Phật, Bồ Tát hiện
thân, nếu thị hiện giống như phàm phu thì các ngài chỉ dùng đạo đức để giáo hóa
người, tuyệt đối chẳng hiển hiện thần thông...
15. Luận về cảnh giới
* Người niệm Phật
lâm chung được Phật tiếp dẫn; đấy là chúng sanh và Phật cảm ứng đạo giao, dù
chẳng lìa khỏi tâm nghĩ tưởng nhưng chẳng thể nói là [cảnh giới ấy] chỉ do mỗi
mình tâm tưởng hiện, tuyệt đối chẳng có chuyện Phật, Thánh nào đến nghênh tiếp
cả! Tâm tạo địa ngục thì lâm chung tướng địa ngục hiện. Tâm tạo Phật quốc thì
lâm chung tướng Phật quốc hiện.
Nói “tướng tùy tâm
hiện” thì được, nhưng nói “chỉ có tâm không có cảnh” thì chẳng được. Nếu bậc
đại giác Thế Tôn nói “chỉ có tâm không có cảnh” thì chẳng có lỗi gì, chứ nếu
các hạ nói như vậy ắt sẽ rớt vào tri kiến đoạn diệt, ắt thành tà thuyết phá
hoại pháp môn tu chứng của đức Như Lai; chẳng thể không dè dặt được. Nếu nói tỉ
mỉ mỗi điều, ắt phí bút mực. Biết một ắt sẽ suy được cả ba, không còn sót nghĩa
nào.
* Phải biết rằng
hiện tại không có pháp nhất định. Do cái thấy của mỗi người khác nhau nên hãy
tạm gác những cảnh giới của Phật, Bồ Tát lại đó, chỉ dùng những cảnh phàm tiểu
để giảng rõ. Ông Tử Tấn là con vua Châu Linh Vương, học đạo tiên bảy ngày, khi
xuất hiện ở Hầu Sơn thì đã qua đời Tấn. Vì thế mới có thơ rằng:
Vương tử khứ cầu
tiên,
Đan thành nhập cửu
thiên,
Động trung phương
thất nhật,
Thế thượng kỳ
thiên niên.
(Vương tử học đạo
tiên,
Thành đạo dạo cửu
thiên,
Trong động chỉ bảy
bữa,
Trần gian gần
nghìn niên)
(Chữ “kỷ” phải đọc giọng bằng, có nghĩa là “gần”. Từ đời Châu Linh Vương đến
nhà Tấn, thời gian dài gần một ngàn năm)
Lại như ông Lã Thuần Dương gặp Chung Ly Quyền trong quán trọ ở Hàm Đan, ông
Chung khuyên họ Lã học đạo Tiên, họ Lã muốn được phú quý rồi mới học. Chung
trao cho Lã một cái gối bảo hãy ngủ một giấc. Họ Lã mộng thấy mình làm quan từ
chức nhỏ đến chức lớn, rồi làm đến Tể Tướng. Năm mươi năm phú quý vinh hoa,
thật ít có trong đời. Con cháu đầy nhà, thường sung sướng không tai ương gì.
Sau vì một chuyện chẳng hợp ý bề trên bèn tự thoái quan. Lúc tỉnh giấc ra, chủ
quán trọ còn đang nấu nồi cháo kê vàng!
Trong mộng thấy ra
vào làm tể tướng, bao nhiêu là chuyện lớn, thời gian lâu cả năm mươi năm, tỉnh
giấc, nồi cháo kê vàng vẫn chưa nhừ. Đấy chẳng qua là cảnh do tiên nhân biến
hiện, mà còn có thể trong một niệm biến hiện những sự nghiệp, cảnh giới của cả
năm mươi năm; huống hồ là cảnh giới của Phật là vị trời trong trời, là thánh của
các thánh, của các vị đại Bồ Tát đã chứng Pháp Thân? Vì thế, ngài Thiện Tài vào
trong lầu gác của đức Di Lặc, vào trong một lỗ chân lông của đức Phổ Hiền, đều
ở trong mười phương thế giới hành lục độ vạn hạnh trải Phật sát vi trần số
kiếp. Xem đoạn văn ấy, ông còn có thể suy lường được chăng?
Phải biết rằng ba
đời không thật thể, còn là phận phàm phu thì chỉ thấy được cảnh giới của phàm
phu, chẳng được vin vào cảnh giới phàm phu thấy được đó mà bảo cảnh giới của
Phật, Bồ Tát cũng giống như thế, chẳng có gì khác! Nay tôi dùng ví dụ để giảng
rõ: Như gương soi tỏ mấy mươi tầng núi sông, lầu gác, thật chẳng có gần xa,
nhưng gần xa rành rành! Sắc pháp thế gian còn như thế, huống là bậc đã chứng
tâm pháp duy tâm tự tánh ư? Bởi thế mới nói: “Ư nhất hào đoan, hiện bảo vương
sát, tọa vi trần lý, chuyển đại pháp luân” (trên đầu sợi lông, hiện cõi bảo
vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân).
Mười đời xưa nay,
trước sau chẳng lìa đương niệm, vô biên cõi nước chẳng xa cách [một khoảng nhỏ
bằng] đầu sợi lông! Phàm những gì thuộc về cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thì hãy
nên ngửa tin lời Phật, đừng suy lường xằng. Nếu như khẩn thiết đến cùng cực, sẽ
tự hiểu rõ hết, cũng chẳng cần phải hỏi ai khác cả. Nếu chẳng khẩn thiết, chí
thành, dù ra sức lễ bái, trì tụng, nhưng cứ suốt ngày đem những cảnh giới mà
phàm phu chẳng thể suy lường được để cuồng vọng suy lường thì có khác gì đi
theo vết xe đổ của huyễn nhân pháp sư, dù có muốn chẳng vướng lấy tội báo báng
Phật, báng Pháp, báng Tăng cũng chẳng thể được!
* Biết lệnh nghiêm (20) có rất nhiều điều linh cảm, tôi khôn ngăn bội phục. Như
ước về lúc thọ pháp, nếu Đại Sĩ cùng thiên long bát bộ cùng hiện thì Mật Tông
vẫn có cấm giới chẳng cho tuyên truyền diệu cảnh. Đấy phải chăng là vì lòng
sùng phụng trong sạch, bền chắc mà ngài thuận lòng thị hiện chăng? Nếu hiểu như
vậy, nhất định [người được thấy diệu cảnh đó] phải có sở chứng. Nếu [người ấy]
không có sở chứng, nhất định thánh chẳng tùy tiện ứng hiện xuông!
Còn như việc “thấy
ứng thân” như luận Khởi Tín đã nói thì đó là tình cảnh người niệm Phật lúc lâm
chung, vì chưa phá được vô minh nên ứng thân, báo thân, pháp thân [người ấy]
được thấy đó đều chẳng phải là do thiện căn của người ấy mà được thấy. Bồ Tát
ứng hiện ở Phạm Âm động tại Phổ Đà cũng là phương tiện quyền biến để tăng
trưởng tín tâm cho chúng sanh, tuy người người được thấy nhưng chẳng thể lấy đó
làm chứng cứ. Nếu cứ vin vào đó, ắt sẽ khiến hết thảy mọi người đều dựa dẫm vào
đó mà đồn thổi. Người xưa được thấy Bồ Tát Văn Thù ở Ngũ Đài rất nhiều, nhưng
đều là những vị có đại nhân duyên hoặc là công phu tu tập sâu dày, hễ ai gặp
Ngài đều có điểm chứng ngộ giải nhập.
Năm Quang Tự thứ
mười hai, Quang tôi triều bái Ngũ Đài, trước hết ngụ tại xưởng chế tạo lưu ly ở
Bắc Kinh, tìm tác phẩm Thanh Lương Sơn Chí khắp nơi nhưng chỉ tìm được một bộ,
thường xem hằng ngày. Do trời lạnh, đến tháng Ba mới đến được núi. Ở trên núi
hơn bốn mươi ngày, thấy những người lên núi triều bái, đa số nói được thấy Bồ
Tát Văn Thù, nhưng người thật sự hành trì rất ít. Thế mới biết là những người
lên núi triều bái nói được thấy Bồ Tát đều chỉ nói dựa theo những tích chuyện
của cổ nhân để khoe khoang đó thôi. Nếu ai thật sự được thấy ắt sẽ giấu kín.
Vàng thau khác biệt! Nếu không, ngài Văn Thù chẳng tự trọng, khinh thị hiện
thân, còn ra thế nào nữa?
“Lý tức Phật” hết thảy chúng sanh đều có, chứ chẳng phải chỉ riêng người nghịch
trần hiệp giác. Nếu là hạng nghịch trần hiệp giác thì đã thuộc về “danh tự tức
Phật”. Ông X. nọ [khoe] khi nhập định giống hệt như Tỳ Lô Giá Na, khi xuất định
lại vẫn là phàm phu, nhưng chẳng biết hổ thẹn, còn lớn tiếng khinh người. Nếu
thật sự giống hệt như Tỳ Lô Giá Na, quyết chẳng đến nỗi vẫn là phàm phu! Ông ta
toan dùng Mật tông để lòe người, chẳng biết rằng Quang tôi dù chẳng biết Mật
tông đi nữa, lẽ nào chẳng biết đúng sai, dễ hồ lung lạc được ư?
16. Luận về thần thông
* Đạo Tế thiền sư là bậc thánh nhân đại thần thông. Ngài muốn khiến cho hết thảy mọi người sanh tín tâm nên thường hiển hiện những sự chẳng thể nghĩ bàn. Ngài ăn thịt uống rượu để giấu kín cái đức của bậc thánh nhân, là vì muốn cho những kẻ ngu tưởng ngài là kẻ điên rồ, không pháp tắc; nhân đó, chẳng tin tưởng ngài. Nếu không làm thế, ngài sẽ chẳng thể trụ trong thế gian.
Phật, Bồ Tát hiện
thân, nếu thị hiện giống như phàm phu thì các ngài chỉ dùng đạo đức để giáo hóa
người, tuyệt đối chẳng hiển hiện thần thông. Nếu hiển hiện thần thông sẽ chẳng
trụ trong thế gian được; còn nếu hiện làm kẻ điên rồ, dù có hiển thị thần thông
cũng chẳng trở ngại gì. Chớ bảo người tu hành ai nấy đều nên uống rượu, ăn
thịt! Người lành thế gian còn chẳng uống rượu, ăn thịt, huống hồ là đệ tử Phật!
Muốn giáo hóa chúng sanh mà chính mình chẳng y giáo phụng hành thì chẳng những
làm cho người khác chẳng tin, mà còn khiến họ thoái thất tín tâm nữa. Vì thế
chẳng được học đòi uống rượu, ăn thịt.
Ngài (Đạo Tế) ăn
những con vật chết, ói ra những con vật sống. Ông ăn con vật chết vào, còn chưa
ói ra thịt còn nguyên hình dạng được nổi, làm sao học đòi ngài ăn thịt cho
được? Ngài uống rượu vào bèn nhả ra vàng để thếp tượng Phật, khiến cho vô số
cây gỗ lớn từ trong giếng trồi lên. Ông uống rượu vào, muốn cho nước từ dưới
giếng trào lên còn không được, làm sao học đòi ngài [uống rượu] cho được?
Truyện về Tế Công
có đến mấy loại, nhưng chuyện Túy Bồ Đề hay nhất. Gần đây có đến tám bản khác
nhau lưu thông, đa phần là những bản do người đời sau thêm thắt vào. Chuyện Túy
Bồ Đề cả văn lẫn nghĩa đều hay, những chuyện được kể trong ấy đều là những sự
thực khi ấy. Thế nhân chẳng biết nguyên do, không bắt chước bừa theo thì cũng
hủy báng xằng bậy. Học bừa theo đó sẽ quyết định phải đọa địa ngục. Hủy báng
xằng bậy tức là dùng tri kiến phàm phu để suy lường thần thông của thánh nhân,
cũng mắc lỗi, nhưng so với kẻ học bừa theo, tội còn nhẹ nhiều hơn lắm. Thấy
những điều chẳng thể nghĩ bàn của ngài phải nên sanh lòng kính tin, thấy ngài
uống rượu, ăn thịt, chẳng chịu bắt chước làm theo thì sẽ được lợi ích, chẳng bị
tổn hại vậy.
* Người có thể
hoằng đạo, chứ đạo chẳng thể hoằng người. Thế gian loạn lạc là do ác nghiệp của
đồng phận chúng sanh cảm thành, các thuyết tà vạy cũng thế (cũng do cùng nguyên
do ấy). Phong tục thế gian biến đổi, lúc thoạt đầu đều là do một hai kẻ phát
khởi. Yên bình, loạn lạc, tà, chánh không gì đều chẳng như thế cả; sao chẳng
xét đến sức người để chuyển biến, lại cứ quy vào sức thần thông của Phật, Bồ
Tát để hòng chuyển biến vậy? Chẳng phải là Phật, Bồ Tát chẳng thể hiển thị thần
thông biến hiện, khổ nỗi chúng sanh nghiệp nặng, nên [dù có biến hiện] cũng vẫn
như không.
Ví như mây dầy,
sương đậm, mờ mịt chẳng thấy được mặt trời giữa ban ngày, bèn bảo là chẳng có
mặt trời ư? Con người cùng trời, đất gọi là Tam Tài; Tăng và Phật, Pháp gọi là
Tam Bảo. Gọi như vậy là do căn cứ vào ý nghĩa hỗ trợ, tán dương công sanh
trưởng [của trời đất], hoằng dương đạo pháp mà đặt tên. Ông cứ muốn bỏ nhân
lực, bám vào sức của Phật, Bồ Tát, trời đất, có còn đáng bảo là biết đạo
chăng?
Đời đại loạn, đại
bi Bồ Tát thị hiện cứu hộ cũng chỉ cứu được kẻ hữu duyên; vì loạn lạc chính là
đồng nghiệp, còn túc nhân, hiện duyên (duyên hiện tại) là biệt nghiệp. Có biệt
nghiệp cảm được Bồ Tát thì sẽ được Bồ Tát gia bị, cứu hộ, há nên ngông nghênh
bàn bạc ư? Những việc phương tiện thuận nghịch cứu hộ chúng sanh của Bồ Tát
chẳng phải là chuyện kẻ hiểu biết lầm lạc, hẹp hòi có thể thấu hiểu được
đâu!
Nay tôi vì ông nói
một thí dụ để từ đó mà suy rồi đừng nói Bồ Tát thật là oan gia, cũng như để tạo
thành nền tảng tốt đẹp hòng nhập đạo thành Phật. Chư Phật lấy tám khổ làm thầy
để thành đạo Vô Thượng. Như vậy, Khổ là cái gốc để thành Phật. Thêm nữa, Phật
dạy đệ tử lúc ban đầu phải tu Bất Tịnh Quán. Quán lâu ngày ắt có thể đoạn Hoặc,
chứng Chân, thành A La Hán. Như vậy Bất Tịnh lại là cội gốc của Thanh
Tịnh.
Người ở Bắc Câu Lô
Châu hoàn toàn chẳng khổ, nên chẳng thể nhập đạo. Châu Nam Diêm Phù Đề sự khổ
rất nhiều nên người nhập Phật đạo để liễu sanh tử không thể tính nổi số. Giả sử
thế gian tuyệt chẳng có các khổ: sanh, lão, bệnh, tử, đao binh, thủy, hỏa
v.v... thì ai nấy đều sống say chết ngủ trong lạc thú phóng dật, có ai chịu phát
tâm xuất thế để liễu sanh tử đâu? Ngay cả kẻ thống lãnh quân mạnh, giữ địa vị
cao, gây bao việc khổ não chúng sanh biết đâu là bậc đại bi thị hiện đó chăng?
Nghĩa này chỉ có thể nói cùng người thông suốt, đừng nói với kẻ vô tri, vô
thức. Nếu là người thông suốt, dù thật sự là ác ma, cũng có thể được lợi ích;
còn người vô tri vô thức nếu biết đến nghĩa này ắt sẽ chẳng biết phát tâm tu
hành, trái lại còn hủy báng Phật pháp.
Ví như dùng thuốc,
trẻ nhỏ chẳng thể uống thuốc, bèn bôi thuốc lên vú thì nó dù không uống cũng
thành uống. Ông toan làm bậc thông suốt, nhưng triển khai rộng lớn nghĩa này
thì hại người rất nhiều, lợi người rất ít. Xin hãy thầm tâm niệm, đừng bàn nói
ẩu. Cảnh giới của Phật, Bồ Tát, phàm phu chẳng thể suy lường được đâu!
17. Luận về bí truyền
* Nay các ngoại đạo, không đạo nào chẳng dùng cách bí truyền để dẫn dụ, khêu gợi kẻ vô tri theo đạo họ. Lúc nguyện gia nhập, ắt phải phát thệ: Từ rày về sau, nếu phản lại đạo ắt sẽ mắc ác báo như thế này, như thế nọ. Thật sự ra, đa phần là những pháp dối người. Do trót phát thệ, dù có biết những sai trái trong đạo cũng chẳng dám trái nghịch hoặc phơi bày ra. Cách phát thệ bí truyền của ngoại đạo ràng buộc, làm con người lầm lạc quá đáng vậy.
Đức Phật ta chẳng
có pháp bí truyền; đối với một người Ngài cũng nói thế, với vạn người Phật cũng
dạy như thế. Cửa đóng, then cài, bên ngoài đặt người tuần hành canh gác, chỉ
cho một người vào, thì thầm chẳng cho người ngoài nghe được, những đạo như thế
chẳng có chuyện quang minh, chánh đại gì đâu! Mong các vị hiểu được tệ nạn ấy
nên tôi mới lược thuật vậy!
* Nếu có bí quyết
mầu nhiệm chỉ khẩu truyền ở chỗ kín đáo thì chính là tà ma ngoại đạo, chẳng
phải là Phật pháp.
18. Luận về cầu cơ:
* Những lời giáng cơ trong đàn cầu cơ đa phần là do những linh hồn dựa dẫm vào tri thức của người xoay cơ mà nói ra. Nếu nói về đạo lý thế gian còn đúng được nhiều, chứ nói đến Phật pháp thì do chính mình chẳng biết, bèn bịa ra các lời nhảm nhí.
* Cầu cơ đa phần là các linh hồn giả mạo Phật, tiên, thần, thánh. Những hồn kém cỏi chẳng có sức thần thông, những hồn khá hơn sẽ biết được tâm người nên dựa dẫm vào sự thông minh và tri thức của người [phò cơ] để nói này nói nọ.
Ông Kỷ Văn Đạt
nói: “Cầu cơ đa phần là linh hồn giả danh giáng cơ. Tôi cùng người anh tên là
Thản Nhiên cùng phò cơ. Tôi biết làm thơ, nhưng chữ viết không ra gì. Tôi phò
cơ thì thi từ mẫn tiệp, nhưng chữ viết nguệch ngoạc, xiên xẹo. Thản Nhiên phò
cơ thì thi từ tầm thường, chữ viết sắc sảo. Với những hồn giả mạo cổ nhân, nếu
chú tâm hỏi vào những điểm bí nhiệm, quan yếu, bèn nại cớ năm tháng cách xa,
chẳng còn nhớ gì nữa, nên biết hồn ấy chẳng phải thật”.
Như vậy, cái linh
ứng của những hồn ấy chỉ là chúng có thể dựa vào những điều đã biết trong tâm
của người hiện tại để mượn dùng. Với những điều tuy có trong thức điền, nhưng
trong cái thấy biết hiện tại của đương nhân không có, hoặc người ấy chẳng biết
đến nghĩa đó thì hồn chẳng thể dạy gì về điều ấy được. Sánh với tha tâm thông
của bậc nghiệp tận tình không khác nhau một trời, một vực, nhưng xét về khí
phần thì có vẻ tương tự mà thôi. Tôi lại chỉ sợ quý vị bị mê hoặc bởi những lời
giáng cơ, nên chẳng thể không dẫn chứng để phân trần vậy.
* Gần đây, các đàn
cơ ở Thượng Hải rất thịnh hành. Những lời khai thị sửa lỗi, hướng thiện, tiểu
luân hồi, tiểu nhân quả [của các đàn cơ ấy] đều rất có ích đối với thế đạo nhân
tâm, nhưng những lời giảng về cõi trời, về Phật pháp toàn là những lời lẽ quàng
xiên. Chúng ta là đệ tử Phật chẳng thể bài xích pháp ấy vì sẽ mắc lỗi ngăn trở
người khác hướng thiện, nhưng cũng chẳng thể phụ họa, tán dương pháp ấy bởi
những lời giáng cơ về Phật pháp toàn là ức đoán, chỉ e gây thành cái họa hoại
loạn Phật pháp, lầm lạc chúng sanh.
19. Luận về luyện đan:
* Phật pháp chỉ
dạy người dứt ác tu thiện, minh tâm kiến tánh, đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh
thoát tử. Toàn bộ Đại Tạng kinh trọn chẳng có lấy một chữ dạy người vận khí
luyện đan, cầu thành tiên bay lên trời, trường sanh bất lão chi cả.
Thời kỳ đầu Dân
Quốc, gã dân ma Liễu Hoa Dương soạn Huệ Mạng kinh, tận dụng kinh Phật, lời Tổ
để chứng minh cho pháp luyện đan, xoay chánh thành tà, dùng pháp báng pháp.
Người chưa mở mắt thấy tà thuyết đó ngỡ là chân thật, đánh mất chánh kiến mãi
mãi. Lời lẽ, sự tu hành của họ đều là phá hoại Phật pháp, nhưng vẫn hiu hiu tự
đắc, cho mình may mắn gặp được chân thừa, được nghe chánh pháp, đúng là nhận
giặc làm con, nấu cát thành cơm, một gã lòa dẫn lũ mù kéo nhau sa hầm lửa,
chẳng đáng buồn ư!
Phàm một pháp
luyện đan chẳng phải là không lợi ích, nhưng chỉ có thể kéo dài tuổi thọ, cao
nhất là thành tiên bay lên trời, pháp ấy còn chưa phải là chân truyền của Lão
Tử, huống hồ là chánh đạo của Phật pháp ư? Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch
tử khả hỹ!” (sáng nghe đạo, tối chết cũng đành)”. Lão Tử nói: “Ngô hữu đại hoạn
vi ngô hữu thân” (ta có mối lo lớn là ta có thân). Nếu lãnh hội được những lời
ấy sẽ chẳng bị bọn luyện đan kia mê hoặc. Hãy đọc kỹ các sách An Sĩ Toàn Thư,
Cư Sĩ Truyện, Bình Tâm Luận, Kê Cổ Lược.... thì gương sáng đặt trên đài, tốt
xấu tự phân, lò nung thử vàng, thật giả rạch ròi.
* Trộm nghĩ nguồn gốc của Thích và Đạo chẳng hai, nhưng nhánh nhóc, chi phái
khác xa nhau một trời một vực. Phật giáo dạy người trước hết tu Tứ Niệm Xứ
Quán: quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô
ngã. Đã biết thân, thọ, tâm, pháp đều thuộc huyễn vọng, khổ, không, vô thường,
vô ngã, bất tịnh thì Chân Như diệu tánh sẽ tự hiển hiện.
Nếu ước theo
nguyên sơ chánh truyền thì Đạo giáo cũng chẳng lấy việc vận khí luyện đan chỉ
cầu trường sanh làm trọng; đời sau tu hành theo Đạo Giáo, không một ai là chẳng
coi pháp ấy là chánh tông! Phật giáo không điều lớn lao nào chẳng bao gồm,
không điều nhỏ nhặt nào chẳng đề cập đến, chẳng những phát huy đạo lý thân tâm
tánh mạng đến hết sạch không còn sót, mà ngay cả những điều nhỏ nhặt như hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ... của Thế Đế, mảy may điều thiện nào cũng
chẳng bỏ sót. Chỉ riêng đối với việc luyện đan vận khí không có lấy một chữ
nhắc đến, nhưng [đệ tử Phật] phải kiêng dè sâu xa [đừng luyện đan], bởi một
đằng dạy người biết thân tâm là huyễn vọng, một đằng lại dạy người chấp chặt
thân tâm là chân thật.
Cái tâm vừa nói đó
chỉ là tâm tùy duyên sanh diệt, chẳng phải là chân tâm sẵn có. Một pháp luyện
đan chẳng phải là không có lợi ích, nhưng chỉ kéo dài được tuổi thọ, cao nhất
là thành tiên bay lên trời, nếu bảo là pháp để liễu sanh thoát tử thì chỉ là
lời nói mớ mà thôi!
20. Luận về tu hành, xử sự phải phù hợp, thích nghi:
* Đối với pháp niệm Phật phải tùy theo sức lực của mỗi người; tùy tiện niệm ra tiếng, niệm thầm, niệm lớn tiếng, niệm nhỏ tiếng, không cách nào là chẳng được, lẽ nào cứ một mực niệm lớn tiếng đến nỗi tổn hơi thành bệnh vậy? Căn bệnh nặng của ông do khí bị thương tổn mà ra nhưng thật sự là do nghiệp lực từ vô lượng kiếp biến hiện.
Do ông tinh tấn
niệm Phật nên chuyển hậu báo thành hiện báo, chuyển báo nặng thành báo nhẹ.
Chẳng biết là do căn bệnh này sẽ tiêu được tội tam đồ ác đạo trong bao nhiêu
kiếp số. Phật lực khó nghĩ lường, Phật ân khó báo, hãy nên sanh lòng vui mừng,
nghĩ mình may mắn lớn lao, sanh lòng tin trong sạch lớn lao, dùng một pháp Tịnh
Độ tự hành, dạy người, mong sao quyến thuộc trong nhà cùng hết thảy những ai
hữu duyên cùng sanh Tây Phương thì mới chẳng phụ căn bệnh này, mới khỏi phụ ân Phật
vì mình hiện thân vậy!
* Học Phật phải chuyên lấy việc tự liễu ngộ làm chánh, nhưng cũng phải tùy
phần, tùy sức làm các công đức. Phải là người có sức lớn lao mới hòng triệt để
buông xuống, triệt để đề khởi được. Người căn cơ trung hạ nếu không làm gì hết
sẽ liền thành biếng nhác, trây lười, đã chẳng hiểu đúng tự lợi mà đối với việc
lợi người cũng gác bỏ hết, trở thành cái tệ như Dương Tử “dù nhổ một cái lông
làm lợi cho người khác cũng chẳng chịu làm” (21). Vì thế phải hành cả hai pháp
hỗ trợ cho nhau, nhưng chú trọng vào mặt tự lợi.
Cũng đừng hiểu lầm
lời cư sĩ Nhị Lâm (Bành Tế Thanh). Hiểu lầm thì đắc tội với ông Nhị Lâm chẳng
nhỏ. Ý của Bành Nhị Lâm là chuyên chú tự lợi, chứ chẳng phải là phế sạch việc
tùy phần, tùy sức dạy người tu theo pháp môn Tịnh Độ đâu! Việc lợi người chỉ có
hàng Bồ Tát mới gánh vác nổi; ngoài ra, ai dám nói những lời lẽ lớn lao ấy!
Người căn cơ trung hạ tùy phần, tùy sức làm việc lợi người mới phù hợp với đạo
lý tu hành tự lợi, bởi lẽ pháp môn tu hành có lục độ vạn hạnh. Tự mình chưa độ
thoát thì việc lợi người vẫn thuộc về tự lợi, nhưng chẳng thể chuyên chú vào
hình thức bề ngoài mà làm.
* Người tu hành thật sự thì dính vào chuyện khác làm chi? Chỉ vì do chưa thể
buông cả toàn thân xuống, cắt đứt vạn duyên được thì chẳng ngại gì đeo đẳng
trong lòng để vớt vát lấy một nửa mà thôi.
* Niệm Phật tuy trọng chí thành, thanh khiết, nhưng nếu bệnh nhân không đủ sức
thì cứ giữ lòng chí thành thầm niệm, hoặc niệm ra tiếng, công đức vẫn giống hệt
như vậy. Bởi lẽ, Phật từ rộng lớn, như cha mẹ lúc thấy con cái bệnh khổ, ắt
chẳng nệ vào những nghi thức lúc bình thường để trách móc gì, lại còn đến vỗ
về, xoa nắn thân thể con, rửa sạch những dơ bẩn. Nếu con bệnh đã lành mà vẫn
đối xử với cha mẹ hệt như lúc còn đang bệnh thì sẽ bị sét đánh vậy!
* Lập thân, xử
thế, gìn lòng thì dù là ngu hay hiền đều phải cung kính, chẳng sanh lòng ngạo
mạn. Hành sự thì thân hiền, xa ngu, giữ ưu, bỏ kém. Như thế sẽ tránh khỏi cái
tệ lây phải tính xấu, cũng như giữ cho mình khỏi bị lầm lạc. Chuyện thiên hạ có
cái lý nhất định, nhưng không có pháp nhất định. Nếu chẳng dựa vào sự tình để
định đoạt, như chấp chết vào toa thuốc để trị biến chứng thì người sống sẽ ít,
kẻ chết lại nhiều. Phải tình hợp với lý, pháp phù hợp sự thì mới nên!
* Thiên hạ vạn sự
có cái lý nhất định, nhưng khi gặp chuyện phải vận dụng cái lý nhất định để
hành xử sao cho thích nghi, lý phù hợp cùng quyền, pháp tương ứng với đạo thì
mới nên!
* Phật pháp phải
tùy theo căn tánh mỗi người mà thực hiện, chẳng thể chấp chặt vào quy cách
truyền bá thông thường. Nếu trái nghịch căn cơ sẽ khiến người ấy bị mất lợi ích
liễu sanh thoát tử thù thắng; cốt sao người ấy phải tự lượng được căn tánh để
tu trì [sao cho thích hợp].
* Vào thời Phật
pháp hưng thạnh dưới các triều Đường, Tống, người tại gia phần nhiều dùng cách
hỏa táng; nhưng [nay] nên thuận theo thói tục chôn cất, vì sợ kẻ câu nệ luận
bàn quàng xiên, chứ thật ra thiêu thì gọn gàng hơn. Qua bốn mươi chín ngày hãy
thiêu là ổn thỏa. Còn chôn thì qua nhiều năm, rất có thể hài cốt bị phơi bày.
Cái lệ ba năm tang chế chẳng dùng đến lễ nhạc cố nhiên phải tuân thủ.
Trước đời Thanh,
quan văn có thể xin nghỉ cư tang, quan võ chẳng được phép nghỉ cư tang bởi việc
quân chẳng thể xao nhãng được nên chẳng để tang. Bây giờ thạnh hành quan niệm
“bỏ thói thường là bất hiếu”, dù giữ đúng thời gian tang chế vẫn còn bị chê
trách nữa là. Chúng ta nên theo đúng cổ lễ, nhưng phải châm chước mà làm theo,
tuy chẳng thể biến cải ngay, nhưng đừng có quá câu nệ là được!
* Liên xã mới mở
phải có quy chế nhất định, nữ nhân tuyệt đối chẳng được tham dự liên xã, đừng
bắt chước nơi khác buông tuồng chẳng thúc liễm đến nỗi một pháp chẳng lập, trăm
mối tệ chen chúc nảy sanh. Rất quan trọng, rất quan yếu đấy!
* Trộm nghĩ thế
đạo nhân tâm hiện thời suy sụp đến cùng cực. Lại còn phung phí quốc khố, so với
trước kia thuế má nặng hơn gấp mấy lần, mọi thứ đắt đỏ, dân không lẽ sống. Tai
trời vạ người giáng xuống liên tiếp. Gặp phải thời buổi này, muốn hoằng dương
đạo pháp chỉ còn cách khuyên những người tìm đến học hãy học lấy yếu nghĩa nhà
Phật.
Với cha nói Từ,
với con nói Hiếu, anh nhường em kính, chồng xướng vợ theo, ai nấy trọn hết bổn
phận để làm nền tảng [cho việc học đạo]. Ngoài ra, còn phải giữ lòng thành,
chuyên chú lòng kính, khắc kỷ, giữ lễ, hiểu nhân rõ quả, mong thoát khỏi luân
hồi, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, tín nguyện niệm Phật cầu
sanh Tây Phương. Dù thiên tư cao đến cách mấy cũng phải y theo đây mà
hành.
Ngoài ra, những
khi có thời gian, có sức thì nghiên cứu hết thảy kinh luận cũng chẳng trở ngại
gì. Cốt sao tùy phận tu trì trong chính gia đình mình thì chẳng cần gì phải cất
dựng phòng ốc cho nhiều, lại phải sắp đặt nhiều nhân viên, đây kia qua lại càng
phí thời gian. Đấy chính là cách tương kế tựu kế để hoằng pháp bậc nhất trong
hiện tại vậy.
* Muốn cầu vãng
sanh hãy nên buông bỏ thế gian này cũng như buông bỏ cái tâm cuồng vọng quá
phận mong độ thoát chúng sanh giống như Bồ Tát. Tu cho chính mình chính là điều
Bồ Tát phải làm đầu tiên. Nếu chính mình còn là phàm phu, lại toan đảm nhiệm
việc ấy thì chẳng những chẳng thể độ người mà còn chẳng thể tự độ nữa! Không ít
thiện tri thức thế gian mắc phải bệnh này, nhưng cứ cho là mình có tâm Bồ Tát.
Phải biết rằng: [nếu có] tâm ấy, phải cầu vãng sanh trước đã thì mới có lợi
ích. Nếu mình là Bồ Tát thì chẳng cầu vãng sanh còn được, chứ nếu không thì tai
hại chẳng nhẹ. Tâm cuồng vọng quá phận chính là chướng ngại lớn nhất đối với
việc tu hành. Chẳng thể chẳng biết điều này.
* Trong lúc kiếp trược
thời loạn này, lẽ tất nhiên phải đề xướng nhân quả báo ứng và pháp môn Tịnh Độ
mới hòng có lợi ích thật sự. Những kẻ ham cao chuộng trội kia chỉ sợ những pháp
ấy mà được đề xướng thì tiếng tăm, giá trị của họ sẽ bị hủy hoại, nên thà để
người khác chẳng hiểu, chứ chẳng chịu xuôi theo môn phong của chúng ta.
Hãy thử hỏi họ:
Đối với những vật bên ngoài dùng để điều dưỡng sanh mạng, có thể nào cứ cố chấp
vào một pháp chẳng chịu biến đổi cho thông suốt hay chăng? Mùa Hạ dùng sắn dây,
mùa Đông khoác áo cừu, đói thì ăn, khát thì uống. Mỗi ngày còn phải chọn lấy
những điều thích nghi; thế mà đối với việc hoằng dương đạo pháp thì lại bất trí
chẳng hợp lẽ như việc dưỡng sanh, vẫn còn bảo là thật sự muốn làm cho người
khác được lợi lạc nữa ư?
* Sáng lập liên xã
ắt phải thanh tịnh, thơm sạch, chủ nhân ắt phải cung kính chí thành, chẳng thể
là hạng người ngạo mạn, mà cũng chẳng thể là người thiếu khí tượng, đức độ. Đối
với mọi người đến tham dự đều phải đối đãi ôn hòa, cung kính, khiêm tốn. Lúc
chưa niệm Phật cũng như lúc niệm Phật xong, đều chẳng được bàn chuyện nhà, có
những yếu nghĩa nào đáng bàn luận, trình bày thì hãy bàn. Nếu không ai nấy trở
về chỗ mình. Những ai quá nhỏ tuổi hãy nên tự niệm ở nhà. Nếu thường đến liên
xã, ở gần thì còn tạm được, chứ nếu đường xa, chỉ e nảy ý ham vui bên ngoài,
chẳng thể không cẩn thận. Lập liên xã bất quá chỉ là đề xướng trong địa phương
mà thôi, phải lấy việc niệm Phật tại gia là chính.
* Người học Phật
trước hết phải biết nhân quả, dè dặt, cẩn trọng mà xử sự. Nếu đã có thể dè dặt,
cẩn trọng thì tà niệm sẽ tự tiêu, chẳng đến nỗi làm điều chẳng đúng pháp. Nếu
trót làm, phải cực lực đoạn diệt thì mới là tu hành chân thật. Nếu không, học
một đường làm một nẻo, tri kiến càng cao, hành vi càng tệ. Đây chính là căn
bệnh đã lậm vào xương tủy của những kẻ học Phật tự xưng là bậc thông gia ngày
nay. Nếu có thể luôn lấy việc tránh lỗi lầm làm điều mong mỏi thì cứ học một
phần sẽ được một phần lợi ích thật sự.
21. Luận về phú cường
* Trung Quốc nghèo hèn là vì chẳng tuân theo lễ nghĩa nên mới nghèo hèn đến thế đó. Thử hỏi nguyên nhân gây nên sự nghèo hèn, có nguyên nhân nào ngoài chuyện tham ăn của đút lót, nhận của hối lộ khiến ngoại nhân hưởng lợi hay không? Ông chưa thấy rõ gốc bệnh nên mới bảo là thuốc chẳng hiệu nghiệm, có đáng gọi là trí chăng? Nước ngoài cường thịnh, nhưng nước họ nhỏ, nếu họ chẳng đồng tâm hiệp lực há có thể tự lập được ư? Trung Quốc mỗi người mỗi ý. Dù có đồng tâm đi nữa, nhưng ngoại nhân đem lợi ra nhử liền bị của đút lót xoay chuyển, chẳng những chẳng đoái hoài gì đến đất nước và nhân dân, ngay cả thân mình cũng chẳng thèm đếm xỉa đến nữa. Chẳng phải là việc phụng hành lễ nghĩa đã bị đánh mất đó sao?
Xưa Lâm Văn Trung
Công đánh đuổi quân Di đủ chứng thực điều ấy. Từ đấy, bất cứ việc lớn việc nhỏ
gì, không việc nào lại chẳng vì Trung Quốc chu toàn cho thành tựu chăng? Người
Trung Quốc đa phần quên mất tám chữ (hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ)
cho nên nước ngoài mới hùng mạnh như thế, Trung Quốc mới yếu hèn đến thế. Nếu
như ai nấy đều giữ gìn lễ nghĩa thì các hàng hóa vô ích của ngoại quốc không
cách nào tiêu thụ được, mỗi năm Trung Quốc sẽ tiết kiệm được cả mấy ngàn vạn
vạn lạng vàng vậy. Người Trung Quốc mà bệ rạc thì phải nói thành thật là bệ rạc
đến tột cùng...
Ông tuy đọc sách
hiểu đời nhưng chưa lãnh hội cái đạo đọc sách hiểu đời nên mới hỏi như vậy. Với
tình thế hiện tại thì đề xướng nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi, và cải ác tu
thiện, tín nguyện vãng sanh là cách vãn hồi kiếp vận, cứu quốc, cứu dân bậc
nhất; đàm huyền thuyết diệu [so ra] vẫn kém hơn. Muốn cứu đời nhưng chính mình
chẳng tận lực thực hành thì sẽ chẳng có hiệu quả thật sự. Từ chính mình lan ra
cả nhà, từ một nhà lan đến cả ấp, từ mỗi ấp lan ra cả nước, một khi đã tạo
thành nề nếp thì sẽ có hiệu quả chẳng lường được. Nếu không thì dù có mơ cũng
vẫn khó thấy được!
* Gần đây những người làm chuyện lớn phần nhiều là trẻ tuổi, đa phần là lập dị,
vọng ngoại, coi Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng chẳng ra gì. Kẻ chưa đắc chí bèn
cuồng vọng lung lạc người. Kẻ đã đắc chí liền thành phường hại nước mọt dân. Vì
thế thiên tai nhân họa xảy ra liên tiếp, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống.
Học Phật cốt là để đối trị tập khí, cải ác hướng thiện. Nếu vô sự bèn miệt mài
học Phật, nhưng hữu sự bèn gạt phăng việc học Phật sang một bên thì chỉ mang
cái tiếng xuông, trọn chẳng có mảy may lợi ích thật sự gì!
22. Luận về cách dự phòng tai họa
* Với tình thế hiện tại, chỉ nên tận tâm, còn chuyện họa phước cát hung trong tương lai chẳng thể dự đoán được. Nếu có thể chí thành niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát ắt sẽ có sự chuyển biến âm thầm, chẳng đến nỗi vướng phải mối nguy hiểm lớn. Nếu chẳng dốc sức vào đây, dù vận dụng hết cơ mưu cũng vẫn khó đạt hiệu quả tốt đẹp bởi thế cục biến huyễn, khó thể dự liệu nổi! Những kẻ vinh hoa, phú quý hiển hách kia trong chốc lát còn bị tiêu tan sạch cả, huống hồ gì bọn ta? Khổng Tử nói: “Kẻ chẳng biết mạng thì chẳng thể coi là quân tử được” ; nhưng phải cực lực tu trì thì mới đáng gọi là Mạng được. Nếu biếng nhác trây lười, tánh tình buông xuôi, dù đạt được hay mất đi cái gì thì cũng chẳng thể gọi là Mạng được!
* Tình thế hiện
nay là tình thế hoạn nạn. Dù bảo là niệm Phật diệt được túc nghiệp, nhưng phải
sanh lòng hổ thẹn lớn lao, chuyển đổi cái tâm tổn người lợi mình, hành hạnh Bồ
Tát lợi khắp chúng sanh thì dù túc nghiệp hiện ra, cũng sẽ đều nhờ Phật hiệu
quang minh trong Bồ Đề tâm để tiêu diệt hết sạch. Nếu trong đời trước hoặc
trong xưa kia đã từng tạo nghiệp lớn, nay dù không làm ác, nhưng chỉ niệm Phật
qua quýt, ơ hờ thì công chẳng thắng nổi tội, rất có thể mắc phải ác báo.
Chẳng phải là niệm
Phật vô ích, nhưng vì chưa phát Bồ Đề tâm, mà ác nghiệp lại rộng lớn nên công
niệm Phật chẳng áp đảo được ác nghiệp. Nếu có thể phát đại Bồ Đề tâm thì như
vầng mặt trời rạng rỡ giữa hư không, sương móc tiêu lập tức. Người đời phần
nhiều nửa đời tạo ác, sau mới sám hối đôi chút, do bởi chưa thể hoàn toàn không
gặp phải ác báo, bèn nói Phật pháp chẳng thiêng, tu trì vô ích! Cư sĩ chẳng coi
Quang tôi là người ngoài, cố nhiên Quang chẳng thể không cùng cư sĩ trình bày
sơ lược nguyên do ngõ hầu cư sĩ thoát khỏi đường mê, vượt lên bến giác
vậy!
Hết phần 5
(1) Cát Căn: củ
sắn dây, thường cho là mát, có tính chất giải nhiệt, nên ta thường uống bột sắn
dây trong mùa Hạ.
(2) Tam kỳ: ba
đại a-tăng-kỳ kiếp.
(3) Xuất thai
cách ấm: thân này chết đi, sanh sang đời sau.
(4) Cơm vua
(vương thiện): Vương thiện là cỗ bàn của nhà vua. Đây là điển tích lấy từ kinh
Pháp Hoa, phẩm Thọ Ký: Các vị La Hán như Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, Mục Kiện
Liên... nghe Phật chỉ dạy đạo Nhất Thừa, bèn biết mình cũng có khả năng thành
Phật, nhưng vẫn chưa đủ tự tin, bèn cầu xin Phật thọ ký, giống như kẻ đói thấy
cỗ bàn của vua chẳng dám ăn, phải chờ vua cho phép. “Ăn no cơm vua” ý nói vị
Tăng trong đoạn thư này đã hiểu lý Nhất Thừa, đã tự tin mình có khả năng thành
Phật.
(5) Trước khi
hiểu đạo Phật, tổ Ấn Quang mê Nho nên kịch liệt bài báng đạo Phật.
(6) Thời xưa
dùng những tấm đồng tròn, đánh bóng làm gương soi mặt.
(7) Phật sát vi
trần số kiếp: Số kiếp nhiều như số vi trần trong một cõi Phật.
(8) Bạn bè xa
cách nhau gọi là “khiết khoát”, nên khi viết thư, ta hay gọi người bạn ở xa là
“hiền khiết” (bạn hiền)
(9) Đắc pháp sư:
lãnh hội pháp, chứng ngộ pháp nơi vị nào thì vị ấy gọi là “đắc pháp sư”.
(10) Thô trì
trọng giới: Giữ các giới trọng còn ở mức giới tướng, chưa hoàn toàn giữ được
giới tánh nên gọi là “thô trì”.
(11) Lệnh thân:
tiếng gọi tỏ ý tôn trọng đối với mẹ của người khác.
(12) Năm tông:
năm tông của nhà Thiền là Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp
Nhãn.
(13) Sở dĩ gọi là chánh âm vì chú Vãng
Sanh ta thường đọc chỉ là cách phiên âm theo giọng Hán, mô phỏng Phạn âm.
(14) Thời Minh, tăng sĩ phải trúng tuyển
kỳ khảo thí về nội điển mới được cấp giấy chứng nhận (độ điệp) là Tăng sĩ thực
thụ.
(15) Thẩn lâu hải thị: lầu sò chợ biển.
Người cổ Trung Hoa tin ngoài biển có giống sò rất lớn gọi là Thẩn, hơi thở của
chúng tạo thành những ảo ảnh nhìn xa như lầu gác, chợ búa trên mặt biển.
(16) Ý nói: kinh điển lưu truyền như thế
nào thì cứ chép đúng y như thế, đừng tự tiện sửa đổi theo ý riêng.
(17) Gọi là “thuần viên” vì chỉ giảng về
pháp viên đốn, gọi là “độc diệu” vì chỉ mình kinh Pháp Hoa phô bày diệu nghĩa
“hội tam quy nhất”.
(18) Năm bộ lớn là cách phán giáo chia
kinh điển đức Phật đã nói ra làm năm thời kỳ: Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhã,
Phương Đẳng và Pháp Hoa - Niết Bàn.
(19) Tam luân thể không: bản thể của ba
luân đều không, tức là không thấy có người thí, không thấy có người nhận, không
thấy có vật được dùng để bố thí.
(20) Lệnh nghiêm: tiếng gọi cha người
khác một cách tôn kính.
(21) Dương Tử tức là Dương Châu (Chu),
tên tự là Tử Cư, người thời Chiến Quốc, chủ trương thuyết “vị ngã”: dù là làm
điều lợi nhỏ nhặt dù bằng cái lông cho người khác cũng chẳng chịu làm.
ẤN QUANG ÐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
PHẦN 6
PHẦN 6
IX. Khuyên nhủ các thiện tín tại gia
1. Dạy về luân thường
đại giáo
* Phải tận
tánh học Phật mới có thể tận hết luân thường học Khổng. Phải tận hết luân
thường học Khổng mới có thể tận tánh học Phật. Thử coi những bậc đại trung, đại
hiếu và những vị phát huy tâm pháp của thánh hiền trong Nho Giáo xưa nay không
vị nào là chẳng nghiên cứu kinh Phật sâu xa, ngầm tu thầm chứng. Hợp hai đạo
Phật và Nho lại thì cả hai cùng tốt đẹp, tách ra thì cả hai cùng bị tổn thương;
bởi lẽ, người trong cõi đời không ai chẳng thuộc trong vòng luân thường, mà
cũng không ai ra khỏi tâm tánh được. Để trọn vẹn luân thường tâm tánh ấy thì
dùng “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” của nhà Phật để khắc kỷ,
giữ lễ, ngăn lòng tà, giữ lòng thành, dùng “cha hiền, con hiếu, anh nhường, em
kính” để hỗ trợ. Do vậy, cha con, anh em v.v... dắt dìu nhau cùng trọn vẹn luân
thường, tâm tánh, trừ khử phiền hoặc huyễn vọng để khôi phục Phật tánh sẵn có.
Chẳng những về thể là một, mà về dụng cũng chẳng có hai!
* Phải biết
rằng Phật pháp là pháp chung của cả chín pháp giới, không một ai là chẳng nên
tu mà cũng không ai là chẳng thể tu nổi. Những kẻ nói Phật giáo vứt bỏ nhân
luân, làm hại thánh đạo đều là những kẻ mù chẳng thấy hình sắc cứ luận càn. Vì
sao nói như thế? Đức Phật đối với cha dạy lòng từ, với con dạy lòng hiếu, với
vua dạy lòng nhân, với bầy tôi dạy lòng trung, chồng xướng vợ theo, anh nhường,
em kính.
Với những lời lẽ hay đẹp, những hành vi
tốt đẹp, không điều nào kinh Phật lại chẳng thuật rõ túc nhân hậu quả, tiền
nhân hậu quả. Những điều Phật dạy về lòng từ, lòng hiếu... giống với Nho Giáo,
nhưng những điều đạo Phật dạy về nhân quả ba đời thì Nho giáo còn chưa bao giờ
được nghe đến, huống hồ là “đoạn Hoặc chứng chân” và “viên mãn Bồ Đề, quy về
pháp vô sở đắc”! Tiếc là những kẻ ấy chưa được biết đến, chứ nếu đọc kỹ, nghĩ
chín, ắt sẽ khóc lóc, đau đớn, tiếng rền cả đại thiên thế giới, buồn thương vì
tội lỗi báng Phật vậy!
* Muốn học
Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái
nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo, còn làm đệ tử Phật sao
được? Phật giáo tuy vượt ngoài thế pháp, nhưng gặp vua nói Nhân, gặp bầy tôi
nói Trung, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu, từ cạn mà lần đến sâu, hạ học
thượng đạt (học từ những điều căn bản, thấp kém, nhưng đạt được những điều cao
quý). Hãy đọc kỹ An Sĩ Toàn Thư, ắt sẽ biết được đại khái vậy!
* Muốn làm
Phật tử chân thật, phải bắt đầu làm chân Nho trước đã. Nếu đối với những sự như
chí tâm thành ý, khắc kỷ, giữ lễ, giữ lòng kính, trọng lòng thành, hiếu đễ, vui
vẻ, cung kính... mà chẳng thể tu tập, đôn đốc thì nền tảng chẳng kiên cố, học
Phật sao được? Chọn lấy tôi trung trong đám con hiếu; kẻ tánh hạnh trái nghịch Nho
phong lẽ nào gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, trên nối tiếp huệ mạng, dưới
hóa độ chúng sanh cơ chứ?
Phật pháp không sự gì to lớn chẳng bao
hàm, không điều gì nhỏ nhặt chẳng nêu lên. Dù là pháp thế gian hay xuất thế
gian, không một pháp nào lại chẳng thuộc phạm vi của Phật pháp. Những kẻ câu
nệ, hủ bại trong thế gian thường cứ bảo “xuất gia là trái nghịch luân lý”, họ
đều là hạng chưa suy xét thấu đáo đã vội hủy báng, sợ mắc nghẹn nên bỏ ăn, tự
chôn vùi tánh mạng, thật là đáng thương!
Nếu có mở rộng được tầm mắt thì mới biết
Phật pháp lưu truyền rộng rãi khắp trong ngoài Trung Hoa, đạo pháp thạnh hành
cả hai ngàn năm qua, được rất nhiều vua thánh, tôi hiền, hào kiệt, vĩ nhân hộ
trì, truyền bá. Lẽ đương nhiên đạo ấy phải là chân đạo mà phàm tình chẳng thể
suy lường được nổi! Dù có bị một hai gã nho sĩ câu nệ, hủ bại bài xích, hay
những tên vua bạo ác hủy phá, rốt cuộc hai tay vẫn không che nổi mặt trời, ngửa
mặt nhổ lên trời, chỉ càng tự phô bày cái thấy biết kém cỏi, ít ỏi của mình mà
thôi, tự lầm lạc gây tạo tội lỗi, chứ rốt cuộc Phật pháp có bị tổn hại gì
đâu?
Lại có kẻ bề ngoài làm ra vẻ chê bai Phật
pháp, chứ bề trong lại thực sự tu chứng. Từ đời Tống đến nay, những bậc danh
nho không có ai là chẳng như vậy cả! Cho nên Quang tôi nói “thành ý chánh tâm
do vậy hãy còn khiếm khuyết” thật đúng là lời bàn quyết định vậy!
* Đối với
việc học Phật, vốn phải trọn vẹn nhân đạo mới hòng hướng đến được. Nếu chẳng
thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày
thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ! Ấy là vì Phật giáo bao gồm hết thảy các pháp
thế gian, xuất thế gian. Vì thế với cha nói Từ, với con nói Hiếu, khiến ai nấy
đều tận hết bổn phận làm người, sau đấy mới tu pháp xuất thế. Ví như muốn dựng
lầu cao vạn trượng, ắt trước hết phải đắp nền móng kiên cố, khai thông đường
nước thì lầu cao vạn trượng mới có thể xây lên được, mới vĩnh cửu chẳng hư
hoại. Nếu như nền móng chẳng vững, ắt chưa xây xong đã sụp.
Sách Luận Ngữ nói: “Tuyển trung thần ư
hiếu tử chi môn” (chọn tôi trung từ nơi con hiếu); học Phật cũng giống như vậy.
Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào Thiền Sư: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư
dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Muốn học Phật pháp, phải
khắc kỷ, dè dặt, việc gì cũng đều phải phát xuất từ cái tâm chân thật mà làm.
Người như vậy mới đáng gọi là chân Phật tử. Nếu tấm lòng gian ác, lại toan mượn
Phật pháp để tránh tội nghiệp, có khác gì trước đã uống thuốc độc, sau lại uống
thuốc bổ, muốn cho thân thể khỏe mạnh, nhẹ nhàng, kéo dài tuổi thọ, phỏng có
được chăng?
* Đại
trượng phu muốn văn chương thiên hạ, công nghiệp vang dội vũ trụ, nhưng chẳng
thể đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thì chỉ là chấp vào cái bên ngoài,
bỏ sót cái bên trong, chấp cái Có tuy nó chỉ là đằng ngọn, bỏ đi cái Không dù
nó chính là đằng gốc. Người đời ai có thể vẹn toàn được mọi việc, chúng ta chỉ
nên gắng sức giữ vẹn luân thường, tận lực tu Tịnh nghiệp là được, cần gì phải
bận tâm đến điều gì khác nữa!
* Trộm nghĩ
Nho lễ coi trọng cúng tế Xuân Thu, Thích giáo đặt nặng việc quanh năm truy
tiến. Nghĩ đến cái ân nguồn nước, cội cây mà thực hành cẩn thận, chu đáo việc
truy tiến thì thế gian, xuất thế gian nào có gián đoạn chi?
2. Luận về giáo dục
gia đình
* Gia đình
muốn hưng thạnh, phải bắt đầu từ gia quy nghiêm chỉnh. Gia đình gần như tan nát
là do từ đầu đã bỏ phế gia quy. Muốn con em thành người, phải bắt đầu từ hành
vi, việc làm của mình sao cho đúng phép tắc hòng làm gương cho con em. Lý nhất
định phải như thế! Như nay muốn bắt đầu [giáo dục con em] ít tốn công sức nhất,
trước hết hãy nói về nhân quả báo ứng khiến chúng tập thành tánh, mới hòng mai
sau chúng chẳng đến nỗi làm càn quá đáng. Đây thật đúng là diệu pháp bậc nhất
để tề gia, dạy con, khiến đời yên, dân hiền vậy.
* Con em có
nên người hay chăng chỉ là do giáo dục trong gia đình. Phàm đối với con cái,
ngay từ nhỏ phải dạy chúng hiếu, đễ, trung, tín, cần kiệm, ôn hòa, cung kính,
để khi chúng lớn lên đi học đọc sách mới có nền tảng để hưởng được lợi ích. Nếu
như từ nhỏ đã dung túng thành thói, hãy khoan kể đến những đứa không thiên tư,
không được học hành đàng hoàng; ngay cả những đứa có thiên tư, có học hành đàng
hoàng cũng chỉ thành thợ gọt giũa chữ nghĩa, thành kẻ bại hoại trong cửa Nho mà
thôi!
Đời có kẻ tài ngang Bắc Đẩu, học rộng năm
xe, nhưng hành vi, việc làm toàn là ỷ mình thông minh, độc hại sanh linh, hủy
diệt đạo nghĩa. Những hạng ấy vốn là do từ thuở đầu đã thiếu sự giáo dục trong
gia đình mà nên nỗi. Văn Vương nghiêm khắc kể từ vợ góa cho đến anh em để giữ
gìn gia đình, đất nước; cũng như sách Đại Học nói muốn trị thiên hạ, quốc gia
phải bắt đầu từ “cách vật trí tri, thành ý chánh tâm” đều vì cùng một mục đích.
Đấy chính là bí quyết vô thượng để dạy con người trở thành thánh, thành Hiền
của đạo Nho. Bỏ điều này, cầu lấy điều khác thì đều toàn là tìm tòi nơi cái
ngọn vậy!
* Với tình
hình hiện tại, ngay khi con cái biết nói, nhận biết sự vật, trong nhà hãy dạy
con nhận biết mặt chữ trước. Mỗi tờ giấy chỉ viết một chữ, đừng viết cả hai mặt.
Hạn định mỗi ngày mấy chữ, mỗi ngày học thuộc mặt những chữ đó xong lại bắt con
nhận mặt toàn bộ các chữ đã học một hai lượt nữa. Chưa hơn một năm, con sẽ biết
được nhiều chữ. Sau này lúc con đọc sách, phàm đọc qua chữ nào đều nhận biết
được cả, chẳng đến nỗi có cái tệ miệng chỉ đọc làu làu [nhưng vẫn không biết
chữ].
Tùy theo năng lực của con, sai con làm
những việc lặt vặt để tập tánh siêng năng. Đừng cho con ăn uống, mặc quần áo
quá sang trọng. Phàm những khi con phí phạm ngũ cốc và làm hư hỏng vật gì,
chẳng cần biết vật ấy quý giá hay tầm thường thế nào, phải bảo cho con biết
những vật ấy chế tạo chẳng dễ, cũng như nói đến những nghĩa lý bị tổn phước,
giảm thọ v.v... Nếu con vẫn vậy, nhất định phải trách phạt, quyết chẳng bỏ qua.
Có như thế, con sẽ tự kiệm ước, trọn chẳng đến nỗi xa xỉ, phung phí.
Khi con đọc được sách, bảo con hãy đọc kỹ
các sách Âm Chất Văn, Cảm Ứng v.v... thuận theo từng mặt chữ mà giảng giải. Hễ
hành vi hằng ngày của con là tốt lành, bèn chỉ cho con thấy điều thiện trong
hai sách ấy để khen ngợi. Nếu hành vi nào không tốt, bèn lấy những điều bất
thiện trong hai sách ấy để quở trách. Như vàng đổ khuôn, như nước có đê ngăn,
lẽ nào chẳng thành vật dụng, vẫn cứ chảy lung tung như cũ ư? Con người có đúng
là người hay không là do từ nền tảng ấy. Chẳng giảng đến điều ấy, lại muốn trở
thành con người vẹn toàn thì họa chăng thiên tư phải hơn cả Mạnh Tử!
Đến tuổi đi học, đừng cho con vào học ngay
những trường hiện thời đang mở, hãy nên cho con học ở nhà vài năm trước đã. Mời
một vị thầy học vấn, đức hạnh đều tốt đẹp, tin sâu nhân quả để dạy con học Tứ
Thư, Ngũ Kinh. Đợi đến khi con học được mấy phần, văn tự lẫn đạo lý chẳng bị
lầm lạc bởi những tà thuyết, tục luận, mới cho con vào học những trường hiện
thời để mở rộng tầm mắt, biết suy xét việc, chẳng đến nỗi hành động trái thời,
không cách gì tiến lên được!
Làm được như thế, đứa con nào có thiên tư
sẽ tự thành đạt, đứa không thiên tư cũng thành người lương thiện. Thật sự ra,
những điều lão tăng hay nói chẳng ngoài những chuyện “riêng mình thiện, khiến
người khác cũng thiện, tự lợi, lợi người”!
* Dạy con
cái phải bắt đầu từ căn bản. Cái căn bản vừa nói đó chính là hiếu với cha mẹ,
giúp đỡ mọi người, nhẫn nhục, chuyên gắng, dùng chính thân mình dạy dỗ người
khác, nêu gương đạo đức. Như vàng hay đồng đã nung chảy, nghiêng rót vào khuôn,
khuôn ngay sẽ ra hình ngay, khuôn méo thành hình méo. Chưa đổ vào khuôn đã biết
trước là sẽ lớn, nhỏ, dày, mỏng, huống hồ là khi đúc xong.
Gần đây, nhân tình phần nhiều chẳng biết
đến điều ấy, thế nên những con em có thiên tư đa phần ngông cuồng, bồng bột, kẻ
không thiên tư lại ương bướng, hèn kém. Đó là vì lúc nhỏ chẳng uốn vào khuôn
phép, như nước đồng sôi đổ vào khuôn hỏng ắt phải thành đồ hư. Kim loại vốn chỉ
một, nhưng đồ đúc ra sai khác nhau một trời một vực, tiếc thay!
Phật lấy Vô Ngã làm giáo. Hiện tại, những
kẻ có chút tri kiến thường nhìn lên tận trời, cứ tưởng chỉ có nghĩa lý văn tự
mới là Phật pháp, chẳng biết tu thân, tịnh tâm, diệt trừ ngã tướng, tận lực tu
Định - Huệ ngõ hầu đoạn Hoặc chứng Chân là Phật pháp!
* Trộm
nghĩ: cha mẹ yêu con không gì chẳng quan tâm đến, chỉ trừ khi bị bệnh tật, hoạn
nạn mới bớt quan tâm. Con trẻ vừa biết nói liền dạy nó niệm danh hiệu nam mô A
Di Đà Phật và nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, khiến cho những điều kém xấu đã vun
bồi trong đời trước của nó nay nhờ thiện lực này ắt tai họa sẽ tiêu ngay khi
chưa nảy mầm, được phước nhưng chẳng biết, không còn phải lo gì đến các hiểm
nạn tai ương, bệnh tật, khổ sở v.v...
Khi con vừa hiểu biết đôi chút, liền dạy
con trung thứ, nhân từ, kiêng giết, phóng sanh và những sự tích nhân quả ba đời
rành rành ngõ hầu tập thành tánh, ngay từ lúc còn thơ đã chẳng dám giết hại tàn
nhẫn các loài trùng kiến nhỏ nhoi, lớn lên quyết chẳng đến nỗi làm điều gian
ác, khiến cha mẹ, tổ tiên mang nhục lây!
* Con em có
tài năng, nếu được khéo giáo hóa sẽ dễ trở thành người chánh trực; không khéo
giáo hóa đa phần sẽ thành hạng bại hoại. Ngày nay dân không lẽ sống, nước nhà
lắm nỗi gian nan, mấy phen chao đảo đều là do những kẻ có tài năng nhưng không
được khéo dạy khiến mầm họa được ươm từ từ. Người không có tài, đương nhiên
phải dạy họ thành thực; với người có tài càng phải nên dạy họ thành thực.
Thế nhưng thành thực vẫn có thể là giả vờ.
Thoạt đầu, hãy thường nên dạy dỗ về nhân quả báo ứng và lẽ “con người khởi tâm
động niệm gì, mỗi mỗi điều thiên địa quỷ thần đều biết đều hay cả”, khuyên con
phải đọc kỹ các sách Âm Chất Văn, Thái Thượng Cảm Ứng, đừng cho rằng chúng
không phải là sách Phật rồi xem thường. Ấy là vì phàm phu tâm lượng thiển cận,
nếu dùng những lý xa xôi lớn lao để giảng nói sẽ khó thể lãnh hội được. Những
sách ấy dù già hay trẻ nghe đến đều được lợi ích cả, huống hồ là những người
lấy việc chú trọng điều thiện làm thầy ư?
Với tử thi, phân nhơ, rắn độc mà đức Phật
còn dạy người quán để chứng A La Hán, số đó nhiều hơn hằng hà sa; huống hồ là
những lời lẽ thiết thực, tồn dưỡng, cảnh tỉnh này [há nên xem thường] ư?
* Còn thuộc
địa vị phàm phu chẳng thể không bệnh được, nhưng cũng chẳng nên bỏ mặc chẳng
trị. Cách trị bệnh tốn ít sức nhất lại được lợi ích nhiều nhất là lấy bệnh làm
thuốc. Lấy bệnh làm thuốc nghĩa là chẳng để bệnh lụy mình. Chẳng hạn như cái
bệnh yêu mến con cái quyết chẳng thể đoạn được thì chẳng ngại gì dùng ngay sự
yêu mến đó làm cái gốc khiến cho con cái khi sống làm người chân chánh, chết đi
sanh về Tịnh Độ. Yêu con như vậy là biến phàm tình thế gian thành thánh quả
xuất thế gian. Nếu chẳng khéo sử dụng lòng Ái, mặc lòng nuông chiều con thì còn
hơn giết chết con cả trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên lần! Nước nhà diệt vong,
nhân dân đồ thán đều là do những kẻ cha mẹ chẳng hiểu rõ sự tình un đúc nên,
chẳng đáng buồn ư?
* Muốn cho
con cháu chẳng hướng theo nẻo bại hoại, cùng nhau noi theo chánh đạo thì nên
lấy các sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, Âm Chất Văn Quảng Nghĩa làm kim chỉ nam.
Dù những làn sóng thế tục xấu ác có bủa ngập trời, mây đen phủ kín mặt nhật,
cũng chẳng đến nỗi chẳng biết hướng về đâu, chìm đắm mất cả.
Nếu không, dù gió lặng, sóng yên, mặt trời
soi tỏ cũng khó bảo đảm không có nước xoáy ngầm, vào đó liền bị đắm chìm, huống
hồ trọn chẳng có chuyện gió yên, sóng lặng, mặt trời soi thấy tỏ thế đạo nhân
tâm! Phải biết nội dung hai chữ Âm Đức rất rộng. Thành tựu con em người ta,
khiến chúng thành thánh thành hiền, cố nhiên thuộc về Âm Đức. Thành tựu con em
mình khiến chúng thành thánh, thành hiền cũng là âm đức. Ngược lại, khiến con
em người ta bị lầm lạc đương nhiên là tổn âm đức; khiến con em mình lầm lạc
cũng tổn âm đức. Nếu vừa đủ khả năng lẫn đủ sức thì may mắn nào hơn!
Nếu không, đối với những hành vi, ngôn ngữ
hằng ngày trong gia đình, phải lấy việc thành thánh, thành hiền làm đầu, đấy
chính là dùng Tục để tu Chân. Nay cư sĩ dùng thân mình thuyết pháp, xin hãy đem
ý này thiết tha bảo cùng bè bạn và hết thảy người quen biết thì cũng là một
cách để tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha vậy!
* Nhà Châu
mở nước là do ba bà Thái tạo lập nền tảng, Văn Vương thành thánh là nhờ thai
giáo. Do vậy biết rằng: thế gian không có bậc thánh, bậc hiền là do đời thiếu
những người mẹ thánh hiền mà nên nỗi! Nếu như bà mẹ nào cũng giống như ba bà
Thái, dù con họ chẳng thành Vương Quý, Văn Vương, Châu Công, cũng hiếm đứa làm
bậy, gian ngoa. Thế nhưng người đời chỉ biết yêu thương con cái, mặc tình nuông
chiều thành thói, chẳng biết làm gương cho con. Đây chính là một điều đại bất
hạnh của nước ta.
Con người lúc còn nhỏ thường gần bên mẹ,
nên chịu ảnh hưởng của mẹ rất sâu. Con gái ngày hôm nay sẽ là mẹ người khác
trong mai sau. Muốn vun đắp quốc gia, phải lấy việc dạy dỗ con gái làm nhiệm vụ
cấp bách. Đừng bảo: “Con gái là con người ta, cần gì phải mất công lo lắng?”
Phải biết rằng: Vì trời đất mà tài bồi một kẻ lương dân biết giữ phận, không
công đức nào lớn hơn. Huống hồ nếu một cô gái đức hạnh vẹn toàn, con cái cô ta
ắt sẽ noi theo nề nếp tốt đẹp đó, còn gì vẻ vang hơn?
Vả nữa, con dâu, cháu dâu mình chẳng phải
là con gái nhà người đó sao? Muốn cho đất nước quật cường, không có hiền mẫu
thì không có cách nào hỗ trợ được cả. Đời không mẹ hiền thì chẳng những nước
không dân lành, nhà không con ngoan, mà ngay cả những gã thầy chùa bại hoại
sống bám vào Phật trong Phật pháp thảy đều do những bà mẹ bất hảo sanh ra. Nếu
mẹ thật sự hiền, con sẽ trọn chẳng đến nỗi đớn hèn như thế. Tiếc thay!
* Gia quyến
của ông rất đông, khi các cô em dâu, em gái, con gái v.v... của ông đi học về,
hãy đem những sự những nhân quả báo ứng và lợi ích của việc niệm Phật bàn luận
cùng họ, ngõ hầu ai nấy đều biết “trong tâm mình đã tự biết thì tâm sẽ tương
thông thiên địa quỷ thần cũng như sẽ tương thông với từ phụ Di Đà”. Do vậy, họ
sẽ đoạn trừ ác niệm, tăng trưởng chánh tín, ngõ hầu hiện tại đáng làm vợ hiền,
tương lai xứng làm hiền mẫu khiến cho [nết tốt] đó truyền lan trong làng xóm,
đấy cũng là pháp luân căn bản để bình trị thiên hạ quốc gia.
Bồ Tát thuận theo thế tục lợi sanh, chẳng
bày vẽ phong cách riêng, đối bệnh cấp thuốc khiến cho ai nấy đều đúng đường về
nhà mới thôi. Hiện tại, các phụ nữ trong chốn học đường đa phần lầm lạc sanh dị
tâm, toan nắm lấy chánh quyền, chẳng biết tự giữ bổn phận giúp chồng dạy con
chính là căn bản khiến thiên hạ thái bình. Bởi lẽ vương nghiệp nhà Chu bắt
nguồn từ ba bà Thái. Ba bà Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự là những bậc thánh
trong hàng nữ nhân, họ chỉ chú trọng vào việc dạy con ngay từ lúc còn trong
thai để ngầm giúp chồng. Người đời nay chẳng học theo gương đấy, những điều họ
toan tính đều là những mưu mô tai ác khiến thiên hạ loạn lạc biết là chừng
nào!
* Người
sanh trong thế gian phải có thiện ác phụ trợ mới hòng thành tựu được. Dù là bậc
thánh trời sanh, vẫn cần phải có hiền mẫu, hiền thê phụ trợ đạo đức, huống hồ
là những kẻ kém cỏi hơn ư? Do bà Thái Nhậm dạy con từ thuở trong thai nên Văn
Vương sanh ra đã có thánh đức. Vì thế kinh Thi khen ngợi chuyện ngài nghiêm
khắc từ vợ góa cho đến anh em để giữ yên gia đình, đất nước. Đấy chỉ là nói
riêng về Văn Vương, chứ nếu luận về bà Thái Tự, cố nhiên đức hạnh của bà cũng
bổ trợ cho đường lối đạo đức của Văn Vương, như hai ngọn đèn cùng chiếu càng
thấy sáng rỡ, hai tay cùng rửa mới được sạch sẽ. Cứ xem những lời ông Tư Trai
khen ngợi tiếng thơm của các bà Thái Nhậm, Thái Tự ắt sẽ thấy rõ.
Vì thế mới nói: đời ít người hiền là do
đời thiếu mẹ hiền và vợ hiền vậy! Đó là vì vợ hiền sẽ ngầm giúp chồng, mẹ hiền
dạy con cái ngay từ lúc còn trong thai. Huống hồ mấy năm đầu tiên, luôn ở bên
mẹ, được uốn nắn theo khuôn mẫu tốt đẹp, thường được răn dạy, tánh tình sẽ ngầm
chuyển biến, chẳng mong đợi mà được vậy.
Tôi thường bảo: “Dạy con gái là cái gốc để
tề gia trị quốc”, lại cũng thường nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ, nữ nhân
đã nắm giữ quá nửa!” chính là ý này. Bởi lẽ, kẻ có thiên tư cao được mẹ hiền un
đúc, được vợ hiền giúp đỡ, ắt sẽ trở nên ý thành, tâm chánh, rạng đức sáng,
chuyên chí nơi việc lành, lúc cùng thì riêng mình thiện, lúc đạt thì khiến
thiên hạ cùng thiện. Dù là kẻ thiên tư bình thường cũng vẫn có thể tuân thủ quy
củ, một bề giữ phận lương dân, trọn chẳng đến nỗi vượt lý trái phận, làm điều
sai quấy, gian dối, khiến cha mẹ nhục nhã, gây hại cho đời.
Tiếc cho người đời mơ màng chẳng dạy con
gái tận hết luân thường, giữ bổn phận, hằng ngày chỉ lo trau chuốt, chẳng màng
đến chuyện gì khác. Mai kia làm vợ người ta, làm mẹ người ta, chẳng những chẳng
thể giúp chồng dạy con trở thành thiện sĩ, trái lại còn dạy con hóa thành kẻ ác.
Bởi vậy mới nói: Đối với con gái, phải dạy họ chú tâm đến việc dạy dỗ con cái
[mai sau]. Những câu tôi đã nói như “dạy con gái là cái gốc để tề gia trị quốc”
và “quyền trị quốc bình thiên hạ, nữ nhân chiếm quá nửa” chính là lời chân
thật.
Gần đây, học vấn phát triển mạnh mẽ, phụ
nữ đi học đa phần bị những giáo viên chẳng biết dạy từ cội gốc làm cho lầm lạc.
Do đó, họ chẳng coi trọng việc tận hết luân thường, giữ bổn phận, yên cửa yên
nhà, giúp chồng dạy con. Ai nấy đều muốn nắm lấy chánh quyền, làm trưởng quan,
toan tính quá phận, tập thói cuồng vọng, thật đáng than vậy! Nếu như có kẻ làm
đầu cực lực đề xướng việc vun bồi trong gia đình khiến cho việc tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ tự nhiên được hữu hiệu thì may mắn thay!
* Phận làm
con cố nhiên phải tỏ bày đức hạnh của cha mẹ. Để tỏ bày đức ấy phải chú trọng
đến việc thân mình tự hành, bản thân phải khắc kỷ giữ lễ, ngăn tà, giữ lòng
thành, biết sai liền sửa, thấy điều nghĩa bèn làm, hiểu nhân rõ quả, kiêng
giết, phóng sanh, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, sanh Tín, phát
nguyện trì danh hiệu Phật, tự hành, dạy người cùng sanh Tịnh Độ.
Làm được như vậy, dù người ta chẳng biết
đến đức hạnh của cha mẹ, nhưng do ngưỡng mộ đức hạnh của người ấy cũng sẽ
ngưỡng mộ lây cả đức hạnh của cha mẹ, tổ tiên kẻ đó; cho rằng ông bà cha mẹ
phải ngầm tu đức hạnh đã lâu nên mới có được con cháu nối tiếp như thế. Nếu
không, dù cha mẹ, tổ tông có đức tốt ai nấy đều biết, nhưng con cái không ra
gì, người ta ắt sẽ đâm ngờ cha mẹ, tổ tông tuy có đức tốt, biết đâu lại có
những điều ác ẩn giấu. Nếu không, sao từ cửa đức hạnh tốt đẹp lại nẩy sanh hạng
con cháu tệ hại đến thế?
Vì thế, phải biết rằng: lập thân hành đạo
chính là biểu dương đức hạnh của cha mẹ, tổ tông. Làm con phải chú trọng lòng
kính, cẩn thận, dè dặt, tận lực thực hành như thế mới mong khỏi làm nhục lây
bậc sanh ra mình!
* Đời có
hiền mẫu mới có hiền nhân. Các thánh mẫu đời xưa chú trọng thai giáo để un đúc
bẩm chất con cái ngay từ thuở đầu, những mong tập quen thành tánh. Thế gian gọi
nữ nhân là Thái Thái là vì ba vị thánh nữ Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự bà
nào cũng giúp chồng dạy con, mở mang vương nghiệp tám trăm năm. Cho nên mới
dùng chữ Thái Thái để gọi nữ nhân. Quang tôi thường nói: “Quyền bình trị thiên
hạ, nữ nhân nắm hơn quá nửa”. Tôi còn thường nói: “Dạy con gái là cái gốc để tề
gia trị quốc” hàm ý: tận hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con.
Chẳng như nữ lưu ngày nay, đa phần chẳng
giữ bổn phận, vọng động muốn nắm lấy chánh quyền, làm đại sự, chẳng biết vun
bồi ngay từ trong gia đình. Đấy đúng là: gom sắt cả chín châu vạn quốc cũng
chẳng thể đúc nổi lỗi lầm lớn ấy. Bởi vậy, thế đạo nhân tâm ngày càng suy đồi,
tai trời vạ người thấy xảy ra liên miên. Tuy những tai vạ ấy do ác nghiệp đồng
phận của chúng sanh cảm thành, nhưng thật ra cũng là do đánh mất sự giáo dục
trong gia đình mà nên nỗi.
Vì thế, kẻ có thiên tư quen thói cuồng
vọng, người không thiên tư thành ra bướng bỉnh, sàm sỡ. Nếu như ai nấy đều được
mẹ hiền uốn nắn thì người người đều thành thiện sĩ, cùng thì riêng mình thiện,
đạt thì khiến người khác cùng thiện; sao đến nỗi trên không đạo để noi, dưới
không pháp để giữ, thói tệ nảy sanh trăm mối, dân không lẽ sống vậy!
* Chỉ cầu
sao chẳng đói, chẳng rét, mơ chi phát tài cự vạn. Để vàng ròng đầy ắp lại cho
con, chẳng bằng dạy con một quyển kinh. Tổ đức bị sứt mẻ mới đáng chết thẹn,
chứ tổ nghiệp bị sứt mẻ nào có thương tổn chi!
* Con em
nhà phú quý đa phần chẳng thành người, nguyên do là thương con nhưng chẳng hiểu
đạo: hoặc chỉ chú trọng đến tiền tài, hoặc chỉ lo cho con ăn mặc sang trọng.
Tiền xài mặc sức ắt sẽ đến nỗi ăn bậy thành bệnh. Nếu cho đứa này giữ tiền để
sanh lợi thì những đứa kia chẳng được giữ sẽ oán hờn cha mẹ, sanh lòng đố kỵ
với anh, em, chị em nào được giữ tiền. Đấy đều chẳng phải là cách để dạy con
hiếu đễ. Nếu con gái có tiền, khi xuất giá ắt sẽ cậy tiền tự kiêu, hoặc khinh
thường chồng, hoặc chẳng hiểu rõ sự việc, đem tiền giúp chồng làm việc
quấy.
Muốn cho con cái thành hiền nhân thì hãy
nên bồi phước, chớ nên tích cóp tiền tài. Của cải là gốc họa. Các vị từng thấy
không ít người tay trắng làm nên đều là do không tiền tự mình siêng gắng mà
được, nhưng nhà đại phú gia chẳng mấy chốc gia sản trống rỗng. Vì thế cổ nhân
nói: “Để cho con một rương đầy vàng, chẳng bằng để cho con một quyển sách”. Đọc
sách được thì đọc, không đọc được thì làm nghề nông, hoặc buôn bán, ai có nghề
nấy để làm cái vốn lập thân nuôi gia đình. Con gái nếu có tiền lại hiểu đạo lý,
lẽ cố nhiên tiền sẽ thành cái vốn để trợ đạo. Nếu chẳng hiểu đạo lý, tiền sẽ
hại cô đó, hại luôn chàng rể, hại lây cả đến cháu trai, cháu gái!
* Con người
một đời thành bại đều là do sự tài bồi, tập tành dần dần lúc nhỏ mà ra. Ngươi
đã thành thiếu niên phải biết tốt xấu, vạn phần chẳng được học theo thói đời,
hãy nên học hiếu, học đễ, học trung hậu, thành thực. Đang lúc tuổi trẻ mạnh mẽ,
cường tráng, hãy nỗ lực đọc sách. Phàm đọc qua sách nào, phải nghĩ xem những
điều nào sách dạy là trọng yếu đối với con người thì thực hành theo đó; chứ nếu
không chỉ là cố ngốn sách cho nhiều.
Nếu những điều dạy trong các sách nói trên
chẳng dễ lãnh hội thì những điều nói trong các sách như Âm Chất Văn, Cảm Ứng
Thiên v.v... đều là nói trực tiếp, dễ lãnh hội; hãy nên thường đọc, thường
nghiền ngẫm, sửa lỗi hướng thiện. Lúc nhàn hạ, rất nên niệm A Di Đà Phật và
Quán Thế Âm Bồ Tát để mong tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ, đừng
nghĩ là khổ sở. Cổ nhân nói: “Thiếu tráng bất nỗ lực, lão nhân đồ thương bi”
(Trẻ mạnh chẳng nỗ lực, già cả luống sầu thương!) Lúc này bỏ phí quang âm, về
sau dù có nỗ lực cũng khó thành tựu! Bởi lẽ, tuổi trẻ đã qua, trí nhớ cùn quá
nửa, học cái gì cũng phải dùng sức nhiều nhưng hiệu quả lại ít.
Thứ nhất là phải làm người tốt, thấy người
hiền mong được bằng, thấy kẻ chẳng hiền trong lòng tự cảnh tỉnh,
Thứ hai là
phải biết nhân quả báo ứng, nhất cử nhất động đừng mặc tình khoái ý, mà phải
nghĩ việc này có lợi ích đối với ta, với người thân, người ngoài hay chăng.
Chẳng những làm việc gì cũng như thế mà khi khởi tâm động niệm cũng phải thường
như thế. Khởi tâm lành ắt có công đức, khởi tâm xấu ắt mắc tội lỗi. Muốn được
báo tốt thì phải giữ tâm tốt. Nói lời lành, làm việc lành, lợi người lẫn vật,
chẳng làm hại mình lẫn người thì mới nên. Nếu chẳng vậy, sao hưởng được báo
tốt?
Ví như đem hình xấu đặt trước gương sáng,
quyết định chẳng thể hiện bóng đẹp đẽ được. Ảnh được hiện so với hình xấu, trọn
chẳng khác gì. Nếu ngươi quả thật hiểu sâu nghĩa này, tương lai nhất định thành
một bậc chánh nhân quân tử, khiến hết thảy mọi người đều tôn trọng, yêu kính.
Mong hãy suy nghĩ cẩn thận, nghĩ ngợi chín chắn thì thật là may mắn lắm!
3. Khuyên nên tại gia hoằng pháp
* Như Lai thuyết pháp hằng thuận chúng sanh. Gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu,
ngoài tận hết luân thường, trong tiêu trừ tình lự. Nếu như khôi phục được chân
tâm vốn có thì gọi là Phật đệ tử, chứ nào có phải vì đầu tóc mà luận đâu!
Huống nữa, quý
hương (làng) tuốt trong núi sâu, người biết pháp ít ỏi. Kẻ cao minh vì chẳng
thông ngôn ngữ nên đều chẳng đến đấy. Hãy cậy vào lòng thành ấy, kiệt lực học
đạo, tu hiếu đễ, ngõ hầu cảm hóa xóm giềng. Trai giới thành lập, giết trộm dâm
liền tiêu.
Nghiên cứu kinh
luận Tịnh Độ ắt hiểu yếu đạo xuất thế. Thọ trì An Sĩ Toàn Thư sẽ hiểu khuôn mẫu
tốt lành khiến cuộc đời thuần dịu. Dùng pháp môn Tịnh Độ khuyên dụ cha mẹ, dùng
pháp môn Tịnh Độ dạy con và người thân bè bạn, chính là vì sanh tử đại sự đau
đáu lo cho thân sau.
Chẳng cần phải
chọn riêng một nơi mà gia đình liền thành đạo tràng, cha mẹ, anh em, vợ con,
bằng hữu, thân thích, người quen biết đều thành pháp quyến. Tự hành, dạy người,
miệng khuyên, thân siêng gắng khiến cho mọi người cùng quy hướng Tịnh Độ, đều
thoát khổ luân, đáng gọi là bậc cao tăng còn để tóc, là đệ tử Phật tại gia
vậy!
* Hai vị lệnh thân hiện còn sống thì hãy nên dùng những cảm ứng, sự tích của
pháp môn Tịnh Độ để thường giảng nói khiến họ phát tâm hoan hỷ, tin nhận phụng
hành. Nếu chẳng coi đấy là hiếu, dù có tận sức làm hết những điều thế gian coi
là hiếu, rốt cuộc có ích lợi gì cho cha mẹ đâu?
Vua Đại Vũ là đại
thánh nhân, vẫn chẳng cứu được hồn [cha là] Cổn hóa thành Hoàng Nai (chữ Năng
đọc thành Nai, có nghĩa là con ba ba có ba chân) sống trong Vũ Uyên. Thấy vậy
chẳng nên kinh sợ, tỉnh ngộ mong dẫn dắt thần thức cha mẹ cao dự hải hội, thân
cận Di Đà hòng chứng được vô lượng quang thọ vốn có sẵn trong tâm ư?
Cư sĩ Chí Liên dù
giỏi khổ hạnh, nhưng chỉ e với tông chỉ Tịnh Độ vẫn còn có điều chẳng biết,
hoặc có tâm cầu chuyển nữ thân hoặc mong sanh vào chốn an vui trong đường trời
người nên chẳng thể buông xuống triệt để được, đến nỗi vô biên lợi ích bị mất
cả vào điều vui thế gian nhỏ nhặt. Phải nên thường giảng nói khiến cho bà ấy
chí hướng quyết định. Khuyên một chúng sanh vãng sanh Tịnh Độ chính là thành
tựu cho một chúng sanh thành Phật. Thành Phật rồi ắt độ vô lượng chúng sanh,
công ấy bắt đầu từ ta, công đức lợi ích ấy há nghĩ bàn nổi chăng?
Tự mình đã tu Tịnh
Độ, lại còn phải đem pháp môn này bảo khắp với mọi người: anh em, thê thiếp,
con cái, bảo họ [các người] lẽ nào chẳng chịu phát tâm, đành bỏ mất lợi ích lớn
lao này ư? Nếu thiên tánh của họ gần với pháp môn này thì còn gì tốt hơn! Nếu
tánh họ hơi xa, giồi mài mãi (1) cũng sẽ nhiễm từ từ, dù xa cũng thành gần. Đấy
đáng gọi là lòng yêu mến sâu xa, đáng gọi là lòng từ rộng lớn. Bỏ tấm lòng từ
ái này chỉ đáng gọi là hữu danh vô thật!
* Thái phu nhân niên kỷ đã tám mươi ba, phải thường khuyến dụ bà tín nguyện
niệm Phật. Nếu bảo bà suốt ngày niệm Phật chỉ e bà làm không nổi. Trước đây đã
toan lập cách trợ niệm ngay khi còn sống, nhưng nghĩ chưa ra. [Đến khi] Trấn
Thủ Sứ Vương Duyệt Sơn đưa mẹ lên thăm núi, [tôi thấy] quyến thuộc của ông ta
rất đông bèn tìm ra một cách trợ niệm rất tuyệt diệu, đã trình bày sơ lược với
ông ta, nay sẽ thưa cùng các hạ. Dù các hạ chẳng thực hành được cũng chẳng đến
nỗi coi thường bỏ qua, đó cũng là đạo tự lợi lợi tha vậy.
Trong quyến thuộc
của các hạ, các ông con trai ai nấy đều có chức nghiệp, cố nhiên khó thể luôn
luôn làm được. Nhưng các bà con dâu thì vô sự thanh nhàn, những kẻ hầu gái như
các bà vú v.v... ắt chẳng có việc gì quan trọng, ông nên bảo họ căn theo đồng
hồ suốt ngày ở quanh thái phu nhân lớn tiếng niệm Phật chừng nửa giờ. Hết lượt
bèn đổi phiên, cả ngày chẳng dứt tiếng niệm Phật.
Thái phu nhân nếu
niệm theo được thì càng tốt; bằng không thì chỉ nhiếp tâm lắng nghe suốt ngày,
thường chẳng lìa Phật. Các người khác cũng chẳng mất sức, bởi lẽ cả ngày bất
quá chỉ phải niệm một lượt hay hai lượt, nhưng thời gian cách khoảng giữa hai
lượt cũng khá dài. Bọn họ không có chuyện gì quan trọng, bèn nhờ đấy mà dốc tận
lòng hiếu, gieo thiện căn; ngay đến bọn hầu gái cũng nhờ vào nhân này, gieo
duyên xuất ly sanh tử.
Từ nay trở đi, lấy
cách này làm lệ thường; dù thái phu nhân tuổi thọ quá cao cũng chẳng được nửa
chừng bỏ dở. Pháp này lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Phàm ai có tín tâm muốn thành
tựu đạo nghiệp vãng sanh cho cha mẹ thì hãy nên khuyên họ làm theo cách này.
* Mẹ ông tuổi cao nhưng với pháp môn Tịnh Độ chưa thể hiểu đúng, tu trì, hãy
thường nói với mẹ về nỗi khổ luân hồi trong sáu đường, sự vui trong thế giới
Cực Lạc. Người sanh trong thế gian siêu thăng cực khó, đọa lạc cực dễ. Nếu
chẳng vãng sanh Tây Phương, đừng nói là nhân đạo chẳng đáng nương cậy, dù sanh
lên trời phước thọ thật lâu, một khi phước lực đã tận vẫn phải đọa lạc trong
nhân gian như cũ và phải thọ khổ trong tam đồ ác đạo.
Nếu chẳng biết
Phật pháp thì chẳng biết làm sao được; còn như nay đã hiểu đại lược Phật pháp,
há đành nhường mối đại lợi ích này cho người khác, tự mình cam tâm luân hồi
trong lục đạo, thoạt ra thoạt vào, vĩnh viễn không có ngày giải thoát ư? Cứ nói
như vậy, may ra mẹ sẽ phát khởi được túc thế thiện căn, tin nhận phụng
hành.
Bồ Tát độ sanh tùy
thuận cơ nghi, trước hết dùng dục để nhử, sau mới khiến cho nhập vào Phật trí.
Ông cực lực tu hạnh hiếu đễ, lại đem pháp môn Tịnh Độ khuyên lơn, hướng dẫn
quyến thuộc của mình và hết thảy những ai hữu duyên cùng làm người trong hội
Liên Trì thì công đức rất lớn.
* Con hiếu thờ cha mẹ thì phải đặt cái gốc lên trước, đặt cái ngọn ra sau, nuôi
thân cha mẹ, khai đạo tinh thần. Nếu chỉ biết báo bổ công lao, phụng dưỡng cho
cha mẹ an nhàn, lập thân hành đạo để cha mẹ được vẻ vang, chẳng biết đem đạo
thường trụ vô sanh, pháp niệm Phật vãng sanh để khuyên dụ cha mẹ tu trì, khiến
cho cha mẹ lúc sống niệm Phật hiệu, chết đi sanh về cõi Phật, giã biệt nỗi khổ
sanh tử hư huyễn, hưởng thường trụ chân lạc, phụng sự Di Đà, chen vai cùng hải
chúng nghe viên âm, tam Hoặc trừ sạch, thấy diệu cảnh, viên minh tứ trí, chẳng
lìa An Dưỡng, vào khắp mười phương thượng cầu hạ hóa, rộng làm Phật sự, triệt
chứng Phật tánh vốn sẵn có trong tâm, làm thuyền từ độ khắp mọi người trong
biển khổ.
Nếu vậy thì đúng
là thấy nhỏ quên lớn, được gần bỏ xa, chính là kiến giải hạn hẹp của kẻ hèn,
chẳng phải là tầm nhìn rộng lớn của bậc thông đạt. Nếu như ông có thể làm cho
mẹ hiền cũng giống như mình, cũng như quyến thuộc cùng thoát Sa Bà, đồng sanh
An Dưỡng, đồng chứng vô lượng quang thọ, đồng hưởng pháp lạc tịch quang, đồng
làm pháp vương tử của Phật A Di Đà, đồng làm đại đạo sư của trời người thì mới
là trọn hết tấm lòng hiếu tử, mới xứng với công cha mẹ nuôi dạy. Đấy mới đúng
là hiếu từ nuôi dạy, chứ chẳng phải như thế gian nói hiếu từ nuôi dạy
đâu!
* Hành đạo hiếu thì không còn gì lớn hơn được nữa, hết thảy các điều lành không
gì chẳng thâu tóm, nhưng đạo hiếu có thế gian, xuất thế gian, lớn, nhỏ, bổn,
tích sai khác.
Đạo hiếu thế gian là chăm nom, phụng dưỡng cho cha mẹ được yên ổn, đón trước ý
khiến cha mẹ vui vẻ, cho đến lập thân hành đạo để dương danh hậu thế. Dù lớn
nhỏ khác nhau nhưng đều là chuyện thuộc về mặt sắc thân; dẫu cho đại hiếu ngút
trời, rốt cuộc chẳng ích lợi gì cho tâm tánh, sanh tử của cha mẹ cả! Đúng là
chỉ uổng công đuổi theo cái ngọn, chẳng xét đến cái gốc. Huống hồ là sát sanh
để dâng lên cha mẹ hay để cúng tế khiến cho cha mẹ càng bị oán thù kết chặt,
mãi mãi phải đền trả chẳng ngơi ư?
Đạo hiếu xuất thế gian, xét về mặt Tích cũng giống như thế gian chăm nom, phụng
dưỡng... cho đến lập thân dương danh, nhưng cái gốc là khiến cho cha mẹ huân tu
đại pháp của Như Lai. Cha mẹ còn sống thì khéo léo khuyên dụ sao cho cha mẹ ăn
chay niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ăn chay ắt chẳng tạo sát nghiệp, vừa diệt
được túc ương. Niệm Phật thì ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu đạo. Nếu quả
thật tin sâu, nguyện thiết cầu sanh Tây Phương, ắt đến lúc lâm chung được Phật
tiếp dẫn, gởi thân nơi chín phẩm sen. Từ đấy siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử, mãi mãi xa lìa các khổ trong chốn Sa Bà, thường hưởng các sự vui
trong chốn Cực Lạc.
Cha mẹ đã khuất bèn
thay cha mẹ dốc sức tu Tịnh nghiệp, chí thành hồi hướng cho cha mẹ. Nếu tâm
thật sự chân thiết, cha mẹ sẽ được lợi ích; nếu chưa vãng sanh liền được vãng
sanh. Nếu đã vãng sanh, phẩm sen sẽ cao thêm. Đã phát tâm được như thế thì sẽ
tương ứng với bốn hoằng thệ nguyện, khế hợp Bồ Đề giác đạo; há đâu chỉ riêng
cha mẹ được lợi ích mà công đức thiện căn, phẩm vị đài sen của chính mình cũng
sẽ cao siêu thù thắng!
Huống lại dùng
chính thân mình thuyết pháp khiến cho khắp mọi đồng luân cùng phát lòng hiếu
thuận. Đạo hiếu ấy mới là thật nghĩa rốt ráo, chẳng phải như thế gian chỉ mong
lợi lạc cho sắc thân và đời này, bỏ qua tâm tánh và đời sau chẳng buồn bàn tới!
Vì thế biết rằng đạo Phật lấy hiếu làm gốc. Do đó, kinh Phạm Võng dạy: “Hiếu
thuận với cha mẹ, sư tăng, Tam Bảo. Hiếu thuận là pháp chí đạo. Hiếu gọi là
Giới”’.
Lại như trong các
giới Giết - Trộm - Dâm - Dối, kinh đều nói phải sanh tâm từ bi, tâm hiếu thuận.
Trong giới “Chẳng thực hành phóng sanh, cứu mạng”, kinh Phạm Võng dạy: “Hết
thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta, đời đời chẳng lúc nào ta
chẳng sanh ra từ họ. Vì thế lục đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta, giết chúng
sanh để ăn thịt chính là giết cha mẹ mình”. Bởi thế mới nói đạo Hiếu của Phật
giáo gồm khắp tứ sanh lục đạo từ vô thỉ trước đến tận vị lai sau, chẳng thể đem
chuyện chỉ biết một đời một thân ra so sánh được. Biết vậy rồi mà chẳng kiêng
giết phóng sanh, ăn chay niệm Phật thì làm sao trọn hết được đạo hiếu chí cực
không chi hơn được nữa đây?
* Tự mình đã tu trì Tịnh nghiệp thì cũng phải nên dạy hết mọi người quen biết
cùng tu Tịnh nghiệp. Nên dựa theo phần Phổ Khuyến Môn trong sách Long Thư Tịnh
Độ khiến cho ai nấy tùy phần tùy sức gieo thiện căn chẳng thể nghĩ bàn này. Đã
muốn đem pháp này dạy người thì nên dạy từ thân đến sơ, nỡ nào để thê thiếp,
con cái chẳng được hưởng lợi ích này ư? Văn Vương nghiêm nhặt với vợ góa cho
đến huynh đệ để giữ yên nhà cửa đất nước. Đạo tự hành, dạy người thế gian, xuất
thế gian không pháp nào chẳng vậy!
* Tự mình cải ác tu thiện, nhất tâm niệm Phật; phàm hết thảy
người thân đều là kẻ hữu duyên, cũng nên dạy họ pháp này. Với những người phản
đối, hãy khởi tâm thương xót, đừng bắt buộc họ phải làm. Cứ đè đầu bò bắt gặm
cỏ thì vạn vạn phần chẳng làm được! Nếu bảo: “Tôi nhất tâm niệm Phật, các sự
chẳng bận tâm đến nữa” thì chẳng những là bị trở ngại nơi pháp thế gian, mà
cũng chẳng hợp với Phật pháp. Làm đúng với địa vị thì mới nên.
Khuyên người niệm
Phật tu hành dĩ nhiên là công đức bậc nhất, nhưng dưới đến vợ con, trên lên cha
mẹ, ông bà đều phải nên khuyên nhủ. Nếu chẳng thể khéo léo dùng phương tiện
khuyên nhủ gia đình, khiến cho quyến thuộc mình cùng được hưởng lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn liễu thoát sanh tử ngay trong đời này thì chính là bỏ gốc theo
ngọn, chỉ biết lợi người ngoài mà chẳng biết làm lợi cho người thân, có nên
chăng?
* Với những người trong nhà, vào những khi nhàn hạ vô sự, hãy dùng lời lẽ khúc
chiết, uyển chuyển tỏ bày tận lý khiến tâm người nghe biết được lẽ phải trái,
nên, không nên; vô hình trung ắt sẽ khiến cho tâm thức người nghe được mài giũa
giần, nhiễm dần mà chuyển biến.
Còn như khi cái
tánh ngu bướng, ngạo nghễ của người ấy trỗi dậy, nếu thấy đối trị được thì hãy
dùng những danh ngôn chí lý để ôn hòa bình tĩnh đối trị. Nếu không được thì cứ
mặc kệ, đừng động đến kẻ ấy nữa, đợi khi kẻ ấy hết nóng, lại ôn hòa, bình tĩnh
cùng kẻ ấy bàn luận khúc nhôi, lâu dần kẻ ấy cũng bị cảm hóa. Trọn chẳng nên
dùng đến những phương cách bắt buộc, mạnh mẽ, dữ dội...
* Nay là lúc pháp nhược ma cường, muốn hộ trì Phật pháp thì ở ngoài đời dễ hơn,
làm Tăng sẽ khó. Nếu các hạ nghiêm trì năm giới, chuyên niệm Di Đà, khắc kỷ,
giữ lễ, lời nói tương xứng hành vi, sau đấy lại rộng khuyến hóa, chỉ dạy nhằm
lợi khắp quần sanh, đừng cậy mình làm thầy mà tự cao, chẳng được nhận tiền tài
để hưởng thọ. Ở nhà thì dạy cho cả nhà, ra đại chúng bèn vì đại chúng trình bày
rõ khiến ai nấy đều ngưỡng mộ đức mà tin theo lời mình. Đấy gọi là thân đã
chánh thì chẳng ra lệnh mà người hành theo, lấy thân mình làm gương, hễ gió
thổi qua là cỏ phải rạp xuống.
* Tôi hay viết câu liễn như sau:
Xả Tây Phương tiệp kính, cửu giới chúng sanh thượng hà dĩ viên thành Phật
đạo?
Ly Tịnh Độ pháp môn, thập phương chư Phật bất năng phổ lợi quần manh.
(Bỏ đường tắt Tây Phương, cửu giới chúng sanh dùng chi viên thành Phật
đạo?
Rời pháp môn Tịnh Độ, mười phương chẳng thể lợi khắp quần manh)
Các hạ hãy khởi phát đại dũng mãnh, phát đại tinh tấn gánh vác pháp này. Dùng
những ngôn luận hoằng dương Tịnh Độ xứng với căn cơ của cổ nhân để bảo ban làng
xóm, sống trong trần lao chẳng nhiễm, tu Chân ngay trong cõi Tục thì mới hợp
với ý nghĩa “viên dung, vượt thoát khỏi danh và mạng” vậy.
4. Khuyên nên sống trong cõi trần học đạo
* Niệm Phật dĩ nhiên quý tại chuyên nhất; nhưng cư sĩ trên có cha mẹ, dưới có
vợ con, ngoài lo toan tính mong cầu giàu sướng, thật chẳng thích hợp [để xuất
gia]. Đối với những việc bên trong cần nên làm thì hãy gắng sức làm, bất tất
phải bỏ sạch hết thảy mới là tu hành. Nếu bỏ sạch hết thảy nhưng vẫn nuôi dưỡng
cha mẹ, vợ con chẳng thiếu sót thì cũng được. Nếu không là trái với đạo hiếu,
tuy bảo là tu hành nhưng lại trái nghịch với Phật pháp. Điều này chẳng thể
chẳng biết.
Lại phải nên dùng
những lợi ích của pháp môn Tịnh Độ để khuyên lơn cha mẹ, khiến họ niệm Phật cầu
sanh Tây Phương. Nếu họ tin nhận phụng hành, lúc lâm chung nhất định được vãng
sanh. Một phen được vãng sanh bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, cao
dự hải hội, thân cận Di Đà thẳng cho đến khi thành Phật mới thôi. Đạo hiếu thế
gian sao sánh bằng được!
Nếu lại còn có thể
đem điều ấy bảo ban cho khắp mọi người biết khiến cho cha mẹ người nào cũng đều
được vãng sanh thì công đức giáo hóa quy về mình, khiến cho phẩm vị liên đài
của cha mẹ và của mình đều được tăng cao. Kinh Thi chép: “Hiếu tử bất quỹ, vĩnh
tứ nhĩ loại” (con hiếu chẳng thiếu thốn, [trời] luôn ban thưởng cho các ngươi).
Muốn hiếu với cha mẹ, hãy nên suy nghĩ sâu xa rồi tận lực thực hành.
* Hoàn cảnh của mỗi người vạn phần chẳng giống nhau; xét đến hoàn cảnh của ông,
thật sự là ở tại gia có lợi ích lớn hơn, nếu xuất gia chỉ được lợi ích nhỏ. Ông
nhờ tổ nghiệp tạm sanh sống được, trên còn mẹ già để thờ, giữa có anh em để nhờ
cậy, trong nhà có vợ hiền, dưới gối chưa có con cái gì. Bác cả nhà ông hơi tin
Phật pháp, chú ba, chú tư cũng chẳng chống đối đạo pháp chi lắm, ông ở nhà dốc
sức tu tịnh nghiệp cũng có thể hướng dẫn bà cụ phát lòng tin niệm Phật, cầu
được liễu thoát, lại cũng có thể giúp anh em ở ngoài lo liệu việc nhà, cũng như
xướng xuất vợ con, em dâu v.v... cùng tu Tịnh nghiệp để làm kế sách cùng thoát
luân hồi.
Ngoài ra còn tùy
duyên khai thị, hướng dẫn xóm giềng, thân thích. Vậy thì nhà mình biến thành
đạo tràng, mọi người: thân mẫu, anh, em, vợ, con, cháu, xóm giềng, bằng hữu đều
thành pháp quyến; tùy sức tùy phần, thân làm, miệng khuyên, khiến cho cả miền
Vĩnh Gia, những kẻ lạc đường, những người thuộc tà kiến chủng tánh đều được nạp
vào lò luyện pháp môn Tịnh Độ viên đốn chí cực lớn lao, luyện thành pháp khí,
cùng tu tịnh nghiệp, tương lai cùng ngự Liên Bang, cùng chứng Bồ Đề. [Lợi ích
như thế] vẫn thua việc ông xuất gia làm tăng, bỏ mẹ đi xa, khiến người nhà hờn
oán thiếu người nương dựa, mẹ ôm lòng phiền con hay sao?
Vả nữa, tất cả
những kẻ chẳng hiểu đạo lý đến nơi đến chốn ắt sẽ trở mặt chê Phật pháp trái
nghịch thế đạo, lầm lạc hủy báng, khiến cho bọn họ tạo khẩu nghiệp phải đọa ác
đạo, chưa thấy ích gì mà trước đã tạo nên sự tổn hại lớn lao vậy. Huống chi mẹ
ông đã chẳng bằng lòng, há chẳng nên tuân theo ý mẹ, vẫn cứ ôm ấp tấm lòng đó
ư? Nếu mẹ ông chẳng chấp thuận cho ông tu hành thì xuất gia còn chấp nhận được,
nay mẹ ông hoan hỷ cho ông tu hành, sao lại muốn bỏ mẹ để tu hành?
Trong Phật pháp,
lục độ vạn hạnh, các thứ công nghiệp đều vì lợi ích chúng sanh. Ông không xuất
gia ắt sẽ lợi ích rất lớn cho mẹ. Chỉ riêng một lẽ đó đã rất nên thuận theo
lòng mẹ, cứ ở nhà học đạo khiến mẹ quen thấy, chẳng mong mẹ tin tưởng mà tự
nhiên mẹ tin tưởng, không công đức nào lớn hơn; huống hồ nào phải chỉ lợi ích
riêng cho một mình mẹ ông thôi đâu!
Thêm nữa, mẹ không bằng lòng cho xuất gia thì đừng nghĩ tới chuyện ấy nữa. Bởi
lẽ trong giới luật nhà Phật, cha mẹ chẳng cho phép xuất gia, cứ tự ý mình đi
xuất gia, nhà chùa sẽ chẳng cho phép xuống tóc và thọ giới v.v... Không vậy, cả
thầy lẫn trò đều mắc tội!
* Hiện tại mọi ngăn cấm đều rỡ bỏ cả, người tại gia nghiên cứu, tu tập nhiều
như rừng, người được lợi ích sanh Tây Phương cũng thường thấy, cần gì phải xuất
gia bỏ cha mẹ? Chuyện ấy Quang tôi tuyệt đối chẳng tán thành. Căn cứ trên thực
tế mà nói, trong hiện tại tu tại gia tốt hơn. Vì sao vậy? Vì đối với hết thảy
đều vô ngại. So với người tại gia, người xuất gia bị chướng ngại nhiều hơn; bởi
thế, nếu không phải là người phát tâm chân thật, ắt sẽ thành phường hạ lưu, vô
ích đối với Phật pháp, nhục lây đến Phật.
* Nếu muốn xuất thế thì chẳng cần gì phải tách ra ở riêng, chỉ y theo ngôn giáo
của Phật, đối trị phiền não tập khí sao cho hết sạch mới thôi. Tuy thân trong
cảnh tục, chẳng ngại gì đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử tiến đến Phật
Quả. Như cư sĩ Duy Ma bên Tây Thiên và các vị Phó Đại Sĩ, Lý Trưởng Giả, Bàng
Cư Sĩ v.v... trong cõi này. Nếu tự lực chẳng đủ, đã có pháp cậy nhờ Phật từ lực
vãng sanh Tây Phương để nương tựa. Há phải đâu ai nấy đều phải bỏ tục xuất gia
mới đúng là đệ tử Phật ư?
* Cư trần học đạo, tu chân ngay trong cõi tục thì bậc đạt nhân danh sĩ hay kẻ
ngu phu, ngu phụ đều làm được cả. Gắng sức tu trì, với những thứ hệ lụy của đời
tại gia hãy tưởng như bóng gậy, tiếng hét (2) phải đương đầu, hằng sanh tâm
nhàm lìa, luôn sanh chí vui thích (3), lấy bệnh làm thuốc, biến tắc thành
thông, trên chẳng khiến cao đường (4) buồn bã, dưới là vợ con chẳng mất nơi nhờ
cậy, lại còn khiến cho hết thảy những ai thấy biết nhờ đó sẽ tăng trưởng lòng
tin trong sạch, còn gì vui hơn!
* Người sống trong thế gian chẳng thể không làm gì cả, chỉ nên trọn hết bổn
phận, chẳng dòm dõi chi đến chuyện ngoài bổn phận. Sĩ, nông, công, thương, ai
nấy chăm lo nghề mình làm cái gốc để nuôi thân, nuôi gia đình, tùy phận, tùy
lực, quyết chí cầu sanh Tây Phương. Nếu có sức thì với việc lành sẽ bỏ của,
hoặc giúp lời nói để tán trợ. Nếu không, phát tâm tùy hỷ cũng thành công đức,
dùng đấy để vun bồi ruộng phước làm trợ hạnh vãng sanh. Như thuận nước căng
buồm, lại thêm chèo lái đến được bến bờ, chẳng sướng lắm ư?
* Nếu là bậc đại thông gia thì Thiền - Tịnh song tu, nhưng phải lấy Tịnh Độ làm
chủ. Nếu là người căn cơ trung bình thì cũng chẳng cần phải xem khắp kinh sâu
luận rộng, chỉ cốt sao chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, nhất tâm
niệm Phật cầu sanh Tây Phương là được. Người ấy chẳng buông bỏ gia nghiệp mà
vẫn kiêm tu pháp xuất thế.
Tuy tựa hồ là cách
tu tầm thường không gì lạ lùng cả, nhưng lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Bởi lẽ,
ngu phu, ngu phụ cắm cúi niệm Phật là đã ngầm thông Phật trí, thầm hợp diệu
đạo. So ra, lợi ích nhiều hơn hẳn bậc đại thông gia suy lường, phỏng đoán, cứ
suốt ngày vắt óc phân biệt. Bởi thế, ngu phu, ngu phụ niệm Phật dễ được lợi ích,
bậc đại thông gia nếu toàn thân buông xuống được hết sẽ dễ được lợi ích, chứ
nếu cứ suy dò nghĩa lý sẽ chẳng được lợi ích; trái lại còn thành bệnh, chưa đắc
bảo là đắc, có kẻ trở thành cuồng dại nữa.
Một pháp tham
thiền, con người hiện tại chẳng nên học; dù có học cũng chỉ thành văn tự tri
kiến (5), quyết chẳng thể đốn minh tự tâm, tự thấy tự tánh. Vì sao vậy? Một là
thiếu thiện tri thức chỉ dạy, quyết trạch; hai là người học chẳng hiểu căn cội
của Thiền. Mang tiếng tham thiền nhưng thật ra là hiểu lầm.
* Đối với việc thọ giới, nếu thiện nam tử xuất gia làm tăng thì phải vào chùa
tập tành oai nghi mới biết quy củ chốn tùng lâm. Giữ đúng oai nghi của Tăng thì
du phương hành cước (6) trọn chẳng trở ngại gì. Nếu không, mười phương tùng lâm
không trụ nơi nào được cả.
Nếu người nữ tại
gia, cửa nhà khá giả, thân có thể tự làm chủ, đến chùa thọ giới cũng chẳng phải
là không được. Còn nếu như gia cảnh cùng quẫn, cần gì phải làm vậy. Chỉ cần đối
trước Phật, khẩn thiết chí thành sám hối tội nghiệp trong vòng bảy ngày, tự thệ
thọ giới. Đến ngày thứ bảy, đối trước Phật xướng rằng: “Đệ tử con tên là... thề
thọ năm giới, làm mãn phần ưu-bà-di (ưu-bà-di Hán dịch là Cận Sự Nữ, hàm nghĩa
đã thọ năm giới, kham phụng sự Phật. Mãn Phần nghĩa là thọ trì trọn vẹn năm
giới). Đến hết cuộc đời chẳng sát sanh, đến hết cuộc đời chẳng trộm cắp, đến
hết cuộc đời chẳng dâm dục (nếu là gái có chồng thì nói “chẳng tà dâm”), đến
hết cuộc đời chẳng nói dối, đến hết cuộc đời chẳng uống rượu”. Nói như vậy ba
lần liền được đắc giới.
Nếu chí tâm thọ
trì thì công đức chẳng hơn kém, đừng bảo tự thệ thọ trì là chẳng đúng pháp. Đấy
là thánh huấn của đức Như Lai đã dạy trong kinh Phạm Võng.
* Tam Quy - Ngũ Giới là cửa ngõ ban đầu để vào Phật pháp; tu các pháp môn khác
đều nương theo đây mà vào, huống hồ là pháp môn Tịnh Độ liễu sanh thoát tử giản
dị nhất, chí viên, chí đốn chẳng thể nghĩ bàn ư? Chẳng cảnh tỉnh tam nghiệp,
chẳng trì năm giới, còn chẳng có phần lại được thân người, huống chi là muốn
được liên hoa hóa sanh, thân đầy đủ quang minh tướng hảo ư?
* Vì hàng tại gia đệ tử lược giảng ý nghĩa của Tam Quy, Ngũ Giới, Thập
Thiện:
Thương thay, từ vô thỉ đến nay chúng sanh luân hồi sáu nẻo, không được cứu,
không chỗ về nương, không nơi gởi gắm, như con côi mất cha, dường kẻ cùng quẫn
nhà tan cửa nát, toàn là do phiền não ác nghiệp cảm thành quả khổ sanh tử ấy,
mù lòa không huệ nhật, chẳng thể tự thoát khỏi. Đại Giác Thế Tôn thương xót,
thị hiện sanh trong thế gian, vì chúng sanh thuyết pháp, dạy họ thọ Tam Quy để
làm cái gốc bỏ tà về chánh, dạy họ trì Ngũ Giới hòng làm cái gốc đoạn ác tu
thiện, dạy họ hành Thập Thiện để làm gốc rễ thanh tịnh ba nghiệp thân - khẩu -
ý.
Từ đấy, chẳng làm
các điều ác, vâng làm các điều thiện. Tam nghiệp đã được tịnh rồi mới hòng tuân
tu đạo phẩm, ngõ hầu trái giác hợp trần, chuyển phàm thành thánh, đoạn gốc tham
- sân - si, thành đại đạo Bồ Đề giới - định - huệ. Bởi thế, đức Phật giảng Tứ
Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v... vô lượng pháp
môn. Lại muốn cho chúng sanh mau thoát sanh tử, chóng thành Phật đạo, đức Phật
bèn dạy pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến họ chẳng phí nhiều sức, hoàn
tất được ngay trong đời này. Ôi! Ơn đức Thế Tôn thật là cùng cực, dù là cha mẹ
hay trời đất cũng chẳng thể sánh ví được.
Bất Huệ (Tổ Ấn
Quang tự xưng) thọ ân thật sâu, nhưng không cách nào báo được ân sâu. Nay các
vị lầm nghe lời người, chẳng ngại xa xôi ngàn dặm đến đây, toan bái tôi làm
thầy, nhưng tôi tự xét mình vô đức, ba bốn lượt khước từ, quý vị vẫn chẳng chịu
nghe. Nay bất đắc dĩ, đem ý xuất thế thuyết pháp độ sanh của đức Như Lai bàn
đại khái cùng quý vị, cũng như giải thích sơ lược về ý nghĩa của Tam Quy, Ngũ
Giới, Thập Thiện và pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu tất cả quý vị lãnh hội được, tất
cả quý vị tuân thủ được, còn như từ Tứ Đế cho đến Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo
v.v... chẳng phải là những điều quý vị có thể hiểu thấu nên tôi lược đi không
nhắc đến. Nếu quý vị y giáo phụng hành, chính là thờ Phật làm thầy, sá gì Bất
Huệ! Nếu chẳng y giáo phụng hành là đã phụ ân Bất Huệ, huống chi là Phật
ân!
Tam Quy là:
- Một là quy
y Phật.
- Hai là quy y
Pháp.
- Ba là quy y
Tăng.
Quy là quay theo,
Y là nương tựa. Như người rớt xuống biển, chợt có thuyền đi đến, liền hướng về
đó. Đấy là ý nghĩa “quay theo”; ngồi yên ổn trên thuyền là ý nghĩa “nương tựa”.
Sanh tử là biển, Tam Bảo là thuyền; chúng sanh quy y liền lên bờ kia.
Đã quy y Phật bèn
thờ Phật làm thầy, từ nay trở đi cho đến khi mạng chung, chẳng được quy y thiên
ma, ngoại đạo, tà quỷ, tà thần. Đã quy Pháp bèn thờ Pháp làm thầy, từ nay trở
đi cho đến khi mạng chung, chẳng được quy y kinh sách ngoại đạo. Đã quy y Tăng
bèn thờ Tăng làm thầy, từ nay trở đi cho đến khi mạng chung, chẳng được quy y
đồ chúng ngoại đạo.
Ngũ Giới:
- Một là chẳng sát
sanh.
- Hai là chẳng
trộm cắp.
- Ba là chẳng tà
dâm.
- Bốn là chẳng nói
dối.
- Năm là chẳng
uống rượu.
1) Sát sanh:
Loài vật cũng
giống như ta, ham sống sợ chết. Ta đã ưa sống, há vật lại muốn chết! Do đó hãy
nghĩ: Có nên giết hại loài vật chăng? Hết thảy chúng sanh luân hồi sáu nẻo, tùy
nghiệp thiện - ác, thăng - giáng, siêu - trầm, ta cùng bọn chúng trong nhiều
kiếp lần lượt làm cha mẹ nhau, lần lượt làm con cái nhau, phải nghĩ cách cứu
vớt, nỡ nào giết hại? Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, trong đời tương lai
sẽ đều thành Phật. Nếu ta đọa lạc còn mong được cứu vớt.
Thêm nữa, ta đã
tạo sát nghiệp, ắt phải đọa ác đạo đền bồi nợ cũ, xoay vần giết hại lẫn nhau
chẳng khi nào xong. Suy nghĩ như thế nào còn dám giết? Nhưng nguyên nhân sát
sanh là do ăn thịt. Nếu biết được những nhân duyên như trên vừa nói sẽ tự chẳng
dám ăn thịt nữa. Kẻ ngu lại cho thịt là ngon, chẳng biết thịt vốn do tinh huyết
tạo thành; trong chứa phân tiểu, ngoài lẫn bẩn thỉu, tanh tưởi, hôi thối, ngon
lành chỗ nào? Thường quán bất tịnh, ắt ăn vào sẽ ói ra.
Thêm nữa, sanh vật
là người, cầm thú, giòi, bọ, cá, tép, muỗi, mòng, rận, rệp, tất cả những loài
có sanh mạng; đừng bảo con vật lớn chẳng được giết, con vật nhỏ thì giết được!
Trong kinh Phật có rộng nói công đức kiêng giết, phóng sanh. Tục nhân chẳng thể
đọc đến thì hãy xem sách Vạn Thiện Tiên Tư của An Sĩ tiên sinh ắt sẽ biết được
đại khái!
2) Chẳng trộm cắp:
Thấy nghĩ được cái
gì, chẳng cho bèn chẳng lấy. Người biết liêm sỉ chẳng phạm lỗi này, nhưng nếu
luận tỉ mỉ thì chẳng phải là bậc đại thánh đại hiền sẽ rất khó chẳng phạm. Vì
sao? Lấy công giúp tư, tổn người lợi mình, cậy thế lấy của, dùng mưu kế đoạt
vật, ghen ghét vì người khác phú quý, mong họ bần tiện; làm lành để phô trương;
đối với các việc lành tâm chẳng hiểu đúng, chẳng hạn như lập trường miễn phí,
chẳng chọn thầy nghiêm, khiến con em người khác bị lầm lạc; thí thuốc chữa bệnh
chẳng phân biệt thật giả khiến người dùng bị nguy tánh mạng; thấy người bị tai
nạn gấp vẫn xem thường chẳng cứu, lề mề hờ hững đến nỗi lỡ việc; làm tắc trách
cho xong việc, mặc kệ tiền tài người khác bị lãng phí, trong lòng không coi đó
là chuyện khẩn yếu. Những điều như thế đều gọi là trộm cắp. Vì các vị đều ở
chốn tốt lành nên tôi chỉ chọn ra những điều tệ hại nhất để nói đại lược mà
thôi!
3) Chẳng tà dâm:
Tục nhân nam nữ
lập gia đình sanh con đẻ cái, trên là liên quan đến phong hóa, dưới là liên
quan đến việc cúng giỗ. Dù vợ chồng ăn nằm với nhau chẳng bị cấm, nhưng phải
kính nhau như khách, cốt để [có con cháu] giỗ quải tổ tiên, chẳng được lấy đó
làm điều khoái lạc, ham dục đến nỗi mất mạng. Dù là vợ mình, tham vui quá cũng
là phạm tội, nhưng tội ấy còn nhỏ nhặt. Nếu chẳng phải là vợ mình mà ăn nằm bừa
bãi thì gọi là “tà dâm”, tội ấy cực nặng!
Hành tà dâm là đem
thân người làm chuyện súc sanh, khi báo hết mạng tận trước là đọa vào địa ngục,
ngạ quỷ, sau là đọa trong đường súc sanh ngàn vạn ức kiếp chẳng thể thoát khỏi.
Hết thảy chúng sanh từ dâm dục sanh nên giới này khó giữ, dễ phạm. Dẫu là bậc
hiền đạt, cũng có lúc còn vi phạm, huống chi kẻ ngu?
Nếu lập chí tu trì
thì trước hết phải biết rõ lợi - hại (lợi là chẳng phạm giới này sẽ được lợi
lạc gì; hại là những họa hại do phạm giới này) cũng như phương pháp đối trị
thời sẽ như thấy rắn độc, như gặp oán tặc, kinh sợ, hoảng hốt, dục tâm sẽ tự
dứt. Cách đối trị chép rộng trong kinh Phật. Tục nhân không duyên xem đến hãy
đọc sách Dục Hải Hồi Cuồng của An Sĩ tiên sinh sẽ biết được đại khái.
4) Chẳng vọng ngữ:
Lời nói đáng tin,
chẳng thốt lời hư dối. Nếu thấy nói chẳng thấy, chẳng thấy nói thấy, lấy hư làm
thật, biến có thành không, phàm điều gì tâm chẳng xứng với miệng, toan khinh
dối người khác đều là vọng ngữ cả. Lại nếu như chưa đoạn Hoặc bảo là đã đoạn
Hoặc, chưa đắc đạo bảo là đắc đạo thì gọi là đại vọng ngữ. Tội ấy rất nặng, sau
khi mạng chung nhất định đọa thẳng vào A Tỳ địa ngục, vĩnh viễn không có lúc
thoát ra. Nay người tu hành chẳng biết giáo lý Phật pháp, đa phần như thế cả,
cho nên phải đau đáu răn đe. Điều này thật thiết yếu.
Bốn điều trên chẳng luận là xuất gia hay tại gia, thọ giới hay không thọ giới
hễ phạm liền vướng tội lỗi, bởi thể tánh của chúng là ác. Nhưng người chưa thọ
giới thì mắc tội một tầng; người đã thọ giới mắc tội gấp đôi bởi ngoài chuyện
làm điều ác ra, còn thêm cái tội phạm giới. Nếu giữ được chẳng phạm thì công
đức vô biên; hết thảy phải nên gắng sức.
5) Chẳng uống rượu:
Rượu làm cho tâm
người mê loạn, hoại giống trí huệ. Uống vào sẽ bị điên đảo, hôn cuồng, làm
chuyện càn quấy, nên Phật chế định người tu hành trọn chẳng được uống rượu. Lại
như hành, hẹ, kiệu, tỏi, nén, năm thứ thực vật nồng gắt, mùi vị hôi hám, bản
chất chẳng thanh khiết, ăn chín sanh dâm, ăn sống tăng lòng nóng giận, người tu
hành đều chẳng được ăn. Với giới này, người chưa thọ giới ăn uống chúng chẳng
bị tội gì; người thọ giới mà dùng hay ăn chúng liền phạm một tầng giới của
Phật. Phật đã cấm chế, các vị vẫn phạm nên mắc tội vậy.
Thập Thiện là:
- Một là chẳng sát sanh,
- Hai là chẳng trộm cắp.
- Ba là chẳng tà dâm.
- Bốn là chẳng nói dối.
- Năm là chẳng nói thêu dệt.
- Sáu là chẳng nói đôi chiều.
- Bảy là chẳng ác khẩu.
- Tám là chẳng tham.
- Chín là chẳng sân.
- Mười là chẳng si.
Ba điều đầu gọi là thân nghiệp, bốn điều giữa là khẩu nghiệp, ba điều cuối là ý
nghiệp. Nghiệp nghĩa là “sự”. Nếu trì chẳng phạm thì gọi là Thập Thiện, nếu
phạm chẳng trì thì gọi là Thập Ác. Thập Ác chia làm thượng, trung, hạ, cảm ba
đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thập Thiện chia thành thượng, trung, hạ
cảm ba thiện đạo trời, người, a-tu-la. Nhân lành cảm quả lành, nhân ác cảm quả
ác, quyết định chẳng nghi, chẳng sai mảy may. Trong phần nói về Ngũ Giới đã
giảng giết - trộm - dâm - dối rồi.
Ỷ ngữ (nói thêu
dệt) là những lời lẽ phù phiếm, vô ích, chải chuốt, bóng bảy bàn nói chuyện dâm
dục khiến người khác nghĩ bậy.
Lưỡng thiệt (nói
đôi chiều) là đến người này nói người kia, đến người kia nói người này, đâm
thọc thị phi, đòn xóc hai đầu v.v...
Ác khẩu là ngôn
ngữ thô ác như dao, như kiếm, vạch trần lỗi kín của người, chẳng kiêng dè. Nếu
lại còn khiến cho cha mẹ người bị xấu lây, thì gọi là “đại ác khẩu”, tương lai
mắc phải quả báo súc sanh. Đã thọ giới nhà Phật, chớ nên phạm giới này.
Tham keo là tiền
tài của mình chẳng chịu thí cho người thì gọi là “keo”, chỉ mong vơ của cải của
người về mình thì gọi là “tham”.
Sân khuể là giận
dữ, thấy người được gì bèn sầu lo, phẫn nộ, thấy người bị mất gì bèn mừng rỡ,
sung sướng, lại còn cậy thế, cậy oai khinh người rẻ vật.
Tà kiến là chẳng
tin làm lành được phước, làm ác mắc tội, nói không nhân quả, chẳng có đời sau,
khinh chê thánh ngôn, hủy báng kinh giáo của Phật...
Mười điều thiện
này bao hàm hết thảy. Nếu có thể tuân hành thì không điều ác nào chẳng đoạn,
không điều thiện nào chẳng tu. Chỉ sợ quý vị chẳng thể lãnh hội nên tôi nay chỉ
nêu đại lược một hai việc: hiếu thuận cha mẹ, chẳng trái, chẳng nghịch, khúc
nhôi uyển chuyển khuyên cha mẹ nhập đạo, dứt mặn ăn chay, trì giới niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử. Nếu cha mẹ tin theo thì chẳng còn gì
tốt hơn.
Với anh em liền
tận sức nhường nhịn, với vợ chồng thời hết sức kính trọng, với con cái thời tận
sức giáo huấn khiến chúng trở thành người tốt, người hiền, chớ để chúng mặc
tình quen thói kiêu căng, đến nỗi thành hạng người chẳng ra gì. Với xóm giềng
làng nước, phải hòa mục, nhường nhịn, giảng cho họ nghe nhân quả thiện ác,
khiến họ sửa lỗi hướng thiện. Với bằng hữu tận lực giữ chữ tín. Với tôi tớ phải
từ ái. Với việc công bèn tận tâm kiệt lực như khi làm chuyện tư.
Hễ gặp người quen
biết, họ hàng, gặp cha nói Từ, gặp con nói Hiếu. Còn như kinh doanh cố nhiên là
để kiếm lời, nhưng chẳng được bán hàng giả, lừa dối người khác. Nếu như đem
phong tục này giáo hóa cho cả một ấp, một làng thì sẽ khiến cho họa loạn chưa
nảy mầm đã tiêu, các hình phạt trở thành vô dụng; có thể nói là ra ngoài tận
trung, trong nhà tận chính vậy!
10. Các sách vở
nên đọc
* Thuật rộng nguyện luân, giảng sâu xa duyên khởi thì chỉ có mình kinh Vô Lượng
Thọ. Chuyên giảng về pháp quán cũng như dạy rõ các nhân vãng sanh thì chỉ có
mình Thập Lục Quán Kinh (kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật). Hai kinh trên đây pháp
môn rộng lớn, đế lý tinh vi, kẻ độn căn đời mạt thật khó thể được lợi
ích.
Tìm lấy một bản
kinh câu văn giản dị nhưng nghĩa lại giàu, dùng ít chữ nhưng nghĩa lý phong
phú, độ khắp ba căn, hạ thủ dễ nhưng thành công cao, dùng sức ít mà đạt hiệu
quả nhanh chóng, chuyên ròng tu một hạnh lại viên thành vạn đức, khiến cho nhân
tâm mau chóng khế hợp quả giác thì chỉ có mình kinh Phật Thuyết A Di Đà mà
thôi!
Ấy là vì một phen
nghe đến y báo, chánh báo trang nghiêm, thượng thiện nhân cùng nhóm họp, ắt sẽ
sanh lòng tin chân thành, phát nguyện khẩn thiết, quyết có cái thế [mạnh mẽ]
như sông ngòi tuôn chảy không sao ngăn được. Từ đấy giữ chặt khư khư, chấp trì
vạn đức hồng danh, niệm đâu chú tâm vào đó mãi cho đến khi nhất tâm bất loạn.
Làm được như vậy thì ngay trong đời này đã dự vào dòng thánh, lâm chung theo
Phật vãng sanh, khai Phật tri kiến, cùng thọ dụng như Phật.
Bởi thế biết rằng
một pháp Trì Danh bao gồm vạn hạnh, toàn sự tức lý, toàn vọng tức chân, nhân
tột biển quả, quả thấu nguồn nhân. Thật đúng là đường tắt để quay về gốc, là
cửa ngõ trọng yếu để nhập đạo.
* Kinh A Di Đà có bản Yếu Giải do đại sư Ngẫu Ích trước tác, lý - sự đều đạt
tới mức cùng cực, là bản chú giải bậc nhất kể từ khi đức Phật nói ra kinh này,
diệu cực xác thực, dù cổ Phật tái hiện trong thế gian chú giải lại kinh này
cũng chẳng thể hay hơn được! Chớ nên xem thường, hãy tin nhận chắc chắn.
Kinh Vô Lượng Thọ có bản sớ giải của pháp sư Huệ Viễn đời Tùy, giải văn thích
nghĩa thật là trong sáng, gãy gọn. Kinh Quán Vô Lượng Thọ có bản [chú giải] Tứ
Thiếp Sớ của hòa thượng Thiện Đạo. Ngài chỉ muốn khiến cho ba căn cùng được lợi
ích nên đa phần phát huy về mặt sự tướng. Sau phần nói về Thượng Phẩm Thượng
Sanh, Ngài phát huy sự hơn kém của hai cách Chuyên Tu và Tạp Tu, khiến người
đọc sanh lòng tin chân thành kiên cố. Dù đức Thích Ca Mâu Ni Phật và chư Phật
hiện thân bảo bỏ pháp môn Tịnh Độ này để tu các pháp môn khác cũng chẳng thay
đổi ý nguyện chút nào; có thể nói sách ấy là kim chỉ nam cho hành giả Tịnh
nghiệp.
Còn như cuốn Quán
Kinh Diệu Tông Sao của tông Thiên Thai thì do đế lý cực viên dung nên trung hạ
căn chẳng được lợi ích, chẳng bằng sách Tứ Thiếp Sớ lợi khắp ba căn, lợi căn
hay độn căn đều được lợi ích cả!
* Cổ nhân muốn cả
thế gian cùng tu nên lấy kinh A Di Đà làm nhật khóa, bởi lẽ kinh này ngôn từ
ngắn gọn, nghĩa lý phong phú, hạnh giản dị, hiệu quả nhanh chóng. Bậc đại sĩ
hoằng pháp chú sớ, ngợi khen kinh này từ cổ đến nay chẳng đếm được hết. Trong
số đó, tìm lấy bản rộng lớn, tinh vi thì không bản nào bằng được tác phẩm Sớ
Sao của ngài Liên Trì; còn thẳng chóng, yếu diệu thì không chi bằng tác phẩm
Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích. U Khê đại sư dùng pháp ấn Đế - Quán bất nhị của
tông Thiên Thai để soạn Lược Giải Viên Dung Trung Đạo Sao lý cao thâm nhưng sơ
cơ vẫn lãnh hội được, văn giảng minh bạch nhưng người tu lâu [đọc đến] vẫn khâm
phục.
* Về Tịnh Độ thì chọn lấy sách như Di Đà Sớ Sao, ngôn từ giản dị nhưng tinh vi,
lý sâu xa nhưng dễ nhận, thật là cuốn sách trọng yếu trong Tịnh Độ, là người
hướng dẫn tốt cho kẻ sơ cơ.
* Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm dùng mười đại nguyện vương để
dẫn dắt quy hướng Tịnh Độ. Đọc phẩm này sẽ biết rằng pháp Niệm Phật cầu sanh
Tây Phương chính là chỗ quy kết sau cùng để thành Phật trong một đời của kinh
Hoa Nghiêm, thật là phương tiện tối thắng để tự lợi khi tu nhân, là phương tiện
tối thắng để lợi tha khi đắc quả của mười phương chư Phật.
* Phẩm Hạnh Nguyện nghĩa lý bao la, văn tự vi diệu. Tụng đến khiến cho chấp
trước ta - người - chúng sanh của con người biến mất nào còn có nữa, thiện căn
vãng sanh Tịnh Độ ngày càng thấy tăng trưởng, ắt sẽ tự hành dạy người; nhưng
chẳng được nghĩ rằng “chưa trì kinh này, dù có tu Tịnh Độ cũng là bạc phước,
thiên lệch!”
Các vị Liên Trì,
Ngẫu Ích v.v... cũng đều cực lực tán dương [kinh Di Đà]. Trong Di Đà Yếu Giải
có câu: “Trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai, chỉ mình kinh Hoa Nghiêm
nói về một đời viên mãn, nhưng cái nhân để viên mãn chỉ trong một đời là ở phần
cuối kinh: ngài Phổ Hiền dùng mười đại nguyện vương dẫn dắt hướng về Cực Lạc để
khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Nghiêm hải chúng.
Ôi! Điều kinh Hoa
Nghiêm đã dạy lại nằm trọn trong kinh này, nhưng thiên hạ xưa nay tin thì ít,
nghi lại nhiều, nói càng nhiều nghĩa càng hao, tôi chỉ còn có cách mổ tim vẩy
máu mà thôi!”
Vì thế, ngài Vô Ẩn
nói: “Hoa Nghiêm là quảng bản Di Đà (bản kinh Di Đà nói rộng), kinh Di Đà là
lược bản Hoa Nghiêm (bản kinh Hoa Nghiêm nói giản lược)”. Xem lời của hai vị
đại sư ắt biết rằng xem kinh mà thiếu con mắt viên đốn chính là cô phụ ân Phật
nhiều lắm!
* Cuối quyển 5 kinh Lăng Nghiêm là chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông, đấy
chính là lời khai thị tối thượng của Tịnh tông. Chỉ riêng mình chương này đã có
thể sánh cùng bốn kinh tạo thành Tịnh Độ ngũ kinh!
* Sách Tịnh Độ Thập Yếu do đại sư Ngẫu Ích dùng mắt kim cang xem khắp các sách
xiển dương Tịnh Độ mà soạn thành một tác phẩm khế lý, khế cơ, chí cực không thể
thêm gì được nữa. [Trong sách ấy, cuốn] thứ nhất là Di Đà Yếu Giải do đại sư tự
soạn, văn uyên thâm nhưng dễ lãnh hội, lý viên đốn nhưng duy tâm, không gì
tuyệt hơn. Hãy nên thường xem, đọc, nghiền ngẫm. Chín cuốn còn lại không cuốn
nào lý viên mãn, từ ngữ hay khéo, khế hợp thời cơ sâu xa bằng cuốn Yếu Giải. Dù
chưa thể hiểu trọn vẹn mỗi một cuốn, nhưng một phen giở xem khác nào uống thuốc
tiên, dần dà lâu ngày, phàm chất ắt thành xác tiên vậy.
* Sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục chép tỉ mỉ các hạnh nguyện khi tu nhân và công
đức khi đã đắc quả của Phật Di Đà, và các việc tự hành dạy người của các vị Bồ
Tát Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ... Kế đến là các sự
tích vãng sanh của từ Viễn Công (tổ Huệ Viễn), Trí Giả cho đến các đại tổ sư,
thiện tri thức đầu đời Thanh; rồi đến sự tích niệm Phật vãng sanh của tỳ kheo
ni, vua quan, sĩ thứ, phụ nữ, ác nhân, súc sanh. Lại còn chọn chép cả những
ngôn luận thiết yếu ngõ hầu người đọc có căn cứ để chọn lấy pháp, không cách
nào nghi ngờ được nữa, bèn noi gương cổ nhân tận lực tu Tịnh nghiệp. So với
việc tham phỏng thiện tri thức, đọc sách này lại càng thật sự quan yếu
hơn.
* Sách Long Thư Tịnh Độ Văn đoạn nghi khởi tín, bao lượt phân tích, trình bày
rành rẽ, chia môn định loại pháp môn tu trì, là cuốn sách hướng dẫn quý bậc
nhất của người sơ cơ. Nếu muốn lợi lạc khắp hết thảy, chẳng thể không bắt đầu
từ cuốn sách này.
* Sách Pháp Uyển Châu Lâm (gồm một trăm quyển) luận rõ nhân quả, lý - sự cùng
nêu, sự tích báo ứng rành rẽ phân minh. Đọc đến không lạnh mà run, dù ở trong
nhà kín phòng tối vẫn thường như đang đối diện Phật, trời, chẳng dám nảy sanh
chút ác niệm nào. Thượng - trung - hạ căn đều được lợi ích, chẳng đến nỗi vướng
mối tệ nhận lầm đường nẻo, chấp lý phế sự, ngả theo thiên tà, cuồng vọng. Như
ngài Mộng Đông nói: “Người khéo bàn tâm tánh ắt chẳng bỏ lìa nhân quả, người
tin sâu nhân quả rốt cuộc sẽ hiểu thật rõ tâm tánh”. Lẽ ấy thế đương nhiên như
thế.
Câu nói này của
ngài Mộng Đông quả là lời bàn luận cùng tột thiên cổ chẳng sửa đổi được, mà
cũng là mũi kim đâm thẳng xuống đỉnh đầu những kẻ cuồng huệ buông tuồng
vậy.
* Bộ An Sĩ Toàn Thư giác thế, dạy người tận thiện tận mỹ, bàn đạo luận đức,
vượt cổ siêu kim, lời lẽ giản dị nhưng súc tích, lý sâu nhưng dễ hiểu, dẫn
những sự tích có chứng cứ đích xác, phát huy tột cùng uyên nguyên những nghĩa
luận, đúng là của báu để lưu truyền cho con cháu, mà cũng là bộ kỳ thư để tuyên
giảng.
Mỗi lời đều là tâm
pháp của Phật, của Tổ, là đạo mạch thánh hiền, là đạo trọng yếu khiến đời yên,
dân hiền, là bí phương rạng rỡ, tốt lành. Nếu có thể hành đúng theo sách ấy sẽ
nối chí thánh hiền, liễu sanh thoát tử giống như đưa ra giấy cầm đồ để lấy lại
vật cũ, sánh với những thiện thư khác được lưu thông trong đời thì có khác nào
đem quả núi sánh với đụn đất, biển cả sánh với vũng nước vậy!
An Sĩ tiên sinh họ
Châu, tên Mộng Nhân, còn có tên là Tư Nhân, người Côn Sơn, tỉnh Giang Tô, thông
hiểu rộng khắp kinh sách của tam giáo (Phật - Nho - Lão), tin tưởng sâu xa vào
pháp môn Niệm Phật, đến tuổi nhược quan (chừng 20 tuổi) đi học bèn chán con
đường khoa cử, phát Bồ Đề tâm, soạn sách giác ngộ người đời, ngõ hầu trước là
để ai nấy chẳng lầm lỗi, sau là thoát khỏi biển khổ sanh tử.
Vì thế, ông viết
cuốn sách khuyên kiêng giết hại đặt tên là Vạn Thiện Tiên Tư, sách giới dâm tên
Dục Hải Hồi Cuồng. Ấy là vì chúng sanh tạo nghiệp chỉ hai sự này là nhiều nhất,
mà sửa lỗi thì cũng chỉ hai sự này là khẩn yếu nhất. Ông còn soạn Âm Chất Văn
Quảng Nghĩa (giảng rộng nghĩa lý bài Âm Chất Văn của Văn Xương Đế Quân) ngõ hầu
với mỗi một pháp, ai cũng biết phân biệt đầu mối, đều biết kiêng dè. Sách phê
bình, biện luận cùng tột, tinh vi, đáng gọi là bậc công thần của Đế Quân, triệt
để bóc trần, phơi bày tất cả cái tâm rủ lòng giáo huấn khiến cho ngàn đời
trước, ngàn đời sau cả người giáo huấn lẫn người được giáo huấn không buồn bã,
tiếc nuối gì. Ấy là vì tiên sinh kỳ tài diệu ngộ, đã dùng những sự tích thế
gian để phát huy những nghĩa lý áo diệu, u vi của Phật, Tổ, khiến cho người
nhã, kẻ tục cùng xem, người trí, kẻ ngu cùng hiểu.
Lại vì trong các pháp môn tu hành, chỉ có pháp Tịnh Độ là thiết yếu nhất nên
tiên sinh lại soạn cuốn Tây Quy Trực Chỉ để giảng rõ đại sự niệm Phật cầu sanh
Tây Phương, liễu sanh thoát tử. Bởi lẽ, tích đức tu thiện chỉ được phước nhân -
thiên, phước hết lại phải đọa lạc. Niệm Phật vãng sanh là dự vào địa vị Bồ Tát,
quyết định đạt thành Phật đạo.
Ba cuốn sách đầu
tuy dạy người tu thiện nghiệp thế gian, nhưng vẫn gồm đủ pháp liễu sanh thoát
tử. Cuốn sách thứ tư tuy dạy người pháp liễu sanh tử, nhưng phải tận lực hành
điều thiện thế gian. Thật có thể nói là tiên sinh hiện thân cư sĩ để thuyết
pháp độ sanh. Ai bảo tiên sinh chẳng phải là Bồ Tát tái lai, tôi chẳng dám
tin.
* Văn bút lẫn nghĩa luận của sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên thảy đều siêu tuyệt,
nhưng chẳng được quán thông Phật pháp như An Sĩ Toàn Thư. Ngoại trừ sách An Sĩ
Toàn Thư ra, tôi cho rằng cuốn này là hay nhất.
* Sách Cảm Ứng Thiên giảng thẳng [vào vấn đề], là sách do bậc đại thông gia
soạn, lời chú giải thuần dùng văn bạch thoại, chỉ đọc qua một lượt, sẽ tự hiểu
rõ ý nghĩa. Lúc con cái còn nhỏ, rất nên bảo chúng đọc sách này để nhờ sách này
răn dạy con cái mình, tương lai chúng ắt sẽ được thọ dụng chân thật hòng gỡ bỏ
mối lo cho mình.
* Sách Cư Sĩ Truyện do tiến sĩ Bành Thiệu Thăng ở Tô Châu soạn vào thời Càn
Long. Ông xem khắp các sách vở, chọn lấy những gương đại trung, đại hiếu, thanh
cao, chánh trực, liêm khiết, hữu công danh giáo, hiểu sâu Phật pháp từ đời Hán
đến nay, ghi chép những sự nhập đạo, tu chứng của họ, và chép cả những câu văn
phát huy Phật pháp. Số người được chép lên đến mấy trăm người, chép thành sáu
quyển.
* Tam Giáo Bình Tâm Luận do học sĩ Lưu Mật đời Nguyên soạn. Trước hết, sách chỉ
rõ tam giáo đều khuyên người dứt ác tu lành, chẳng nên phế một giáo nào. Tiếp
đó, sách luận rõ công dụng cùng cực của từng giáo sâu cạn bất đồng. Cuối cùng
sách đả phá sạch những thuyết của Hàn Dũ, Âu Dương, Trình, Chu.
* Thích Thị Kê Cổ Lược chép theo năm tháng các đời, ghi sự tích của Thích Nho
thành từng mục. Từ Phục Hy cho đến cuối đời Minh, quốc gia thái bình hay loạn
lạc, Phật pháp hưng thịnh hay suy vong, tội do hủy báng, phước do tin tưởng,
lợi ích do tu trì, pháp ngữ của tổ sư, hạnh chân thật của chư Tăng, và những kẻ
trung thứ lỗi lạc, kẻ gian ác cùng cực đều chép tỉ mỉ cả khiến cho ai nấy giở
xem liền biết pháp giới, ngồi ngay ngắn xem khắp cổ kim, há phải đâu chỉ có ích
cho riêng người tu đạo, mà còn là của báu kỳ lạ trong tay áo của những ai đọc
sách để luận cổ suy kim nữa!
* Nếu đã có tín
tâm, hãy nên đọc các sách Tịnh Độ. Nếu chẳng thể đọc nhiều thì chọn lấy cuốn
sách dễ hiểu, nghĩa lý rộng rãi nhất như cuốn Kính Trung Kính Hựu Kính (trong
các con đường tắt nhất, lại là con đường tắt hơn nữa). Cuốn sách này thâu thập
yếu nghĩa của các nhà, phân môn chia loại, khiến người xem đến chẳng phí sức
nghiên cứu, tìm đọc mà ngộ thẳng vào chỗ yếu diệu, cốt tủy của Tịnh Độ. Đối với
kẻ sơ cơ, sách này có lợi ích rất lớn.
* Cao Tăng Truyện
quyển 1, 2, 3, 4; Cư Sĩ Truyện, Tỳ Kheo Ni Truyện, Thiện Nữ Nhân Truyện, Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục đều ghi chép lời lẽ tốt lành, hành vi cao đẹp của chư cổ đức.
Xem đến ắt sẽ nảy lòng vui mừng ngưỡng mộ, trọn chẳng đến nỗi mắc lỗi được chút
ít đã cho là đủ, cam phận kém hèn.
Hoằng Minh Tập,
Quảng Hoằng Minh Tập, Đàm Tân Văn Tập, Chiết Nghi Luận, Hộ Pháp Luận, Tam Giáo
Bình Tâm Luận, Tục Nguyên Giáo Luận, Nhất Thừa Quyết Nghi Luận đều là những sách
hộ trì giáo pháp. Đọc đến chẳng những không bị tà ma, ngoại đạo mê hoặc, lại
còn phá tan được thành lũy tà kiến của chúng nữa. Các sách này đọc đến sẽ khiến
cho chánh kiến kiên cố, chúng có thể dùng để chứng tỏ, soi sáng kinh giáo. Chớ
bảo là “cứ nhất tâm đọc kinh, chẳng thèm dòm dõi gì đến những sách ấy”. Cái tri
kiến sai biệt ấy nếu không đả thông được, khi gặp địch rất có thể bị chuốc lấy
nhục vậy!
* Sách Mộng Đông
Ngữ Lục do cư sĩ Tiền Y Am trích tuyển những câu nói chuyên dạy về Tịnh Độ
trong Mộng Đông Di Tập soạn thành, lưu truyền ở phương Nam ngõ hầu đáp ứng nỗi
hận đã lâu của những người vô duyên hội ngộ. Toàn tập thì có ở Bắc kinh, nhưng
ở phương Nam chỉ có lược bản này. Sách này văn từ, nghĩa lý tinh diệu, là trước
tác đáng xếp hạng nhất sau sách của các vị Ngẫu Ích, Tỉnh Am.
* Ngài Mộng Đông
nói: “Thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật”.
Mười sáu chữ này là đại cương tông của pháp môn Niệm Phật. Một đoạn khai thị
này tinh vi, thiết thực đến cùng cực, hãy nên đọc kỹ.
Toàn bộ sách Mộng
Đông Ngữ Lục văn từ, nghĩa lý chu đáo, đích thật là kim chỉ nam trong Tịnh
tông. Nếu còn muốn đọc thêm nữa thì cuốn Di Đà Yếu Giải của Ngẫu Ích lão nhân,
đúng là một tác phẩm hướng dẫn tốt ngàn đời chỉ có một.
Nếu có thể một
lòng hành theo hai cuốn sách này sẽ chẳng cần phải nghiên cứu hết thảy kinh
luận nào nữa. Nếu thường xem ba kinh Tịnh Độ và các sách như Tịnh Độ Thập Yếu
v.v... ngửa tin lời chân thành của Phật, của Tổ, phát lòng tin chân thành, phát
nguyện thiết tha, dùng lòng chí thành cung kính trì danh hiệu Phật, dù ở trong
nhà tối phòng kín vẫn như đang đối trước Phật, trời, khắc kỷ giữ lễ, thành
thật, cẩn thận, e dè, chẳng giống như những kẻ trong đời hiện tại trọn chẳng
câu thúc, phóng túng không biết e sợ gì. Quang tôi dù còn là phàm phu sanh tử,
vẫn dám bảo đảm ngay trong đời này các hạ sẽ giã biệt Sa Bà, cao dự hải hội, tự
làm đệ tử Phật Di Đà, làm bạn hiền của các vị đại sĩ.
* Có các sách Tịnh
Độ, các giáo nghĩa Tịnh Độ như thế, phải nên hiểu biết trọn vẹn; dù chẳng đọc
khắp các kinh cũng chẳng bị khiếm khuyết chi! Còn như chẳng biết đến pháp môn
Tịnh Độ, dẫu thâm nhập nghĩa lý mọi kinh, triệt ngộ tự tâm lại toan liễu sanh
thoát tử thì chẳng biết phải mất mấy đại kiếp mới mãn được nguyện ấy! Chẳng
biết đến món thuốc A Già Đà (Hán dịch là Đối Trị, trị được hết thảy các bệnh)
trị chung vạn bệnh này thật đáng đau buồn thay! Biết nhưng không tu, hoặc tu
nhưng chẳng chuyên chí lại càng đáng đau tiếc hơn nữa!
Phần Tăng Bổ
1. Thư gởi Sài Dã Ngu
(Lá thư này vốn
không có trong Văn Sao, nhân vì người đời thường đối với những nghĩa như mê -
ngộ, chúng sanh - Phật, cuồng - thánh v.v... khởi nghi nên kèm thêm thư này để
giải trừ những mối nghi ấy)
Ai cũng có thể trở thành Nghiêu, Thuấn, ai cũng có thể thành Phật. Nhưng thánh
thất niệm cuồng, cuồng chế ngự được niệm ắt sẽ thành thánh. Mê thì Phật thành
chúng sanh, ngộ thì chúng sanh tức là Phật. Xét lẽ ấy, mấu chốt ở tại nơi ta.
Vì thế, trên phải ngưỡng mộ chư thánh, dưới phải trọng tánh linh của mình, dè
dặt kinh sợ, phẫn chí tu trì, đôn đốc luân thường, tận hết bổn phận, các điều
ác đừng làm, vâng làm các điều thiện, sáng dậy tối ngủ chẳng nẩy sanh điều gì
đáng thẹn. Làm được như thế chính là làm thánh, làm hiền, chẳng điếm nhục, ô uế
trời đất.
Lại còn sanh lòng
tín nguyện trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương để mong tự chứng được Phật
tánh sẵn có, viên thành vô thượng Bồ Đề mới thôi. Đại trượng phu sanh trong thế
gian nếu chẳng biết đại thể, chỉ biết đắm đuối ăn uống, nam nữ, tham cầu sắc
thanh, của cải, lợi lộc thì có khác gì dị loại đâu? Nỡ nào để cái tánh có khả
năng làm được Nghiêu, Thuấn, có thể thành Phật bị luân hồi trong lục đạo bao
kiếp dài lâu, chịu đủ mọi nỗi khổ cùng cực, chẳng đáng buồn ư?
Ngươi đã phát tâm
quy y Tam Bảo thì phải lấy việc niệm niệm đối trị phiền não làm gốc, ngăn tà,
giữ lòng thành, khắc kỷ, giữ lễ, cải ác tu thiện, trọn hết bổn phận, luân
thường, chuyên tu Tịnh nghiệp, tự hành, dạy người, ngõ hầu trong là cha mẹ, anh
em, vợ con, quyến thuộc, ngoài là thân thích, bạn bè, láng giềng chòm xóm cùng
được gội ân giáo hóa của Phật, cùng thành thiện nhân mới chẳng uổng phí cái đời
này, chẳng uổng duyên gặp gỡ này.
Sách Trung Dung
nói: “Ai cũng bảo mình là người trí, nhưng cứ bị xua vào, vướng vào lưới rập,
hầm bẫy, chẳng ai biết tránh cả”. Là vì chỉ biết hướng ngoại rong ruổi tìm cầu,
chẳng biết hồi quang phản chiếu, nên mới mắc hại như thế. Nếu có thể phản chiếu
tự tâm, ngầm vận dụng trí ngõ hầu tự chiếu ắt sẽ có thể học thánh, học hiền,
học Phật, học Tổ, ắt lúc sống đã dự vào cảnh giới thánh nhân, mất đi liền sanh
về cõi nước Cực Lạc. Đấy là những điều Quang tôi vì ông mệnh danh là “đại
ý”.
Thêm nữa, chỉ vì thánh mất niệm thành cuồng, cuồng chế ngự được niệm sẽ thành
thánh, mê thì Phật thành chúng sanh, ngộ thì chúng sanh chính là Phật. Nếu
chẳng khéo hiểu bốn câu này rất có thể đến nỗi sanh nghi, luận bàn lầm lạc. Nay
tôi sẽ giải thích sơ lược.
Thứ nhất, nói
Thánh hay Phật đều là ước theo bản thể của tự tâm mà nói, chứ chẳng phải đã
thành Phật hay thành thánh. Tiếp đó, “mất niệm”, “chế ngự được niệm”, “mê -
ngộ” đều là nói người ấy nghịch hay thuận, có tu luyện, gìn giữ hay không. Cuối
cùng, “thành cuồng”, “thành thánh”, “thành chúng sanh”, “chính là Phật” là nói
đến hiệu quả của việc nghịch thuận, tu trì, gìn giữ.
Nếu chẳng hiểu
“thành Phật, thành thánh” là nói về bản thể, ắt sẽ lầm tưởng mình đã thành
Phật, thành thánh, cũng như hiểu lầm “thành cuồng”, “thành chúng sanh” sẽ có
hại rất lớn. Bởi thế, tôi chẳng thể không giảng sơ lược cho ông hiểu về điểm
này. Những điều khác xin đọc kỹ Văn Sao ắt sẽ tự biết.
2. Thư phúc đáp Du Huệ Úc, Trần Huệ Sưởng
Nghiệp chướng sâu nặng, bẩm chất ngu tối, may được nghe pháp môn Tịnh Độ nên
được quy y dưới tòa, chỉ còn biết tận lực tuân thủ lời giáo huấn già giặn chắc
thật của thầy tôi để mong chóng liễu sanh tử, chẳng phụ tấm lòng đau đáu của
thầy. Đã là Phật tử, ắt phải phát tâm tự độ độ người. Nay các đệ tử chưa tự độ
được mình, còn nói gì độ người, nhưng khi gặp thân hữu phải phương tiện khuyên
họ tin tưởng, đấy cũng là phận sự của chính mình vậy.
Thường thấy có hai
hạng người kiến giải hoặc lời lẽ đều khiến mình lầm, khiến người khác lầm chẳng
phải ít;
a) Một hạng cho
rằng: Phật vô dục, kinh A Di Đà lại nói đến các thứ vàng, chất báu, dường như
vẫn là dục vọng, chẳng bằng kinh Kim Cang “hết thảy đều không” thật cao siêu
huyền diệu. Bởi thế, miệt thị pháp môn Tịnh Độ, chẳng sanh lòng tin. Hạng người
này chẳng hiểu ý nghĩa hai kinh Kim Cang và Di Đà nên cứ chấp theo ý mình mà
loạn đạo.
b) Hạng thứ hai
cho rằng Phật dạy con người thấy rõ bản tánh của hết thảy các pháp, cớ sao
chính mình lại khởi lòng tham dục? Sao chúng ta lại phải khổ sở bỏ đi cái thật
sự có trước mắt để mong cầu chuyện vu vơ sau khi chết? Đây là hạng người chấp
trước tà kiến, mặc tình báng Phật, báng Pháp.
Hai hạng người này
tuy phẩm vị có cao thấp [khác nhau] nhưng đều tà kiến hệt như nhau, đều tự lầm,
lầm người giống hệt nhau. Các đệ tử phải tận lực bảo họ các thứ cảnh giới Tây
Phương đều là thật tướng trang nghiêm do công đức của Phật A Di Đà hóa hiện, là
quả báo để hưởng thọ phước đức tự tại, chẳng giống với đời ngũ trược do nghiệp
lực cảm thành.
Huống nữa, tất cả
mọi thứ trong cõi Sa Bà đều là khổ, không, vô thường, nên phải buông bỏ chúng
để cầu lấy những cái thật. Lời lẽ của kẻ ngu này (tổ Ấn Quang tự xưng) dù chẳng
trái nghịch chánh lý, vẫn chẳng thể phát khởi chánh tín nổi. Nghĩ lại thầy tôi,
tất cả ngôn luận của ngài đều như mặt trời rực rỡ, không tối tăm nào chẳng
chiếu tỏ được; đành xin mượn mấy lời trong sách để phá mối tà kiến này.
Thư các vị gởi tới có nhắc đến hai loại tà kiến này, ấy là dùng tri kiến phàm
phu để suy lường cảnh giới Như Lai, giống như Khổng Tử nói “thích thực hành trí
huệ nhỏ nhoi” hay như Mạnh Tử bảo là “tự mình bỏ phí”. Hạng người ấy vốn chẳng
có tư cách giá trị gì để đàm luận, nhưng Phật từ rộng lớn chưa từng bỏ bất cứ
loại người nào, nên chẳng ngại gì lập bày phương tiện để đánh thức cơn mơ ngủ
của chúng.
Do Phật trọn chẳng
có tâm tham nên mới cảm được các báu trang nghiêm. Phàm những sự hóa hiện đều
là những cảnh giới trang nghiêm thù thắng chẳng cần phải tốn sức người trù
tính, lo liệu, cảnh giới phàm phu của thế giới Sa Bà há sánh được ư?
Ví như người từ
thiện hữu đức, tâm địa hành vi thảy đều chánh đại quang minh nên tướng mạo cũng
hiện vẻ tươi sáng, hiền từ, rạng rỡ. Cố nhiên họ chẳng có tâm mong cầu dung
nhan tướng mạo đẹp đẽ nhưng tự nhiên được đẹp đẽ. Người tạo nghiệp tâm địa cáu
bẳn, ô uế, hung ác, nên diện mạo cũng tăm tối, dữ dằn theo. Cố nhiên họ chỉ
muốn vẻ mặt mình đẹp đẽ, khiến người khác tưởng mình là thiện nhân chánh đại
quang minh, nhưng vì tâm địa chẳng lành dù có muốn thế cũng chẳng được.
Đấy là ước theo
con mắt của phàm phu, chứ trong mắt quỷ thần, họ sẽ thấy thiện nhân thân có
quang minh. Quang minh lớn hay nhỏ tùy thuộc người ấy đức lớn hay nhỏ. Quỉ thần
thấy người ác thân có các tướng hắc ám, ác bạo... tướng ấy lớn hay nhỏ cũng do
kẻ đó ác nhiều hay ít mà hiện.
Kẻ [tà kiến] kia
bảo kinh Kim Cang là không, chính là chẳng hiểu kinh Kim Cang chỉ phát minh lý
tánh chứ chưa luận đến quả báo do chứng được lý tánh. Sự trang nghiêm nơi cõi
nước Thật Báo không chướng ngại chính là quả báo rốt ráo đạt được của kinh Kim
Cang. Phàm phu nghe đến ắt sẽ ngờ vực làm sao có chuyện ấy được.
Kinh Kim Cang nhằm
dạy kẻ trai gái lành phát Bồ Đề tâm nhưng chẳng trụ tướng, mà lại muốn độ hết
chúng sanh. Dù độ vẫn chẳng thấy mình là người độ, chúng sanh là kẻ được độ,
cũng chẳng thấy có pháp Niết Bàn rốt ráo để đạt được. Đó gọi là “vô sở trụ nhi
sanh tâm”, đã đạt vô sở đắc mà thành Phật; há nên bảo đức Phật được thành và
cõi nước ngài trụ trong kinh Kim Cang cũng chỉ giống như cảnh giới ngũ trược ác
thế này ư? Cũng chỉ là rỗng tuếch chẳng có được một vật gì ư?
Cõi Phật thanh
tịnh, người ta một phen được nghe đến thân tâm liền thanh tịnh, thế nhưng kẻ
kia lại bảo là tham dục, thì gã đó chỉ là giòi tửa sống trong hầm xí, tự khoe
mình thơm tho, sạch sẽ, chê chiên đàn là hôi thối, chẳng mong lìa khỏi hầm phân
đó để ngửi được mùi thơm này!
Lũ Đạo Chích (7)
tụ tập cả mấy ngàn đứa, hoành hoành trộm cắp trong thiên hạ, lại tự khoe mình
là hạng có đạo đức, thống trách vua Nghiêu bất nhân, vua Thuấn bất hiếu, vua Vũ
dâm dật, vua Thang, Châu Võ Vương bạo loạn, chê Khổng Tử là ngụy, là vô đạo;
tri kiến của chúng có khác gì hai hạng người tà kiến ấy đâu?
Lại như gần đây, có kẻ phế kinh, phế hiếu, phế cả luân thường, trần truồng đi
lại, cho đó là bẩm thọ đức tự nhiên của trời đất, chẳng nhọc lòng tạo tác.
Nhưng nếu Hạ đã đua nhau lõa lồ, sao Đông về lại chẳng trần truồng nữa? Bảo là
bẩm thọ tự nhiên, chẳng cần phải tạo tác, sao lại phải đào giếng, cày ruộng,
dệt vải mới hòng có cái ăn cái mặc, chẳng phải là tạo tác đó ư?
Kẻ ác phá hoại,
ngăn trở người khác làm lành thường như thế. Họ cứ bảo “làm lành phải vô tâm,
nếu hữu tâm thì chẳng phải là làm lành thật sự”! Nhưng thánh hiền tự cổ không
ai chẳng sáng lo chiều lắng, dè dặt, cẩn thận như vào nơi vực sâu, như đi trên
băng mỏng, chẳng phải là hữu tâm ư? Nói chung, hạng người ấy ý chỉ muốn coi
không tu trì là cao thượng, nên mới đề ra luận thuyết mù lòa cực hạ tiện như
thế, tự huyễn mình là bậc hiểu lý, mong người coi mình là bậc cao minh, là đại
thông gia, là chân danh sĩ, chẳng hề biết toàn thân đang ở trong hầm phẩn. Trừ
những kẻ có cùng tri kiến, nào ai chấp nhận những lý lẽ ấy đâu!
3. Thư phúc đáp cư sĩ Ngu Tăng
Một việc phóng sanh vốn là để cảm phát cái tâm kiêng giết, cứu vật cho đồng
nhân, thực hành tâm trắc ẩn bất nhẫn đó thôi. Thế nhân phần nhiều tâm hạnh khác
nhau, dù chẳng thể khiến cho mọi người đều cảm động, nhưng nếu cảm động được
một người thì cả đời người ấy đã bớt giết cả mấy ngàn sanh mạng, huống hồ nào
phải chỉ có mỗi một người thôi đâu!
Còn như ông bảo cá
lớn nuốt cá bé, dù có thả nó xuống sông sâu cũng khó cứu nó thoát nạn lưới
chài. Điều suy nghĩ ấy tựa hồ hữu lý, nhưng thật ra là trở ngại thiện niệm, hỗ
trợ sát nghiệp của người khác! Người ấy may mắn làm thân người, may ra chẳng
đến nỗi thân bị giết hại nên mới lý luận vô lý như thế, toan dùng cái trí của
mình ngăn trở việc phóng sanh.
Nếu như họ bị
vướng chài và là các sanh mạng sắp bị giết, nhất định họ sẽ chẳng khởi lên các
tưởng niệm như thế, chỉ mong có ai cứu lấy mạng sống của mình, quyết chẳng có ý
niệm “không mong được người khác cứu, chỉ sợ sau này lại bị con vật khác ăn
mất, bị người khác bắt được, chỉ mong cam tâm bị giết để sau này khỏi bị mắc
các nạn ấy nữa”. Dù lúc ấy có ý niệm như thế đi nữa, vẫn chẳng đáng để bàn cãi;
huống hồ trong lúc ấy vạn vạn phần chẳng thể nghĩ tưởng như thế được!
Kẻ nào nhằm lúc
mình chẳng bị dính dấp đau đớn gì bèn ngăn trở thiện niệm của người khác, nói
những lời khơi động sát cơ cho người khác như thế, mà nếu đời sau chẳng thọ báo
thì nhật nguyệt sẽ mọc ngược, trời đất sẽ bị đảo lộn! Có nên thốt lời xằng bậy
chăng?
Dĩ nhiên có chuyện
cá lớn nuốt cá nhỏ, thả ra rồi lại bị bắt cũng chẳng phải là không thể có,
nhưng nói cá lớn ăn sạch cá nhỏ không còn sót gì, quyết chẳng có lẽ ấy! Được
thả rồi lại bị người khác bắt sạch hết cũng quyết chẳng có lẽ ấy! Cần chi phải
lo quá như thế? Ví như cứu giúp người bị nạn, nếu cho một manh áo, hoặc cho một
bữa ăn cũng có thể giúp cho người ấy chẳng đến nỗi phải bị chết ngay, nhưng lại
cứ đối trước người ấy bảo: “Một manh áo, một bữa cơm này sao có thể khiến người
ấy no ấm suốt đời được? Có cho cũng chẳng lợi ích gì, chẳng thà mặc cho kẻ đó
đói lạnh đến chết ắt kẻ ấy chẳng phải chịu đói lạnh dài lâu!”
Lại như cường đạo
cướp giật người khác, kẻ có sức mạnh ra tay chống cự, ngăn trở, kẻ kia bèn bảo:
“Nếu ông có thể chống cự, ngăn trở kẻ cướp cả đời mới thật là tốt, còn như chỉ
chống cự, ngăn trở một lúc thì rốt cuộc có ích lợi gì đâu? Chẳng thà mặc cho nó
cướp hết sạch đi, sau này mới khỏi bị cướp nữa thì tốt hơn!” Đối với con cái,
cha mẹ thường chăm sóc, nuôi nấng, nhưng mẹ hiền chẳng thể chăm sóc thân đời
sau của con; kẻ kia bèn bảo: “Đã chẳng thể chăm sóc, nuôi nấng thì chẳng bằng
giết phứt nó đi, chẳng tốt hơn sao?”
Quân tử tu đức
chẳng vì điều thiện nhỏ bèn không làm, chẳng vì điều ác nhỏ mà làm. Kẻ kia cứ
muốn muôn sự chẳng sai suyển điều gì mới chịu hành phóng sanh, tức là muốn cho thế
nhân suốt cả đời chẳng làm những việc phóng sanh, kiêng giết. Tương lai khi kẻ
ấy sắp bị chết, cả vạn người không có lấy một ai cứu cho. Đau thay, buồn thay;
chẳng đặng đừng phải dài dòng phân giải!
4. Thư phúc đáp cư sĩ Thiệu Huệ Viên
Hôm qua nhận được thư ông gởi đến, trong xóm ông có ông Phan Trọng Thanh ở
Trương Gia Khẩu gởi thơ muốn được quy y. Người này tánh tình chân thành, chất
phác, cũng có học vấn. Ông ta đã phát tâm thì Quang tôi cũng chỉ tùy
duyên.
Nay tôi đặt pháp
danh quy y cho ông ta là Huệ Thuần, bởi hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh,
tức là đều có Phật huệ; nhưng vì bị tham, sân, si v.v... xen tạp nên Phật huệ
bị trở thành tri kiến chúng sanh. Nay đã biết vốn sẵn đủ Phật huệ thì đối với
tất cả những điều nghĩ ngợi, móng niệm, xử sự thảy đều kiểm điểm, chẳng cho
những tri kiến tham, sân, si... phát sanh.
Lại còn phải dùng
lòng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, kiêng giết, phóng sanh, yêu tiếc tánh
mạng loài vật, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, tự hành, dạy
người cùng tu Tịnh nghiệp thì trí huệ ấy sẽ dần dần thuần. Nếu giữ được như vậy
chẳng để mất, vãng sanh Tây Phương thì huệ ấy càng dễ thuần, đến khi phiền não
hết sạch, phước huệ viên mãn là huệ đã thuần đến cực điểm bèn viên thành Phật
đạo.
Thế nhân hay lầm
tưởng mình có trí huệ, chẳng biết rằng trí huệ đó là vàng còn trong quặng, trọn
chẳng sử dụng được, cần phải nung luyện cho tiêu sạch hết mọi tạp chất thì mới
có ích. Đại ý như thế, mong hãy dốc chí!
Người học Phật tận
lực thực hành nhiệm vụ. Nay thế nhân đa phần miệng lưỡi nhanh nhạy, ăn nói hay
ho, bóng bảy, trong bụng thối nát, vô ích, thật đáng buồn!
5. Thư gởi cư sĩ Vương Tâm Thiền
Mẹ ông đã có thể niệm Phật thì hãy bảo các nàng dâu giúp mẹ niệm Phật. Lại nên
khuyên bà ăn chay trường để trợ thành đạo nghiệp cho mẹ mới là hiếu. Nếu cứ
nghĩ niệm Phật chỉ sợ tổn hao tâm lực, ăn chay sợ chẳng đúng phép vệ sinh mới
là hiếu thì lòng hiếu ấy khác gì con La Sát cái yêu người đâu.
Hiếu như vậy phá
hoại đạo nghiệp của mẹ, chẳng làm cho mẹ được liễu sanh thoát tử, trái lại còn
khiến mẹ ở mãi trong sanh tử. Hiếu như vậy là đã xô người xuống giếng, còn
quăng thêm đá nữa, khiến cho mẹ chẳng được siêu sanh, luân lạc bao kiếp. Dù là
hiếu nhưng chẳng biết hiếu đúng cách lại hóa thành ngỗ nghịch.
Ông lo việc công,
về hình dáng bất tất phải làm ra vẻ tu trì, nhưng trong lòng chẳng thể thường
nghĩ nhớ hay sao? Nếu ông nhớ mẹ, ai cấm trong tâm ông thường nhớ đến mẹ? Ông
tự thốt lên những lời trở ngại ấy nhưng toàn là luận về mặt hình tích, nào phải
là luận trên phương diện tâm địa? Hiện tại thời cuộc nguy ngập như thế, nếu
trong tâm vẫn chẳng chịu thầm niệm Phật thì chuyện tương lai chẳng biết phải
giải quyết như thế nào!
Ông đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục, nhưng những
điều nói trong các sách ấy vẫn chưa đủ để xóa tan được lòng nghi nên tôi lại
phải dùng một tờ giấy với vài trăm chữ để an ủi, vỗ về, đều là do ông thường
ngày chẳng chịu suy xét, nghiền ngẫm mà ra cả. Ông hãy nên đem lòng hiếu đúng
đắn để dạy các cô con dâu, thường mật niệm tự hành thì lợi ích rất lớn. Mong
ông hãy hạ cố xét kỹ thì thật là may lắm vậy!
Liên Trì
đại sư nói: “Cha mẹ lìa được trần cấu, đạo làm con mới được thành tựu”. Vì thế,
sau khi cha mẹ đã mất, phận làm con đều phải nên chí thành niệm Phật ngõ hầu
cha mẹ chưa được vãng sanh sẽ được vãng sanh, vãng sanh rồi sẽ liền cao thêm
phẩm vị. Điều ấy phù hợp với ba thứ phước Tịnh nghiệp dạy trong Quán Kinh,
thành tựu đạo hiếu thế gian và xuất thế gian vậy.
HẾT
Ấn Quang Gia Ngôn Lục hết
(dịch xong ngày 27 tháng 03 năm 2004)
(dịch xong ngày 27 tháng 03 năm 2004)
(1) Ý nói khuyên nhủ, khuyến dụ dần dần.
(2) Tông Lâm Tế dùng gậy (bổng) và tiếng hét (hát) để khai ngộ thiền
cơ.
(3) Nhàm lìa (yểm ly) cõi Sa Bà, vui thích (hân nhạo) cõi Cực Lạc.
(4) Cao đường: tiếng dùng để tỏ vẻ tôn kính mẹ người khác.
(5) Văn tự tri kiến: sự thấy hiểu dựa theo phân biệt, nhận định ý nghĩa của
kinh văn, chứ không lãnh hội trực nhập được huyền nghĩa, yếu chỉ.
(6) Tăng sĩ đi tham học các nơi gọi là du phương hành cước.
(7) Đạo Chích: tên một kẻ trộm lừng danh thời cổ, thường dùng để chỉ kẻ
trộm.
0 Kommentare:
Post a Comment