"Chính vì vậy, người Phật tử
chân chính phải biết tu ngay nơi ý nghĩ ban đầu vừa mới chớm lên, để chuyển
hoá chúng trở về bản thể ban đầu. Chúng ta chỉ cần điều phục ngay nơi tâm ý
của mình, bằng
cách nghĩ điều có lợi cho
người và vật, nên
duy trì và tiếp tục phát huy..."
Thích Đạt Ma Phổ Giác
TÂM
VÔ THƯỜNG
Trước khi đi sâu vào tâm vô thường, chúng ta cũng
cần tìm hiểu, xác
thân này do đâu mà có? Phải chăng do ta điên đảo vọng tưởng mà có thân
này? Đức Phật đã chỉ rõ, con người do vô minh vọng động, bám víu
trần cảnh, tham đắm sắc dục, chạy theo gió nghiệp thức, chấp chặt
vào đó, tạo
ra ý thức hệ, nên nỗi khổ, niềm
đau bắt đầu có mặt.
Chính vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau tìm
hiểu về tâm vô thường. Nói về tâm thì ai cũng cho rằng, cái hay
suy
tư, nghĩ tưởng là tâm mình, nhưng nhìn kỹ lại thì tâm suy nghĩ
đó khi
có, khi không. Bình thường thì tâm hay suy tư, nghĩ tưởng lăng xăng
đó lúc nào cũng quấy rầy chúng ta, nhưng khi nhìn lại, tìm kiếm
chúng thì không
thấy đâu. Bởi tâm luôn thay đổi và biến dạng, khi thì buồn
thương,
giận ghét, buổi sáng nghĩ chuyện này, buổi chiều nghĩ chuyện
kia,
lúc nhớ về quá khứ, khi nghĩ đến tương lai, còn hiện tại thì
bồn
chồn, lo
lắng, tính
toán đủ thứ, cho
nên không được yên.
Vì thế, đức
Phật gọi “tâm
viên ý mã” là
vậy, nó giống như con khỉ chuyển cành, hay con ngựa chạy rong. Như hai vợ chồng nọ sống
với nhau rất hạnh phúc, được ba mặt con, hai vợ chồng gây cãi nhau
suốt ngày không thể nào khuyên can; mặc
dù đã được ban tư vấn hôn nhân hạnh phúc gia đình nhiều lần hoà giải,
nhưng hai vợ chồng vẫn
nhất quyết ly hôn.
Trước lúc xa nhau, người vợ hỏi ba đứa con, “nay ba mẹ không
thể sống cùng nhau được, các con bây giờ muốn theo mẹ hay cha?”
Đứa con thứ nhất nói “con theo mẹ”. Đứa con thứ
hai cũng nói “theo
mẹ”, đến
thằng cu Tí nhỏ nhất chẳng chờ mẹ hỏi, nó nói “con theo mẹ à”. Nghe đến đây, người chồng
liền nói, “ba đứa
tụi nó theo bà thì tôi cũng theo em luôn”.
Bởi tâm con người luôn thay đổi, khi thì suy nghĩ
chuyện này, lúc lại suy nghĩ chuyện kia, không
bao giờ ngừng nghỉ. Như hai vợ chồng nọ, ai cũng muốn mình có quyền
quyết định mọi thứ trong nhà, chẳng ai nhường nhịn ai. Làm chồng thì
có nghiệp của người nam, làm vợ thì
có nghiệp của người nữ, không ai giống ai, vì nghiệp của người nam và nữ khác nhau, ta không thể
buộc mọi người theo ý riêng của mình.
Vì vậy, vợ chồng cần phải biết thông cảm và tha
thứ lẫn nhau, ai cũng có tốt, có xấu lẫn lộn, ta chỉ một bề
tận dụng cái tốt cho nhau. Nhìn chung, từ cuộc sống cá nhân, gia đình, cho đến quan
hệ xã hội, không thể có khuôn mẫu giống nhau được. Người nam thì lúc
nào cũng cứng rắn, mạnh
mẽ, còn người nữ thì yếu mềm, dịu
dàng; do đó, nam
và nữ gặp nhau rất khó mà hòa hợp với nhau được.
Khi hình thành một gia đình, một
bên cương, một bên nhu và bất đồng như vậy, nên muốn hoà hợp, tạo hạnh
phúc, không
phải là chuyện dễ dàng. Theo lời Phật dạy, cả hai vợ chồng cần
phải biết thông cảm, tha thứ cho nhau, chồng nói vợ nghe, vợ khuyên
chồng biết hối cải thì mới được, chứ vợ chồng không chịu nhường
nhịn lẫn nhau, cứ ngấm ngầm bất đồng quan điểm, cho đến khi “tức nước
vỡ bờ”, dẫn
đến ly thân, ly dị là điều không tránh khỏi.
Như vậy, con người sống trong thế gian không thể có
hạnh phúc tuyệt đối. Vậy mà ai cũng đòi được an vui, hạnh phúc, mà chúng ta
không chịu nhường nhịn nhau. Tâm con người lúc nào cũng tham muốn đủ
thứ, lúc thì muốn cái này, khi thì muốn cái kia.
Người nam thường quan niệm rằng, mình là trụ cột
gia đình, vợ chỉ là người tuân theo, nếu không làm theo đúng ý mình thì
chửi mắng, hành hạ, đánh đập. Bởi vì người nam thường cho rằng, mình
là phái mạnh, là trụ cột gia đình, có quyền quyết định tất cả theo
quan niệm khi xưa của thời phong kiến, “chồng chúa vợ tôi”.
Đó là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia
đình, gây đau khổ và làm tan vỡ hạnh phúc. Vì vậy, sống trong cõi đời
này, chúng ta phải biết tu tập để thấy rõ được nguyên nhân sâu xa của nó, cố gắng vượt
qua những bất hạnh, khổ
đau do hai vợ chồng không biết thông cảm và tha thứ cho nhau. Trong cuộc sống
hiện tại của một số gia đình, tuy
dường như thấy hạnh phúc, nhưng hạnh phúc trong gượng gạo, không phải là
thứ hạnh phúc chân thật và lâu bền.
Do đó, để tạo được hạnh phúc thật sự trong cuộc
sống gia đình, mọi người phải biết nhường nhịn lẫn nhau, chồng nói vợ
nghe, chồng giận vợ nhịn, vợ khuyên thì chồng phải biết hối cải,
mỗi người phải biết cảm thông, bao dung và tha thứ. Cho nên, ca dao Việt
Nam có câu:
Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi, bớt lửa, mấy đời cơm khê.
Nhân duyên nói về tâm vô thường, tôi kể câu chuyện
trên để chúng ta cùng nhau suy ngẫm
lời Phật dạy. Tâm con người luôn thay đổi và biến dạng, không lúc
nào ngừng nghỉ; vì
vậy chúng ta phải khéo tu, nhờ tu mà mình dễ dàng cảm thông và tha thứ cho nhau.
Như trường hợp hai vợ chồng trong câu
chuyện trên, đã quyết chí ly hôn dù nhiều người khuyên nhủ, cả
hai
người vẫn khăng khăng trước sau như một, nhất quyết ra toà ly
dị, nhưng
khi người vợ hỏi mấy đứa con theo ai, ba đứa đều trả lời theo
mẹ.
Lúc đó, người chồng nghe ba đứa con nói vậy nên chìu theo ý mấy
đứa con, “chúng nó theo bà, thì tôi cũng theo em luôn.” Thế
là từ đó về sau, hai
vợ chồng chung sống với nhau rất hoà thuận và hạnh phúc, nhờ
biết cảm
thông và nhường nhịn lẫn nhau.
Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta mới tu được, mới
chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa, hại người vật, thay vào đó là những tâm tư
thiện lành, tốt
đẹp, có
tính cách giúp đỡ, an ủi
nhau. Trong kinh Phật dạy rằng,
“tâm phàm phu cứ lén lút đi một mình, rất xa, vô hình dạng, như ẩn
náu hang sâu, nếu điều phục được tâm thì thoát khỏi khổ đau, mê lầm
từ muôn kiếp.”
Có một chú tiểu xuất gia với thầy mình, nguyên là
cậu ruột ngoài đời, vị thầy này đã chứng quả A-La-Hán. Một hôm,
chú tiểu được thí chủ cúng dường cho hai xấp vải. Chú mừng quá,
nhanh chân đi về chùa để cúng dường lại cho thầy, nhưng chú năn nỉ
mãi mà thầy vẫn không nhận, buồn quá, chú nản chí, không muốn tu
tập nữa.
Hôm nọ, chú đang đứng quạt hầu thầy,
trong lòng vẫn còn buồn về chuyện thầy không chịu nhận hai xấp vải,
chú mơ màng để tư tưởng trở về với dòng đời: Mình mồ côi
cha mẹ từ thuở nhỏ, chỉ có cậu là
người thân yêu duy nhất, nay
là thầy mình, vậy mà thầy không thương tưởng, đoái hoài đến
mình, thôi thì mình không theo thầy tu học nữa, mình ra đời gầy
dựng sự nghiệp thế gian cho rồi. Nhưng ra đời rồi phải làm gì để sống
đây?
Chú cứ miên man
trong dòng suy tư, nghĩ
tưởng, mà
lòng càng thêm buồn rầu, lo
lắng, bất an. Đang lúc mơ mộng chạy theo dòng suy tư, nghĩ tưởng,
bỗng nhiên chú loé lên một vấn đề:À đúng rồi, hay là mình đem hai xấp
vải này ra chợ bán đi, lấy
tiền mua một con bò cái về nuôi, bò chỉ ăn cỏ ngoài đồng, không tốn
tiền mua thức ăn cho nó, còn mình hằng ngày chỉ việc dẫn bò đi ăn.
Sống như thế thật là sung sướng và hạnh phúc làm sao? Bò thì mỗi năm sanh
một con, đến chừng tám năm sau, mình có thêm một đàn bò chừng hơn
chục con. Thế thì tốt quá, rồi mình sẽ bán hết số bò đó, chỉ chừa lại
một con nuôi tiếp, còn lại bao nhiêu mình mua nhà cửa, đất đai, ruộng
vườn. Khi đó, mình sẽ là ông
chủ một gia tài đồ sộ, và
sẽ cưới một cô vợ trẻ xinh đẹp. Sau khi đứa con đầu lòng được sinh
ra đời, mình sẽ dẫn vợ con về thăm thầy, cho quy y làm đệ tử Phật.
Nghĩ như thế xong, trong lòng chú
tiểu mừng vô hạn, bỗng dưng cô vợ trượt chân té, thằng bé đang bồng trên
tay kháu khỉnh rơi xuống đất, khóc
bù lu bù loa, tức quá, không
kìm hãm được
cơn giận, chú sẵn trên tay cầm cây quạt khỏ lên đầu vợ liền mấy cái,
đã bảo mà, đi
không nhìn trước ngó sau gì hết, để con
bị té như vậy, đàn bà gì mà không ý tứ chút nào”.
Bỗng nhiên, chú nghe một giọng nói điềm đạm, “con đang gõ lên
đầu thầy, con có thấy không?”
Giật mình, chú tiểu tỉnh
lại giấc chiêm bao mà sám hối xin thầy tha thứ tội lỗi.
Câu chuyện
trên đã nói lên tâm ý của con người lúc nào cũng toan tính, tham muốn đủ
thứ, suy nghĩ hết chuyện này lại đến chuyện kia; vì chúng ta cho rằng tâm này là ta, là mình, nên ta nói, ta suy nghĩ đủ
thứ. Chú tiểu đang đứng hầu thầy mà tâm tư cứ tưởng nghĩ đâu đâu,
chẳng khác nào loài vượn khỉ đang chuyển cành. Cho nên, Phật dạy, tâm suy tư
nghĩ tưởng là vô thường không thật có, khi ta nhìn lại thì thấy nó mất tiêu.
Bởi tâm ý con người vô thường thay đổi, nên mình mới tu được; còn nếu tâm
con người không thay đổi được thì trước sau như một, làm sao mình tu tập được và cũng
chẳng cần tu để làm gì? Vì có tu nó cũng như vậy, không thể thay
đổi được, chúng ta vẫn suốt đời, suốt
kiếp sống trong vô minh, phiền
não mà thôi.
Trong cuộc sống, chúng ta ít nhiều
ai cũng có thể cảm nhận được rằng, tâm này là vô thường. Cho nên, vua Trần
Thái Tông, một vị Thiền sư đời nhà Trần, Việt Nam nói về tâm suy nghĩ như sau: Nghiệp căn ý
là nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng, mắc mứu tình trần, kẹt tâm
chấp tướng như tằm kéo kén, càng buộc càng bền, như bướm lao đèn,
tự thiêu tự đốt.
Chúng ta ai cũng nghĩ hết chuyện
này đến chuyện nọ, nào là buồn, thương, giận, ghét, khen chê, đúng
sai, phải quấy, tốt xấu, lo lắng đủ thứ, khi thì điên đảo vọng tưởng, nghĩ mình
là trung tâm của vũ trụ, nên khi có quyền hành trong tay thì muốn”
bình thiên hạ”, do đó
vua Trần Thái Tông mới nói:
Nghĩ vơ nghĩ vẫn, không lúc nào dừng.
Tâm đã suy nghĩ lăng xăng, còn cho
mình là ta, là tôi, nên
dính mắc, chấp
trước vào đó, và còn
cho rằng cái hay suy nghĩ của mình là nhất thiên hạ. Đôi khi, chúng ta suy
tư, nghĩ
tưởng muốn vỡ tung cái đầu,
mà vẫn cứ suy nghĩ hoài không để nó yên; đó là ta tự
chuốt hoạ vào thân như con tằm kéo kén, càng buộc càng bền, rồi rốt
cuộc rồi bị
người ta cho vào nồi nước sôi.
Cái hay suy nghĩ, tính toán, phân biệt hơn
thua đủ thứ hết luôn thay đổi trong từng phút giây, mới vừa buồn khóc đó, chưa ráo nước
mắt liền vui vẻ khi gặp người thân, mới giận liền thương. Trong một ngày, có hàng trăm
cái hay suy nghĩ như vậy, có khi nghĩ điều thiện lành, tốt
đẹp như Phật, có lúc nghĩ điều xấu, ác
giống như cọp sói.
Tâm niệm của chúng ta lúc nào cũng luôn
thay đổi không dừng, vì thế đức Phật mới nói, tâm suy tư
nghĩ tưởng là vô thường,
đã vô thường mà cứ nhận lầm mình là ta, là tôi; từ đó, ai
không đồng quan điểm với mình thì chống đối lẫn nhau, dẫn đến thù
hằn, ghét
bỏ, rồi tìm cách giết hại
nhau.
Phật dạy, “chúng ta thấy rõ tâm vô thường để mọi người đồng
cảm thông với nhau, ai cũng có cái suy nghĩ riêng của mình, nên không ai
giống ai. Do suy nghĩ và quan niệm không hợp nhau, sinh ra oán giận, thù hận và chống đối lẫn
nhau. Trong gia đình, con
cái không biết kính trên nhường dưới, vợ chồng không vui vẻ, hoà thuận,
chỉ vì chấp trước cho rằng tư tưởng của mình là đúng, không ai
nhường nhịn ai.
Chúng ta vẫn biết, tâm vô thường
không phải là gươm đao hay súng đạn, nhưng nó có thể giết chết mình vì bất đồng
quan điểm, giết chết mình trong
từng ý niệm. Một ý nghĩ vừa dấy lên, muốn
lấy trộm đồ của người khác, nếu ta không biết kịp thời ngăn dừng, thì bao tai
họa sẽ bắt đầu ập đến bởi tâm
tham lam của mình.
Chính vì vậy, người Phật tử
chân chính phải biết tu ngay nơi ý nghĩ ban đầu vừa mới chớm lên, để chuyển
hoá chúng trở về bản thể ban đầu. Chúng ta chỉ cần điều phục ngay nơi tâm ý
của mình, bằng
cách nghĩ điều có lợi cho
người và vật, nên
duy trì và tiếp tục phát huy.
Những suy
nghĩ làm tổn hại cho người vật thì mình tìm
cách chuyển hóa, không
cho chúng phát
sinh; tu như
vậy thì mọi người sẽ được bình yên, hạnh
phúc ngay tại đây và bây giờ, khỏi mong cầu đâu xa.
TỰ
TẠI KHI BIẾT VÔ THƯỜNG
Trên
đời này, không có gì hạnh phúc cho bằng khi ta đang đứng trước lằn
tên, mũi đạn, mà vẫn bình
tĩnh, an
nhiên, tự
tại. Một vị Thiền sư đã
nói trước lúc ngài bị
hành hình:
Đưa đầu kề gươm bén,
Giống như chém gió xuân.
Chúng ta thấy, vị Thiền sư
đó quá ư là hạnh phúc.
Đứng trước cái chết sờ sờ trước mặt mà Thiền sư vẫn bình tĩnh, ung dung, coi
như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nếu ai sống được như vậy thì có gì
phải lo lắng và sợ hãi, dù cho tám gió thổi tới cũng không làm gì được Thiền sư, vì Ngài đã như
như bất động.
Cư sĩ Bàng Long Uẩn trước kia làm quan
theo nghiệp nho, sau có dịp tham cầu Phật pháp, liễu ngộ sự vô thường
của cuộc sống, nên ngài
quyết chí tu hành
cầu giác ngộ, giải
thoát, ngài
sống một đời rất đơn giản và thanh bần.
Ông có một vợ và hai đứa con, một
trai, một gái. Sau khi đốn ngộ lý nhiệm mầu của Phật pháp không
ngoài thân này, không tìm cầu đâu xa, ông trở về nhà, đem hết tài
sản, của
cải đổ xuống sông Tương, hằng ngày cùng cô con gái chẻ tre, đan sọt mang
ra chợ bán. Vợ ông cùng đứa con trai để lại chút đất làm ruộng nuôi thân qua ngày,
không màng đến công danh sự nghiệp. Cho nên, thế gian có bài thơ khen tặng và ca ngợi gia đình
ông như sau:
Có con trai không cưới vợ,
Có con gái không lấy chồng,
Cả nhà đều sống hoà hợp,
Cùng nhau nói lời vô sanh.
Đúng là chuyện khó tin nhưng mà có thật,
hiếm thấy trong cuộc đời này, ít có gia đình nào mà cả nhà đều
rũ bỏ hết danh lợi, sống
đời thanh bần, trong
sạch, đem giáo lý giác ngộ, giải
thoát ứng dụng vào đời sống hàng ngày mà làm gương cho hậu thế.
Người đời vì không biết, nên tham lam, sân hận, si mê, cái gì cũng
muốn giành lấy về cho riêng mình, sẵn sàng tán tận lương tâm, làm điều
xằng bậy, không biết nhân quả, nghiệp báo, tội phước là gì.
Bàng Long Uẩn là một ông quan có quyền thế,
danh lợi đầy đủ, mà lại dám
bỏ hết tất cả để sống đời đơn giản, thanh bần, trong sạch, và còn
hướng dẫn cho cả gia đình cùng tu theo. Cho nên, có con trai
không cho lấy vợ, có con gái không cho lấy chồng, để cùng nhau sống đời giác ngộ, giải thoát.
Nhiều người ở thế gian vì tiếc nuối
tài sản, của
cải, nên
nói rằng, “tại sao
ông không đem tài sản đó để bố thí, giúp
đỡ nhiều người khác, mà đổ
hết xuống sông Tương như vậy quá phí phạm, trong khi nhiều người rất
cần nó vì đang thiếu thốn, khó khăn?” Việc này,
chúng ta phải hiểu theo ý sâu xa của nó, khi con người sống với bản tâm
chân thật thì không màng đến danh lợi, của cải vật chất, vì nó là
nguyên nhân dẫn đến mọi khổ đau trong cuộc đời.
Đến khi sắp tịch, ông bảo cô Linh
Chiếu-con gái
của ông ra xem thử mặt
trời đúng ngọ chưa, rồi
vào cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa, “mặt trời đúng ngọ, nhưng có nguyệt thực”. Ông ra cửa
xem. Linh
Chiếu lên toà của ông ngồi kiết già, chấp
tay thị tịch. Ông
vào xem thấy, cười
nói, “con gái
ta lanh lợi quá!” Ông
bèn chậm lại bảy ngày sau.
Châu mục Vu Công đến thăm bệnh ông. Ông bảo, “chỉ mong các
cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian
đều như bóng vang”. Nói xong, ông nằm gác đầu trên gối Vu
Công mà thị tịch.
Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay. Bà nói, “con gái ngu si
và ông già vô tri không báo tin mà đi, sao lại ngớ ngẩn vậy?” Bà ra báo
tin cho con trai đang làm ruộng biết,
“ba con và Linh Chiếu đi rồi”.
Người con trai đáp, “dạ, con biết rồi”, rồi đứng lặng
thinh giây lâu, liền tịch tại chỗ. Bà nói, “lại thêm một
thằng ngu si nữa”. Lo mai táng con
xong, bà từ biệt họ hàng thân thuộc rồi biệt tích luôn, không ai biết
bà đi về đâu.
Đây là một câu chuyện hy hữu, hiếm có từ
trước đến nay, có
thật trong Thiền sử Trung Hoa, gia đình cư sĩ Bàng Long Uẩn là một
tấm gương sáng chói, đáng để cho chúng ta học tập và noi theo. Sau khi
thấu suốt lý vô thường, ông quyết chí cầu đạo giác ngộ và giải thoát., nhưng dưới
hình thức là một người cư sĩ tại gia, nhưng tâm hạnh thì của người
xuất gia. Cốt chuyện này nói lên tinh thần bình đẳng trong tu tập, người tại
gia vẫn có phần giác ngộ giải thoát nếu tu đúng lời Phật dạy, bởi ai cũng có tính
biết sáng suốt ngay nơi thân này, chỉ cần chúng ta quyết chí là được.
Như ở
Việt Nam, chúng
ta vẫn có Ngài Tuệ Trung thượng sĩ đó, trước lúc ra đi vẫn an nhiên tự tại, để ta thấy mọi người
đều có phần, chỉ vì
chúng ta chẳng chịu thừa nhận mà thôi. Muốn được như vậy, ông phải bỏ hết
tất cả tài sản, của
cải, vật
chất, không còn bận tâm, vướng mắc, sống đời đơn giản để dễ dàng tu
hành. Nhờ vậy, cả gia đình ông đều ngộ đạo, làm chủ được sự sống
chết, bình thản ra đi một cách an nhiên, tự tại.
Thưa quý thiện hữu tri thức, chúng ta
học những lời Phật dạy, ai cũng biết thân và tâm đều vô thường, còn
hoàn cảnh và vạn vật có vô thường hay không? - Cũng vô
thường.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment