lễ bái bèn
quán tưởng. Trong nghi thức Tịnh Tu Tiệp Yếu
của lão cư sĩ Hạ Liên Cư biên soạn, có cách lễ
Phật chỉ gồm ba mươi hai lạy, dùng làm công
khóa tụng niệm sáng tối cũng rất hay.
(Giải) Dĩ vô lậu huệ, thông trừ
tam nghiệp trung ngũ chủng tà mạng, trụ thanh tịnh
chánh mạng trung, danh Chánh Mạng.
(解) 以無漏慧。通除三業中五種邪命。住清淨正命中。名正命。
(Giải: Dùng vô lậu huệ trừ trọn
năm thứ tà mạng nơi ba nghiệp, trụ trong
chánh mạng thanh tịnh, thì gọi là Chánh Mạng).
Cái được gọi là “tà mạng” chính
là đạt được tiếng tăm, lợi dưỡng,
tức là những sự việc nhằm duy trì cuộc sống
mà chẳng đúng pháp thì đều gọi là “tà mạng”. Nói theo cách bây giờ
thì muốn được nổi tiếng bèn:
1. Trá hiện tướng kỳ lạ,
đặc biệt: “Trá” (詐) là dối gạt, “hiện” (現) là cố ý biểu diễn cho khác với
mọi người. Mục đích là cầu được
người khác cung kính, cúng dường.
2. Tự khen công đức: Đối với
sự tu trì của chính mình, chẳng biểu hiện chân thật,
cũng là vì tiếng tăm, lợi dưỡng.
3. Coi tướng, đoán cát hung: Dùng thủ
đoạn xem tướng, đoán mạng để tiếp
xúc đại chúng, mong được kẻ khác cung kính,
cúng dường, xem ta như thần minh.
4. Lớn tiếng ra oai: Ăn to nói lớn
để tỏ oai thế nhằm cầu lợi dưỡng.
Nghe nói có những kẻ xuất gia thích chửi bới
người khác, thường ra vẻ bề trên giáo huấn
người khác. Những bậc thiện tri thức
như Chương Gia đại sư và thầy Lý Bỉnh
Nam đối với bất cứ ai đều hòa nhã, vui
vẻ, chẳng có tí ti hống hách nào. Các vị giáo huấn
một người nào, nhất định sẽ gọi học
trò vào phòng, răn trách người ấy. Giáo huấn một
người chính là thật sự xem trọng người ấy.
5. Nói những món lợi mình đã có để
lung lạc lòng người khác.
Năm
điều trên đây trong Phật môn gọi là “tà mạng”. Chúng ta phải dùng
cái tâm thanh tịnh để xa lìa năm thứ tà mạng.
“Trụ thanh tịnh chánh mạng
trung”, tức là sống đúng đắn để duy
trì mạng sống của chính mình thì gọi là Chánh Mạng.
Khẩn yếu nhất là phải siêng năng, tiết kiệm,
cuộc sống càng đơn giản càng hay. Nhu cầu ít ỏi
sẽ dễ dàng đạt được, cho nên chẳng
cần phải tham cầu. Trong xã hội này, muốn gìn giữ
nếp sống an định, chẳng gặp những chuyện
ngang trái lớn, nhỏ thì chớ nên tạo ác nghiệp. Dẫu
đời trước trót tạo ác nghiệp, đời
này đừng làm các điều ác, sẽ không có ác duyên, chẳng
hứng chịu kết quả. Đấy chẳng phải
là lời nói xuông! Trong một đời, tận hết sức
Tu Thiện, phước đức ngày ngày tăng trưởng,
oán gia trái chủ chẳng thể thừa dịp [làm hại
được]. Làm lành chẳng cần phải rêu rao để
khỏi bị kẻ ghen ghét gây chướng ngại.
Người học Phật toàn tâm làm lành, hãy nên tam luân thể
không, chẳng cầu mong gì thì mới là chánh đạo. Khi
Phật còn tại thế, em họ của Phật là Đề
Bà Đạt Đa (Devadatta) nghĩ đủ mọi
phương pháp để hại Phật, tự mình muốn
chiếm lấy [địa vị Phật] để thay
thế. Trong các đệ tử Phật, cũng có những
kẻ chuyên môn gây rối, phá hoại Tăng Đoàn. Tại
Trung Quốc, trường hợp rõ ràng nhất là khi Ngũ
Tổ truyền y bát cho Huệ Năng, rất nhiều kẻ
không phục, chẳng những muốn đoạt y bát
đem về mà còn muốn làm hại Huệ Năng! Tâm
người đời Đường thuần hậu mà
còn có tình trạng như thế! Chúng ta vô phước vô
đức, chẳng tranh với người khác, chẳng
mong gì nơi đời. Người đời tranh giành tiếng
tăm, lợi dưỡng, chứ chúng ta trọn chẳng
cần. Cái chúng ta muốn là thật thà niệm Phật, chứ
bọn họ đâu có muốn, đôi
bên chẳng trở ngại nhau.
(Giải)
Dĩ vô lậu huệ tương ứng, cần tinh tấn,
tu Niết Bàn đạo, danh Chánh Tinh Tấn.
(解) 以無漏慧相應。勤精進。修涅槃道。名正精進。
(Giải: Do tương ứng với vô
lậu huệ mà siêng năng tinh tấn, tu Niết Bàn đạo,
thì gọi là Chánh Tinh Tấn).
Đại
Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta “tịnh niệm tiếp nối”. Có thể đạt
được tịnh niệm tiếp nối thì tự
nhiên sẽ có thể “nhiếp
trọn sáu căn”. Chữ Niệm (念) do hai chữ Kim (今) và Tâm (心)
ghép thành, tức là cái tâm hiện tiền. Văn tự Trung
Quốc đầy ắp trí huệ. Tịnh là thanh tịnh.
Trong tâm thanh tịnh chẳng có một tạp niệm nào. “Chẳng xen tạp” chính là
không có Kiến Tư, Trần Sa phiền não. “Chẳng hoài nghi” là không có vô
minh, đây chính là tịnh niệm tiếp nối. Trong quá
trình tu học, dùng một câu Phật hiệu để làm
phương tiện tấn tu. Câu Phật hiệu này chính là
danh xưng tổng quát của mọi tánh đức vốn
sẵn có trong tự tánh. Nói cách khác, một câu A Di Đà Phật
có thể đánh thức tự tánh của chúng ta, danh hiệu
có công đức chẳng thể nghĩ bàn. “Cầu sanh Tịnh Độ” chính
là “tu Niết Bàn đạo”.
Đấy gọi là Chánh Tinh Tấn.
(Giải)
Dĩ vô lậu huệ tương ứng, niệm chánh
đạo cập trợ đạo pháp, danh Chánh Niệm.
(解)以無漏慧相應。念正道及助道法。名正念。
(Giải: Do tương ứng với vô
lậu huệ nên niệm chánh đạo và pháp trợ
đạo thì gọi là Chánh Niệm).
Liên Trì đại
sư nói: “Tín nguyện trì danh là
chánh đạo mà cũng là trợ đạo”. Trong kinh
này, kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, chư Phật, Bồ
Tát còn có nhiều phương pháp tu hành, nhưng những
phương pháp ấy đều thuộc về pháp trợ
đạo nhằm giúp cho công phu Niệm Phật thành tựu.
Trong cuộc sống thường ngày, năm kinh một luận
là đủ dùng rồi. Học nhiều quá đâm ra tạo
thành chướng ngại. Tổ sư, đại đức
khai thị, chỉ dạy chúng ta, lấy kinh điển
làm Cương, lấy ngữ lục của tổ sư
đại đức làm Mục thì sẽ chẳng loạn.
Nhất là bộ Ấn Quang Đại Sư Văn Sao,
trong thời cận đại bộ sách này khế cơ
nhất, vì thời của Ngài gần gũi với chúng ta
nhất. Ngài thấy tình trạng xã hội suy đồi
trong lúc ấy cũng rất giống với thời hiện
tại.
(Giải) Dĩ vô lậu huệ
tương ứng nhập Định, danh Chánh Định.
(解) 以無漏慧相應入定。名正定。
(Giải: Do tương ứng với vô
lậu huệ nên nhập Định thì gọi là Chánh
Định)
Định có tà và
chánh, có rốt ráo và không rốt ráo, đấy là so sánh về
tánh chất. Định trong pháp Đại Thừa đều
thuộc về Chánh Định. Nhà Phật thường
nói “có tám vạn bốn ngàn pháp môn”. Pháp là phương pháp,
Môn là cửa nẻo, đường lối, đều là
tu Định. Tổng cương lãnh tu hành của Phật
pháp là Tam Học, tức Giới, Định, Huệ; do Giới
sanh Định, do Định khai Huệ. Pháp môn bình đẳng
không có cao hay thấp. Trong rất nhiều phương pháp
như vậy thì tín nguyện trì danh là vô lậu huệ.
Đấy chính là sự lựa chọn bằng trí huệ
chân thật của các vị đại Bồ Tát Văn Thù
và Phổ Hiền. Lựa chọn bằng trí huệ chân thật
thì chắc chắn chẳng có nghi hoặc, cũng tuyệt
đối chẳng xen tạp; do vậy, sẽ thành công rất
nhanh. Vấn đề lớn của chúng ta trong hiện thời
là chọn lựa hoàn toàn không sai lầm, nhưng không
tương ứng. Do chẳng tương ứng với
tâm của chính mình nên tâm chúng ta không thanh tịnh. Vì thế,
vẫn còn có hoài nghi. Suốt đời tu hành chỉ dựa
vào một bộ kinh là đủ đảm bảo chúng ta
thành Phật viên mãn ngay trong một đời. Nếu vẫn
còn mong biết nhiều bộ kinh khác, tuy vẫn có thể
vãng sanh, nhưng phẩm vị cũng không cao cho lắm.
(Giải) Thử đẳng
đạo phẩm, y Sanh Diệt Tứ Đế nhi tu, tức
Tạng Giáo Đạo Phẩm. Y Vô Sanh Tứ Đế nhi
tu, tức Thông Giáo Đạo Phẩm. Y Vô Lượng Tứ
Đế nhi tu, tức Biệt Giáo Đạo Phẩm. Y Vô
Tác Tứ Đế nhi tu, tức Viên Giáo Đạo Phẩm.
(解) 此等道品。依生滅四諦而修。即藏教道品。依無生四諦而修。即通教道品。依無量四諦而修。即別教道品。依無作四諦而修。即圓教道品。
(Giải: Những đạo phẩm này,
nương theo Sanh Diệt Tứ Đế mà tu thì là Đạo
Phẩm trong Tạng Giáo; nương theo Vô Sanh Tứ Đế
mà tu thì là Đạo Phẩm trong Thông Giáo; nương theo
Vô Lượng Tứ Đế mà tu chính là Đạo Phẩm
trong Biệt Giáo; nương theo Vô Tác Tứ Đế
để tu thì là Đạo Phẩm trong Viên Giáo).
Theo sự
phán giáo của tông Thiên Thai, Thiên Thai đại sư đem
hết thảy kinh điển do Phật Thích Ca đã nói
trong bốn mươi chín năm chia thành tứ giáo là Tạng,
Thông, Biệt, Viên. Trong lần kết tập kinh điển
sớm nhất tại Ấn Độ, chỉ là đem những
lời Phật đã nói ghi chép lại, biên tập thành kinh
điển để lưu thông, chứ hoàn toàn không phân loại
tỉ mỉ. Sau khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc,
vào thời Tùy - Đường, nhằm dạy học thuận
tiện, tổ sư đại đức các tông các phái
đã phân loại kinh điển. Do căn tánh của mỗi
hạng người (tức đối tượng
được đức Phật nhắm đến để
thuyết giảng (đương cơ) trong mỗi kinh)
khác nhau, [nên chư Tổ phân chia kinh điển] từ cạn
đến sâu.
Tạng
Giáo là Tiểu Thừa, nương theo kinh, luật, luận
do đức Phật đã giảng như bốn kinh A Hàm
là Kinh Tạng, Tỳ Nại Da là Luật Tạng, A Tỳ
Đàm là Luận Tạng. Tam Tạng Tiểu Thừa đã
được dịch sang Hán văn khá hoàn chỉnh. Những
kinh điển được truyền sang những nước
như Thái Lan, Tích Lan (Sri Lanka) v.v... dùng văn tự Pali. Đem những
kinh ấy so với kinh Tiểu Thừa trong Đại Tạng
Kinh thì kinh điển của họ chỉ nhiều hơn
kinh của chúng ta năm mươi mấy bộ, đủ
thấy kinh điển được phiên dịch ở
Trung Quốc khá hoàn chỉnh. Dưới đời
Đường, kinh Tiểu Thừa từng hưng thịnh
một thời, về sau suy vi là vì lời dịch [trong các
kinh Tiểu Thừa] không đẹp đẽ, mà nghĩa
lý cũng không thông suốt, trôi chảy. Lý do khác nữa là
đa số những người xuất gia phần nhiều
đã có cơ sở vững vàng nơi Nho và Đạo, rất
gần Đại Thừa, chẳng kém gì nghiên cứu,
đọc tụng kinh điển Tiểu Thừa. Hơn
nữa, Tiểu Thừa giảng về Sanh Diệt Tứ
Đế, hoàn toàn dốc công trên mặt sự tướng.
Thông Giáo là
khởi đầu của Đại Thừa, trước
là thông với Tiểu Thừa, sau là thông với Biệt
Giáo và Viên Giáo. Biệt Giáo là Đại Thừa thuần
túy, Viên Giáo là viên dung rốt ráo. Tứ Đế và ba
mươi bảy đạo phẩm là cương yếu
của hết thảy Phật pháp, là
pháp thuộc Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Ba
mươi bảy đạo phẩm là Tứ Đế
khai triển. Tứ Đế gồm Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, trong phần trước tôi đã nói
qua. Khổ - Tập - Diệt - Đạo là chân tướng
của hết thảy sự lý thế gian lẫn xuất
thế gian. Hết thảy các pháp do đức Phật chẳng
có gì khác, chỉ là giảng rõ chân tướng của nhân
sinh và vũ trụ mà thôi! Người thế gian không ai có
thể nói được. Tuy có không ít nhà tôn giáo cũng từng
nói đến nhân quả thế gian, nhưng họ chỉ
biết những lẽ đương nhiên chứ không biết
được nguyên do. Vì vậy, đức Thế Tôn chẳng
thể nào không xuất hiện trong thế gian, vì chúng sanh
nói rõ chân tướng. Tuy đức Phật giảng giải
cặn kẽ, mục đích vẫn nhằm làm cho chúng ta
đích thân chứng nhập. Sự tu học trong Phật
pháp gồm bốn giai đoạn: Tín, Giải, Hành, Chứng,
trọn chẳng phải chỉ có Tín là coi như xong, vẫn
cần phải dựa vào phương pháp, lý luận để
thực hiện, dùng hành trì để chứng minh hiệu
quả.
Loại thứ
nhất là Tạng Giáo, dựa theo Sanh Diệt Tứ Đế
để tu. Nếu nói theo quả báo thế gian thì hữu
tình chúng sanh có sanh, lão, bệnh, tử. Hết thảy những
phàm phu không thiện, không ác sau khi mất, trong vòng bốn
mươi chín ngày sẽ thác sanh làm người, sanh tử
luân hồi không ngơi. Những tôn giáo khác nói đến “sự
sống đời đời” chỉ là sanh lên trời thọ
mạng dài lâu mà thôi! Rốt cuộc tướng Ngũ Suy[16]
cùng hiện, trọn chẳng phải là thật sự sống
đời đời. Tập là khởi Hoặc tạo
nghiệp, chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật,
liền sanh vọng tưởng, phiền não; do vậy, tạo
nghiệp. Nghiệp có thiện và ác, cho nên có sáu thứ quả
báo, ba loại trên là ba thiện đạo, tức Thiên, A Tu
La và nhân. Ba loại dưới là ba ác đạo, tức
địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, đều là
quả báo được cảm thành do mê hoặc tạo
nghiệp, tự làm, tự chịu. Đấy gọi là Tập.
Diệt là
diệt trừ cái nhân của tam giới lục đạo,
diệt phiền não, diệt vọng tưởng. Diệt
là quả báo xuất thế gian. Diệt còn được
dịch là Viên Tịch hoặc Niết Bàn. Niết Bàn (Nirvāna)
là tiếng Phạn dịch âm, có nghĩa là chết. “Viên tịch”:
Viên (圓) là viên mãn, Tịch (寂) là
tịch diệt, tịch diệt viên mãn vọng tưởng,
phiền não và sanh tử luân hồi. Sự chứng đắc
của Tiểu Thừa La Hán được gọi là Niết
Bàn. Cái nhân của tam giới lục đạo đã bị
diệt, đương nhiên quả báo cũng chẳng còn
nữa. Vì vậy, vượt thoát tam giới, nhưng vẫn
chưa diệt rốt ráo. La Hán chỉ diệt một trong
ba loại phiền não lớn là Kiến Tư phiền não,
vẫn còn có Trần Sa và Vô Minh chưa phá nên chỉ có thể
vượt thoát tam giới, do chưa minh tâm kiến tánh nên
gọi là Tiểu Thừa Niết Bàn.
Nếu muốn
đạt đến hiệu quả Diệt thì phải tu
Đạo. Đạo là nhân của Diệt, Diệt là quả
của Đạo. Nói đơn giản, Đạo là ba
mươi bảy đạo phẩm, mà cũng chính là vô
lượng pháp môn do đức Phật đã nói. Đối
với vô lượng pháp môn ấy, hãy nên dựa trên
căn tánh và điều kiện sống của chính mình
để làm tiêu chuẩn chọn lựa. Đức Phật
dạy rất nhiều phương pháp, [tu theo
phương pháp nào là] do chúng ta chọn lựa. Có rất
nhiều người vẫn còn tập khí Tiểu Thừa,
khá bảo thủ, coi trọng những nghi thức thuộc
mặt Sự. Đại Thừa thường chẳng câu
nệ tiểu tiết, như Nam Truyền Phật giáo so với
Phật pháp Đại Thừa tại Trung Quốc khác biệt
rất rõ rệt. Căn tánh Tiểu Thừa nương
theo Sanh Diệt Tứ Đế để tu hành nên thuộc
Tạng Giáo Đạo Phẩm.
Loại thứ
hai là Thông Giáo, là bắt đầu của Đại Thừa.
Có những người hết sức hâm mộ, yêu thích Tiểu
Thừa, nhưng đối với Đại Thừa cũng
rất hâm mộ, ưa thích. Người thuộc căn
tánh này chiếm đại đa số. Vì thế, Thông Giáo
thông với Tiểu Thừa ở phần trước và
Đại Thừa trong phần sau. Căn tánh của những
người [thuộc Thông Giáo] thông minh hơn những
người trong phần trước (Tạng Giáo), sức
lãnh ngộ mạnh mẽ. Họ dựa vào Khổ Đế,
có thể tùy duyên buông xuống, thấy thấu suốt.
Đối với Tập Đế, họ khởi tâm
động niệm đều bất khả đắc,
xem nhẹ pháp thế gian hơn người thông thường,
có ích rất lớn cho sự tu học. Đối với
Đạo Đế, kinh Bát Nhã thường nói “bất nhị pháp môn”, cũng
như huyễn, như hóa giống như Tập Đế.
Diệt Đế cũng chẳng có tướng sanh diệt;
bởi lẽ, đức Phật đã nói Bồ Đề
và Niết Bàn cũng như huyễn, như hóa. Người
niệm Phật có căn cơ giống như thế, nhất
định sẽ nương theo Thông Giáo Đạo Phẩm
để tu học. Thông Giáo và Tạng Giáo Đạo Phẩm
cần phải có thầy tốt, được thầy
chỉ điểm sẽ dễ thành tựu. Trong Thông Giáo,
sợ nhất là tẩu hỏa nhập ma, trở thành cuồng huệ. Sợ nhất
là không có trí huệ chân thật, lạc vào ác kiến, chấp
Không.
Loại thứ
ba là Biệt Giáo, là pháp Đại Thừa Bồ Tát thuần
túy, chẳng thông với Tạng Giáo mà cũng chẳng thông
với Thông Giáo, bao hàm vô lượng vô biên pháp môn. Nội
dung của Biệt Giáo là Vô Lượng Tứ Đế.
Khổ Đế có vô lượng tướng, quả báo
trong mười pháp giới khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm có phẩm
Tứ Đế, nội dung phẩm ấy hoàn toàn giảng
về Vô Lượng Tứ Đế của Biệt Giáo.
Hoa Nghiêm là pháp để dạy Đại Thừa Bồ
Tát trong Viên Giáo. Viên Giáo bao gồm cả Biệt Giáo, Thông
Giáo và Tạng Giáo, quả báo đã vô lượng vô biên,
đương nhiên nhân duyên cũng vô lượng vô biên.
Phiền não vọng tưởng, chấp trước, phân
biệt của hết thảy chúng sanh mỗi người
mỗi khác, pháp môn vô lượng; vì thế, đạo phẩm
cũng vô lượng. Tạng Giáo có Tạng Giáo Phật
(quả vị Phật trong Tạng Giáo); trong Thông Giáo và Biệt
Giáo cũng đều có [quả vị] Phật, chỉ có
cảnh giới nơi quả vị là chẳng giống
nhau. Tạng Giáo Phật cao hơn địa vị La Hán,
nhưng vẫn chẳng bằng Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát kiến tánh, nhưng Tạng
Giáo Phật chưa kiến tánh. A La Hán trong Tạng Giáo bằng
với địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo.
Tạng Giáo Phật chỉ bằng với Bát Tín hoặc Cửu
Tín [trong Viên Giáo] mà thôi, nên chưa kiến tánh. Thông Giáo Phật
cũng chưa kiến tánh, Biệt Giáo Phật bằng với
địa vị Nhị Hạnh Bồ Tát trong Thập Hạnh
của Viên Giáo. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Biệt Giáo
Phật (quả vị Phật trong Biệt Giáo) chỉ phá
được mười hai phẩm vô minh trong bốn
mươi mốt phẩm vô minh, chưa đoạn hoàn
toàn, kể như đã kiến tánh, còn Viên Giáo Phật phá
hoàn toàn bốn mươi mốt phẩm vô minh.
Đại chúng tu Tịnh Độ nếu
thuộc căn tánh Biệt Giáo thì đại đa số sẽ
nương theo Vô Lượng Tứ Đế để
tu, có khi học trọn khắp kinh luận Đại Thừa.
Nếu thật sự là bậc lợi căn thì sau một
thời gian, người ấy sẽ quay đầu. Lịch
đại tổ sư như Vĩnh Minh Diên Thọ đại
sư từ Thiền Tông mà quay đầu lại, có lẽ
thuộc căn tánh Thông Giáo, nhưng Ngài học hỏi pháp
Đại Thừa rất rộng. Thông Giáo nói Không, Biệt
Giáo nói Có, chẳng phải hoàn toàn nói là Không. Lại như
Liên Trì, Ngẫu Ích và Ấn Quang đại sư lúc trẻ
đều học hỏi rất nhiều môn Đại Thừa
Phật pháp, quá nửa là căn cơ Biệt Giáo, nhưng
đến lúc xế bóng, căn tánh đã chín muồi, buông
toàn bộ sở học xuống, chuyên học pháp môn Niệm
Phật. Đấy là hễ chuyên thì sẽ biến thành
Viên Giáo. Do đây có thể biết rằng: Căn tánh Viên
Giáo có thể vun bồi. Do vậy, Liên Trì đại sư
đến tuổi già đã nói: “Tam
Tạng mười hai bộ kinh nhường cho người
khác ngộ, tám vạn bốn ngàn hạnh để cho
người khác hành”. Chính mình chỉ một bộ A Di
Đà Kinh, một câu A Di Đà Phật. Các vị Ngẫu
Ích, Ấn Quang cũng giống như vậy. Quay đầu
càng nhanh, càng thù thắng, tương lai phẩm vị ắt
cao. Thật sự biết thế giới này là khổ, ắt
phải cầu thoát lìa, trừ một câu Phật hiệu
ra, không có chuyện gì khác, đấy mới là người
thật sự giác ngộ.
Loại thứ tư là Viên Giáo, giảng về
Tam Đế viên dung, viên tu, viên chứng. Họ thấy
pháp Tứ Đế là Vô Tác Tứ Đế, chân và vọng
như một, Tánh và Tướng chẳng hai, tâm địa
thật sự thanh tịnh, tự tánh Bát Nhã trí huệ hiện
tiền, nhìn vũ trụ nhân sinh quả thật chẳng
giống với người khác, họ thấy được
cái gọi là “Thật Tướng
của các pháp”. Tâm Kinh chép: “Quán
Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời”,
“hành” tức là “dụng”,
dùng trí huệ sâu nhất để quán sát vũ trụ và
nhân sinh. Ngũ Uẩn đều là không, tướng của
hết thảy vạn sự, vạn vật đều do Ngũ
Uẩn hợp thành, cũng có nghĩa là vạn pháp đều
là Không. “Không” hiện thành Tánh, “Sắc” là nói về Tướng.
Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Tánh và Tướng
như một; Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc,
Lý và Sự chẳng hai. Phiền não chính là Bồ Đề,
sanh tử chính là Niết Bàn. Phàm phu thấy là sanh tử,
Viên Giáo Bồ Tát thấy là Niết Bàn. Phàm phu thấy là
sanh diệt, Viên Giáo Bồ Tát thấy là bất sanh bất
diệt. Hiện tại, khoa học kỹ thuật phát triển,
có một số những cảnh giới được
nói trong kinh Phật đã được chứng minh rất
rõ. Các nhà khoa học nói vật chất bất diệt, tinh thần cũng bất diệt.
Viên Giáo Bồ Tát thấy hết thảy pháp là duyên tụ,
duyên tán. Pháp Đại Thừa coi trọng duyên sanh. Duyên tụ
thì sanh, duyên tán thì diệt. Thật ra, duyên tụ cũng chẳng
sanh mà duyên tán cũng chẳng diệt. Đấy là sự
thật. Ví như cuốn sách này, nhiều trang giấy
được đóng thành cuốn thì gọi là sách, tướng
sách hiện tiền. Tách rời từng trang ra thì sách không
còn nữa. Thật ra, nó chẳng diệt. Chẳng qua là hiện
tượng duyên tán hay duyên tụ mà thôi. Nếu chấp
trước vào tướng của sách sẽ sai lầm.
Kinh Kim Cang giảng thế giới là “nhất hiệp tướng”. “Nhất” là vật chất cơ bản, kinh Phật
gọi nó là “vi trần”.
Tướng không có sanh diệt, tâm tánh cũng vô sanh vô diệt.
Đại Bồ Tát thị hiện thần thông, nên dùng
thân nào để độ được liền hiện thân ấy để thuyết
pháp. Hiểu rõ đạo lý này nên có thể khống chế
hoàn cảnh, có thể tùy theo lòng muốn mà biến
hóa, đó gọi là “thần
thông”.
Hiện thời, các nhà
khoa học nói Năng (năng lượng, công năng) và Chất
(vật chất) có thể biến đổi lẫn nhau.
Năng là công năng của Chất, Chất là vật chất
của Năng. Tâm có thể thao túng vật chất, từ
trong Thiền Định rất sâu có thể đắc thần
thông, tùy theo lòng muốn mà khống chế vật chất
và năng lượng. Hiện tại, khoa học gia còn
chưa thể nghiên cứu tới, chưa thể đột
phá tâm năng (công năng, năng lượng của tâm).
Nói đến Đạo thì thiên (lệch lạc, chấp
vào một bên) hay tà đều là trung, chánh, không có đạo
để tu, tu nhưng không tu, không tu mà tu. Diệt Đế:
Sanh tử tức Niết Bàn, vô chứng mà chứng, chứng
nhưng vô chứng. Học nhân Tịnh Tông nếu thuộc
căn tánh Viên Giáo, sẽ thiên trọng Vô Tác Tứ Đế
để tu, tức là Viên Giáo Đạo Phẩm. Có thể
biết rằng: Tịnh Tông bao gồm Tạng, Thông, Biệt,
Viên, các thứ căn tánh và tầng lớp khác nhau, bao gồm
viên mãn hết thảy các pháp môn.
PHẬT THUYẾT A DI
ĐÀ KINH YẾU GIẢI GIẢNG KÝ
Phần
5 hết
[1] Trong các bản kinh Nhật Tụng
lưu hành hiện thời, đôi khi chữ “diễn sướng”
này bị sửa thành “diễn xướng” khiến cho ý nghĩa vi diệu của từ
ngữ này bị mất hẳn, tức là lầm lẫn giữa
chữ Sướng (暢) và Xướng (唱), chúng tôi xin mạn phép ghi lại
lời giảng của pháp sư Bân Tông trong cuốn Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu
Thích (bản in của Cao Hùng Nhân Sinh Thư Cục, trang 137)
về hai chữ này như sau:
“Có thể diễn nói pháp âm vi diệu khiến cho tâm hành giả
sanh khoan khoái, vui vẻ thì gọi là Diễn Sướng. Lại
nữa, giải nói phân minh cặn kẽ là Diễn, những
pháp được nói ra đều thông đạt, không trệ
ngại thì gọi là Sướng. Tuy âm thanh [của các loài
chim ấy] khiến cho con người sảng
khoái, vui thích, nhưng không mê đắm, khác với âm thanh
trong cõi tục, khiến cho người nghe sanh huệ,
tư, tu, tăng trưởng đạo tâm”.
[2] Đây chính là lời phản bác những cách diễn giải sai lạc lời
tán thán cõi Cực Lạc của pháp sư Khuy Cơ trong bộ
Phật Thuyết A Di Đà Kinh Thông Tán Sớ. Trong bộ
sách ấy, pháp sư Khuy Cơ đã viết như sau: “Hoa khai kim phố, hóa sanh vi thiên
thự chi tình. Điểu thê quỳnh lâm, Bồ Tát tác thời
hôn chi tướng” (Hoa nở đất vàng, kẻ hóa
sanh còn mang ý niệm trời vừa rạng sáng. Chim đậu
rừng quỳnh, Bồ Tát ngỡ là trời đã tối).
Ở đây, pháp sư Khuy Cơ không hề giải thích khi
hoa khép, chim đậu là trời tối, mà chỉ nhằm
nói lên một sự kiện: Những người vãng sanh
trong cõi Đồng Cư Tịnh Độ, do đới
nghiệp vãng sanh, còn mang nhiều tình kiến nên có những
ý niệm sáng tối, chứ thật ra cõi Cực Lạc
không hề sáng hay tối, ngày hay đêm v.v...
[3] Đây là lời giải thích ý nghĩa
chữ Xá-lợi trong bộ Tây Trai Thi của ngài Sở Thạch
Phạm Kỳ.
[4] Tam Tụ Tịnh Giới gồm:
1. Nhiếp Luật Nghi Giới: Còn gọi
là Luật Nghi Giới, hoặc Tự Tịnh Giới. Nhiếp
có nghĩa là thâu tóm trọn vẹn. Nhiếp Luật Nghi Giới
gồm tất cả những giới cấm nhằm mục
đích tích thiện, ngừa ác như Cụ Túc Giới, Ngũ
Giới, Thập Giới v.v...
2. Nhiếp Thiện Pháp Giới: Còn gọi
là Thiện Pháp Giới, bao gồm những giới nhằm
thệ nguyện thực hiện tất cả hết thảy
thiện pháp.
3. Nhiếp Chúng Sanh Giới: Còn gọi là
Chúng Sanh Giới, Tiếp Sanh Giới, hoặc Lợi Chúng
Sanh Giới, bao gồm những giới nhằm lợi lạc
chúng sanh. Chẳng hạn như Bồ Tát Địa Trì Kinh
nói mười một giới như: Hễ chúng sanh làm những
chuyện lợi ích bèn cùng góp sức, đối với chúng sanh bị bệnh hoặc chưa bệnh,
hoặc chăm sóc bệnh nhân đều góp sức
v.v...
[5] Tăng Tàn (Sanghāvasesa): Còn phiên âm là Tăng Gia Bà Thi Sa, gồm những trọng
tội ở mức độ thấp hơn Tứ Ba La Di
(giết, trộm, dâm, dối), là một trong bảy tụ
giới (Cụ Túc Giới gồm bảy loại lớn, bảy
loại lớn ấy được gọi là Thất Tụ).
Nếu ai phạm phải những giới này giống
như người bị chém, nhưng còn chút mạng tàn, phải
gấp bổ cứu, nương theo Tăng Đoàn sám hối,
trừ khử tội khiên. Đối với Tăng,
Tăng Tàn Giới gồm 13 điều, Ni gồm 17 điều.
Ở đây, Hòa Thượng chỉ nói theo Cụ Túc Giới
của Tăng nên nói “trong 250 giới,
chỉ có 17 điều thật sự là giới luật”.
[6] Nguyên văn là “nhập cảnh tùy tục” (vào nước nào theo
phong tục nước đó), chúng tôi tạm dùng thành ngữ
tương đương là “nhập
gia tùy tục” cho dễ hiểu và gợi cảm giác thân
thiết.
[7] Thoạt đầu,
Ngũ Tứ Vận Động là
một phong trào của thanh niên học sinh Trung Hoa, về
sau lôi cuốn nhiều tầng lớp dân chúng, ngay cả
thị dân, công nhân cũng tham gia. Lúc ban đầu, phong trào
này chỉ hạn chế trong khuôn viên các trường đại
học. Ngày Bốn tháng Năm năm 1919, hơn 3.000 sinh
viên học sinh thuộc ba trường đại học lớn
tại Bắc Kinh tập trung tại quảng trường
Thiên An Môn, đả đảo những điều kiện
bất bình đẳng trong hiệp ước Versailles, khiến
cho công chúng chú ý và hưởng ứng rầm rộ. Liên tiếp
các hình thức đấu tranh như ký tên thỉnh nguyện,
biểu tình, bãi khóa, bãi công, thậm chí bạo động
được tiến hành, nhằm đả đảo nền
tảng học vấn, đạo đức truyền thống
của Trung Quốc, đòi hỏi chính quyền ra sắc lệnh
hoàn toàn phế bỏ nền tảng học vấn đạo
đức cũ. Nguyên nhân gần của cuộc vận
động này là sự bất mãn của dân chúng sau khi nhà
Thanh bị lật đổ, Trung Hoa bị xâu xé thành nhiều
mảnh bởi các thế lực quân phiệt thời ấy,
hoàn toàn bị các đế quốc Tây Phương và Nhật
Bản khống chế. Sự bất mãn lên đến cao
độ khi Thế Chiến thứ nhất chấm dứt.
Trước đó, Trung Hoa tham gia phe Đồng Minh chống
lại Đức, nhưng sau khi phe Đồng Minh thắng
trận, trong hội nghị Versailles nhằm ký kết những
hiệp định giữa phe Đồng Minh và kẻ chiến
bại, các nước Âu Tây tự tiện chuyển giao tô
giới Sơn Đông của Đức cho Nhật, mặc
kệ những phản kháng yếu ớt từ phía đại
diện chánh quyền Quốc Dân Đảng. Giai cấp trí
thức đổ lỗi sự suy yếu của chánh quyền
và hiện tình rối rắm của đất nước
là do những truyền thống đạo đức cũ
cũng như những định chế cũ gây nên, tấn
công Nho Học kịch liệt. Những trí thức nổi
tiếng thời ấy như Hồ Thích, Trần Độc
Tú v.v... là những người hô hào lớn tiếng nhất.
Phong trào này đi đến những biện pháp quá khích
như cấm sử dụng Văn Ngôn trong học
đường, cấm đọc sách Nho, thậm chí cấm
đọc các loại sách viết bằng thể loại
Văn Ngôn trong nhà trường v.v... Họ chủ
trương để nâng cao dân trí, phải hoàn toàn học
theo cách giáo dục và văn hóa Tây Phương, đoạn
tuyệt hoàn toàn với nền văn hóa cũ. Không những
Nho Giáo bị đả kích mà Phật Giáo và Đạo Giáo
cũng bị coi là những chướng ngại cho sự
canh tân Trung Hoa.
[8] Đây là một trong những khẩu hiệu
do Hồ Thích đề xướng thời trong giai đoạn
Ngũ Tứ Vận Động (từ tháng Chín năm 1915
đến tháng Bảy năm 1921). “Khổng gia điếm” có nghĩa là “tiệm bán
hàng của nhà họ Khổng”, một từ ngữ mang
tính cách miệt thị Nho học.
[9] Tứ Khố Toàn Thư là tổng tập
bao gồm những tác phẩm trọng yếu của Trung
Hoa, cũng như những tác phẩm nổi tiếng của
Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam được
biên soạn và ấn hành dưới thời Càn Long từ
năm Càn Long 38 (1773) đến năm Càn Long 43 (1778) hoàn
thành bản cảo. Hoàn tất giảo duyệt, san định
và chỉnh lỗi vào năm Càn Long 52 (1781). Tứ Khố
Toàn Thư gồm hơn 3.503 thể loại khác nhau,
được chia thành bốn loại chính là Kinh, Sử, Tử,
Tập, dày đến 230 vạn trang, ước chừng
800 ngàn chữ do hoàng tử Vĩnh Dung chịu trách nhiệm
chính, Nội Các Đại Học Sĩ Vu Mẫn Trung làm Tổng
Tài (chủ biên), Kỷ Quân (Kỷ Hiểu Lam) làm Tổng Toản
Tu (tổng biên tập). Nhân viên biên tập huy động
đến hơn 3.600 đại học sĩ, danh nho, học
giả thời ấy và 3.800 thư ký.
Tứ Khố Hội Yếu (tên đầy
đủ là Tứ Khố Toàn Thư Hội Yếu)
được biên tập theo lệnh vua Càn Long nhằm tóm
gọn những điểm trọng yếu của mỗi
tác phẩm trong Tứ Khố Toàn Thư, cũng do nhóm Vu Mẫn
Trung, Vương Tế Hoa v.v... biên soạn.
[10] Như Ý là một vật trang trí, thoạt
đầu là dụng cụ để gãi lưng, về sau
dùng để tượng trưng cho những điều
tốt lành, chúc tụng. Như Ý làm bằng xương, sừng,
trúc, gỗ quý, ngọc, đá, đồng, sắt v.v... có
cán dài chừng ba tấc, hơi uốn cong trông như
như chữ S bị kéo dài ra. Đầu to có uốn cong
lên hơi hướng về phía cán, chạm hình nấm Linh
Chi hoặc áng mây, ở giữa thường gắn ngọc
hay đá quý, hoặc chạm tổ nhiều vờn mây uốn
lượn, bao quanh một chữ Thọ, Phước, Lộc
v.v... khắc theo kiểu chữ triện. Chỗ tay cầm
cũng làm hơi to ra, thường khắc chữ Tâm, chữ
Phước, hoặc chữ Thọ, hoặc không khắc
chữ. Trong nhà Phật cũng thường dùng Như Ý làm
pháp khí để vị pháp sư chủ pháp cầm trong các
pháp hội như Du Già Diệm Khẩu hoặc Thủy Lục.
Đối với những cây Như Ý dùng trong các nhà phú quý,
cán thường gắn thêm một đôi tua kết bằng
chỉ màu đỏ hoặc vàng. Đây cũng là vật dụng
mà vua thường ban tặng cho các quan trong những dịp
khánh hạ, nhất là ban cho mẹ hay phu nhân của các quan
lại cao cấp.
[11] Mê cung (labyrinth, maze) là một thứ kiến
trúc phức tạp, nhiều đường vòng, nhiều
lối rẽ, nhiều ngõ cụt, khiến ai lạc vào
đó sẽ khó thể biết lối ra. Theo thần thoại
Hy Lạp, Daedalus đã xây dựng mê cung cho vua Minos ở
đảo Crete để nhốt con quái vật Minotaur
(thân người, đầu trâu mộng). Theseus nhờ
Aridne giúp đỡ (trao cho chàng cuộn chỉ để
đánh dấu lối ra) đã vào tận trung tâm mê cung, giết
được Minotaur.
[12] Đại Châu Hòa
Thượng chính là ngài Huệ Hải, sống vào thời
Đường. Sư xin xuất gia với pháp sư Đạo
Trí tại chùa Đại Vân (Việt Châu). Về sau
đến Giang Tây, tham học với Mã Tổ Đạo
Nhất. Chỉ trong sáu năm đã đại ngộ, trở
về Việt Châu, soạn cuốn Đốn Ngộ Nhập
Đạo Yếu Môn Luận được Mã Tổ khen
ngợi: “Đại châu viên
minh” (viên châu lớn tỏa sáng trọn vẹn). Do vậy,
Ngài được người đời gọi là Đại
Châu Hòa Thượng.
[13] Lượng (量) là so lường, là tiêu chuẩn. Có nghĩa
là những tiêu chuẩn để phân định sự hiểu
biết là chân hay ngụy, gồm ba tiêu chuẩn như sau:
1. Hiện Lượng (Pratyakśa-pramāna): Còn gọi là Chân Hiện Lượng.
Dùng sự nhận biết sự vật trực tiếp của
Ngũ Căn để biện định. Hiện Lượng
chỉ có thể áp dụng cho bậc Bồ Tát từ
Sơ Địa trở lên. Từ Địa Tiền Bồ
Tát (những địa vị Bồ Tát chưa chứng
Sơ Địa) trở xuống, sự nhận biết sự
vật của Ngũ Căn đều là hư giả, lệc
lạc, không thể gọi là Hiện Lượng
được.
2. Tỷ Lượng (Anumāna-pramāna): Dùng so sánh để suy luận. Tức
là đem những điều đã biết chắc chắn
để so sánh với những điều chưa biết.
3. Thánh Giáo Lượng (còn gọi là Thánh
Ngôn Lượng, Chánh Giáo Lượng): Dùng những lời
dạy của bậc Nhất Thiết Trí để biện
định.
[14] Chữ “chế độ” ở đây
không có nghĩa là một chánh thể như dân chủ, độc
tài, phong kiến, tư bản, cộng hòa v.v... mà có nghĩa
là những phép tắc, khuôn khổ quy định cung cách ứng
xử đúng mức trong sinh hoạt thường nhật.
[15] Hiểu theo nghĩa hẹp, “tiết
tháo” có nghĩa là giữ vững những nguyên tắc,
nguyên lý đạo đức, phẩm tánh của chính mình,
không bị khuất phục, thay đổi trước bạo
lực, cường quyền. Theo nghĩa rộng, “tiết
tháo” là giữ vững phẩm tánh, khí tiết, đạo
đức, nguyên tắc sống, không vì hoàn cảnh dụ
dỗ mê hoặc, hoặc vì bị sức ép của xã hội
hay đồng bạn mà thay đổi, biến chất.
[16] [Ghi chú của cư
sĩ Lưu Thừa Phù]: Ngũ Suy là một thuật
ngữ trong nhà Phật. Khi một vị trời sắp chết
sẽ hiện ra năm thứ tướng suy. Kinh Đại
Niết Bàn chép: “Thích Đề
Hoàn Nhân (chúa cõi trời Đao Lợi, gọi tắt là
Đế Thích), khi sắp mạng chung, có năm tướng
hiện. Một là xiêm áo nhơ
bẩn, hai là hoa trên đầu héo, ba là thân thể hôi
dơ, bốn là dưới nách toát mồ hôi, năm là chẳng
thích tòa của mình”. Có năm tướng này thì chư
thiên liền biết là sắp chết, lại phải theo
nghiệp vào luân hồi.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment