"Một người đối xử
xấu ác với bạn thì giống như một ai đó bị té vào đống rác bẩn. Nếu ngớ
ngẩn trở nên ghanh ghét hoặc sân hận với những người như thế, thì khác
nào bạn muốn ngồi vào đống rác giơ bẩn với họ. Có phải đó là những gì
bạn muốn? Hãy suy ngẫm về điều này cho đến khi bất cứ tư tưởng nào của
xấu ác và sân hận biến mất..."
Ajaan Lee Dhammadharo, Anh dịch: Tỳ Kheo Thanisasro,
Việt dịch: Thích Nguyên Thái
Việt dịch: Thích Nguyên Thái
Ở đây, chúng ta nói đến ba cấp độ của đức hạnh.
1.Sơ cấp (hetthima):
là cấp độ thông thường của lời nói và hành động, bao gồm ba nội quy cho
hoạt động của thân—không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm; và
bốn nội quy cho miệng—không nói dối, không nói lời ly gián, không nói
lời thô ác, không nói lời vô bổ. Nếu chúng ta học tập đức hạnh dựa trên
cấp độ này tùy thuận vào ngôn từ của những đức hạnh và những người vâng
giữ đức hạnh, thì có bốn—năm điều đức hạnh, hoặc tám, mười, 227 điều
đức hạnh. Tất cả những điều đức hạnh này dùng để xử lý các trường hợp cư
xử được xem là phóng túng và ngăn ngừa những việc sai quấy. Đồng thời,
đức Phật cũng định hướng cho chúng ta phát huy những cử chỉ tốt đẹp và
cư xử chuẩn mực trong sự thọ dụng bốn yếu phẩm cần thiết cho đời
sống—thức ăn, quần áo, chổ ở và thuốc men—cốt để cách cư xử của chúng ta
từ suy nghỉ, lời nói cho đến hành động sẽ trở nên ngăn nắp và phù hợp.
Phương diện này được xem như công việc thiền tịnh, cách cư xử mà chúng
ta nên thực hiện trong sự phát triển. Sự tuân thủ các điều đức hạnh hay
nội quy này—chỉ đơn thuần điều chỉnh lời nói và hành động—tạo nên cấp độ
thấp hơn hay sơ khởi về đức hạnh, đây là những gì khiến chúng ta trưởng
thành.
2. Trung cấp (majjhima):
tức cấp độ đức hạnh trung bình, nghĩa là xem xét lời nói, hành vi của
bạn để chúng không gây tổn hại cho mình và người khác. Ngoài ra, bạn
phải quan sát những ý tưởng của mình để giữ gìn chúng đúng mực theo ba
cách sau:
a. Vô tham (anabhijjha-visamalobha): không
tham muốn những thứ không thuộc phạm vi hoặc quyền hạn của bạn; không
có ý định nắm giữ những thứ như vậy; không nên xây dựng lâu đài trong
không khí. Đức Phật dạy chúng ta phải giữ gìn tài sản mà mình có để phát
triển nó ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, tài sản mình có, nếu chúng ta
dùng trí thông minh và tài khôn khéo để làm ra, là tài sản có giá trị
hấp dẫn hơn những thứ mà mình hoang phí thời gian và sức lực để đoạt lấy
bằng lòng tham hoặc thèm muốn. Ví dụ, giả sử gia tài chúng ta chỉ có
duy nhất một cây chuối. Nhưng nếu chúng ta tưới nước, bón phân, xới đất
quanh gốc và chăm sóc nó trong nhiều cách khác, thì rốt cuộc cây chuối
ấy tăng trưởng và nảy sinh ra nhiều cây chuối khác. Nói cách khác, Nếu
khéo léo, chúng ta có thể xoay xở bất cứ tài sản nào mà mình có trong
điều cơ bản cho kế sinh nhai. Nhưng nếu thiếu thông minh—nếu tâm chúng
ta chỉ muốn hưởng thụ mà không muốn làm việc— thậm chí nếu sở hữu cả một
khối tài sản kết xù, thì chúng ta sẽ không thể nuôi nổi chính mình
trong nhiều năm nhiều tháng. Vì vậy, tham theo kiểu này, điều mà chúng
ta luôn đặt tham vọng lên đó và vượt quá khả năng của mình, là điều sai
trái thuộc hoạt động tâm thức.
b. Vô sân (abyapada):
buông bỏ mọi suy nghỉ về ác ý, sân hận và báo thù, thay vào đó nên phát
huy các tư tưởng về nhân đức, ý thiện; nghỉ về các khía cạnh tốt đẹp
của những người đã làm chúng ta tức giận. Khi những người khiến chúng
ta trở nên giận giữ, điều này xuất phát từ thực tế rằng mình có liên
quan đến họ—trong đó chúng ta kết giao và giúp đở người khác—đôi lúc dẫn
đến thất vọng. Điều này phát sanh bất bình và bực bội khiến chúng ta ấp
ủ trong lòng và nuôi lớn các cảm giác gây hại nảy sinh tức giận và và
những ý nghỉ trả thù. Vì thế, chúng ta nên nhìn những người như vậy từ
nhiều gốc độ, họ cũng có một số điểm tốt vì họ là con người. Nếu không
đối xử tốt với chúng ta, thì ít nhất họ cũng nói tốt với chúng ta. Hoặc
không cư xử tốt và nói tốt với chúng ta, thì có lẽ ít nhất họ nghỉ tốt
về chúng ta trong một số trường hợp. Khi nhận thấy tư tưởng của mình bị
sân hận hoặc ghanh ghét điều khiển, bạn nên ngồi xuống và suy ngẫm theo
hai cách sau:
(1) Hãy nghỉ về bất cứ điều gì
mà người đó đối xử tốt với bạn. Khi những điều này xuất hiện trong tâm,
thì chúng sanh khởi các cảm giác của yêu thương và thiện ý.
(2) Hãy nghĩ rằng sân hận là
một điều vô bổ, chẳng khác nào rác rưởi trôi trên mặt hồ. Nếu ngớ ngẩn,
chúng ta sẽ không uống được nước sạch đã lóng cặn; hoặc nếu uống các cặn
bả, thì có thể chúng ta mắc phải một căn bệnh nào đó. Một người đối xử
xấu ác với bạn thì giống như một ai đó bị té vào đống rác bẩn. Nếu ngớ
ngẩn trở nên ghanh ghét hoặc sân hận với những người như thế, thì khác
nào bạn muốn ngồi vào đống rác giơ bẩn với họ. Có phải đó là những gì
bạn muốn? Hãy suy ngẫm về điều này cho đến khi bất cứ tư tưởng nào của
xấu ác và sân hận biến mất.
c. Chánh kiến (samma ditthi):
là từ bỏ các quan điểm sai lầm và sự ám muội của tâm. Nếu tâm mình
thiếu sự huấn luyện và giáo dục phù hợp, thì chúng ta có thể nghỉ rằng
mình và những người khác được sinh ra đơn giản chỉ theo bản năng tự
nhiên; cha mẹ chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt; thiện và ác không tồn tại.
Các quan điểm như vậy đi sai sự thật. Họ có thể khuyên bảo chúng ta từ
bỏ việc ác trong chính mình, đồng thời phát huy và nuôi dưỡng việc
thiện. Nếu tin tưởng rằng không có điều ác hay điều thiện, cái chết là
diệt mất, thì đó là quan điểm sai lầm—một sản phẩm của tư tưởng sai lầm
và nhận thức nghèo nàn, thấy mọi thứ không tồn tại. Bởi vậy, chúng ta
nên buông bỏ những quan điểm như thế và rèn luyện chính mình, tìm kiếm
hiểu biết về các pháp và kết giao những người có trí tuệ hơn mình để họ
có thể chỉ cho chúng ta phương thức hợp lý. Sau đó, chúng ta cải đổi các
quan điểm của mình và khiến nó trở nên đúng đắn, đây là một trạng thái
tâm thức chân chính.
Đức hạnh dựa trên cấp độ này,
khi duy trì đúng mực, nó sẽ xác định cho chúng ta trở thành chúng sanh ở
cõi trời. Các đặc tính của chúng sanh ở cõi trời là phát triển vượt ra
ngoài những giá trị của con người, và chúng ta sẽ trở lại làm người rất
cao cả trong đức hạnh của mình nhằm giữ gìn ý nghỉ, lời nói và hành động
mà mình xác định cho cõi trời trong đời sống này. Đây là một phương
diện của phước đức được phát huy bởi bởi một người chuyên tâm giữ gìn
đức hạnh ở cấp độ trung bình.
3. Cao cấp (uparima):
là cấp độ đức hạnh cao hơn, nơi đức hạnh hợp nhất với các pháp trong
lãnh vực hoạt động của tâm. Có hai khía cạnh về đức hạnh cao hơn:
a. Xả (pahana): là buông bỏ năm yếu tố sau:
(1) Tham dục (kamachanda):
là lưu luyến, tham lam, lơ đảng, cuồng loạn, là những tham muốn nhục
dục nằm ngay trong bản chất của tật xấu hoan lạc. Tâm cảm thấy hấp dẫn
trước những đối tượng nhục dục—những ý tưởng cảm giác về tầm nhìn, âm
thanh, mùi vị, xúc chạm trong quá khứ hoặc tương lai—hoặc những cảm giác
cấu uế—si mê, ghanh ghét hoặc ảo tưởng—rồi đánh mất chính mình. Các
trạng thái tâm như vậy có thể được xem là vượt quá giới hạn của phép tắc
trong những vấn đề xúc cảm.
(2) Oán ghét (byapada):
là ác ý và sân hận nằm trong bản chất của việc giết chóc khiến chúng ta
phá hủy điều thiện của chính mình và người khác—khi tâm giết chết điều
thiện của chính mình, vậy chúng ta thu được điều tốt nào từ việc giết
người khác và động vật?
(3) Hôn trầm (thina-midha):
là trạng thái chán nản, muộn phiền và uể oải. Đây là tình trạng thẩn
thờ, lơ mơ và u ám, quên trước quên sau không có chánh niệm hoặc không
quán chiếu tâm. Nó còn có nghĩa là say sưa hoặc mê mẩn.
(4) Phóng dật (uddhacca-kukkacca):
là trạng thái bồn chồn và lo lắng nằm trong bản chất của việc nắm giữ
những gì không thuộc sở hữu của mình. Tâm thường lo lắng về việc nắm giữ
tài vật của người khác, đôi lúc là vật có giá trị đối với họ, nhưng đôi
lúc lại là vật không có giá trị đối với họ. Nếu nói là vật không có giá
trị đối với họ, thì không đứng đắn, bởi vì ít nhất số tài vật đó cũng
cho chúng ta sống được một vài ngày..Ngay cả khi ăn cắp công việc/sự
kinh doanh của người khác để giữ riêng cho mình, thì cũng như chúng ta
lấy cắp vàng bạc của họ. Nếu vật không có giá trị của họ giống như rác
rưởi mà họ vứt đi—đồ vụn vặt và thừa thải không có giá trị gì—thì chúng
ta có thể lấy dùng. Nhưng nếu biết người khác đang sở hữu những vật
không giá trị đó và họ bảo vệ chúng mà chúng ta vẫn cố tình lấy, thì
chẳng khác nào ăn trộm vậy.
(5) Hoài nghi (vickiccha):
là trạng thái nghi ngờ, do dự và không quyết đoán. Trạng thái này thuộc
về bản chất của đối trá. Nói cách khác, tâm chúng ta không chắc chắn,
không tin cậy được hoặc không thực. Chúng ta không có những quy định
chắc chắn và vì thế bị ảnh hưởng các ý tưởng do dự và những lo toan.
Tất cả những trạng thái thiếu
trí tuệ ở trên là những gì mà chúng ta nên tịnh trừ bằng cách rèn luyện
tâm mình theo các phương thức sau:
b. Thiền định (bhavana): những tính chất cần được phát huy.
(1) Chánh niệm (sati):
bắt đầu bằng cách suy ngẩm về một đối tượng, như theo dỏi hơi thở vào
và hơi thở ra. Dùng chánh niệm để đem tâm tập trung vào một đối tượng. Tầm,
nghỉ theo cách này, là những gì loại trừ dục vọng ham muốn, trong đó
nguyên tắc của chánh niệm là giữ tâm định tỉnh khiến nó không chạy theo
các đối tượng bên ngoài.
(2) Tứ (vicara): là
suy nghiệm và quán chiếu. Nghĩa là làm cho chính bạn nhận thức rõ mình
đã lãnh thọ cảm giác thoải mái và thanh thản từ hơi thở của mình hay
không. Nếu không, thì bạn hãy theo dỏi và điều chỉnh hơi thở theo nhiều
cách khác nhau: chẳng hạn như thở vào dài và thở ra dài, thở vào
dài và thở ra ngắn, thở vào ngắn và thở ra ngắn, thở vào ngắn và thở ra
dài, thở vào chậm và thở ra chậm, thở vào nhanh và thở ra nhanh, thở vào
nhẹ nhàng và thở ra nhẹ nhàng, thở vào mạnh và thở ra mạnh, thở vào
thông suốt khắp cơ thể và thở ra thông suốt khắp cơ thể. Hãy điều
chỉnh hơi thở cho đến khi nó đem lại những kết quả tốt cho thân tâm, và
bạn sẽ lợi bỏ những cảm giác của ác ý và sân hận.
(3) Hỷ (piti): khi
bạn có được những kết quả tốt—ví dụ khi các cảm giác hơi thở tinh tế
trong thân hợp nhất và cùng tuôn trào, tỏa khắp toàn bộ giác quan của cơ
thể—thì hơi thở trở nên giống như dây dẫn điện; các bộ phận khác của cơ
thể, như xương, tương tự cực âm và cực dương của dòng điện; chánh niệm
và tỉnh thức giống như nguồn điện; và như vậy, tỉnh thức trở nên sáng
rực và nhạy bén. Cả thân và tâm cảm thấy tràn đầy và mãn nguyện. Đây là
hỷ hay sự an vui có thể tịnh trừ sầu muộn.
(4) Lạc (sukha): bấy
giờ, các cảm giác bồn chồn và lo lắng đã biến mất, và một cảm giác an
lạc và thanh bình khởi lên trong thân tâm. Cảm giác an lạc này tịnh hóa
trạng thái bồn chồn và lo lắng.
(5) Định tỉnh (ekaggata):
những nghi ngờ và do dự mờ dần trong trạng thái này. Tâm tập trung vào
một đối tượng duy nhất trong trạng thái bình lặng và cân bằng. Sự bình
lặng của tâm được duy trì qua năng lực của quy luật chánh niệm, hình
thành nên bản chất của đức hạnh: quyết đoán, kiên định và tỉnh thức. Kết
quả đạt được của hương thơm hoặc sự nuôi dưỡng đức hạnh là định tỉnh,
thư thái, và một cảm giác tự tại cho tâm. Khi trạng thái tự do này sanh
khởi trong chúng ta, thì đó được gọi là sự phát huy của suy tưởng về đức
hạnh, chánh niệm của đức hạnh, Đây là đức hạnh đạt đến cấp độ ưu
việt—dẫn tới giác ngộ, đạo quả và Niết-bàn—vì vậy có thể được gọi là
giới cao thượng, đức hạnh cao cao cả.
Ajaan Lee Dhammadharo, Anh dịch: Tỳ Kheo Thanisasro,
Việt dịch: Thích Nguyên Thái
(Nguồn: www.dapphatngaynay.com)
Việt dịch: Thích Nguyên Thái
(Nguồn: www.dapphatngaynay.com)
0 Kommentare:
Post a Comment