"Kinh Hoa Nghiêm cao sâu, nhiệm mầu vi diệu như thế, nên những ai
thành kính phát tâm ấn tống thọ trì kinh này, thì phải biết rằng người
đó nhiều đời gieo thiện duyên Bồ đề, đã từng làm sứ giả của Phật và đã
từng ở trong ngôi nhà chánh pháp..."
LGT: Sau khi đức Phật nhập diệt lối sáu trăm năm, do Long Thọ Bồ tát, Kinh
Hoa Nghiêm này mới được lưu truyền bằng phạn văn. Toàn bộ Kinh chữ Phạn
có một trăm ngàn bài kệ, chia làm bốn mươi tám phẩm. Ðến nhà Ðường, Ðại
Sư Thật Xoa Nan Ðà từ nước Vu Ðiền mang bổn Kinh chữ Phạn này sang
Trung Quốc dịch ra Hán văn. Nhưng Ðại Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín
phẩm, từ phẩm “Thế Chủ Diệu Nghiêm” đến phẩm “Nhập Pháp Giới”, cộng có
ba mươi sáu ngàn bài kệ theo Phạn văn, còn lại chín phẩm sáu mươi bốn
ngàn bài kệ Phạn văn chưa được dịch ra Hán văn. Kế đó, Pháp sư Bát Nhã,
người Kế Tân dịch thêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện ra Hán văn, thành phẩm
thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Hán Dịch: Ðại Sư Thật Xoa Nan Ðà
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Trọn bộ 4 tập – Tái bản lần thứ hai)
Nhà xuất bản Tôn giáo Hà Nội – PL.2549 – DL.2005
(Chánh Tân Tu Đại Tạng, tập 10, Hoa Nghiêm Bộ ,
số hiệu 0278 , 80 quyển, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Đường
Thật-xoa-nan-đà dịch.
Kinh Hoa Nghiêm chúng tôi dò theo bộ mới tái
bản gồm 4 tập. Những lần xuất bản trước, có khi chia thành 8 tập hay 6
tập. Để tiện gởi lên mạng chúng tôi gởi riêng từng phẩm, các bạn có thể
tải trọn bốn bộ tại http://daitangkinhvietnam.org/hatai/kinhhoanghiem
Nhân đây cũng xin thành kính cảm ơn ban biên tập Thư Viện Hoa Sen, các
vị tiền bối đi trước đã đánh máy sẵn để chúng tôi những người đi sau
được thừa hưởng.
Phần mục lục tổng quát và “Nghi thức tụng” chỉ ghi ở tập I chương đầu. Các chương và tập kế chỉ có mục lục của mỗi tập. bttdtkvn)
Mục Lục
Thay lời tựa.
Lời nói đầu.
Nghi thức sám hối trước khi tụng kinh.
Nghi thức trì tụng.
Mục Lục Toàn Tập.
TẬP 1
01. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất. (Hán bộ từ quyển thứ nhứt đến hết quyển thứ năm)
02. Phẩm Như Lai Hiện Tướng thứ hai. (Hán bộ trọn quyển thứ sáu)
03. Phẩm Phổ Hiền Tam Muội thứ ba. (Hán bộ phần đầu quyển thứ bảy)
04. Phẩm Thế Giới Thành Tựu thứ tư. (Hán bộ phần sau quyển thứ bảy)
05. Phẩm Hoa Tạng Thế Giới thứ năm. (Hán bộ từ quyển thứ tám đến hết quyển thứ mười)
06. Phẩm Tỳ Lô Giá Na thứ sáu. (Hán bộ trọn quyển thứ mười một)
07. Phẩm Như Lai Danh Hiệu thứ bảy. (Hán bộ phần đầu quyển thứ mười hai)
08. Phẩm Tứ Thánh Ðế thứ tám. (Hán bộ phần sau quyển thứ mười hai)
09. Phẩm Quang Minh Giác thứ chín. (Hán bộ phần đầu quyển thứ mười ba)
10. Phẩm Bồ Tát Vấn Minh thứ mười. (Hán bộ phần sau quyển thứ mười ba)
11. Phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một. (Hán bộ phần đầu quyển thứ mười bốn)
12. Phẩm Hiền Thủ thứ mười hai. (Hán bộ phần sau quyển thứ mười bốn đến hết quyển thứ mười lăm)
13. Phẩm Thăng Tu Di Sơn Đảnh thứ mười ba. (Hán bộ phần đầu quyển thứ mười sáu)
14. Phẩm Tu Di Sơn Đảnh Kệ Tán thứ mười bốn. (Hán bộ phần giữa quyển thứ mười sáu)
15. Phẩm Thập Trụ thứ mười lăm. (Hán bộ phần sau quyển thứ mười sáu)
16. Phẩm Phạm Hạnh thứ mười sáu. (Hán bộ phần đầu quyển thứ mười bảy)
17. Phẩm Sơ Phát Tâm Công Đức thứ mười bảy. (Hán bộ phần sau quyển thứ mười bảy)
18. Phẩm Minh Pháp thứ mười tám. (Hán bộ trọn quyển thứ mười tám)
19. Phẩm Thăng Dạ Ma Thiên Cung thứ mười chín. (Hán bộ phần đầu quyển thứ mười chín)
20. Phẩm Dạ Ma Kệ Tán thứ hai mươi. (Hán bộ phần giữa quyển thứ mười chín)
21. Phẩm Thập Hạnh thứ hai mươi mốt. (Hán bộ phần sau quyển thứ mười chín đến hết quyển thứ hai mươi)
TẬP 2
22. Phẩm Vô Tận Tạng thứ hai mươi hai. (Hán bộ trọn quyển thứ hai mươi mốt)
23. Phẩm Thăng Ðâu Suất Thiên Cung thứ hai mươi ba. (Hán bộ trọn quyển thứ hai mươi hai)
24. Phẩm Ðâu Suất Kệ Tán thứ hai mươi bốn. (Hán bộ phần đầu quyển thứ hai mươi ba)
25. Phẩm Thập Hồi Hướng thứ hai mươi lăm. (Hán bộ phần sau quyển thứ hai mươi ba đến hết quyển thứ ba mươi ba)
26. Phẩm Thập Địa thứ hai mươi sáu. (Hán bộ từ quyển thứ ba mươi bốn đến quyển thứ ba mươi chín)
TẬP 3
27. Phẩm Thập Định thứ hai mươi bảy. (Hán bộ từ quyển thứ bốn mươi đến quyển thứ bốn mươi ba)
28. Phẩm Thập Thông thứ hai mươi tám. (Hán bộ phần đầu quyển thứ bốn mươi bốn)
29. Phẩm Thập Nhẫn thứ hai mươi chín. (Hán bộ phần sau quyển thứ bốn mươi bốn)
30. Phẩm A Tăng Kỳ thứ ba mươi. (Hán bộ phần đầu quyển thứ bốn mươi lăm)
31. Phẩm Thọ Lượng thứ ba mươi mốt. (Hán bộ phần giữa quyển thứ bốn mươi lăm)
32. Phẩm Chư Bồ Tát Trụ Xứ thứ ba mươi hai. (Hán bộ phần sau quyển thứ bốn mươi lăm)
33. Phẩm Phật Bất Tư Nghì thứ ba mươi ba. (Hán bộ quyển thứ bốn mươi sáu đến quyển thứ bốn mươi bảy)
34. Phẩm Như Lai Thập Thân Tướng Hải thứ ba mươi bốn. (Hán bộ phần đầu quyển thứ bốn mươi tám)
35. Phẩm Như Lai Tùy Hảo Quang Minh Công Đức thứ ba mươi lăm. (Hán bộ phần sau quyển thứ bốn mươi tám)
36. Phẩm Phổ Hiền Hạnh thứ ba mươi sáu. (Hán bộ trọn quyển thứ bốn mươi chín)
37. Phẩm Như Lai Xuất Hiện thứ ba mươi bảy. (Hán bộ từ đầu quyển thứ năm mươi đến hết quyển thứ năm mươi hai)
38. Phẩm Ly Thế Gian thứ ba mươi tám. (Hán bộ từ đầu quyển thứ năm mươi ba đến hết quyển thứ năm mươi chín)
TẬP 4
39. Phẩm Nhập Pháp Giới thứ ba mươi chín.
- Phần đầu (Hán bộ từ quyển thứ sáu mươi đến quyển bảy mươi)
- Phần sau (Hán bộ từ quyển bảy mươi mốt thứ đến đầu quyển thứ tám mươi)
40. Phẩm Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ bốn mươi. (Hán bộ trọn phần sau quyển thứ tám mươi)
Thay Lời Tựa
Kinh Hoa Nghiêm là bộ
kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân
hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởng và tâm nguyện
của Phật.
Hoa Nghiêm tiếng Phạn
là Avatamsaka, có nghĩa là đóa hoa thanh khiết tuyệt đẹp nhất trần gian,
ngát hương khắp mười phương các cõi pháp giới.
Tư tưởng Hoa Nghiêm
trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực thể của vạn pháp. Tâm vọng
thì vạn pháp hoạt hiện sai biệt hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên
khởi, cái này có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn thì
pháp giới tánh với Tâm là một, vạn pháp đồng nhất thể. Tâm thanh tịnh
thì thấu đạt chơn lý Phật tánh, suốt thông pháp giới vô ngại, thể nhập
bất tư nghì giải thoát hạnh môn. Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng
sanh thấu rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng
nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là huyễn hóa,
như hoa trong gương, như trăng trong nước. Tất cả vạn pháp trong pháp
giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ
có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ
vạn pháp. Thể tánh của Tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả là một, một là tất
cả. Ðó là bản tánh vô ngại của Tâm. Bản tánh chơn tâm suốt thâu vạn pháp
hữu tình và vô tình; lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng; lấy xứng
tánh bất tư nghì vô ngại giải thoát làm thể. Ðó là ý nghĩa căn cốt của
Kinh Hoa Nghiêm.
Bởi thế, nếu Kinh Ðại
Bát nhã tiêu biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại thừa về lý chơn không vô
ngại, thì Kinh Hoa Nghiêm đại biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại thừa về lý
hữu hóa duyên sanh của vạn pháp.
Ngoài ra Kinh Hoa
Nghiêm còn là một thông điệp, một bài học phong phú sinh động muôn đời,
trao gởi cho hành giả có tâm hướng thượng đại thừa, tu là cần phải học
phải hành qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử tham bái cầu học đạo với năm
mươi ba vị thiện tri thức, là bằng chứng cho ta thấy rằng tu học đạo Bồ
đề điều tiên quyết cần phải khắc phục nội tâm cống cao ngã mạn, dục vọng
loạn tưởng; ngoài thân khiêm cung cầu tiến hành trì phương pháp Hoa
Nghiêm tuyệt đỉnh, tìm chân sư liễu ngộ mới mong hiển lộ được Phật tánh
chơn tâm của mình.
Nên nghiên tầm ý nghĩa
của Kinh Hoa Nghiêm là khai mở quang lộ trở về bản tánh chơn tâm thanh
tịnh sáng suốt thường nhiên; là biết được tự thể của các pháp hiện hành
trong thế giới vũ trụ; là thấu suốt cội nguồn sanh sanh hóa hóa của hữu
tình và vô tình chúng sanh; là quán chiếu bí yếu mật nghĩa viên dung
tương quan của tâm và cảnh, để rồi từ đó có thể thống triệt lý viên dung
vô ngại chủ và khách của vạn pháp, hiện hành sanh hóa, tương duyên
tương nhơn quả, tương sanh tương diệt. Tất cả vạn pháp toàn triệt ảnh
hiện trên đài gương chơn như thể tánh. Thế nên, thọ trì Kinh Hoa Nghiêm
là bước vào cửa phương tiện cầu tu học đạo, là nhân tố đặc thù hy hữu ly
vọng hoàn chơn.
Bởi công đức đặc thù
nhiệm mầu vi diệu của Kinh Hoa Nghiêm như thê, nên người có thiện duyên
thấy Kinh Hoa Nghiêm mà biết phát tâm thành kính tin sâu, thì như chính
mình được thấy Phật. Người thành tâm đọc Kinh Hoa Nghiêm như trực tiếp
nghe Phật khai thị. Người chí thành phụng thờ Kinh Hoa Nghiêm như chính
mình trực tiếp phụng thờ Phật. Người phát tâm Bồ đề ấn tống Kinh Hoa
Nghiêm có công đức như được cúng dường Phật, như được thỉnh Phật trụ thế
chuyển pháp luân, như được dự vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của chư
Phật. Kinh Hoa Nghiêm cao sâu, nhiệm mầu vi diệu như thế, nên những ai
thành kính phát tâm ấn tống thọ trì kinh này, thì phải biết rằng người
đó nhiều đời gieo thiện duyên Bồ đề, đã từng làm sứ giả của Phật và đã
từng ở trong ngôi nhà chánh pháp.
Phật Học Viện Quốc Tế
nhận thấy thời mạt pháp này, pháp nhược ma cường, để cho chánh pháp đại
thừa được trường tồn phổ cập nhân gian, làm rường cột cho niềm tin chánh
đạo, ngõ hầu thức tỉnh quần mê sớm hồi đầu về bến giác. Nên nguyện cùng
chư Phật tử bốn phương, đồng chí hướng đại thừa vô lượng đạo, đồng tâm
thành kính in lại bộ kinh đại thừa quý giá này, để kết thiện duyên Vô
thượng Bồ đề, cùng các bạn hiền đang hướng nguyện tiến bước theo gót
chân Phật trở về giác tánh chân như.
Ngưỡng nguyện chư tôn thiền đức và các bậc thiện hữu tri thức Phật tử gần xa phát tâm hoan hỷ hộ trì.
Thành tâm kính lạy Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.
Phật Ðản 2532 Mậu Thìn 1988
THÍCH ÐỨC NIỆM
Lời Nói Ðầu Của Dịch Giả
Khảo cứu theo truyền
sử trong đại tạng, khi thành đạo Vô thượng Chánh giác, chưa vội rời đạo
tràng Bồ Ðề, đức Thích Ca Mâu Ni Phật với pháp thân Tỳ Lô Giá Na, cùng
chư đại Bồ tát chứng giải thoát môn, tuyên thuyết Kinh Hoa Nghiêm.
Sau khi đức Phật nhập
diệt lối sáu trăm năm, do Long Thọ Bồ tát, Kinh Hoa Nghiêm này mới được
lưu truyền bằng phạn văn. Toàn bộ Kinh chữ Phạn có một trăm ngàn bài kệ,
chia làm bốn mươi tám phẩm.
Ðến nhà Ðường, Ðại Sư
Thật Xoa Nan Ðà từ nước Vu Ðiền mang bổn Kinh chữ Phạn này sang Trung
Quốc dịch ra Hán văn. Nhưng Ðại Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín phẩm,
từ phẩm “Thế Chủ Diệu Nghiêm” đến phẩm “Nhập Pháp Giới”, cộng có ba mươi
sáu ngàn bài kệ theo Phạn văn, còn lại chín phẩm sáu mươi bốn ngàn bài
kệ Phạn văn chưa được dịch ra Hán văn.
Kế đó, Pháp sư Bát
Nhã, người Kế Tân dịch thêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện ra Hán văn, thành
phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
Nguyên bổn chữ Hán
chia ra làm tám mươi mốt quyển. Vì xét thấy chia quyển ra như thế, có
nhiều phẩm bị cắt ra làm hai ba quyển hoặc nhiều hơn, thành thử mạch văn
bị gián đoạn, nên khi phiên dịch ra Việt văn, tôi chỉ lấy phẩm mà không
theo quyển của bổn chữ Hán. Tuy nhiên, tôi vẫn chua số quyển của bổn
chữ Hán trong bổn Việt văn này, để tiện sự so cứu cho người đọc.
Kinh này gọi đủ là “Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm”, ta quen gọi là Kinh Hoa Nghiêm.
Nội dung của Kinh này
đứng trên cảnh giới bất tư nghì giải thoát, chư pháp thân Ðại sĩ thừa
oai thần của đức Phật tuyên dương công đức cùng cảnh giới của chư Phật
và xương minh nhơn hạnh xứng tánh bất tư nghì của chư đại Bồ tát.
Kinh Hoa Nghiêm này đã
hoàn toàn ở trong lãnh vực xứng tánh bất tư nghì giải thoát mà xương
minh, nên mỗi lời mỗi câu trong Kinh này đều lấy toàn thể pháp giới tánh
làm lượng. Ðã là toàn thể pháp giới tánh nên tất cả Giáo, Lý, Hạnh, Quả
nơi đây đều dung thông vô ngại, nên cũng gọi là vô ngại pháp giới.
Từng bực cứu cánh của
vô ngại pháp giới là Sự sự vô ngại pháp giới, chỗ chứng nhập hoàn toàn
của chư Phật mà chư pháp thân Bồ tát thời được từng phần.
Muốn hiểu thấu phần
nào cảnh giới trên đây, người học đạo cần phải biết rõ bốn pháp giới,
bốn cấp bực mà chư đại thừa Bồ tát tuần tự tu chứng:
1. Lý vô ngại pháp giới
2. Sự vô ngại pháp giới
3. Lý sự vô ngại pháp giới
4. Sự sự vô ngại pháp giới
“Lý” tức là chơn lý
thật tánh, là thể tánh chơn thật của tất cả pháp, nên cũng gọi là pháp
tánh hay pháp giới tánh, chơn như tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều
đồng một thể tánh chơn thật ấy. Thể tánh ấy dung thông vô ngại, nên gọi
là “Lý vô ngại pháp giới”. Người chứng được lý vô ngại này chính là bực
thành tựu căn bổn trí, mà bắt đầu dự vào hàng pháp thân Bồ tát.
Tất cả pháp “Sự” đều
đồng một thể tánh chơn thật, tức là đồng lấy pháp tánh làm tự thể. Toàn
thể “Sự” là pháp tánh, mà pháp tánh đã viên dung vô ngại, thời toàn sự
cũng vô ngại, nên gọi là “Sự vô ngại pháp giới”. Người chứng được pháp
giới này chính là bực pháp thân Bồ tát thành tựu sai biệt trí (cũng gọi
là quyền trí, tục trí, hậu đắc trí).
Lý là thể tánh của
“Sự” (tất cả pháp), “Sự” là hiện tượng của “Lý tánh”. Vậy thời lý tánh
tức là lý tánh của sự, còn sự lại là sự tướng của lý tánh. Chính Lý tánh
là toàn sự, mà tất cả sự là toàn Lý tánh, nên gọi là “Lý sự vô ngại
pháp giới”. Người chứng được lý sự pháp giới này thời là bậc pháp thân
Bồ tát đồng thời hiển phát cả hai trí (căn bổn trí và sai biệt trí).
Tất cả sự đã toàn đồng
một thể tánh mà thể tánh thời dung thông không phân chia riêng khác,
nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều
tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức
một sự. Thế là sự sự vô ngại tự tại, nên gọi là “Sự sự vô ngại pháp
giới”. Người chứng được Sự sự pháp giới này là bực pháp thân Bồ tát
thành tựu nhứt thiết chủng trí. Viên mãn trí này chính là Ðấng Vô Thượng
Giác (Phật Thế Tôn).
Sự sự vô ngại pháp
giới dung thông tự tại, nội dung của toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm, được chứng
minh trên toàn thể văn Kinh này. Nay xin lược dẫn một vài đoạn văn rõ
nhứt để chư học giả tiện tham cứu:
Sự sự là tất cả sự hoặc là tất cả pháp, tức là toàn thể không gian và thời gian.
Về không gian dung thông vô ngại văn Kinh nói:
Bao nhiêu vi trần trong thế giới
Trong mỗi vi trần thấy các cõi
Bửu quang hiện Phật vô lượng số
Cảnh giới tự tại của Như Lai
Vô lượng vô số núi Tu Di
Ðều đem để vào một sợi lông,
Một thế giới để vào tất cả
Tất cả thế giới để vào một,
Thể tướng thế giới vẫn như cũ
Vô đẳng vô lượng đều cùng khắp.
Trong một chân lông đều thấy rõ
Vô số vô lượng chư Như Lai
Tất cả chân lông đều thế cả
Tôi nay kính lạy tất cả Phật
Về thời gian dung thông vô ngại văn Kinh nói:
Kiếp quá khứ để hiện, vị lai,
Kiếp vị lai để quá, hiện tại,
Ba đời nhiều kiếp là một niệm
Chẳng phải dài vắn: hạnh giải thoát.
Tôi hay thâm nhập đời vị lai
Tất cả kiếp thâu làm một niệm,
Hết thảy những kiếp trong ba đời
Làm khoảng một niệm tôi đều nhập.
Về không gian và thời gian dung thông vô ngại nhau, văn Kinh nói:
Khắp hết mười phương các cõi nước
Mỗi đầu lông đủ có ba đời
Phật cùng quốc độ số vô lượng
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp.
Trong một niệm tôi thấy ba đời
Tất cả các đấng Nhơn Sư Tử
Cũng thường vào trong cảnh giới Phật
Như huyễn, giải thoát và oai lực.
Tất cả sự không ngoài
thời gian và không gian. Thời gian dung thông thời gian, không gian dung
thông không gian, thời gian dung thông không gian, không gian dung
thông thời gian. Một không gian dung thông tất cả không gian, một thời
gian dung thông tất cả thời gian, tất cả dung thông với một, thời gian
với không gian, một cùng tất cả cũng đều dung thông như vậy. Ðây chính
là Sự sự vô ngại pháp giới, mà cũng chính là cảnh giới giải thoát bất tư
nghì mà Kinh Hoa Nghiêm này lấy đó làm nội dung như đã nói ở trên.
Lược giải một vài
điều, để giúp phần nào cho học giả khi cần thấy phải thấu triệt nội dung
của Kinh này. Vị nào muốn nghiên cứu đầy đủ xin xem bộ Hoa Nghiêm đại
sớ của Tổ Thanh Lương và Thập huyền môn của Tổ Hiền Thủ.
Tôi thành kính đem công đức phiên dịch Việt văn này hồi hướng cho tất cả chúng sanh đồng về Tịnh Ðộ, đồng sớm thành Phật.
Viết tại chùa Vạn Ðức
Thủ Ðức ngày Phật nhập Niết Bàn
Rằm tháng Hai 2508
Dịch Giả
Hân Tịnh Tỳ Kheo
Thích Trí Tịnh
Nghi Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh
(Dùng ba nghiệp thân,
khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi
tụng kinh cần phải Sám hối, Sám hối tức là làm cho 3 nghiệp thanh tịnh)
Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật. (1 lạy)
Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp. (1 lạy)
Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)
(Quì, tay cầm hương cúng dường phát nguyện)
Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật.
Tôn Pháp, các Bồ tát,
Vô biên chúng Thanh văn
Và cả thảy Thánh hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi,
Khắp xông các chúng sanh
Ðều phát lòng Bồ đề,
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo Vô thượng.
(cầm hương lạy 1 lạy)
(Ðứng chắp tay xướng)
Sắc thân Như Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận
Trí tuệ Phật cũng thế
Tất cả Pháp thường trụ
Cho nên con về nương.
Sức trí lớn nguyện lớn
Khắp độ chúng quần sanh
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui.
Con nay sạch ba nghiệp
Qui y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng sanh
Ðồng sanh nước An Lạc.
Án phạ nhựt ra vật. (7 lần)
Chí Tâm Ðảnh Lễ:
(Câu này thông cả 9 câu dưới, đều xướng ở đầu câu)
Thường tịch quang Tịnh độ
A Di Ðà Như Lai
Pháp thân mầu thanh tịnh
Khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
Thật báo trang nghiêm độ
A Di Ðà Như Lai
Thân tướng hải vi trần
Khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
Phương tiện thánh cư độ
A Di Ðà Như Lai
Thân trang nghiêm giải thoát
Khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
Cõi An Lạc phương Tây
A Di Ðà Như Lai
Thân căn giới Đại thừa
Khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
Cõi An Lạc phương Tây
A Di Ðà Như Lai
Thân hóa đến mười phương
Khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
Cõi An Lạc phương Tây
Giáo hạnh lý ba kinh
Tột nói bày ý chánh
Khắp pháp giới Tôn Pháp. (1 lạy)
Cõi An Lạc phương Tây
Quán thế Âm Bồ tát
Thân tử kim muôn ức
Khắp pháp giới Bồ tát. (1 lạy)
Cõi An Lạc phương Tây
Ðại Thế Chí Bồ tát
Thân trí sáng vô biên
Khắp pháp giới Bồ tát. (1 lạy)
Cõi An Lạc phương Tây
Thanh tịnh đại hải chúng
Thân hai nghiêm: Phước, trí
Khắp pháp giới Thánh chúng. (1 lạy)
(Ðứng chắp tay nguyện)
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng (1) nên qui mạng (2) Sám hối(3)
(1 lạy quỳ chắp tay Sám hối)
Chí Tâm Sám hối:
Ðệ tử... và chúng sanh
trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy
nên điên đảo mê lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng
lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô gián (5) và tất cả các tội
khác, nhiều vô lượng vô biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật
thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị
ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả lý mầu thường trụ
đầy dẫy hư không.
Con từ vô thỉ đến nay,
sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chằng nghe, chẳng hay
chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các
đường dữ (6) trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi.
Kinh rằng: “Ðức Tỳ Lô
Giá Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho
nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật pháp, mà con không rõ lại
theo giòng vô minh, vì thế trong trí Bồ đề mà thấy không thanh tịnh,
trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ
ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A Di Ðà Thế Tôn mà pháp lồ (7)
Sám hối làm cho đệ tử cùng pháp giới chúng sanh, tất cả tội nặng do ba
nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình
tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo,
hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc
chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo
thanh tịnh.
Ðệ tử Sám hối rồi, sáu
căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn
thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm Tịnh độ khắp với chúng
sinh, đồng sanh về nước An Dưỡng.
Nguyện đức A Di Ðà
Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn,
chẳng mất nhân duyên Tịnh độ, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, xem
nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A Di Ðà cùng các Thánh chúng, tay
cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát na sanh ra trước Phật, đủ
đạo hạnh Bồ tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Ðệ tử Sám hối phát
nguyện rồi qui mạng đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới, đại từ
đại bi, A Di Ðà Như Lai, biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy) (lạy xong tiếp
Nghi Thức tụng kinh )
Thích Nghĩa Sám Pháp
(1) Phiền não, nghiệp nhân, quả báo ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi: “Ba món chướng.”
(2) Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng chính là nghĩa của hai chữ “Nam mô”.
(3) Nói đủ là Sám ma hối quá. “Sám ma” là tiếng Phạm, nghĩa là “hối quá”, tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý: sáu căn, và ba nghiệp: thân, khẩu, ý.
(5) Giết cha, giết mẹ,
giết thánh nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là
năm tội Nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô gián nên gọi là tội Vô
gián Địa ngục. Vô gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
(6) A tu la, Súc sanh, Ngạ quỉ, Ðịa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
(7) Bày lộ tội lỗi ra
trước Chúng Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú
tàng (che giấu). Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát
hạn (ra mồ hôi).
Nghi Thức Trì Tụng
Bài Tán Lư Hương:
Lư hương vừa ngún chiên đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Chân Ngôn Tịnh Pháp Giới:
Án lam (7 lần)
(Trì chú này thì thân tâm, cảnh vật đều thanh tịnh)
Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp:
Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị Ta bà ha. (7 lần)
(Trì chú này thì hơi miệng trong sạch)
Chân Ngôn Tịnh Ba Nghiệp:
Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
(Trì chú này thì thân miệng lòng đều trong sạch)
Chân Ngôn Phổ Cúng Dường:
Án nga nga nẳng, tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
(Trì chú này thì hoa hương cùng tiếng tụng niệm sẽ khắp cúng dường cả mười phương)
Văn Phát Nguyện:
Nam mô Thập phương Thường trụ Tam bảo. (3 lần)
Cúi lạy đấng Tam giới Tôn,
Qui mạng cùng mười phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì kinh Pháp Hoa
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ (Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục)
Nếu có kẻ thấy nghe
Ðều phát lòng Bồ đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Khai Kinh Kệ
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ tát Ma Ha Tát (3 lần)
Kinh Hoa Nghiêm Phần Hồi hướng
BỔ KHUYẾT TÂM KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị
không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ,
tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không
tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố
không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý
thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô
lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố,
Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại
cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc a nậu Đa la tam miệu tam Bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la
mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị vô
đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:
“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.”
VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô A di đa bà dạ,
đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam
bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị,
già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lạy)
Khể thủ Tây phương An lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu
Cập pháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật
Nhứt thừa Vô thượng Bồ đề đạo cố,
Chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật,
Vạn đức hồng danh kỳ sanh Tịnh độ.
Duy nguyện Từ Phụ A Di Đà Phật,
Ai lân nhiếp thọ từ bi gia hộ.
A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân.
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải.
Quang Trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. (niệm 10, 20, 30 câu tùy ý)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 tiếng)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (10 tiếng)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (10 tiếng)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 tiếng)
HỒI HƯỚNG
Đệ tử chúng đẳng, hiện
thị sanh tử phàm phu, tội chướng thâm trọng, luân hồi lục đạo, khổ bất
khả ngôn; kim ngộ tri thức, đắc văn A Di Đà danh hiệu, bổn nguyện công
đức, nhứt tâm xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi bất xả,
ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất thức Phật thân, tướng hảo quang
minh, nguyện Phật thị hiện, linh ngã đắc kiến cập kiến Quán Âm Thế Chí
chư Bồ tát chúng, bỉ thế giới trung, thanh tịnh trang nghiêm, quang minh
diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến, A Di Đà Phật.
Ngã kim trì niệm A Di Đà
Tức phát Bồ đề quảng đại nguyện:
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm
Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo.
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại
Diện kiến ngã Phật A Di Đà
Tức đắc vãng sanh Cực Lạc sát.
Ngã ký vãng sanh Cực Lạc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhứt thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhứt thiết chúng sanh giới.
Ngã Phật chúng hội hàm thanh tịnh,
Ngã thời ư thắng liên hoa sanh
Thân đỗ Như Lai Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ngã Bồ đề ký.
Mong ngã Như Lai thọ ký dĩ
Hóa thân vô số bá cu chi
Trí lực quảng đại biến thập phương
Phổ lợi nhứt thiết chúng sanh giới
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành.
Nguyện sanh Tây Phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật Tịnh độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ.
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát Bồ đề tâm,
Tận thử nhứt báo thân,
Đồng sanh Cực Lạc Quốc,
Tận thử nhứt báo thân
Đồng sanh An Dưỡng Quốc.
NGUYỆN
A Di Đà Phật, thường
lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn,
lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện
phụng Di Đà, dữ chư Thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khỏanh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô A Di Đà Phật Thế Tôn.
Nguyện ngã Tội chướng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã Thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã Thân tâm hàm thanh tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài tự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc Quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên Mãn Bồ tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã Quảng độ chư chúng sanh (1 lạy)
Chí tâm qui mạng đảnh
lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô
lượng vô biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ
đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Như Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát Vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment