Trong một quyển sách
nhỏ mang tựa đề "Phật Giáo Nhập Môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bản
Grancher, 2008), sau khi trình bày về hiện trạng ngày nay của Phật Giáo
tại Tây Phương trong chương I, thì tiếp theo đó trong chương II ông đã
đề cập ngay đến một chủ đề thật then chốt trong Phật Giáo là thiền định.
Thật thế, một tôn giáo muốn được xem là toàn vẹn cần phải có một nền
móng vững vàng về cả hai mặt: trước hết là một cấu trúc chặt chẽ về tín
ngưỡng, và sau đó là một phương pháp tu tập thích nghi. Thiết nghĩ ngoài
phần giáo lý siêu việt thì Phật giáo còn cống hiến một phương pháp tu
tập thật khoa học, thiết thực và vô cùng sâu sắc. Dưới đây là phần
chuyển ngữ toàn bộ chương II của tập sách nói về thiền định.
Cũng xin mạn phép lưu ý
người đọc là diễn tả một thể dạng tâm linh bằng lời nói hay bằng chữ
viết mang tính cách công thức, quy ước và "thô thiển" đã là một việc
khó, thế nhưng dịch thuật đôi khi cũng phải đối đầu với các khó khăn
khác nữa, đấy là phải làm thế nào để chuyển đạt một cách trung thực đươc
ý nghĩa đã được diễn tả bằng một ngôn ngữ khác. Nhằm mục đích tránh bớt
phần nào các khó khăn này người dịch xin mạn phép ghép thêm vào nguyên
bản một vài lời ghi chú nếu thấy cần nhằm giúp người đọc dễ theo dõi
hơn. Các lời ghi chú này sẽ được trình bày bằng chữ nghiêng, đặt giữa
hai dấu ngoặc, nhằm để dễ nhận biết và nhất là để kính trọng sự toàn vẹn
của nguyên bản.
*****
Luyện tập thiền định là gì ?
Lợi ích mang lại từ sự
chú tâm là một trong những khám phá kỳ diệu nhất của Đức Phật. Sự chú
tâm là một phương thuốc nhằm điều trị mọi thứ bệnh tật của chúng ta. Đấy
là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa của Giác Ngộ.
Thiền trong Phật Giáo
không có nghĩa là suy tư về một thứ gì hay mổ xẻ một chủ đề nào cả, mà
đúng hơn là cách giúp chúng ta quán thấy ý nghĩa của thực tại trong sự
toàn vẹn của nó. Lời khuyên sau đây thật hết sức giản dị : "Hãy sử dụng
tâm thức mình để quan sát tâm thức của chính mình". Đấy cũng chính là
sức mạnh mầu nhiệm nhất của sự chú tâm. Nếu giữ được sự cảnh giác trước
các biến cố xảy ra thì chúng ta cũng sẽ vượt thoát khỏi sự chi phối của
chúng dễ dàng hơn. Mỗi khi cảm thấy bực dọc thì không nên tìm cách để
lẫn tránh nó, cũng không nuôi dưỡng nó hay ra sức để mà tìm hiểu nó. Tốt
hơn là chỉ nên chú tâm theo dõi xem nó xuất hiện, tồn tại và biến mất
như thế nào. Đấy là cách giúp chúng ta thâm nhập vào bản chất sâu kín
nhất của nó để biến cải nó.
Quả thật không mấy khi
khái niệm về sự chú tâm được nêu lên trong thế giới Tây Phương, ngoại
trừ bởi vài học giả thật hiếm hoi chẳng hạn như nữ triết gia Simone
Weil. Theo bà thì chúng ta không hề nhìn thấy vai trò đích thật của ý
chí trong sự hiện hữu của chính mình, mà chỉ xem đấy như là một thứ nỗ
lực, một sự cố gắng gần như là máy móc để chủ động hiện thực: "Nếu chỉ
biết gồng mình, cắn răng lại cho thật chặt để thực thi đạo đức, để làm
thơ hay là để tìm kiếm một giải pháp nhằm gỡ rối cho một vấn đề nào đó,
thì quả thật chẳng có gì lại có thể ngu ngốc hơn thế được? Sự chú tâm
nào có dính dáng gì đến các thứ ấy".
Tại nơi thâm sâu nhất của
sự chú tâm đã có tiềm ẩn sẵn một sự chấp nhận nào đó mang tính cách mặc
nhiên giúp chúng ta tiếp cận trực tiếp với những gì hiển hiện ra và
không thắc mắc gì cả (sự chú tâm giúp chúng ta chấp nhận hiện thực hiển
hiện ra như thế một cách thật "tự nhiên" và "hợp lý").
Tìm cách để hiểu biết thì
cũng chẳng khác gì là một sự tránh né (tìm hiểu tức có nghĩa là phân
tích một thứ gì thuộc bên ngoài chúng ta và khác với chúng ta). Một hình
thức tự tránh ra xa. Con đường thì trái lại là một phương tiện giúp
chúng ta đạt được một sự tiếp cận nào đó. Trở thành người Phật Giáo là
một chuyện thật hết sức đơn giản: chỉ cần biết tiếp cận với những gì
hiển hiện ra như thế, không tìm cách loại bỏ chúng và cũng không cố gắng
nắm bắt lấy chúng (trở về với chính mình và hòa nhập với hiện thực là
cách giúp mình trở thành một người Phật Giáo).
Tại sao lại luyện tập thiền định, nó mang lại cho ta những lợi ích gì ?
Thiền định mang lại sự an lạc, chữa lành các bệnh tật của tâm thức và điều dưỡng cho thân xác.
Thiền định đưa chúng ta
trở về với thực tại, giúp chúng ta hòa nhập trong từng giây phút một với
các kinh nghiệm cảm nhận của chính mình trong cuộc sống. Đấy cũng là
cách giúp chúng ta thoát ra khỏi sự kiềm tỏa của các phản ứng tự động và
máy móc của tư duy, luôn liên kết với nhau để trói buộc chúng ta. Sự
sống của chúng ta thật ra chỉ là một sự sinh tồn máy móc, điều khiển bởi
các phản ứng tự động (sự sống ấy thật ra chỉ là một chuỗi dài các phản
ứng tự động, chi phối bởi bản năng và các xu hướng sẵn có - tức là
nghiệp - khiến cho chúng ta không còn kịp suy nghĩ hay xét đoán gì nữa
cả mà chỉ biết giao phó cho các phản ứng quy ước và hời hợt của tư duy
điều khiển mình một cách máy móc); thiền định trái lại tập cho chúng ta
biết trở về với thực tại và những gì mà chúng ta cảm nhận được. Sự trở
về với chính mình sẽ mang lại cho ta một niềm an lạc vô biên. Chúng ta
sẽ khám phá ra được một thể dạng thật đơn sơ, một thể dạng tự nhiên là
như thế, nó không cần phải dựa vào bất cứ gì để mà hình thành (nào có gì
lại có thể hiển hiện ra một cách giản dị và đơn sơ hơn hiện thực được:
nó chỉ là như thế!).
Rất nhiều y sĩ và khoa
học gia đã chứng minh cho thấy là thiền định có khả năng làm nhẹ bớt đi
các chứng căng thẳng thần kinh và lo âu quá đáng và chữa lành được nhiều
thứ bệnh phát sinh từ tình trạng trầm cảm.
Thiền định giúp mình tự
biến cải một cách tích cực, nhìn thấy được nỗi khổ đau riêng tư và vượt
lên trên những nhầm lẫn của chính mình.
Thiền định là cách giúp
chúng ta trực tiếp quan sát các kinh nghiệm cảm nhận của chính mình. Nhờ
đó chúng ta sẽ khám phá ra là các kinh nghiệm cảm nhận ấy luôn biến
động, khi thì rất mù mờ, thế nhưng cũng có lúc thì khá minh bạch. Thật
thế, khi thì chúng ta nổi nóng, khi lại ganh tị, lại cũng có lúc chúng
ta tập trung được sự chú tâm. Tuy nhiên thông thường thì chúng ta nào có
để ý làm gì đến các thứ mà chúng ta đang cảm nhận được hay đang suy
nghĩ đâu. Tư duy và các kinh nghiệm cảm nhận cứ thế mà sinh ra, tồn tại
được một lúc rồi biến mất.
Theo quan điểm của Phật
giáo thì tư duy được hình thành một cách rất công thức dựa vào các ngôn
từ hiển hiện ra trong đầu mình, để mà buộc chặt mình với chúng (tư duy
được công thức hóa xuyên qua các ngôn từ quy ước, chúng điều khiển các
hành động của chúng ta một cách máy móc); chúng liên tục hiển hiện và
che khuất tâm thức của chúng ta khiến chúng ta không còn nhìn thấy thế
giới một cách minh bạch được nữa (nhìn thế giới xuyên qua các tư duy đã
được công thức hóa). Đấy chỉ là các thứ tư duy không được đúng thật bởi
vì tư duy đúng thật luôn mang tính cách trực tiếp và tự phát (có nghĩa
là không bị, hoặc trước khi bị công thức hóa), biểu lộ qua một cử chỉ,
một ngôn từ nào đó. Nói cách khác thì Phật Giáo xem tư duy đúng thật
chính là thực tại, tư duy ấy khác hẳn với các tư duy khác (luôn bị chi
phối bởi quy ước và điều khiển bởi bản năng) chỉ nhằm tách rời chúng ta
ra khỏi hiện thực.
Đôi khi chúng ta cũng
mang trong trí những thứ tư duy thật dai dẳng tương tự như một sự ám
ảnh, thí dụ: "Chẳng ai hiểu tôi cả"; "Tất cả mọi sự cứ theo nhau mà xảy
đến với tôi thật tệ hại"; "Tôi chỉ là một tên vô dụng"; "Tôi chán ghét
tôi vô cùng"; "Tôi chỉ là một đứa vô tích sự"; "Hắn là một tên quá hung
ác và tôi thì chỉ muốn tìm cách làm thế nào để trả thù"... Thiền định
chính là cách tập cho chúng ta biết quay trở về với thể dạng tâm thức
không tự nhận diện mình qua các thứ tư duy đại loại như trên đây. Chẳng
hạn như thay vì cho là mình đang bị sự giận dữ đày đọa khiến cho mình
trở nên hung dữ thì chỉ nên đơn giản (đứng ra xa để mà) quan sát nó thế
thôi (tức theo dõi và quan sát sự giận dữ và không hề xem sự giận dữ là
của mình hay là chính mình).
Thiền định giúp chúng ta
mở rộng lòng mình để đón nhận một thể dạng tâm linh đích thật và để tận
hưởng các kinh nghiệm cảm nhận về thực tại cũng như một tình thương yêu
vô điều kiện.
Thiền định cũng là một
con đường tu tập tâm linh. Mục đích của nó là giúp chúng ta buông bỏ
tham vọng muốn chủ động được mọi thứ, hầu giúp chúng ta biết mở rộng
lòng mình để đón nhận một thực tại to rộng hơn so với cái tôi nhỏ bé và
đầy lo âu của chính mình. Đấy cũng chính là cách giúp chúng ta buông bỏ
quyết tâm chỉ biết nghiền ngẫm về các tham vọng riêng tư của mình, hầu
giúp mình có thể tìm thấy được sự thanh thản trong một không gian rộng
mở đầy sinh khí và nhiệt tình.
Tất cả các vị thánh nhân
và các nhân vật thần bí dù thuộc vào bất cứ một dân tộc nào, nếu muốn
nâng cao giá trị của mình lên thì cũng đều phải dựa vào một sự hậu thuẫn
liên quan đến thiền định. Sự hậu thuẫn ấy không nhất thiết chỉ thuộc
vào bối cảnh cá biệt của Phật Giáo. Nó cũng đã được học phái Sufi
(soufisme / sufism hay Ahl al-soufa) của Hồi Giáo và một số học phái
Ki-tô Giáo cũng như một số bộ tộc thổ dân của lục địa Mỹ Châu thực hành.
Căn bản thiền định ấy chỉ đơn giản là như thế. Thế nhưng thật ra đấy
lại là một cách khám phá ra không gian rộng mở của tình thương yêu, giúp
chúng ta vượt lên trên mọi sự trói buộc.
Nếu nhìn từ khía cạnh đó
và một khi thiền định được giảng dạy thật đầy đủ và đúng đắn thì đấy sẽ
là một phương tiện giúp trực tiếp mang lại cho chúng ta một cuộc sống
tâm linh đúng nghĩa của nó. Con đường ấy đòi hỏi chúng ta phải có một sự
quyết tâm nào đó nhằm tháo gỡ cái mặt nạ của chính mình và loại bỏ mọi
thứ ảo giác, hầu giúp chúng ta đối đầu với mọi chướng ngại có thể cản
trở sự mở rộng của tâm hồn mình.
Vậy sự chú tâm là gì?
Sự chú tâm là một luồng
ánh sáng soi rõ những gì mà nó rọi vào. Khi chúng ta chú tâm vào hơi thở
thì tình trạng xao lãng thường chi phối chúng ta cũng sẽ tan biến hết,
hơi thở theo đó cũng trở nên êm dịu khiến chúng ta cảm thấy thanh thản
hơn.
Mục đích của thiền định
là nhằm phát huy sự chú tâm và giữ cho sự chú tâm đó không rời khỏi đối
tượng được quan sát. Thí dụ tôi không nhìn vào hơi thở của tôi mà tôi
trở thành hơi thở của chính tôi.
Thiền định không phải là
một sức mạnh cá biệt của tâm thức mà đúng hơn là bản chất của chính tâm
thức. Tâm thức là một khả năng giúp chúng ta hợp nhất với những gì mà
chúng ta quán xét. Tôi cắn một miếng táo. Sự chú tâm của tôi hòa nhập
tôi với hương vị của miếng táo.
Tính cách nhị nguyên mà
chúng ta thường tạo dựng ra như là một thứ ranh giới nhằm phân cách
người quan sát và vật thể được quan sát - tức giữa chủ thể và đối tượng,
hay là giữa ta và người khác - sẽ biến mất khi chúng ta phát động được
sự chú tâm.
Muốn thiền định thì phải làm thế nào?
Thiền định là cách giữ thân xác, hơi thở và tâm thức của mình luôn an trú trong hiện tại.
Nói một cách tổng quát
thì chúng ta có thể tự xem mình là nơi hội ngộ giữa thân xác và tâm thức
của chính mình. Tuy nhiên cũng nên lưu ý là hình ảnh tạm mượn trên đây
không phải là một khái niệm của Phật Giáo (vì Phật giáo không xem tâm
thức là một thực thể khác với thân xác), do đó một người Phật Giáo không
được xem thân xác độc lập với tâm thức mà chỉ nên xem hơi thở đảm nhiệm
một vai trò trọng yếu hơn trong việc chuyển tải sự sống và giúp cho
chúng ta trở nên sinh động.
Phải chọn một tư thế ngồi thật đúng
Ngồi không phải chỉ có nghĩa là một động tác riêng rẻ của thân xác mà liên quan đến toàn diện con người của mình.
Trước hết bạn hãy ngồi
xuống. Sau đó thì hình dung ra hình ảnh của chính mình đang ngồi thật
vững vàng trên mặt đất của địa cầu này.
Thân xác bạn biểu trưng
cho một sự kết hợp giữa địa cầu và bầu trời cao, và con tim của bạn là
chiếc vương miện của một vị đế vương. Hãy đặt chiếc vương miện của con
tim bạn trở về đúng chỗ của nó (trên đầu mình). Sau đó thì hãy hình dung
chiếc vương miện nằm uy nghi tại vị trí thật hoàn hảo ấy và đón chào
nó. Đấy là cách tự đặt mình vào một tư thế sẵn sàng để đón nhận bầu
không gian của thực tại. Hãy cố gắng hòa nhập vào cái thể dạng hiện hữu
đang phát động một cách tự nhiên ấy (không cần kêu gọi đến một sức mạnh
thiêng liêng nào cả). Nhìn theo khía cạnh đó thì chỉ riêng tư thế ngồi
cũng đủ để biểu trưng trọn vẹn cho toàn thể giáo huấn (tư thế ngồi không
những chỉ liên hệ với thân xác mà còn phản ảnh thể dạng tâm thần của
mình nữa, sự liên kết đó giữa thân xác và tâm thức qua thế ngồi sẽ giúp
buộc chặt sự hiện hữu của mình vào thực tại - tức đang ngồi thật vững
chắc trên mặt đất này - và đấy cũng chính là nền móng căn bản nhất của
giáo huấn nhà Phật).
Tùy theo học phái mà các
lời hướng dẫn về phương pháp thiền định cũng có đôi chút khác biệt, tuy
nhiên tất cả đều xem trọng việc chuẩn bị cách ngồi như thế nào để có thể
giúp người hành thiền hòa nhập vào thân xác của mình và giữ cho thân
xác đó luôn thẳng đứng và trang nghiêm (tư thế ngồi rất quan trọng vì nó
sẽ phản ảnh thể dạng tâm thức của người hành thiền. Khi nhìn vào một
người lão luyện đang ngồi hành thiền thì cũng có thể hình dung ra thể
dạng tâm thần hay mức độ "nhập định" của người ấy. Tư thế ngồi của họ
vững vàng như một trái núi, toàn thân tỏa ra một sự thanh thản, tĩnh
lặng và trang nghiêm có thể khiến cho chúng ta phải bàng hoàng và kính
phục).
Nếu bạn muốn ngồi đúng
theo tư thế trên đây thì phải giữ lưng cho thật thẳng đồng thời vẫn giữ
được sự thoải mái. Cách ngồi đó sẽ giúp bạn cảm thấy được sự "vững chắc"
và "thẳng đứng" của lưng liên hệ mật thiết với sự "mềm mại" và "mở
rộng" của lồng ngực - đấy là một cách biểu trưng cho sự kết hợp giữa
nghị lực giúp mình nhìn thẳng vào những gì là như thế và sự mong manh
(của nhịp thở nơi lồng ngực) giúp mình trở nên mềm mại hơn.
Điều quan trọng là bạn
phải giữ cho thân xác luôn thư giãn. Tùy theo học phái, hai chân có thể
tréo vào nhau theo tư thế hoa sen hay bán già, hoặc chỉ cần ngồi với hai
chân gập lại cũng đủ. Tuy nhiên cũng có thể ngồi trên ghế - cách ngồi
này cũng tốt thế nhưng phải giữ lưng thật thẳng và không được tựa vào
lưng ghế (muốn cho thế ngồi được thoái mái và vững chắc thì cần phải có
một "tọa cụ", tức là một cái gối hình tròn, vuông hay bán nguyệt, nhồi
bông, bề dầy có thể gia giảm tùy theo từng người, đôi khi phải mất rất
nhiều thời gian để điều chỉnh bề dầy của tọa cụ sao cho thật thích hợp
với mình. Cũng xin mạn phép nêu lên một chi tiết nhỏ khác là các người
hành thiền trong các học phái Zen đều có những chiếc tọa cụ may đúng
theo quy tắc, vải bằng chỉ sợi thiên nhiên, nhuộm bằng màu lấy từ vỏ
cây, tọa cụ độn bằng các vật liệu thiên nhiên như bông gòn, rơm, hoặc
các loại hạt phơi khô... Tuy nhiên người mới tập có thể dùng bất cứ gì
để ngồi, chẳng hạn như gối nằm hay một vật gì khác, mục đích là mông và
hai đầu gối tạo ra ba điểm tựa giữ cho thế ngồi được vững chắc).
Dù sao thì bạn cũng không
nên quá quan tâm hay lo lắng. Tư thế ngồi chưa phải là toàn bộ kỹ thuật
tập luyện, đấy chỉ là một cách "loan báo" trước thế thôi. Ngồi thật
đúng cách cũng là để biểu lộ quyết tâm của mình nhằm giữ cho thân người
luôn được thẳng, linh hoạt và không ngủ gục. Chọn cho mình cách ngồi như
thế cũng có nghĩa là bắt chước theo hình ảnh nhập định của Đức Phật.
Một cách để trở thành Phật. Dù sao thì đấy cũng không phải là một phương
tiện nhằm mong cầu đạt được một thứ gì cả. Tư thế ngồi thiền tự nó chỉ
có nghĩa là sự tu tập. Có thể ví tư thế ngồi là một quả núi mà người
hành thiền có thể tìm thấy nơi đó một chỗ ẩn cư thuận lợi, dù là họ đang
phải sống trong bất cứ một bối cảnh nào.
Sau khi ngồi xong thì tập thở!
Sau khi chuẩn bị xong cho
tư thế ngồi thì bạn hãy bắt đầu chú tâm vào hơi thở và sự chú tâm phải
thật vững vàng, dù sao thì đấy cũng không có nghĩa là phải gồng mình lên
mới theo dõi được hơi thở. Có thể ví sự chú tâm như một chiếc neo giúp
cho mình khỏi bị trôi dạt đi nơi khác. Cứ để cho không khí thâm nhập vào
cơ thể mình, khiến cho bụng căng phồng và làm nở rộng lồng ngực, và sau
đó thì cứ để cho không khí tự nhiên trở ra và tan biến vào không gian.
Không khí thâm nhập vào bạn và buộc chặt bạn vào mặt đất này, nó lưu
chuyển xuyên qua thân xác bạn và sau đó thì ra đi. Bạn không nên tìm
cách giữ lại một thứ gì cả. Không đặt ra thêm một thứ gì cả. Chỉ cần xem
đấy là như thế.
Sau hết thì phải giải quyết thế nào với các ý nghĩ của mình?
Tất nhiên là không thể
nào tránh khỏi các thứ ý nghĩ và xúc cảm đến viếng thăm bạn, kể cả
trường hợp chúng có thể tràn ngập tâm thức bạn. Thế nhưng chủ đích của
phép thiền định là không nhằm vào việc xô đuổi chúng mà đúng hơn là chỉ
tìm cách để
Hoàng Phong Chuyển Ngữ
|
0 Kommentare:
Post a Comment