"Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết,
mọi người đều có Phật tánh, nhưng vì ta cứ mãi mê chạy theo trần cảnh, nên
không tin, không thấy. Vì sao? Vì bị nghiệp thức che đậy, bởi do ta hết suy
nghĩ cái này, lại tính toán cái kia, từ sáng đến chiều không lúc nào dừng nghỉ,
thậm chí đến lúc lên giường ngủ mà vẫn còn tính toán..."
Thích Đạt Ma Phổ Giác
THẤY BIẾT SAI LẦM
Đã làm người trong trời đất, ít
nhiều ai cũng từng nóng giận. Nóng giận là thói quen xấu làm mọi người đau khổ.
Có một chú Sa-di nọ, tính tình nóng nảy, cộc cằn, tuy đã xuất gia hơn mười năm,
nhưng vẫn chứng nào tật nấy, lúc nào chú cũng thô lỗ với mọi người. Một hôm, Sư
phụ trao cho chú một túi đinh và căn dặn kỹ càng rằng, “khi nào con nổi nóng hoặc nặng lời với ai, con lấy một cây đinh đóng
vào hàng rào gỗ phía sau chùa, rồi con tự suy gẫm lại việc làm của mình, coi đó
là hành động xấu hay tốt”.
Ngày đầu tiên, chú Sa-di đã đóng
mười tám cây đinh vào hàng rào. Những ngày kế tiếp, chú cố gắng tìm lại nguyên
nhân, vì sao mình nóng giận thì số đinh đóng lên hàng rào ít hơn. Dần dần, chú
nhận ra rằng, nếu mình bình tĩnh để đối đầu và giải quyết vấn đề, xem ra dễ
dàng hơn là nóng nảy, để rồi phải đóng những cây đinh vào hàng rào.
Qua một thời gian dài áp dụng lời
Phật dạy, tự soi sáng lại chính mình, kết hợp với tu tập và hành trì pháp môn
đóng đinh; Giờ đây, chú Sa-di đã trở thành một thầy Tỳ-kheo chững chạc, không
còn nóng nảy và cộc cằn, thô lỗ như xưa nữa.
Với tâm từ bi rộng lớn của sư phụ,
sau khi tán thán, khen ngợi đệ tử của mình, thầy đưa ra một đề nghị mới, “cứ một ngày trôi qua, nếu con không làm ai
buồn phiền, con hãy nhổ bỏ một cây đinh trên hàng rào.” Chẳng bao lâu, thầy
Tỳ-kheo ấy đã nhổ bỏ hết những cây đinh trên hàng rào. Thấy vậy, sư phụ bèn dắt
thầy ra nơi hàng rào và nói tiếp, “con đã
làm rất tốt con ạ! Tuy nhiên, con thấy hàng rào bây giờ không còn trơn sạch như
trước mà bị những dấu đinh loang lổ, làm nó không được nguyên vẹn và đẹp đẽ như
xưa. Những gì con đã thốt ra trong lúc nóng nảy, giận dữ làm cho người đau đớn,
khổ sở, tạo ra những vết thương lòng. Từ đó, có thể nảy sinh hận thù, ân oán,
vay trả lẫn nhau, khó lòng xoá đi được, giống như những vết đinh trên hàng rào
này”.
Nhân quả, nghiệp báo sẽ không chừa
một ai khi hội đủ nhân duyên và điều kiện, cho dù lúc ấy ta có nói lời xin lỗi
bao nhiêu hay sám hối lỗi lầm cũng không thể làm cho vết thương lành lặn hoàn
toàn được. Bởi những vết thương lòng rất khó chữa lành, dù cho người thân
thương như cha me, vợ con, anh em ruột thịt cũng khó mà hàn gắn. Vết thương chỉ
có thể lành hẳn khi ta có tình yêu thương chân thật, biết cảm thông và tha thứ
cho nhau bằng trái tim yêu thương, hiểu biết với tấm lòng vô ngã vị tha.
Vì ai cũng có nghiệp riêng của
mình, nên đạo Phật đã dạy ta không trốn chạy mà cần phải đối diện với cuộc đời
từ những hiểu biết, nhận định đúng đắn về sự thật của con người và mọi sự vật,
hiện tượng trên thế gian này. Đức Phật dạy, có hai hạng người ta cần phải biết:
+ Thứ nhất là hạng người như bèo
dạt mây trôi, cuộc đời như thế nào chẳng cần tìm hiểu, suy xét, cứ sống cho qua
ngày tháng theo phong tục, tập quán xã hội. Cũng như con dơi khi nó nghĩ nó là
loài chim vì nó bay bằng hai cánh, khi nó nói nó là loài có vú vì nó có thể bò
bằng chân. Đây là thái độ sống như bèo dạt mây trôi, chẳng cần tìm tòi, suy
nghĩ, định hướng để tìm ra lẽ thật cuộc đời, đành chấp nhận trôi lăn theo dòng
sinh tử, ai làm sao mình làm vậy, chẳng cần tìm hiểu đúng sai. Hạng người như
thế chiếm đại đa số trên thế gian này. Từ nhận thức như vậy nên con người đã
phó mặc đời mình cho đấng thần linh, thượng đế mà chấp nhận số phận đã an bày.
Họ đành cam chịu cuộc sống như lục bình trôi theo con nước lớn ròng, muốn trôi
đi đâu cũng được.
Nếu ta chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, nghiệm xét một cách chín chắn thì trong mỗi con người chúng
ta, ai cũng có khả năng quán
chiếu soi sáng lại chính mình, nhận định và phát minh tư duy sáng tạo, làm được
những việc không thể nghĩ bàn, làm gì có ai đủ khả năng sắp đặt hay định đoạt
cho ta? Nếu có thì chỉ là tiến trình diễn biến của nhân quả, may rủi, được mất,
nên hư, thành bại… Tất cả mọi việc tốt xấu trong cuộc đời này đều do ta hành động
bằng thân-miệng-ý mà cho ra kết quả.
Vậy nghiệp là do cái gì tạo thành
mà nó gần như chuyện đã định sẵn vậy? Ba năm sau ta sẽ bị gì? Mười năm nữa ta sẽ
được gì? Dường như những gì xảy ra trong cuộc đời đều được sắp đặt trước. Tuy nhiên,
đi vào phân tích tỉ mỉ, ta sẽ thấy vấn đề không đơn giản như mọi người thường lầm
tưởng. Nghiệp lực dường như cũng đã được quy định trong tiến trình diễn biến của
một đời người có thể làm việc thiện hay việc ác bất cứ lúc nào, dù cho muốn làm
khác cũng khó bề mà cưỡng cầu.
Ở đây, chúng ta nên tìm hiểu cho
chính chắn hơn, chính tư tưởng của ta khởi lên rồi phát xuất ra lời nói và dẫn
đến hành động mà tạo ra nhân cách tốt hay xấu trong hiện tại. Người hay nuôi dưỡng
tâm thánh thiện, luôn giúp đỡ, sẻ chia, an ủi, nâng đỡ mọi người, chắc chắn đời
sau người này sẽ có nhân cách phi thường, không ai có thể so sánh kịp.
Do sự biến thiên thay đổi tư tưởng
của con người, nên có lúc ta thích làm việc thiện, đôi khi ta thích làm việc
ác, hành động làm thiện ác không nhất định, có khi ta đối xử tốt với người này,
nhưng lại thô bạo, xấu xa với người khác. Do đó, ta khó lý giải được đầy đủ về
sự diễn biến hiện tại của một con người.
+ Thứ hai là hạng người luôn hiếm
hoi và ít có trong cuộc đời, như những nhà khoa học, bác học, giáo dục, đạo đức,
tâm linh…. Họ luôn tìm tòi, phát minh, sáng tạo, tu tập để vượt qua nghịch cảnh
cuộc đời. Họ không chấp nhận số phận mình do một ai định đoạt, họ quyết tâm tìm
ra đáp án bằng sự học hỏi, nghiên cứu, tu tập bằng sự dấn thân đóng góp để phục
vụ đời sống con người ngày càng được tốt đẹp về mọi mặt.
Tóm lại, hạng người thứ nhất là
đa số, họ hay sống thả trôi theo dòng đời, không cần muốn suy nghĩ hay tìm tòi,
suy xét gì cả, chỉ muốn sống hưởng thụ cho qua ngày tháng, ai làm sao họ làm vậy
mà chẳng biết phân biệt đúng sai. Họ luôn chạy theo sắc đẹp, tiền tài, danh vọng,
ngủ nghỉ, tham lam, ích kỷ, ganh ghét, tật đố, sân giận, si mê mà không chịu tự
hỏi lại mình, “ta từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu?” Họ cam đành chấp nhận
cuộc sống trong hiện tại như bèo dạt mây trôi, ai làm sao ta làm vậy. Ngoài xã
hội loài người còn có các loài thú, loài có chân, loài có cánh, loài trên cạn
và loài dưới nước v.v… Có câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Trong các loài thú hoang dã ở
núi rừng, sư tử được cho là loài chúa tể sơn lâm, với loài có cánh thì phượng hoàng
được phong là vua. Một hôm, đến ngày sinh nhật của sư tử, tất cả mọi loài đều
phải có mặt đầy đủ để chúc mừng sinh nhật chúa sơn lâm. Riêng hôm ấy, loài dơi
không có mặt. Sau khi điểm danh, sư tử nổi trận lôi đình ngay tại chỗ, liền ra
lệnh cho gọi loài dơi về ngay gấp để trị tội. Trước mặt chúa tể sơn lâm, lũ dơi
run lẩy bẩy, sợ đến tím cả người. Sư tử hỏi,
“tại sao hôm nay là ngày sinh
nhật của ta mà lũ dơi nhà ngươi dám cả gan vắng mặt, các ngươi dám khinh thường
ta nghĩa là sao? Lũ dơi các ngươi xứng đáng nhận lãnh tội chết vì tội dám khinh
thường ta là chúa tể sơn lâm?”
Lũ dơi nghe sư tử phán vậy, cả bầy
run lên lập cập nói không nên lời, “kính
xin chúa tể sơn lâm, Ngài nên mở lượng hãi hà, tha chết cho lũ dơi chúng con, bởi
họ nhà dơi chúng con không phải là loài thú có chân, mà chúng con là loài có
cánh, có vú nên thuộc quyền quản lý và cai trị của chúa phượng hoàng. Ngài bắt
tội như thế là oan cho chúng con lắm Ngài ơi, xin Ngài hãy suy xét lại cho kỹ
càng”.
Trước những lời lẽ lý luận sắc bén
của dòng họ nhà dơi, sư tử ta không thể nào bắt tội dơi được. Sư tử đành ngậm
ngùi cay đắng mà tuyên bố tha tội chết cho dòng họ nhà dơi, nhưng trong lòng tức
giận vô cùng.
Mấy tháng sau, đến kỳ sinh nhật của
chúa phượng hoàng. Khi điểm danh các loài đến dự, loài dơi lần này cũng vắng mặt.
Chúa phượng hoàng nổi trận lôi đình, quát nạt đủ thứ, cho rằng loài dơi quá khi
dể ta, bởi vì lần trước, nhân ngày sinh nhật của chúa sơn lâm, tất cả họ nhà
dơi đều vắng mặt, bị chúa sơn lâm quở trách, dơi nói rằng chúng nó thuộc loài
chim, nên không bị bắt tội. Bây giờ đến ngày sinh nhật của ta, lũ dơi vẫn coi
thường ta nên mới không đến. Phượng hoàng liền chiếu chỉ tìm gấp loài dơi về để
trị tội.
Lần này, trước mặt chúa phượng
hoàng, dơi không còn run sợ như lần trước mà an nhiên, bình thản thưa rằng, “sở dĩ hôm nay họ nhà dơi không đến dự sinh
nhật Ngài là vì chúng tôi không phải là loài chim, mà chúng tôi thuộc loài thú,
thuộc quyền quản lý của chúa sơn lâm, bởi chúng tôi có vú và đi bằng chân. Ngài
không thể bắt tội chúng tôi”.
Nghe dơi trình bày, phượng hoàng
trong lòng tức giận, nhưng suy xét lại, dơi nói như vậy quả không sai, nên chúa
phượng hoàng cũng không bắt tội loài dơi kia nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn dân gian Việt
Nam trên cho ta một bài học lý thú về cuộc đời. Không có gì là cố định cả, thiện
là thiện suốt kiếp, ác là ác suốt đời, không thay đổi được. Loài dơi nói như thế
là muốn vượt ra khỏi hai chủng loài: loài chim và loài thú.
Nếu nói theo thực thể cố định
như có một cái gì quy định sẵn? Không thể được. Ta cần phải vượt qua rào cản và
giới hạn của nó do sự định đoạt hay sắp đặt nào đó theo cách nhìn của một định
tính, cố định, bất di bất dịch, như các nhà tôn giáo cổ xưa quan niệm là do đấng
Phạm thiên, hay theo quan niệm của Bà-La-Môn giáo cho rằng có linh hồn bất tử,
ai như thế nào thì phải chịu như thế đó, người chết sanh người, trời chết sanh
trời, thú vật chết sanh thú vật. Trời sinh ra vạn vật để phục vụ cho con người
và đấng tối cao. Đây là nói theo cách nhìn cố định của thời xa xưa.
Ý thứ nhất của câu chuyện ngụ
ngôn dân gian Việt Nam cho ta cách nhìn thông thoáng hơn, vượt lên trên cả hai
chủng loại. Ý thứ hai lại cho ta cách thức lý luận thụ động, ai thế nào ta như
thế ấy, chẳng cần tìm hiểu làm gì, chấp nhận sống cuộc đời “bèo dạt mây trôi”
tuỳ theo con nước lớn, ròng. Xưa như thế nào, bây giờ ta phải như thế ấy, không
cần tìm hiểu đúng sai để cố gắng vươn lên, làm mới lại chính mình.
Nếu ta sống theo lối chấp nhận số
phận đã an bài là ta vô trách nhiệm đối với những hành vi tạo tác trong hiện tại
của mình, hễ khi có xảy ra việc xấu làm cho ta bất hạnh, khổ đau thì ta lại đổ
thừa là do số mệnh của ta như thế, và chấp nhận sống trong đau khổ, lầm mê.
Đạo Phật không thừa nhận như thế,
chúng ta không thể đổ thừa cho số phận và chấp nhận cuộc sống “bèo dạt mây
trôi” như vậy, mà chúng ta phải ý thức rằng, trong tiềm ẩn con người của ta đều
có khả năng làm được tất cả các việc hoặc tốt hoặc xấu. Tốt hay xấu, thành công
hay thất bại đều do ta tạo lấy, không ai có quyền chen vô chỗ này. Có người thuở
nhỏ hàn vi nghèo khó, lớn lên do siêng năng làm việc đúng phương pháp, biết tận
dụng thời cơ, biết đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội, nên họ trở nên giàu
có. Ở thế gian này, chúng ta đã từng thấy như vậy. “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
là như thế. Tùy theo ý chí và quyết tâm của mỗi người mà hoàn cảnh, cuộc sống
có thể thay đổi.
Đã làm người trong trời đất, ít
ai trong chúng ta được may mắn hoàn toàn chưa một lần bị vấp ngã hay thất bại.
Điều quan trọng là khi vấp ngã, ta phải biết cách đứng lên, ví như ta bị vấp
ngã từ đất, vậy cũng từ đất ta đứng dậy. Sông nước có thể làm cho ta ngột ngạt,
sặc sụa, dính mắc hoặc thấm ướt, nhưng cũng nhờ nước mà ta được tung tăng bơi lội
hoặc du thuyền rong chơi trên sông biển. Những ai trong cuộc đời chưa trải qua
những đêm giá buốt như Thiền sư Hoàng Bá nói, “đâu dễ ngửi mùi hương hoa mai”.
Sau mỗi lần thất bại hay vấp
ngã, dường như ta cảm thấy mình mạnh mẽ, dũng khí và nghị lực hơn. Sau nhiều lần
thất bại có thể chôn vùi những con người yếu đuối, nhu nhược, hèn nhát, kém cỏi;
ngược lại, đối với người có ý chí, có nghị lực thì “thất bại là mẹ thành công”.
Từ những vấp ngã, những thất bại trong cuộc đời giúp con người có ý chí cao
hơn, có ý thức, lập trường kiên định hơn. Đó chính là hòn sỏi, viên gạch làm
nên đoạn đường ta đi, nhằm thử thách những con người tài đức.
Cất bước trên đường đời hay trên
đường đạo cũng vậy, mỗi người hãy tự trang bị cho mình một hành trang, sẵn sàng
đón nhận tất cả tốt hay xấu để vượt qua cạm bẫy của cuộc đời. Đối với các bậc
hiền thánh, muốn làm Phật thì phải đối diện với các thứ ma mị. Những gì người đời
gọi là bất hạnh, với họ chỉ là thử thách. Khó khăn, thử thách là điều mà con
người ai cũng có thể gặp phải, nhưng người có ý chí và tin sâu nhân quả sẽ vượt
qua một cách dễ dàng hơn.
Người không có niềm tin ở chính
mình sẽ bị gục ngã trước, để rồi chấp nhận cuộc sống hẩm hiu, mặc cho dòng đời
cuốn trôi, mặc cho oan nghiệt cướp đi lòng tự chủ quý giá của mình. Đã làm người
ai mà không một lần thất bại, nhưng có thất bại mới có thành công.
Chúng tôi rất mong muốn mọi người
hãy tự suy nghĩ cho rõ ràng, thấu đáo mà quyết định làm việc đúng đắn để khỏi
phải ân hận về sau. Một phút giây mê lầm, một ngàn năm đau khổ. Vì kiến chấp,
thói quen nên biết mà cố phạm, dù biết là tội lỗi, xấu xa, đê tiện, nhưng không
cưỡng lại được thói quen, do lòng tham con người, nên đành chịu chấp nhận khổ
đau mà thôi.
NGHIỆP THỨC CHE ĐẬY
Để minh họa cho hạng người phó mặc
cuộc đời cho số phận, buông xuôi cuộc sống theo dòng đời. Ta hãy cùng nhau quán
xét và chiêm nghiệm câu chuyện sau đây:
Có một Phật tử đến hỏi đạo vị Thiền
sư,
Bạch thầy, con chó có Phật tánh không?”
Thiền sư đáp,
Không.
Vị cư sĩ này là người có học Phật
pháp nên biết rất rõ ràng, từ chư Phật cho đến tất cả chúng sinh đều có thể
tánh bình đẳng như nhau, ai cũng có tánh biết sáng suốt. Tại sao vị Thiền sư này trả lời là không có. Như vậy là trái với
lời Phật dạy hay sao?
Vị Thiền
sư nói tiếp,
Vì bị nghiệp thức che đậy.
Hôm sau
một người khác hỏi,
Kính bạch Hòa Thượng, con chó có Phật tánh
không?
Thiền sư trả lời:
Có.
Nghe vậy, vị cư sĩ này tá hỏa tam
tinh.
Nếu có, tại sao nó chui vô đãy da lông lá
lù xù?
Vì biết mà cố phạm.
Cũng cùng một câu hỏi mà Thiền sư
trả lời lúc thì có, lúc thì không. Thế thì câu nào đúng, câu nào sai? Tại sao vị
Thiền sư lại trả lời cho hai người với hai ý trái ngược nhau như vậy? Nếu là
người có học Phật, quý vị sẽ thấu rõ chỗ này!
Đó là cách trả lời tùy bệnh cho
thuốc. Chúng sinh có nhiều bệnh thì Phật pháp có nhiều thuốc. Người trước hỏi
con chó có Phật tánh không, ngài trả lời không. Vị ấy lại hỏi tất cả chúng sinh
đều có Phật tánh, tại sao con chó lại không? Ngài trả lời, “vì bị nghiệp thức che đậy”.
Chúng ta đã từng học qua kinh Phật,
đều biết rằng ai cũng có Phật tánh. Tại sao đức Phật nói tất cả chúng sanh đều
có Phật tánh, mà ở đây Thiền sư lại nói không. Vậy có trái với lời Phật dạy
không? Để tìm hiểu cặn kẽ chỗ này, chúng tôi xin giải thích cho quý Phật tử được
rõ.
Như đêm Rằm, trăng sáng bị mây
mù che khuất. Có người hỏi, đêm nay có trăng không? Dĩ nhiên là có, nhưng vì do
mây mù che khuất, không thấy được trăng, nên nói không, chứ không phải là không
có mặt trăng.
Phật tánh ví như mặt trăng, nghiệp
thức ví như mây mù che khuất. Chúng ta bị nghiệp thức lăng xăng che mờ nên Phật
tánh không hiển lộ ra được.
Vậy nghiệp thức là gì mà che mờ
được tánh sáng suốt của mỗi chúng sanh? Thức là cái suy tư, nghĩ tưởng, phân biệt
tốt xấu, phải quấy, được mất, hơn thua… hết nghĩ cái này đến nghĩ cái khác. Bởi
vậy, có khi ta hiền như nai, có lúc lại dữ như cọp, nó chuyển qua, đổi lại lúc
thế này, khi thế khác, không bao giờ dừng nghỉ.
Còn nghiệp là gì? Là năng lực,
là hành động từ thân, khẩu, ý được lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành thói
quen, rồi thói quen đó có năng lực sai sử lại chúng ta.
Thí dụ nghiệp uống rượu, lúc đầu
khi mới uống ta còn làm chủ được bản thân, muốn uống thì uống, không uống thì
thôi, không sao cả. Nếu ta uống rượu lâu ngày, trở thành thói quen, không có
chén rượu, ta cảm thấy chân tay bủn rủn không làm gì được, run rẩy, mệt mỏi, rã
rượi tâm thần. Người can đảm có ý chí dũng mãnh, biết được tai hại của rượu,
nên cố gắng từ bỏ một cách dễ dàng. Còn người bạc nhược, yếu đuối thì đành chấp
nhận cho nó khống chế, cam chịu sống trong si mê, nghiện ngập, suốt đời bần
cùng, khốn khổ. Chính cái thói quen huân tập lâu ngày, trong nhà Phật gọi là
“nghiệp thức.”
Thói quen thì đa dạng, đa năng,
như ta quen suy nghĩ hơn thua thì bất cứ làm việc gì ta cũng so đo, tính toán,
tính hơn, tính thua… Do đó, việc làm của chúng ta bị giới hạn, thậm chí khi vào
hội chúng trong chùa nghe giảng pháp, chỉ cái chỗ ngồi mà có người cứ loay hoay
xem chỗ này hơn, chỗ kia kém v.v…
Bởi do cái tánh so bì, thiệt
hơn đã trở thành thói quen của mình rồi. Đã là thói quen thì khó có thể bỏ được.
Do đó, Phật tử chúng ta phải ý thức được điều này, đừng để nó trở thành cái quả
xấu rồi than trời, trách đất, đổ thừa tại thế này, tại thế kia.
Đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết,
mọi người đều có Phật tánh, nhưng vì ta cứ mãi mê chạy theo trần cảnh, nên
không tin, không thấy. Vì sao? Vì bị nghiệp thức che đậy, bởi do ta hết suy
nghĩ cái này, lại tính toán cái kia, từ sáng đến chiều không lúc nào dừng nghỉ,
thậm chí đến lúc lên giường ngủ mà vẫn còn tính toán.
Đó là thói quen thâm căn cố đế của đại đa số con người. Tạp
niệm lúc nào cũng dấy khởi liên tục không dừng, giống như những đêm mưa, mây
đen liên tục kéo đến che khuất mặt trăng. Cho nên, mặt trăng lúc nào cũng có,
mà ta không nhìn thấy nó được. Muốn thấy mặt trăng thì mây phải tan, muốn thấy
Phật tánh thì phải dừng nghiệp thức. Các Tổ thường nói, “chẳng sợ niệm khởi, chỉ
sợ giác chậm”. Niệm ví như mây đen. Khi niệm dấy lên, ta nhìn lại xem nó ở đâu?
Ta không muốn có nữa thì chúng tự tan. Rõ ràng là chúng không thật. Tuy nó
không thật, nhưng nếu ta không biết dừng thì nó lớn mạnh thêm, và có thể tạo
nghiệp tày trời trong khoảnh khắc.
Thí dụ, khi nhìn thấy một cô gái
đẹp, trong tâm liền khởi lên ý nghĩ muốn sỡ hữu cô gái ấy. Nếu ngay lúc ấy, ta
biết suy xét phải quấy mà dừng ngay ý nghĩ thì mọi chuyện sẽ êm xuôi, tốt đẹp,
nhưng nếu đam mê chạy theo, tìm cách chiếm đoạt, từ đó sanh ra chuyện bám víu,
suy nghĩ bậy bạ có thể dẫn đến chuyện xấu xa, đê tiện. Vì sao? Bởi vì giác quá
chậm hoặc không chịu giác. Nếu khi niệm mới vừa chớm nở, ta liền nhìn lại xem
hình tướng nó ra sao thì đâu có chuyện gì xảy ra. Do đó, các Tổ nói “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm” là
như vậy.
(còn nữa)
0 Kommentare:
Post a Comment