"Phàm phu nghĩ đến
tham, sân, si, mạn, đọa trong tam ác đạo. Tâm tham
nặng nề sẽ biến thành ngạ quỷ, tâm sân hận
nặng nề sẽ đọa địa ngục, tâm ngu
si nặng nề sẽ biến thành súc sanh..."
Phần
8
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập dịch kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí
Húc chú giải vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng
thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù
ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Phật Đà
Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
(Giải) Bất vị
Kiến Tư loạn, cố cảm biến hóa thân Phật,
cập chư thánh chúng hiện tiền, tâm bất phục khởi,
Sa Bà giới trung, tam hữu điên đảo, vãng sanh
Đồng Cư, Phương Tiện, nhị chủng Cực
Lạc thế giới.
(解)不為見思亂。故感變化身佛。及諸聖眾現前。心不復起。娑婆界中。三有顛倒。往生同居方便。二種極樂世界。
(Giải: Chẳng bị
Kiến Hoặc và Tư Hoặc làm loạn, nên cảm
được thân biến hóa của Phật và các vị
thánh hiện tiền. Do tâm chẳng còn dấy lên ý niệm
điên đảo thuộc về ba cõi trong thế giới
Sa Bà, nên người ấy sẽ sanh vào hai cõi Đồng
Cư và Phương Tiện trong thế giới Cực Lạc).
Đoạn
văn chú giải này nói tới quả báo thù thắng nhất
của sự niệm Phật. Trong phần kinh văn ở
trên có một đoạn ghi: “Kỳ
nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư
thánh chúng hiện tại kỳ tiền. Thị nhân chung thời,
tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di
Đà Phật Cực Lạc quốc độ” (Khi người
ấy lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước
mặt. Khi người ấy mất, tâm chẳng điên đảo,
liền được sanh về cõi nước Cực Lạc
của A Di Đà Phật). Khi người ấy lâm chung, A
Di Đà Phật và các vị thánh chúng đến trước
mặt tiếp dẫn. “Bất
vị Kiến Tư sở loạn” (chẳng bị Kiến
Hoặc, Tư Hoặc nhiễu loạn), câu này trọng yếu
nhất. Nếu chẳng đạt tiêu chuẩn này, sẽ
chẳng thể vãng sanh. Lúc bình thường, đối với
pháp thế gian và Phật pháp luôn có thể chẳng khởi
tâm, chẳng động niệm, tức là chẳng bị cảnh
giới nhiễu loạn, sẽ quyết định vãng
sanh. Công phu này là “năng cảm” (chủ thể tạo ra sự
cảm ứng), Phật đến tiếp dẫn là “sở
cảm” (điều được cảm ứng). Trong tâm
chẳng còn có [những vọng niệm thuộc về] “tam hữu” của thế giới
Sa Bà nữa. “Tam hữu” là Dục
Giới Hữu, Sắc Giới Hữu, và Vô Sắc Giới
Hữu. Nói cách khác, hết thảy cảnh duyên trên trời
hay trong cõi người đều chẳng động tâm
thì sẽ có thể sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư và
cõi Phương Tiện Hữu Dư.
(Giải)
Bất vị Nhị Biên loạn, cố cảm
thụ dụng thân Phật, cập chư thánh chúng hiện
tiền, tâm bất phục khởi sanh tử, Niết Bàn
nhị kiến điên đảo, vãng sanh Thật Báo, Tịch
Quang nhị chủng Cực Lạc thế giới.
(解) 不為二邊亂。故感受用身佛。及諸聖眾現前。心不復起生死涅槃二見顛倒。往生實報寂光二種極樂世界。
(Giải: Chẳng bị
Nhị Biên nhiễu loạn nên cảm được thân
thụ dụng của Phật và các vị thánh hiện tiền,
tâm chẳng còn khởi lên hai món kiến giải điên
đảo sanh tử và Niết Bàn nên sanh về hai cõi Thật
Báo và Tịch Quang của thế giới Cực Lạc).
Người
vãng sanh được thấy Hóa Thân hay là Báo Thân, A Di
Đà Phật trọn chẳng phân biệt, đấy là do
hạnh nguyện của chúng sanh niệm Phật cảm thành.
Chúng sanh có cảm, Phật sẽ có ứng. Cảm ứng đạo
giao, pháp vốn sẵn như thế. Điều này cũng
cho thấy “sanh thì quyết
định sanh, đi thì thật sự chẳng đi”.
Niệm đến Lý nhất tâm thì đức Phật hiện
ra tiếp dẫn khi lâm chung là Báo Thân Phật. “Tâm bất
phục khởi sanh tử, Niết Bàn nhị kiến
điên đảo” (Tâm chẳng còn khởi lên hai món kiến giải
điên đảo là sanh tử và Niết Bàn), sanh tử là
một bên, còn Niết Bàn là bên kia, người ta thường
có ý niệm phân biệt ấy, ngỡ thế giới Sa Bà là
bên này, còn Cực Lạc là bên kia. Niệm đến Lý nhất
tâm thì những ý niệm ấy đều chẳng còn nữa,
tâm thật sự thanh tịnh, có thể sanh về cõi
Thật Báo và Thường Tịch Quang của Tây
Phương.
(Giải)
Đương tri chấp trì danh hiệu, ký giản dị,
trực tiệp, nhưng chí đốn, chí viên, dĩ niệm
niệm tức Phật cố, bất lao quán tưởng,
bất tất tham cứu, đương hạ viên minh, vô
dư, vô khiếm.
(解) 當知執持名號。既簡易直捷。仍至頓至圓。以念念即佛故。不勞觀想。不必參究。當下圓明。無餘無欠。
(Giải: Hãy nên biết rằng: Chấp trì danh hiệu tuy
đơn giản, dễ dàng, thẳng chóng, mà lại viên
đốn tột bậc, bởi mỗi niệm chính là Phật,
chẳng nhọc công quán tưởng, chẳng cần phải
tham cứu, mà ngay trong khi niệm Phật ấy bèn viên minh,
chẳng thừa, chẳng thiếu).
Một câu Phật hiệu là pháp môn đại tổng
trì của toàn thể Phật pháp, không chỉ là hết thảy
pháp do Phật Thích Ca đã nói trong một đời Ngài mà
thậm chí vô lượng pháp môn của mười
phương ba đời hết thảy chư Phật
đều chẳng lìa khỏi một câu A Di Đà Phật.
Do vậy, A Di Đà Phật là pháp môn thù thắng bậc nhất
để mười phương ba đời hết thảy
chư Phật độ chúng sanh thành tựu Phật đạo.
Phải là pháp “đơn giản, dễ dàng ai cũng có thể
tu được” thì mới có thể gọi là “bậc nhất”. “Chí viên, chí đốn”, “đốn” (頓) là nhanh chóng siêu thoát, từ địa
vị phàm phu liền thành Phật. “Chí viên” là viên mãn đến cùng cực. Khi tôi mới
học Phật, các đồng tham đạo hữu thảo
luận pháp, có nêu ra một câu hỏi: “Nếu một chúng
sanh tạo tội cực nặng lập tức phải đọa
vào tam đồ, Phật có năng lực siêu độ kẻ
ấy ngay lập tức hay chăng? Nếu không có năng
lực thì vạn đức vạn năng chỉ là mỹ
từ ca ngợi Phật, chứ không phải là thật”.
Sau khi đọc kinh Tịnh Độ, tôi mới biết đức
Phật quả thật có năng lực ấy. Quán Kinh nói
kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác lâm chung mười niệm
hoặc một niệm đều có thể vãng sanh, đã
vãng sanh sẽ chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái, nhanh chóng đến cực điểm, viên mãn đến
cực điểm. Vấn đề là có tin hay không! Kinh Đại
Thừa nói “hết thảy pháp
từ tâm tưởng sanh”, niệm niệm tưởng
Phật thì Phật sẽ hiện tiền. Phàm phu nghĩ đến
tham, sân, si, mạn, đọa trong tam ác đạo. Tâm tham
nặng nề sẽ biến thành ngạ quỷ, tâm sân hận
nặng nề sẽ đọa địa ngục, tâm ngu
si nặng nề sẽ biến thành súc sanh. Người niệm
Phật niệm niệm duyên theo Phật, khởi lên sự
cảm ứng đạo giao với Tây Phương Cực
Lạc, sẽ có hy vọng sanh về Tây Phương.
(Giải) Thượng
thượng căn, bất năng du kỳ khổn. Hạ
hạ căn diệc năng trăn kỳ vực. Kỳ sở
cảm Phật, sở sanh độ, vãng vãng thắng tấn,
diệc bất nhất khái. Khả vị: Hoành cai bát giáo,
thụ triệt ngũ thời. Sở dĩ triệt để
bi tâm, vô vấn tự thuyết, thả thâm thán kỳ nan
tín dã.
(解) 上上根。不能踰其閫。下下根亦能臻其域。其所感佛。所生土。往往勝進。亦不一概。可謂橫該八教。豎徹五時。所以徹底悲心。無問自說。且深歎其難信也。
(Giải: Bậc thượng thượng căn chẳng thể
vượt ngoài cửa ải này, mà kẻ hạ hạ
căn cũng có thể đạt đến cảnh giới
ấy, [do công phu tu tập của mỗi người mà] đối
với mỗi tầng cấp
công phu cảm được đức Phật và cõi nước
sẽ sanh về lại càng thù thắng hơn, cũng chẳng
nhất loạt giống nhau[1].
Có thể nói là [pháp môn Tịnh Độ] theo chiều ngang
bao trùm tám giáo, theo chiều dọc thấu triệt năm
thời. Do vậy, [đức Phật] vì tâm bi triệt
để, chẳng ai hỏi mà tự nói, lại còn khen ngợi
sâu xa pháp này khó tin).
Khổn
(閫) có nghĩa là phạm vi. Chữ
“thượng thượng
căn” chỉ Đẳng Giác Bồ Tát, như ngài Văn
Thù, ngài Phổ Hiền, phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ trong hội Hoa Nghiêm. “Hạ
hạ căn” là chúng sanh trong địa ngục, bao gồm
chín pháp giới chẳng còn sót, đều bình đẳng phổ
độ, bình đẳng thành tựu. Còn như công phu tu học
của mỗi người tuy sâu hay cạn [khác nhau], nhưng
hễ sanh về Tây Phương đều được
bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia
trì, thân thể, tướng hảo, quang minh, trí huệ, thần
thông, đức năng đều giống như A Di
Đà Phật, thật chẳng thể nghĩ bàn. Có thể
nói là “hoành cai bát giáo, thụ triệt
ngũ thời” (theo chiều ngang trùm khắp tám giáo, theo
chiều dọc thấu triệt năm thời). Các vị
đại đức thuở xưa đã chia giáo pháp trong cả
một đời Phật Thích Ca thành “hóa nghi tứ giáo” và “hóa
pháp tứ giáo”. Trong hóa pháp (giáo pháp được phân loại
theo nội dung giảng dạy) có Tạng, Thông, Biệt và
Viên, trong hóa nghi (phương thức giáo hóa chúng sanh) thì có Đốn,
Tiệm, Bí Mật, Bất Định. “Thụ triệt ngũ thời”: Những giáo pháp
do đức Phật đã nói trong bốn mươi chín năm
được chia thành “năm thời” (năm giai đoạn
hóa độ) là Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát
Nhã và Pháp Hoa - Niết Bàn. Một câu A Di Đà Phật gồm
trọn năm thời tám giáo chẳng thừa, chẳng thiếu.
Do tâm bi triệt để, đức Phật nói pháp môn này,
không ai hỏi mà tự nói, quả thật khó tin.
(Giải) Vấn: Quán Kinh chuyên
minh tác quán, hà vị bất lao quán tưởng?
Đáp:
Thử nghĩa tức xuất Quán Kinh. Bỉ kinh nhân thắng
quán phi phàm phu tâm lực sở cập, cố ư đệ
thập tam, biệt khai liệt tượng chi quán, nhi
chướng trọng giả, do bất năng niệm bỉ
Phật, cố ư đệ thập lục, đại
khai xưng danh chi môn. Kim kinh nhân mạt thế chướng
trọng giả đa, cố chuyên chủ đệ thập
lục quán. Đương tri nhân căn tuy độn, nhi
trượng lục, bát xích chi tượng thân, Vô Lượng
Thọ Phật chi danh tự, vị thường bất “tâm
tác, tâm thị”. Cố quán liệt giả, bất lao thắng
quán, nhi xưng danh giả, tịnh bất lao quán tưởng
dã.
(解) 問。
觀經專明作觀。何謂不勞觀想。答。此義即出觀經。彼經因勝觀非凡夫心力所及。故於第十三。別開劣像之觀。而障重者。猶不能念彼佛。故於第十六。大開稱名之
門。今經因末世障重者多。故專主第十六觀。當知人根雖鈍。而丈六八尺之像身。無量壽佛之名字。未嘗不心作心是。故觀劣者。不勞勝觀。而稱名者。並不勞觀想
也。
(Giải: Hỏi: Quán Kinh chuyên giảng về
cách quán tưởng, sao [ở đây] lại nói “chẳng
phải nhọc công quán tưởng?”
Đáp:
Nghĩa này vốn lấy từ Quán Kinh. Kinh ấy do thấy
tâm lực của phàm phu chẳng thể kham nổi phép Quán
thù thắng nên trong phép Quán thứ mười ba đã dạy
riêng cách quán tượng Phật thấp kém[2].
Nhưng kẻ chướng nặng vẫn chẳng thể
niệm đức Phật ấy [bằng phương pháp
Quán Tưởng Niệm Phật] nên trong phép Quán thứ
mười sáu, mở rộng môn xưng danh. Do trong đời
Mạt, kẻ chướng nặng đông đảo mà kinh
này chuyên chú nơi phép Quán thứ mười sáu. Hãy nên biết
rằng: Căn tánh của con người tuy chậm lụt,
nhưng thân tướng tượng Phật cao trượng
sáu hoặc tám thước và danh hiệu Vô Lượng Thọ
Phật chưa bao giờ chẳng phải là “tâm này làm Phật,
tâm này là Phật”. Vì thế, người quán tượng Phật
thấp kém thì chẳng nhọc sức tu tập pháp quán
tưởng thù thắng, còn người xưng danh thì chẳng
cần phải mất công quán tưởng).
Đây
là lời vấn đáp do đại sư đặt ra nhằm
phá trừ nỗi ngờ vực của chúng ta. Có người
hỏi: “Quán Kinh chuyên nói cách
Quán Tưởng Niệm Phật, vì sao lại chẳng nhọc
công quán tưởng?” Hãy nên biết rằng [ý nghĩa]
“chẳng nhọc công quán tưởng” rút từ Quán Kinh. Từ
phép Quán thứ nhất là phép Quán mặt trời lặn giống
như cái trống treo cho đến phép quán thứ mười
hai đều là Quán Tưởng Niệm Phật, chúng ta do
tâm lực phàm phu sẽ chẳng thể quán thành tựu được.
Đơn giản nhất là phép Quán đầu tiên, khi mặt
trời lặn xuống bên núi, [trông giống] như cái trống
treo, mở mắt thấy mặt trời, nhắm mắt
cũng thấy mặt trời, đó là cách Quán đơn
giản nhất. Từ đấy trở đi, mỗi tầng
sau phức tạp hơn tầng trước, trọn chẳng
phải là những điều chúng sanh trong thời Mạt
Pháp có thể thực hiện được. Trí Giả đại
sư tu Quán thành công, Ngài sống vào đời Đường,
vẫn còn thuộc thời kỳ Tượng Pháp. Pháp Quán
thứ mười ba là Quán Tượng Niệm Phật, quán
thân tử kim cao một trượng sáu, tượng bằng
đất đắp hay gỗ khắc đều được,
hằng ngày nhìn tượng Phật, in vào trong óc. Trong nhà người
tu hành có phòng thờ Phật, người ấy có đại
phước báo, chẳng cần phải làm việc, cuộc
sống có kẻ chăm sóc, cung phụng, hằng ngày nhìn tượng
Phật. Hễ rời khỏi tượng Phật, công phu
bị gián đoạn. Phép Quán thứ mười sáu, tức
phép Quán sau cùng, là trì danh niệm Phật, trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ đều có thể niệm
Phật, chẳng bị hạn chế bởi hoàn cảnh,
công phu chẳng gián đoạn. Trong thời kỳ Mạt
Pháp, chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, chẳng thể
quán tưởng thành tựu được, [mà cũng] không
có phước báo quán tượng. Do vậy, đức Phật
mở ra pháp môn Niệm Phật, đơn giản, dễ
hành, thù thắng khôn sánh. Những người chỉ dựa
vào một câu Phật hiệu mà thành tựu thì trong Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện chỗ nào
cũng có. Quán tưởng, quán tượng, trì danh đều
là “tâm tác, tâm thị”. “Tâm tác”
là “thị tâm tác Phật” (tâm
này làm Phật), “tâm thị”
là “thị tâm thị Phật”
(tâm này là Phật), đạo lý tương đồng.
(Giải) Vấn: Thiên Kỳ,
Độc Phong chư Tổ, giai chủ tham “niệm Phật
giả thị thùy”. Hà vị bất tất tham cứu?
Đáp:
Thử nghĩa tức xuất Thiên Kỳ chư Tổ. Tiền
Tổ nhân niệm Phật nhân bất khế Thích Ca triệt
để bi tâm, cố bàng bất cam, trực hạ cật
vấn, nhất mãnh đề tỉnh, hà chỉ trường
dạ phục đán. Ngã bối chí kim nhật, do bất khẳng
tử tâm niệm Phật, khổ dục chấp xao môn ngõa
tử, hướng ốc lý đả thân sanh gia nương, tắc ư chư Tổ
thành ác nghịch, phi thiện thuận dã.
(解) 問。天奇毒峰諸祖。皆主參念佛者是誰。何謂不必參究。答。此義即出天奇諸祖。前祖因念佛人不契釋迦徹底悲心。故傍不甘。直下詰問。一猛提醒。何止長夜復旦。我輩至今日。猶不肯死心念佛。苦欲執敲門瓦子。向屋裡打親生爺娘。則於諸祖成惡逆。非善順也。
(Giải: Hỏi: Các vị Tổ Thiên Kỳ và Độc
Phong đều chủ trương tham cứu câu “người
niệm Phật là ai?”, sao lại bảo là chẳng cần
phải tham cứu?
Đáp:
Nghĩa này phát xuất từ ngài Thiên Kỳ và các vị Tổ
khác. Các Tổ đời trước do thấy người
niệm Phật chẳng khế hợp tâm bi triệt để
của Phật Thích Ca, nên ở bên cạnh chẳng đành
lòng, phải vặn hỏi ngay câu ấy để mạnh
mẽ đánh thức [người niệm Phật], chứ
đâu phải chỉ là muốn làm cho họ chấm dứt
đêm dài bất giác, sáng suốt trở lại? Bọn
chúng ta cho đến nay vẫn chẳng chịu chết
lòng niệm Phật, cứ khổ sở muốn cầm
hòn ngói gõ cửa ấy để chọi cha mẹ ruột
đang ở trong nhà, như vậy là đã trở thành kẻ
ác nghịch đối với chư Tổ, chứ có phải
là kẻ vâng thuận đâu!)
Thiên Kỳ và Độc Phong đều
là các vị tổ sư trong Thiền Tông. Thiên Kỳ là Bổn
Thụy thiền sư, Độc Phong là Bổn Thiện
thiền sư[3].
Hai ngài chủ trương tham cứu câu “người niệm Phật là ai?” Cổ nhân gọi
đó là Thiền Tịnh Song Tu. Đại sư thật sự
có kiến địa, đã hiểu rõ thấu triệt ý Tổ
nên mới có thể nói ra những lời này. Người
ta thường chỉ nghe rồi bèn hiểu nghĩa theo mặt
chữ, chứ thật sự chẳng biết “ý nằm ngoài lời”, nghe lầm
ý nghĩa lời nói [của chư Tổ nhà Thiền]. Các vị
ấy trông thấy người niệm Phật chẳng có
niềm tin thật sự, nguyện thiết tha, chẳng
thể chết sạch lòng mong ngóng, khiêm hư sát đất
niệm Phật cầu được vãng sanh, cô phụ bi
tâm triệt để của Phật Thích Ca.
“Cố bàng bất cam” là trông thấy
cảnh ấy chẳng đành lòng. Đức Thế Tôn đã
đem pháp môn tu hành thành Phật của chính mình giãi bày hết
cả ra, hoàn toàn nói ra, chẳng giấu diếm mảy may
nào. Như trong phần trên đã nói, các kinh điển Đại
Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa giống như trăng mười
bốn, còn kinh này do đức Phật tuyên dạy bằng
lòng Bi triệt để thì mới là trăng rằm. Các vị
Tổ như Thiên Kỳ trông thấy mọi người tuy
y giáo phụng hành, nhưng chẳng biết “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”
nên mới nói ra câu ấy, hỏi người niệm Phật
là ai. Ngữ Lục [của ngài Thiên Kỳ] chép như thế
này: Ngài Thiên Kỳ dạy đại chúng, nói: “Suốt ngày niệm Phật, chẳng
biết toàn thể là Phật. Nếu chẳng biết thì
chỉ khán câu người niệm là ai?” Vặn hỏi
thẳng thừng bằng câu ấy để mạnh mẽ
lay tỉnh, hy vọng nhờ câu nói ấy mọi người
sẽ đột nhiên khai ngộ, chứ trọn chẳng
phải là bảo quý vị hãy kiếm xem người niệm
Phật là ai! Tự mình niệm Phật mà còn hỏi người
niệm Phật là ai thì chẳng phải là nói giỡn ư?
“Hà chỉ trường dạ phục
đán”: “Trường dạ
phục đán” là nói tỷ dụ, chúng sanh từ vô thỉ
đến nay do một niệm bất giác, tạo sanh tử
luân hồi [ví như ở mãi trong đêm dài, nên nói là “trường dạ”]. Tổ sư
dùng một câu nói để mạnh mẽ đánh thức họ,
phá vô minh, thấy được bổn tánh, thì gọi là “phục đán” (trời sáng trở
lại). [“Hà chỉ trường
dạ phục đán” nghĩa là] đâu phải chỉ
nhằm phá mê, khai ngộ! Nếu
chỉ nhằm phá mê khai ngộ thì có phải là không bằng
tham cứu hay sao? Đây chính là trực tiếp chỉ dạy
hành giả hãy cầu sanh Tịnh Độ. Người thật
sự thấy tánh giác ngộ, không một ai chẳng cầu
sanh Tịnh Độ. Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh,
Long Thọ đều là những bậc đại Bồ
Tát minh tâm kiến tánh mà vẫn cầu sanh về Tịnh
Độ, vì cầu sanh Tịnh Độ sẽ thành tựu
nhanh chóng. Chẳng sanh về Tịnh Độ thì sau khi
minh tâm kiến tánh, kinh Hoa Nghiêm nói tu đến khi thành Phật
phải mất vô lượng kiếp, đó là lời thật.
Đức Thế Tôn nói “thành Phật phải mất ba
đại A-tăng-kỳ kiếp” là nói quyền biến,
chứ nói nhiều hơn sợ chúng sanh sẽ ngã lòng.
Người thật sự hiểu rõ, có ai muốn đi
theo con đường oan uổng? Như chúng ta là kẻ
chưa phá được một phẩm Kiến Tư phiền
não nào, sau khi sanh về Tây Phương,
chẳng đầy bốn kiếp sẽ thành Phật. Bởi
lẽ, A Di Đà Phật thành Phật đến nay chưa
đầy mười kiếp, nhưng trong kinh dạy: “Chúng sanh sanh giả, giai thị A
Bệ Bạt Trí, kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ
Xứ, kỳ số thậm đa” (Chúng sanh sanh về đó,
đều là bậc Bất Thoái Chuyển, trong ấy có nhiều
vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, số ấy rất đông).
Đủ thấy rằng: Số lượng thượng
thiện nhân chiếm quá nửa, đều là thành tựu
trong vòng mười kiếp, chiếm đại đa số
trong những người sống tại Tây Phương. Vì
thế, sanh về Tây Phương thành Phật chẳng lâu
hơn bốn kiếp.
Hiện
thời, chúng ta vẫn chẳng chịu dứt hết tâm
niệm mong ngóng, khiêm hư sát đất niệm Phật,
vẫn mong nghiên cứu những kinh điển thuộc pháp
môn khác, chính là lầm lẫn rất lớn. “Xao môn chi ngõa” tức là vật
dùng để gọi cửa, tục gọi là “xao môn chuyên” (viên gạch để
gõ cửa). Trước thời Kháng Chiến còn có thói quen:
Nhà người giàu sang có đến mấy lớp cửa,
gọi cửa bên ngoài, người bên trong không nghe tiếng,
nên khách phải dùng một viên đá nhỏ để đập
cửa. Do bi tâm triệt để, Phật Thích Ca dạy
chúng ta hãy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, người
học Phật vốn phải tuân theo lời thầy dạy
bảo mà chuyên tâm niệm Phật, chứ không phải là dốc
sức tham cứu trong khi niệm Phật. Nay thì học trò
hiểu lầm ý thầy, sẽ giống như dùng hòn gạch
gõ cửa để ném chủ nhà vậy.
(Giải) Tấn vấn: Thử
tại khẳng tâm giả tắc khả, vị khẳng
giả hà đắc tương ứng?
Viết: Y! Chánh duy vị
khẳng. Sở dĩ, yếu nhĩ khẳng tâm
tương ứng. Nhữ đẳng chánh tín vị khai,
như sanh ngưu bì, bất khả khuất chiết.
Đương tri hữu mục giả, cố vô nhật
hạ nhiên đăng chi lý, nhi vô mục giả, diệc hà
tất ư nhật trung khổ mịch đăng cự.
Đại Thế Chí Pháp Vương Tử vân: “Bất giả
phương tiện, tự đắc tâm khai”. Thử Nhất
Hạnh tam-muội trung, đại hỏa tụ ngữ
dã. Cảm
hữu xúc giả, ninh bất bị thiêu?
(解) 進問。此在肯心者則可。未肯者何得相應。曰噫。正唯未肯。所以要你肯心相應。汝等正信未開。如生牛皮。不可屈折。當知有目者。固無日下燃燈之理。而無目者。亦何必於日中苦覓燈炬。大勢至法王子云。不假方便。自得心開。此一行三昧中。大火聚語也。敢有觸者。寧不被燒。
(Giải: Lại hỏi cao hơn nữa,
điều này đối với người chịu dốc
lòng niệm Phật thì được, chứ đối với
người chưa chịu thì làm sao [tâm người ấy]
tương ứng [với tâm Phật] cho được?
Đáp: Ôi chao! Chính là vì kẻ
chưa chịu [dốc lòng niệm Phật, mà nói những
lời ấy]. Do vậy, tôi [nói những lời ấy] nhằm
làm cho các ông chịu bằng lòng [niệm Phật] hòng
được tương ứng. Cái tâm chánh tín của các
ông chưa sanh khởi, nó giống như miếng da trâu
tươi, không thể xếp hay bẻ gập lại
được. Hãy nên biết rằng: Người có mắt
thì lẽ nào lại thắp đèn dưới ánh mặt trời?
Còn kẻ không có mắt, cũng chẳng phải khổ sở
tìm kiếm đèn đuốc giữa ban ngày! Đại Thế
Chí Pháp Vương Tử nói: “Chẳng cần đến
phương tiện nào khác mà tâm tự được khai
ngộ”. Câu nói này là một đống lửa to trong Nhất
Hạnh tam-muội, có ai dám chạm vào mà chẳng bị nó
đốt ư?)
“Khẳng giả” là người chịu “tử tâm niệm Phật” (“chết
lòng niệm Phật”, ý nói: Đã dứt sạch mọi ý niệm
mong ngóng, so lường, tâm nguội lạnh như đã chết,
chuyên tâm niệm Phật). Nếu có kẻ chẳng chịu
như vậy thì sao? Người đã chịu niệm Phật
thì cần gì quở trách, chỉ vì những kẻ không chịu
chết lòng niệm Phật nên tổ sư mới giáo huấn
họ bằng những câu như thế.
“Đương tri hữu
mục giả, cố vô nhật hạ nhiên đăng chi
lý, nhi vô mục giả, diệc hà tất ư nhật trung
khổ mịch đăng cự” (Người có mắt thì lẽ nào lại
thắp đèn dưới ánh mặt trời? Còn kẻ không
có mắt, cũng chẳng phải khổ sở tìm kiếm
đèn đuốc giữa ban ngày): Từ ngữ “hữu mục giả” (kẻ
có mắt) nhằm sánh ví những người đã sanh lòng
chánh tín, chân tâm, nguyện thiết tha, nhất tâm trì danh. “Vô mục giả” (kẻ không
có mắt) là kẻ chưa sanh lòng chánh tín, điều khẩn
yếu nhất là phải “chết lòng sát đất” niệm
Phật. Trong Tịnh Tông, mười người vãng sanh hết
tám chín vị là lòng chánh tín chưa phát sanh, giống những
ông bà cụ ăn chay chẳng hiểu biết gì, đối
với sự thực lẫn lý luận họ đều
chẳng hiểu gì hết, nhưng họ có thể thành công.
Hãy nên biết rằng: Pháp môn Niệm Phật là pháp môn đại
trí huệ vô thượng, có vô lượng phước huệ
và diệu nghĩa, cần gì phải tìm cầu lý luận và
phương pháp khác. [Hễ tìm cầu] sẽ giống như
giữa ban ngày lại đi kiếm đèn, đuốc! Đại
sư lại trích dẫn một đoạn văn tự từ
kinh Lăng Nghiêm nhằm chứng minh ý nghĩa “chẳng cần
phải tham cứu”: “Nhược
chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền
đương lai, tất định kiến Phật, khứ
Phật bất viễn, bất giả phương tiện,
tự đắc tâm khai” (Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật,
niệm Phật thì trong hiện tại hoặc trong tương
lai, nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng
xa, chẳng nhờ vào phương tiện nào khác mà tâm tự
được khai ngộ). “Bất
giả phương tiện” là chẳng cần nhờ vào
những pháp môn khác như tham cứu, quán tưởng
v.v..., chỉ một câu Phật hiệu là được rồi!
Giống như đống lửa lớn, có kẻ nào dám
chạm vào, làm sao chẳng bị thiêu đốt!
(Giải) Vấn: Lâm chung
Phật hiện, ninh bảo phi ma?
Đáp: Tu tâm nhân bất tác Phật
quán, nhi Phật hốt hiện, phi bổn sở kỳ, cố
danh ma sự. Niệm Phật kiến Phật, dĩ thị
tương ứng, huống lâm chung phi trí ma thời, hà tu
nghi lự?
(解) 問。臨終佛現。寧保非魔。
答。修心人不作佛觀。而佛忽現。非本所期。故名魔事。念佛見佛。已是相應。況臨終非致魔時。何須疑慮。
(Giải: Hỏi: Lâm chung Phật hiện,
há bảo đảm chẳng phải là ma ư?
Đáp: Người tu tâm chẳng
quán Phật mà Phật đột nhiên hiện, vốn không
phải là điều người ấy mong mỏi, nên gọi
là ma sự. Niệm Phật thấy Phật, tức là
tương ứng, huống chi lâm chung chẳng phải là
lúc ma đến, cần gì phải nghi ngờ, lo lắng nữa?)
Kinh Địa Tạng nói
người đời khi lâm chung, thấy người nhà
quyến thuộc đã mất của chính mình [hiện
đến đón tiếp] thì đấy chẳng phải
là thật, mà đều là oan gia trái chủ mạo nhận
người nhà đến đón, hòng tiếp đón, dẫn
dắt người ấy vào ác đạo để trả
thù. Người niệm Phật khi lâm chung Phật đến
tiếp dẫn, có phải là do ma biến hiện hay không? Đại
sư nói: “Người tu tâm chẳng
quán Phật mà Phật đột nhiên hiện ra, vốn
không phải là điều người ấy mong mỏi,
nên gọi là ma sự”. Chữ “người tu tâm” phần nhiều chỉ người
tham Thiền, người ấy bình thường chẳng
niệm Phật, hễ niệm Phật một tiếng phải
súc miệng hai ba ngày. Nếu [kẻ ấy] khi lâm chung Phật
đến tiếp dẫn thì hoàn toàn chẳng phải là điều
người ấy mong mỏi, sợ là ma sự! Người
niệm Phật không giống như vậy, niệm Phật
thấy Phật là chuyện tương ứng. Lâm chung Phật
đến tiếp dẫn là do bổn nguyện của Phật.
Kinh Lăng Nghiêm nói có năm mươi thứ Ấm Ma,
trong mỗi thứ lại có bao nhiêu đó loại, thời
thời khắc khắc vây quanh bên thân người tu hành,
nhưng đối với người niệm Phật thì
ma cũng chẳng thể làm gì được!
(Giải) Vấn: Thất
nhật bất loạn, bình thời da? Lâm chung da?
Đáp: Bình thời dã.
Vấn: Thất nhật bất loạn
chi hậu, phục khởi Hoặc tạo nghiệp, diệc
đắc sanh da?
Đáp: Quả đắc nhất tâm bất
loạn chi nhân, vô cánh khởi Hoặc tạo nghiệp chi sự.
Vấn: Đại Bổn thập niệm,
Bảo Vương nhất niệm, bình thời da? Lâm chung
da?
Đáp: Thập niệm thông nhị thời.
Thần triêu thập niệm, thuộc bình thời. Thập
niệm đắc sanh dữ Quán Kinh thập niệm
xưng danh đồng, thuộc lâm chung thời. Nhất niệm
tắc đản ước lâm chung thời.
Vấn: Thập niệm, nhất niệm
tịnh đắc sanh, hà tu thất nhật?
Đáp:
Nhược vô bình thời thất nhật công phu, an hữu
lâm chung thập niệm, nhất niệm. Túng Hạ Hạ
Phẩm nghịch ác chi nhân, tịnh thị túc nhân thành thục,
cố cảm lâm chung ngộ thiện hữu, văn tiện
tín nguyện. Thử sự vạn trung vô nhất, khởi
khả kiểu hãnh, Tịnh Độ Hoặc Vấn xích
thử tối tường. Kim nhân bất khả bất
độc.
(解) 問。七日不亂。平時耶。臨終耶。
答。平時也。
問。七日不亂之後。復起惑造業。亦得生耶。
答。果得一心不亂之人。無更起惑造業之事。
問。大本十念。寶王一念。平時耶。臨終耶。
答。十念通二時。晨朝十念。屬平時。十念得生。與觀經十念稱名同。屬臨終時。一念。則但約臨終時。
問。十念一念並得生。何須七日。
答。若無平時七日工夫。安有臨終十念一念。縱下下品逆惡之人。並是夙因成熟。故感臨終遇善友。聞便信願。此事萬中無一。豈可僥倖。淨土或問。斥此最詳。今人不可不讀。
(Giải: Hỏi: Bảy ngày chẳng loạn là lúc bình thường
hay lúc lâm chung?
Đáp: Lúc bình thường.
Hỏi: Sau
khi đã đắc bảy ngày chẳng loạn, lại dấy
phiền não, tạo nghiệp thì cũng được vãng
sanh ư?
Đáp:
Nếu là người thật sự đạt được
nhất tâm bất loạn thì không còn có chuyện dấy lên
phiền não, tạo nghiệp nữa!
Hỏi:
Mười niệm trong kinh Đại Bổn và một niệm
trong luận Bảo Vương là nói về lúc bình thường
hay lúc lâm chung?
Đáp:
“Mười niệm” là nói chung cả hai thời điểm
ấy. Mười niệm vào lúc sáng sớm thuộc lúc
bình thường. Mười niệm được vãng
sanh [trong lời nguyện của A Di Đà Phật trong kinh
Vô Lượng Thọ] giống như “mười niệm
xưng danh” [được nói trong chương Hạ Phẩm
Hạ Sanh] của Quán Kinh, đều thuộc về lúc lâm
chung. Còn một niệm [như trong luận Bảo
Vương nói] thì thuộc về lúc lâm chung.
Hỏi:
Mười niệm và một niệm đều được
vãng sanh thì cần gì phải bảy ngày [nhất tâm bất
loạn]?
Đáp: Nếu lúc bình
thường không có công phu bảy ngày [nhất tâm bất loạn]
thì làm sao có mười niệm hay một niệm lúc lâm
chung được? Dẫu là kẻ nghịch ác thuộc Hạ
Hạ Phẩm, đều là do cái nhân trong đời
trước đã chín muồi nên cảm vời khi lâm chung gặp
thiện hữu, vừa nghe nói [về pháp môn Tịnh Độ]
liền tín nguyện. Chuyện này trong một vạn
trường hợp chẳng có được một, há
nên cầu may ư? Sách Tịnh Độ Hoặc Vấn
bài xích quan điểm cầu may này tường tận nhất,
người đời nay chẳng thể không đọc!).
Chúng ta lúc bình thường đả Phật
thất, định thời hạn cầu chứng đắc,
cầu nhất tâm bất loạn. Có kẻ hoài nghi, sau khi đắc
nhất tâm bất loạn thì phiền não lại dấy lên,
tạo nghiệp, thì phải nên làm sao? Đại sư cởi
gỡ mối nghi, dạy: Nếu thật sự đạt
được nhất tâm bất loạn thì sẽ vĩnh
viễn đạt được, chẳng bị mất đi;
chứ không phải là do sức trấn định yếu
ớt, chẳng thể chống chọi những dụ dỗ,
mê hoặc! Nếu tâm lại loạn thì là do trước đó
hoàn toàn chưa đạt được nhất tâm bất
loạn.
Lại có người hỏi: Kinh Vô Lượng
Thọ nói mười niệm, kinh Bảo Vương[4]
nói một niệm, rốt cuộc là nói về lúc bình thường
hay lúc lâm chung? Đại sư trả lời: “Thập niệm thông nhị thời”
(Mười niệm là nói chung cả hai thời điểm
ấy). Người công việc bận rộn đối
với thời khóa buổi sáng dùng cách Thập Niệm, mỗi
ngày thực hiện khóa sáng không thiếu sót thì cũng phù hợp
với lời dạy “nhất
hướng chuyên niệm” trong kinh Vô Lượng Thọ.
Lúc lâm chung, tâm niệm Phật khẩn thiết, tâm sám hối
sâu nặng, có sức mạnh rất lớn, cho nên khi lâm
chung từ một niệm cho đến mười niệm
sẽ được vãng sanh, giống như trường
hợp của ông Trương Thiện Hòa.
Nếu có kẻ nói mười niệm
hay một niệm đều được vãng sanh thì lúc
bình thường cần gì phải niệm Phật? Đại
sư nói, nếu không có công phu bảy ngày lúc bình thường,
làm sao có một niệm hay mười niệm lúc lâm chung cho
được? Có những người đến lúc cuối
cùng mười niệm quyết định vãng sanh, nhưng
cơ duyên này chẳng nhiều! Có kẻ khi lâm chung nghiệp
chướng hiện tiền, chẳng thể niệm Phật
được! Chẳng thể chết tốt lành chính là
phước mỏng, lúc bình thường phải tu phước.
Lâm chung chợt gặp được Phật pháp, nghe xong
liền phát tâm cầu nguyện vãng sanh, chính là do thiện căn,
phước đức nhiều đời nhiều kiếp
hiện tiền, hoàn toàn chẳng phải là ngẫu nhiên. Do
vậy, chúng ta chẳng thể ôm lòng mong được may mắn như
thế. Huống chi lúc lâm chung gặp được thiện
duyên thì phải có đủ ba điều kiện:
- Thứ nhất, khi lâm chung thần trí
sáng suốt.
- Thứ hai, gặp thiện tri thức,
khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ.
- Thứ ba, người ấy vừa
nghe liền có thể tiếp nhận, đồng thời đầy
đủ ba món tư lương Tín - Nguyện - Hạnh.
Dẫu là kẻ ác nghịch Hạ Hạ Phẩm, do túc
nhân chín muồi, nên cảm được [quả báo] lúc lâm
chung gặp thiện hữu. Chuyện này trong một vạn
trường hợp chưa có được một. Sách Tịnh
Độ Hoặc Vấn trong bộ Tịnh Độ Thập
Yếu đã giảng chuyện này rất tường tận,
hy vọng mọi người hãy xem thì mới chẳng mang
lòng cầu may nữa!
(Giải) Vấn: Tây Phương khứ
thử thập vạn ức độ, hà đắc tức
sanh?
Đáp:
Thập vạn ức độ, bất xuất ngã hiện
tiền nhất niệm tâm tánh chi ngoại. Dĩ tâm tánh bổn
vô ngoại cố, hựu trượng tự tâm chi Phật
lực tiếp dẫn, hà nan tức sanh? Như kính trung chiếu
sổ thập tằng sơn thủy, lâu các, tằng số
uyển nhiên, thật vô viễn cận, nhất chiếu
câu liễu, kiến vô tiên hậu. “Tùng thị Tây
Phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu
thế giới danh viết Cực Lạc”, diệc như
thị. “Kỳ độ hữu Phật, hiệu A Di
Đà, kim hiện tại thuyết pháp”, diệc như thị.
“Kỳ nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ
chư thánh chúng, hiện tại kỳ tiền. Thị nhân
chung thời tâm bất điên đảo, tức đắc
vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ”,
diệc như thị. Đương tri, tự tự giai
Hải Ấn tam-muội, Đại Viên Kính Trí chi linh
văn dã.
(解) 問。
西方去此十萬億土。何得即生。答。十萬億土。不出我現前一念心性之外。以心性本無外故。又仗自心之佛力接引。何難即生。如鏡中照數十層山水樓閣。層數宛
然。實無遠近。一照俱了。見無先後。從是西方。過十萬億佛土。有世界名曰極樂。亦如是。其土有佛。號阿彌陀。今現在說法。亦如是。其人臨命終時。阿彌陀佛
與諸聖眾。現在其前。是人終時。心不顛倒。即得往生阿彌陀佛極樂國土。亦如是。當知。字字皆海印三昧。大圓鏡智之靈文也。
(Giải:
Hỏi: Tây Phương cách
đây mười vạn ức cõi, làm sao sanh ngay sang ấy
được?
Đáp: Mười vạn ức cõi chẳng ngoài một
niệm tâm tánh hiện tiền của ta, bởi tâm tánh vốn
chẳng ở bên ngoài. Hơn nữa, cậy vào Phật lực
từ trong tâm tánh tiếp dẫn, khó gì mà chẳng sanh ngay
[sang cõi Cực Lạc]? Giống như trong gương chiếu
mấy chục tầng núi, sông, lầu gác, tầng nào tầng
nấy rành rành, quả thật chẳng có gần hay xa, hễ
vừa soi liền trọn đủ, chẳng thấy có
trước hay sau. “Cách đây mười vạn ức cõi
Phật có thế giới tên là Cực Lạc”, cũng giống
như vậy. “Cõi ấy có Phật, hiệu A Di Đà nay hiện
đang thuyết pháp” cũng giống như vậy. “Khi ấy
người lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện
ra trước mắt. Người ấy khi lâm chung, tâm chẳng
điên đảo, liền được sanh về cõi
nước Cực Lạc của A Di Đà Phật”,
cũng giống như vậy. Hãy nên biết rằng từng
chữ [trong kinh A Di Đà] đều là Hải Ấn tam-muội,
là kinh văn thiêng liêng giảng về Đại Viên Kính Trí).
Ở đây là nghi vấn “khoảng cách
giữa Tây Phương và cõi này xa xôi, làm sao đến ngay được?”
Kinh Đại Thừa giảng mười pháp giới
đều là vật được biến hiện trong tâm
tánh. Tâm tánh là Năng Biến (chủ thể có công năng
biến hiện), mười phương các cõi Phật là
Sở Biến (vật được biến hiện). Tâm
tánh có thể biến hiện vô lượng, cõi nước
được biến hiện (Sở Biến) cũng vô
lượng vô biên. Đức Phật nói Tây Phương Cực
Lạc thế giới cách thế giới Sa Bà chỉ có mười
vạn ức cõi Phật, nếu đem so với tâm tánh vô
lượng thì khoảng cách ấy rất ngắn. Do vậy,
kinh nói người niệm Phật vãng sanh Tây Phương chỉ
trong khoảng khảy ngón tay liền đến nơi. A Di
Đà Phật cũng là A Di Đà Phật trong tự tánh của
chúng ta, trọn chẳng phải là ở ngoài tự tánh lại
có một vị A Di Đà Phật. Tây Phương Cực Lạc
thế giới cũng do tự tánh biến hiện ra. Hơn
nữa, do công đức của bổn nguyện và oai thần
của A Di Đà Phật gia trì, tiếp dẫn, vãng sanh đâu
có khó khăn gì? Nếu hiểu rõ ràng đạo lý căn bản
này thì tất cả đạo lý trong kinh Đại Thừa
hay Tiểu Thừa hễ vừa tiếp xúc đều liền
hiểu ngay. Lại giống như đem một tấm gương
soi sơn thủy bên ngoài, chẳng thể nào vì ở gần
mà chiếu trước, ở xa bèn chiếu sau. Vật hiện
bóng trong gương quả thật chẳng có xa gần. Chư
Phật, Bồ Tát tột cùng hư không, trọn khắp pháp
giới, hễ nghĩ đến nơi đâu liền lập
tức đến được nơi đó. Kinh Hoa Nghiêm
giảng chuyện này rất rõ ràng, do vì chúng ta có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước nên chẳng thể khế
nhập tình huống này. Nếu không có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thì xa gần lớn nhỏ
đều chẳng còn nữa!
Kinh chép: “Kỳ
nhân lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư
thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhân chung thời,
tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di
Đà Phật Cực Lạc quốc độ” (Người
ấy khi mạng sắp hết, A Di Đà Phật và các thánh
chúng hiện ra trước mắt, người ấy khi lâm
chung tâm chẳng điên đảo, liền được
sanh về cõi nước Cực Lạc của A Di Đà Phật).
Đó gọi là vãng sanh; Phật và thánh chúng chẳng đến
mà đến, chẳng đi mà đi. Nói “đến, đi” là dựa theo mặt Sự, nói
“chẳng đến, chẳng
đi” là luận trên mặt Lý.
“Đương tri, tự
tự giai Hải Ấn tam-muội, Đại Viên Kính Trí
chi linh văn dã”: Từng chữ, từng câu trong kinh này đều
là Hải Ấn tam-muội. Chữ “hải” sánh ví sự rộng lớn, cảnh giới
bên ngoài đều chiếu xuống mặt biển, tỷ
dụ tâm tánh, tâm tánh trọn đủ hết thảy pháp
giới, hình dung sâm la vạn tượng và các cảnh sắc
đều soi bóng trong biển cả. Nói theo mặt Sự,
ánh sáng tròn vẹn của tấm gương tròn lớn chiếu
khắp, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
không pháp nào chẳng hiện. Hải Ấn tam-muội biểu
thị Thể của tâm tánh, còn Đại Viên Kính Trí biểu
thị Dụng của tâm tánh. Dụng là không gì chẳng biết,
không pháp nào chẳng hiện, nói rõ từng chữ từng câu
trong kinh này đều là lời văn thiêng liêng diễn tả
Hải Ấn tam-muội và Đại Viên Kính Trí. Hai câu này
nhằm tổng kết, nói rõ địa vị cao vòi vọi
và tánh chất trọng yếu của bản kinh này trong toàn
bộ Phật pháp. Kinh A Di Đà là tinh hoa của kinh Vô Lượng
Thọ, kinh Vô Lượng Thọ là kinh A Di Đà được
giảng chi tiết. Do vậy, tôi đề nghị mọi
người chuyên niệm kinh Vô Lượng Thọ. Căn
tánh con người hiện thời yếu hèn, nếu chỉ
nhìn vào văn tự thì kinh A Di Đà giống như thần
thoại, tiểu thuyết, chẳng nếm được
ý vị.
(Giải) Vấn: Trì danh phán Hành Hạnh,
tắc thị Trợ Hạnh, hà danh Chánh Hạnh?
Đáp:
Y nhất tâm thuyết Tín Nguyện Hạnh, phi tiên hậu,
phi định tam. Cái vô Nguyện Hạnh, bất danh Chân
Tín. Vô Hạnh Tín, bất danh Chân Nguyện. Vô Tín Nguyện,
bất danh Chân Hạnh. Kim toàn do tín nguyện trì danh, cố
Tín Nguyện Hạnh tam, thanh thanh viên cụ. Sở dĩ,
danh “đa thiện căn, phước đức, nhân duyên”.
Quán Kinh “xưng Phật danh cố, niệm niệm trung trừ
bát thập ức kiếp sanh tử chi tội”, thử chi
vị dã. Nhược phước thiện bất đa,
an năng trừ tội như thử chi đại.
(解) 問。
持名判行行。則是助行。何名正行。答。依一心說信願行。非先後。非定三。蓋無願行。不名真信。無行信。不名真願。無信願。不名真行。今全由信願持名。故信
願行三。聲聲圓具。所以名多善根福德因緣。觀經稱佛名故。念念中除八十億劫生死之罪。此之謂也。若福善不多。安能除罪如此之大。
(Giải: Hỏi: Trì danh được phán định thuộc
về Hành Hạnh, thì nó là Trợ Hạnh, chứ sao lại
bảo là Chánh Hạnh?
Đáp: Dựa theo nhất
tâm để nói về Tín - Nguyện - Hạnh thì không có
trước sau, không nhất định phải tách ra thành
ba thứ. Bởi lẽ, không có Nguyện và Hạnh thì chẳng gọi là Chân
Tín. Không có Hạnh và Tín thì chẳng gọi là Chân Nguyện.
Không có Tín và Nguyện thì chẳng gọi là Chân Hạnh. Nay
hoàn toàn do tín nguyện mà trì danh nên trong mỗi tiếng niệm
Phật đều đầy đủ trọn vẹn ba
món Tín - Nguyện - Hạnh. Do vậy, gọi là “nhiều
thiện căn, phước đức, nhân duyên”. Quán Kinh bảo
“do xưng niệm danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm
trừ được tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử” chính là nói về điều này. Nếu phước
thiện chẳng nhiều thì làm sao trừ được
tội to lớn như thế?)
“Trì danh phán Hành Hạnh”
(Trì danh được phán định thuộc về Hành Hạnh)
chính là lời phán định của Ngẫu Ích đại
sư. “Tín Nguyện” được
phán định thuộc về Huệ Hạnh, còn “Hạnh” được phán định
thuộc về Định Hạnh. Do vậy, trong niệm
Phật có cả Định lẫn Huệ. Không ít người
chẳng thèm đổ công sức nơi Tịnh Tông, chẳng
hiểu biết mảy may gì, bảo Niệm Phật là Tiểu
Thừa! Thật ra, Niệm Phật là phép Đại Thừa
nhất trong các pháp Đại Thừa. Hễ hiểu lý thì
niệm một câu Phật hiệu là Đại Thừa, nhưng
chẳng hiểu lý mà niệm một câu Phật hiệu thì
vẫn là Đại Thừa! Thành tựu của người
ấy hết thảy Đại Thừa Bồ Tát đều
chẳng thể sánh bằng, cực viên, cực đốn.
Tín Nguyện là Huệ, trì danh là Hạnh, là học Định
và Huệ cân bằng, từng câu Phật hiệu đều
đầy ắp Định - Huệ, mà còn là viên Định,
viên Huệ.
“Y nhất
tâm thuyết Tín - Nguyện - Hạnh, phi tiên hậu, phi
định tam” (Nếu dựa trên nhất tâm để
luận Tín - Nguyện - Hạnh thì chẳng phải là
trước sau, không nhất định phải tách rời
thành ba thứ): Nhằm nói phương tiện để người
nghe sẽ do đó mà thấy được đường
lối tu hành nên nói “tín, nguyện,
hạnh”. Ba món tư lương này nếu xét trong một
tâm thì trong một niệm, một câu Phật hiệu tương
ứng với Tín, tương ứng với Nguyện, tương
ứng với Hạnh, một tức là ba, ba tức là một.
Đó gọi là “tương ứng”.
Nếu trong khi niệm Phật hiệu mà không có tín nguyện,
sẽ chẳng đầy đủ ba món tư lương,
tức là chẳng tương ứng. Không có Nguyện và Hạnh
thì chẳng gọi là Chân Tín, không có Tín và Hạnh chẳng
phải là Chân Nguyện, không có Tín và Nguyện thì chẳng
phải là Chân Hạnh. Nếu nhất tâm trì danh, nhất tâm
chính là chân tâm, chân tâm chính là Tín - Nguyện - Hạnh trọn
đủ viên mãn. Người nhất tâm niệm Phật thì
ít mà người tam tâm, nhị ý niệm Phật lại nhiều.
Do vậy, người niệm Phật đông đảo,
người vãng sanh ít ỏi. A Lại Da Thức, Mạt Na
Thức, Ý Thức là “tam tâm”.
Mạt Na là Ý Căn, thức thứ sáu là Ý Thức, đấy
là “nhị ý”. Nếu phàm phu
dùng cái tâm “tam tâm nhị ý” để
niệm Phật, trì chú, nghiên cứu giáo lý thì đều chẳng
tương ứng.
Lục Tổ đại sư nói: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn đầy đủ,
nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”. Trong
kinh này, tự tánh được gọi là “nhất tâm”. Mỗi một câu Phật hiệu đầy
đủ trọn vẹn ba món tư lương, Tam Học,
Tam Huệ. Do vậy, gọi là nhiều thiện căn, phước
đức, nhân duyên. Quán Kinh dạy: “Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm
trừ được tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử”. Nếu thiện căn, phước đức
không nhiều, làm sao có thể trừ tội nhiều như
thế được? Đọc kinh này xong, nếu cảm
thấy lời này dường như quá lố, thì hãy quan sát
xem khi niệm Phật, ta dùng tâm tư thái độ nào. Nếu
dùng tam tâm nhị ý để niệm thì sẽ chẳng có
hiệu quả rõ ràng.
(Giải) Vấn: Lâm chung mãnh thiết,
năng trừ đa tội, bình nhật chí tâm xưng danh,
diệc trừ tội phủ?
Đáp: Như nhật xuất, quần
ám tiêu. Xưng hồng danh, vạn tội diệt.
Vấn: Tán tâm xưng danh diệc trừ
tội phủ?
Đáp:
Danh hiệu công đức bất khả tư nghị,
ninh bất trừ tội? Đản bất định
vãng sanh, dĩ du du tán thiện, nan địch vô thỉ tích
tội cố! Đương tri tích tội, giả sử
hữu thể tướng giả, tận hư không giới
bất năng dung thọ. Tuy bách niên trú dạ, Di Đà thập
vạn, nhất nhất thanh diệt bát thập ức kiếp
sanh tử, nhiên sở diệt tội, như trảo
thượng thổ. Vị diệt tội, như đại
địa thổ. Duy niệm chí nhất tâm bất loạn,
tắc như kiện nhân đột vi nhi xuất, phi phục
tam quân năng chế nhĩ. Nhiên xưng danh tiện vi thành
Phật chủng tử, như kim cang chung bất khả hoại.
Phật thế, nhất lão nhân cầu xuất gia, ngũ
bách thánh chúng giai vị “vô thiện căn”. Phật ngôn: “Thử
nhân vô lượng kiếp tiền, vị hổ bức, thất
thanh xưng nam-mô Phật. Kim thử thiện căn thành thục,
trị ngã đắc đạo, phi Nhị Thừa đạo
nhãn sở tri dã”. Do thử quán chi, Pháp Hoa minh “quá khứ Phật
sở, tán loạn xưng danh, giai dĩ thành Phật”, khởi
bất tín tai?
(解) 問。
臨終猛切。能除多罪。平日至心稱名。亦除罪否。答。如日出。群闇消。稱洪名。萬罪滅。問。散心稱名亦除罪否。答。名號功德。不可思議。寧不除罪。但不定往
生。以悠悠散善。難敵無始積罪故。當知積罪。假使有體相者。盡虛空界。不能容受。雖百年晝夜。彌陀十萬。一一聲。滅八十億劫生死。然所滅罪。如爪上土。未
滅罪。如大地土。唯念至一心不亂。則如健人突圍而出。非復三軍能制耳。然稱名便為成佛種子。如金剛終不可壞。佛世一老人求出家。五百聖眾皆謂無善根。佛
言。此人無量劫前為虎偪。失聲稱南無佛。今此善根成熟。值我得道。非二乘道眼所知也。由此觀之。法華明過去佛所。散亂稱名。皆已成佛。豈不信哉。
(Giải: Hỏi: Khi lâm chung mạnh mẽ, thiết tha, có thể
trừ được nhiều tội, chứ lúc bình
thường chí tâm xưng danh thì cũng trừ được
tội ư?
Đáp:
Như mặt trời mọc, mọi tối tăm đều
tiêu. Xưng hồng danh, vạn tội diệt.
Hỏi:
Tâm tán loạn xưng danh cũng trừ được tội
ư?
Đáp: Công đức xưng danh chẳng thể
nghĩ bàn, lẽ nào chẳng trừ được tội?
Nhưng không nhất định được vãng sanh, bởi
lẽ điều lành hờ hững tán loạn sẽ khó
thể chống lại tội lỗi tích tập từ vô
thỉ. Hãy nên biết rằng tội lỗi đã tích tập
nếu có thể tướng thì cùng tận cõi hư không chẳng
thể chứa đựng được. Dẫu suốt
cả trăm năm, mỗi ngày đêm niệm Di Đà
mười vạn tiếng, mỗi một tiếng diệt
tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử,
nhưng tội đã diệt giống như đất
đọng trên móng tay, còn tội chưa diệt giống
như đất trong đại địa. Chỉ trừ
niệm Phật đến nhất tâm bất loạn sẽ
giống như người mạnh mẽ đột phá
vòng vây xông ra, ba quân chẳng còn có thể khống chế
người ấy; nhưng xưng danh sẽ là hạt giống
thành Phật, như kim cang trọn chẳng thể hủy hoại. Trong thời đức
Phật, một cụ già xin xuất gia, năm trăm vị
thánh nhân đều nói cụ không có thiện căn. Đức
Phật dạy: “Trong vô lượng kiếp trước, người này bị hổ
đuổi, lạc giọng xưng nam-mô Phật, đến
nay thiện căn ấy chín muồi, gặp ta, đắc
đạo, đạo nhãn của Nhị Thừa chẳng
thể biết được!” Do đây có thể thấy
rằng kinh Pháp Hoa nói người trong quá khứ, ở chỗ
Phật, tán loạn xưng danh đều đã thành Phật,
há chẳng tin ư?)
Có người hỏi: Khi lâm chung, ý niệm
dũng mãnh, tâm nguyện khẩn thiết, trì danh dễ đạt
đến nhất tâm, chứ lúc bình thường trong tâm tản
mạn, chẳng thể tập trung sức mạnh tinh thần,
chẳng sốt sắng như lúc trong lúc khẩn yếu gặp
nguy nan, tâm hời hợt hờ hững mà cũng có thể
trừ được tội hay chăng? Đại sư
dùng tỷ dụ để trả lời, như mặt trời
mọc lên, hết thảy tối tăm đều chẳng
còn. Niệm hồng danh Phật thì hết thảy tội
chướng đều tiêu diệt. Nhưng cần phải
chú ý câu hỏi của người này: Lúc bình thường
chí tâm xưng danh cũng có thể trừ tội hay chăng?
Chí tâm chính là nhất tâm, đương nhiên trừ được
tội.
Lại hỏi: Tâm tán loạn xưng
danh cũng trừ được tội hay chăng? Tâm tán
loạn ở đây chẳng phải là nhất tâm. Đại
sư đáp: Dùng tâm tán loạn, tam tâm nhị ý để niệm
Phật thì cũng trừ được tội, nhưng
chẳng chắc chắn sẽ vãng sanh, tùy theo lúc lâm chung có
thể chí tâm hay không? Do vậy, bình thường dùng chí tâm để
niệm Phật thì lâm chung nhất định sẽ được
vãng sanh, có nắm chắc vãng sanh hay không chẳng cần phải
người nào khác, chính mình phải tự biết. Nếu
thật sự chí tâm xưng niệm thì cần phải mất
bao lâu mới đạt được hiệu nghiệm?
Trong Vãng Sanh Truyện, trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục,
ước chừng ba năm, người ngồi mất,
đứng qua đời rất đông. Trong thời gần
đây, người ba năm thành tựu cũng chẳng
ít. Lão pháp sư Đàm Hư nói: Cụ Đế Nhàn có một
vị đồ đệ làm thợ đóng đai thùng, niệm
Phật ba năm, biết trước lúc mất, đứng
vãng sanh. Chúng ta niệm mấy chục năm, một chút
tin tức cũng không có, đại khái đều là do dùng
cái tâm tán loạn để niệm Phật.
Nếu có người nói: “Niệm Phật ba
năm sẽ chết
thì pháp môn
này chẳng thể học được!” Đủ
thấy người ấy vẫn còn có rất nhiều
tham ái đối với thế giới Sa Bà. Tín nguyện đã không thật,
hạnh cũng chẳng khẩn thiết, chỉ đành mặc
kệ họ. Nếu thật sự muốn được
vãng sanh thì phải buông xuống vạn duyên, suốt ngày từ
sáng đến tối nắm chắc một câu Phật hiệu,
những chuyện khác hãy tùy duyên tùy phận là xong. Từ
đời đời kiếp kiếp trong vô lượng
kiếp đến nay chúng ta đều niệm Phật,
nhưng từ đầu đến cuối chẳng thể
thành tựu, chính mình chẳng tìm ra nguyên nhân. Đại
sư nói: “Dĩ du du tán thiện,
nan địch vô thỉ tích tội cố” (Bởi lẽ,
điều lành hờ hững tán loạn sẽ khó thể
chống lại tội lỗi tích tập từ vô thỉ). “Tội lỗi
tích tập từ vô thỉ” chính
là tham, sân, si, mạn, tập khí, vọng tưởng, chấp
trước. Nếu nhất tâm niệm Phật thì tập
khí ấy chẳng thể hiện hành, tâm vô nhị dụng,
khuất phục phiền não, công phu thành phiến. Từ
khuất phục phiền não cho đến đoạn phiền
não thì gọi là Sự nhất tâm, có chín phẩm, khuất
phục là Hạ Hạ Phẩm, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng
Cư. Đoạn được phiền não thì là Thượng
Thượng Phẩm, sanh vào cõi Phương Tiện Hữu
Dư. Nếu chẳng thể khuất phục phiền
não, ý niệm tham, sân, si vẫn thường khởi lên thì
phải đau đáu sám hối, tự thẹn trách sâu xa. Được
vãng sanh hay không là do chính mình quyết định.
Tội nghiệp đã tích tụ từ
vô lượng kiếp đến nay nếu có thể tướng
thì tận hư không khắp pháp giới đều chẳng
thể chứa đựng được. Nếu có người
niệm Phật, mỗi ngày niệm mười vạn tiếng,
ngày đêm không ngừng, niệm liên tiếp cả trăm
năm chẳng gián đoạn, mỗi một tiếng diệt
được trọng tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử thì tội đã diệt giống như đất
bám trên móng tay, tội chưa diệt như đất trên đại
địa. Lời này là thật, trọn chẳng phải
khoa trương! Nếu sanh về Tây Phương thì vấn
đề này liền được giải quyết, chẳng
thể sanh về Tây Phương sẽ phiền phức rất
lớn, tùy theo nghiệp mà lưu chuyển trong sáu nẻo luân
hồi. Nghiệp nào mạnh sẽ lôi đi trước,
thác sanh vào đường nào là do chính mình nghĩ tưởng
đến đường đó. Người có ý niệm
Ngũ Giới mạnh mẽ, tuân thủ nhân luân đạo
đức, sẽ bảo đảm giữ được
thân người. Ý niệm Thập Thiện, từ, bi, hỷ,
xả mạnh mẽ thì đời sau sanh vào cõi trời, nhưng
loại người như vậy đã ít lại càng ít hơn,
còn kẻ tạo tham, sân, si, mạn thì nhiều, tương
lai đọa lạc trong tam đồ. Thời gian trong tam
đồ quá dài, thật đáng sợ! Kinh Lăng Nghiêm và
kinh Địa Tạng giảng tình hình trong địa ngục
rất tường tận. Địa ngục như bẫy
ngầm, trong thế gian có rất nhiều, hễ chẳng
cẩn thận sẽ rớt xuống đó.
Trong nhiều đời nhiều kiếp đã tạo
vô lượng vô biên ác nghiệp, như bị ba quân tầng
tầng lớp lớp bao vây, chỉ có một phương
pháp là đột phá vòng vây, nhờ vào công phu niệm Phật,
đới nghiệp vãng sanh là có thể xông ra khỏi vòng
vây. Quan trọng nhất là nhất tâm, “bất loạn” là
chẳng bị hết thảy hoàn cảnh nhiễu loạn,
tám gió chẳng thể thổi động được.
Đã bất loạn đối với pháp thế gian mà
đối với Phật pháp vẫn chưa buông xuống
được, vừa tham Thiền vừa học Mật
thì tương lai vẫn luân hồi trong sáu nẻo, lại
còn chẳng đạt được ba đường
lành.
“Xưng danh” là hạt
giống kim cang thành Phật. Khi Phật tại thế, có một
cụ già xin xuất gia, các vị A La Hán đệ tử Phật
đều có thần thông, có thể thấy được
năm trăm đời, quán thấy cụ già ấy trong
cả năm trăm đời chẳng có thiện căn
nên chẳng chấp thuận lời cụ cầu thỉnh, cụ già khóc lóc không chịu ra đi. Cuối
cùng, đức Phật gọi cụ già ấy lại, bảo
các đệ tử: “Cụ già này trong vô lượng kiếp
trước, từng làm tiều phu, ở trên non bị hổ
đuổi, cọp dồn đến nỗi phải trèo lên
cây, trong lúc kinh hãi, gào to một tiếng “nam-mô Phật”. Do nhân duyên ấy, đời này gặp
Phật đắc độ. Huệ nhãn của hàng Thanh
Văn Nhị Thừa chẳng thấy được [điều
này]. Trong kinh Pháp Hoa đã nêu lên một câu chuyện, há chẳng
đáng tin ư? Từ xưa đến nay, thời đại
lâu xa, người thuở ấy tuy vô tâm niệm một tiếng
Phật hiệu, đến nay gặp duyên thành tựu. Chúng
ta tùy duyên tùy phận, dùng câu Phật hiệu này để kết
duyên niệm Phật cùng chúng sanh.
(Giải)
Phục nguyện truy tố trí ngu, ư thử giản dị
trực tiệp, vô thượng viên đốn pháp môn, vật
thị vi nan, nhi triếp sanh thoái ủy, vật thị vi dị,
nhi mạn bất sách cần, vật thị vi thiển, nhi
vọng trí miểu khinh, vật thị vi thâm, nhi phất cảm
thừa nhậm. Cái sở trì chi danh hiệu, chân thật bất
khả tư nghị; năng trì chi tâm tánh, diệc chân thật
bất khả tư nghị, trì nhất thanh, tắc nhất
thanh bất khả tư nghị. Trì thập, bách, thiên, vạn,
vô lượng, vô số thanh, thanh thanh giai bất khả
tư nghị dã.
(解) 伏願緇素智愚。於此簡易直捷。無上圓頓法門。勿視為難。而輒生退諉。勿視為易。而漫不策勤。勿視為淺。而妄致藐輕。勿視為深。而弗敢承任。蓋所持之名號。真實不可思議。能持之心性。亦真實不可思議。持一聲。則一聲不可思議。持十百千萬無量無數聲。聲聲皆不可思議也。
(Giải: Kính xin kẻ
áo thâm, người áo trắng, kẻ trí, người ngu,
đối với pháp môn đơn giản, dễ dàng, thẳng
chóng, vô thượng viên đốn này, đừng nghĩ
là khó rồi liền sanh lòng thoái thác, đừng thấy là
dễ dàng rồi chần chừ chẳng siêng gắng,
đừng ngỡ là nông cạn để rồi đến
nỗi lầm lạc coi thường, đừng nghĩ
pháp này quá sâu đến nỗi chẳng dám đảm
đương. Bởi lẽ, danh hiệu được
trì chân thật chẳng thể nghĩ bàn, tâm tánh trì niệm
danh hiệu ấy cũng chân thật chẳng thể
nghĩ bàn. Trì một tiếng thì một tiếng chẳng
thể nghĩ bàn, trì mười, trăm, ngàn, vạn, vô
lượng vô số tiếng thì mỗi tiếng đều
chẳng thể nghĩ bàn).
Ở đây, đại sư buốt lòng rát miệng
khuyên dạy chúng ta. “Truy” (緇) chỉ
người xuất gia mặc áo nhuộm thâm, “tố” (素) chỉ
người tại gia. Tại Ấn Độ vào thời
cổ, người ngoài đời mặc y phục màu trắng.
“Trí” là người có học,
hoặc kẻ thông minh có tài trí. “Ngu”
là những ngu phu ngu phụ không biết chữ. Pháp môn trì
danh niệm Phật này ai cũng có thể niệm được,
đơn giản, dễ dàng, chính là pháp môn vô thượng
viên đốn; nhưng cũng đừng nên nghĩ pháp này
quá dễ dàng, khởi tâm coi thường. Rất nhiều người
nghĩ kinh A Di Đà là nông cạn, coi thường, chẳng
chịu tu học. Năm 1982, tôi đến Mỹ, có nhiều
đồng tu bảo tôi: “Ở nước Mỹ, ngàn vạn
phần đừng giảng pháp môn Niệm Phật kẻo
bị người ta chê cười. Mọi người đều
giảng Thiền, giảng Mật”. Do vậy, thoạt đầu
tôi đến Mỹ thường giảng khẩu đầu
Thiền, nhằm hàng phục những kẻ học Thiền,
sau đấy tôi lại giảng Mật vì tôi theo học dưới
tòa của Chương Gia đại sư ba năm, hiểu
biết nội dung Mật Tông khá nhiều, bọn họ dùng
cách nào cũng không gạt tôi được! Sau đấy,
tôi mới đem pháp môn Tịnh Độ giới thiệu
cho họ. Bọn họ không tiếp nhận mà cũng chẳng
dám nói một câu nào phản đối. Đồng thời,
tôi lại mang từ Đài Loan sang bộ băng thâu âm bài
giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao nhiều tới ba trăm
ba mươi cuốn, mọi người chẳng dám chê
kinh Di Đà là nông cạn nữa. Cũng chớ nên nghĩ
pháp môn này quá sâu. Trên thực tế, pháp môn này là cảnh giới
nơi quả địa Phật, chỉ có Phật với
Phật mới có thể hiểu rốt ráo, chứ chúng
sanh trong chín pháp giới chẳng thể thấu hiểu được.
Chín giới bao gồm Đẳng Giác Bồ Tát, Đẳng
Giác Bồ Tát ắt phải được Phật gia trì
thì mới có thể thấu hiểu được. Nhưng
trên mặt Sự, pháp này hết sức dễ dàng, không một
pháp môn nào vừa dễ dàng vừa đơn giản bằng
niệm Phật. Thực hiện được bốn chữ
“tín nguyện trì danh” thì sẽ
thành công. Trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, trừ điều
này ra, bất cứ suy tưởng gì cũng đều chẳng
có. Đấy là tín nguyện trì danh.
Lại nữa,
danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn, tâm
tánh trì danh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tín nguyện
trì danh là chân tâm, mà cũng là nhất tâm, công đức của
nó chẳng thể nghĩ bàn. Chân tâm là Năng Cảm, còn Phật,
Bồ Tát là Sở Cảm. Nói theo mặt Lý, A Di Đà Phật
là đức hiệu của Chân Như bổn tánh hư không
pháp giới. Nói theo mặt Sự thì là danh hiệu bổn
nguyện công đức của A Di Đà Phật. “Trì một tiếng thì một tiếng
chẳng thể nghĩ bàn, trì mười, trăm, ngàn, vạn,
vô lượng, vô số tiếng thì mỗi tiếng đều
chẳng thể nghĩ bàn”. Đối với đoạn
văn này, cổ đức nói nó bao gồm ba thứ trọng
yếu:
1) Đức Phật được
niệm là “cảnh yếu”.
2) Cái tâm niệm Phật là “tâm yếu”.
3) Năng và Sở chẳng hai, tâm và Phật
giống hệt như nhau là “pháp môn yếu”.
[Ở đây] “yếu”
có nghĩa là “diệu”, huyền
diệu tột bực chẳng thể nghĩ bàn. Ba thứ
tâm, cảnh và pháp môn đều chẳng thể nghĩ bàn.
Tác phẩm Yếu Giải của đại sư cũng
chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng trách Ấn Quang đại
sư đề cao tột bậc sách Yếu Giải của
Ngẫu Ích đại sư. Nếu học Phật mà nắm
được cương lãnh, y giáo phụng hành, những
lợi ích đạt được trước khi vãng
sanh hoàn toàn chẳng thể do tu các pháp môn khác mà đạt được.
Thân tâm thanh tịnh, cái thấy rõ là mạnh khỏe, sống
lâu, hạnh phúc, sung sướng sẽ ngay lập tức đạt
được. Người đời mong cầu mãnh liệt
mà chẳng được, còn người niệm Phật
sẽ có thể cầu được.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị
lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu
chúng sanh, văn thị thuyết giả, ưng
đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
(Giải)
“Ngã kiến” giả, Phật nhãn sở kiến, cứu tận
minh liễu dã. “Thị lợi” giả, hoành xuất ngũ
trược, viên tịnh tứ độ, trực chí bất
thoái vị tận, thị vi “bất khả tư nghị công
đức chi lợi” dã.
(經) 舍利弗。我見是利。故說此言。若有眾生。聞是說者。應當發願。生彼國土。
(解) 我見者。佛眼所見。究盡明了也。是利者。橫出五濁。圓淨四土。直至不退位盡。是為不可思議功德之利也。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi ấy
nên nói lời này. Nếu có chúng sanh nghe nói như vậy, hãy
nên phát nguyện sanh về cõi nước ấy.
Giải: “Ngã kiến” là mắt Phật thấy
thấu suốt đến cùng tận. “Thị lợi” là
[những điều lợi như] vượt khỏi cõi
Ngũ Trược theo chiều ngang, thanh tịnh trọn vẹn
bốn cõi Tịnh Độ, đạt thẳng đến
các địa vị Bất Thoái viên mãn. Đấy là “điều
lợi chẳng thể nghĩ bàn về mặt công đức”
vậy).
Đây là lần thứ hai đức Phật
khuyên người nghe hãy nên phát nguyện. Câu “ngã kiến thị lợi” này
khẩn yếu nhất. Thích Ca Mâu Ni Phật chính mắt thấy
được điều lợi ích thù thắng này, thấy
y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương thế giới,
người vãng sanh bất luận là ai, dẫu là chúng sanh
từ ác đạo [sanh về Cực Lạc] cũng đều
chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Hết thảy
các cõi Phật không có điều này, do điều này nên Phật
mới khuyến khích chúng ta hãy nên vãng sanh. Trong lời chú giải,
đại sư lại nói: “Ngã
kiến (ta thấy) là mắt Phật thấy thấu suốt
đến cùng tận”. Trong mười pháp giới, con người
thường nghĩ mình rất thông minh, thấy chuyện
gì cũng đều thấy rất thấu triệt, nhưng
chẳng thể sánh bằng chư thiên; chư thiên thấy
rõ ràng hơn chúng ta. Thiên nhãn chẳng bằng huệ nhãn của
A La Hán. Huệ nhãn của A La Hán chẳng bằng pháp nhãn của
Bồ Tát. Pháp nhãn của Bồ Tát chẳng bằng Phật
nhãn. Đức Phật ngũ nhãn viên minh, thấy gì cũng
đều rốt ráo viên mãn. Đức Phật thấy [do
pháp môn Niệm Phật mà chúng sanh] “vượt khỏi đời ngũ trược
theo chiều ngang, thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi Tịnh
Độ, cho đến chứng đắc trọn vẹn
các địa vị Bất Thoái”, đấy là điều
lợi chẳng thể nghĩ bàn về mặt công đức.
1) Lục đạo phàm phu muốn
thoát ly tam giới hết sức khó khăn. Chúng ta hãy quán
sát kỹ càng, bao nhiêu người tu hành trong thế gian có trí
huệ và công phu tu hành rất cao, rốt cuộc đều
chẳng thoát khỏi tam giới, là vì lẽ nào? Do Kiến
Tư phiền não chẳng dễ gì đoạn được!
Đức Phật dạy lục đạo luân hồi là
do Kiến Tư phiền não mà có, chỉ cần có Kiến
Tư là sẽ chẳng ra khỏi luân hồi. Tiểu Thừa
Tứ Quả A La Hán đoạn được Kiến Tư,
vượt thoát luân hồi. So với Tứ Quả, Tam Quả
chưa đoạn sạch phiền não nên không thể vượt
thoát lục đạo. Công phu, trí huệ của các vị ấy
tốt đẹp, tu hành trong Tứ Thiền Thiên, đoạn
được Kiến Tư mới thoát khỏi tam giới.
Nhằm nói cho thuận tiện, đức Phật đã
quy nạp các phiền não thành mười loại lớn, tức
năm loại Kiến Hoặc và năm loại Tư Hoặc.
Kiến Hoặc là kiến giải sai lầm, thứ nhất
là Thân Kiến, coi thân là Ngã, sai rồi, thân là cái ta có. Chẳng
hạn như y phục, y phục là thứ ta có, hoàn toàn chẳng
phải là ta. Thứ hai là Biên Kiến, chấp trước
vào hai bên, nói theo cách bây giờ là “tương đối luận”, chúng ta luôn sống
trong không gian tương đối, hoàn toàn chẳng phải
là chân thật. Nếu nói tới chân thật thì là Nhất
Chân pháp giới. Ngoài Nhất Chân pháp giới, mười pháp
giới đều là tương đối. Ngoài ra, còn có
hai thứ thường được gọi là “thành kiến”: Một là đối
với quả, chẳng phải là quả mà coi là quả;
hai là đối với nhân, chẳng phải là nhân mà tính là
nhân. Ở đây, nói riêng biệt từng điều như
sau:
Thứ ba là Kiến Thủ Kiến, chẳng phải quả
mà coi là quả. “Kiến” (見) là kiến giải chủ quan. “Thủ” (取) là chấp trước, chấp
trước ý kiến chủ quan không chánh xác của chính
mình, như các tôn giáo khác cho rằng sanh lên trời là “vĩnh
sanh” (sự sống đời đời). Trên thực tế,
tuy chư thiên thọ mạng rất dài, vẫn có lúc kết
thúc, hoàn toàn chẳng rốt ráo. Đó chính là thành kiến.
Trời vốn là hữu lậu, họ ngộ nhận cõi
trời là diệu quả. Đây chính là “chẳng phải
quả mà ngỡ là quả”.
Thứ tư là Giới Cấm Thủ
Kiến, chẳng phải nhân mà coi là nhân. “Giới” (戒) là tánh giới[5],
chẳng hạn như giết, trộm, dâm, “cấm” (禁) là ngăn cấm,
như uống rượu, ăn thịt. Gìn giữ giới
cấm vốn là thiện pháp, vì sao lại xếp vào loại
“chẳng phải là chánh kiến”? Lỗi ở chỗ chấp
trước giữ chặt. Có một loại ngoại đạo
tu hành giỏi giang, đắc Thiên Nhãn Thông, thấy trâu, chó
sanh lên trời bèn tưởng học theo lối sống của
trâu và chó sẽ được sanh lên trời, chẳng hề
biết trâu, chó sanh lên trời là do nguyên nhân nào. Lâu dần
trở thành một thứ tà môn ngoại đạo, đây
gọi là “chẳng phải nhân mà coi là nhân”.
Thứ năm là Tà Kiến. Phàm là tri kiến bất
chánh như chẳng tin luân hồi, chẳng tin vào nhân quả
báo ứng, chẳng tin vào Thánh Ngôn Lượng, đều
thuộc về đại tà kiến, chướng ngại
lợi ích thù thắng của bản thân. Chính mình không tin thì
cũng được đi, lại còn khuyên người khác
chẳng tin, tạo tội Vô Gián địa ngục. Trong tám
nạn có Thế Trí Biện Thông, phần nhiều là phần
tử trí thức cao cấp, họ còn có những luận điệu
thiên chấp, tà vạy, tương lai dẫn dắt người
khác cùng vào địa ngục, thật là đáng thương!
Tư Hoặc cũng gồm năm loại
lớn là tham, sân, si, mạn, nghi. Nghi ở đây là chuyên hoài
nghi thánh giáo. Năm thứ này cộng với năm thứ
Kiến Hoặc vừa nói trên đây, được gọi
chung là “Kiến Tư Nhị Hoặc”. Người Tiểu
Thừa đoạn được Kiến Tư Nhị Hoặc,
Phật nói [điều ấy] giống như “cắt đứt
dòng chảy rộng bốn mươi dặm”, hết sức
khó khăn! Trong kinh nói đoạn được Kiến
Hoặc bèn chứng Sơ Quả Tu Đà Hoàn của Tiểu
Thừa, phải sanh tử trong cõi trời và nhân gian bảy
lần thì mới đoạn được Tư Hoặc.
Con người tuổi thọ ngắn ngủi, cõi trời
tuổi thọ dài, tốn một thời gian dài bao lâu mới
đoạn được? Quả thật không có cách nào tính
toán được! Trong kinh nói “để thành Phật, phải
mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp”, nhưng [thời
gian ấy] phải tính từ ngày đoạn được
Kiến Hoặc. Hễ đoạn được Kiến
Hoặc thì là thánh nhân; tuy chưa ra khỏi tam giới, nhưng
chẳng đọa trong tam đồ. Tiểu Thừa Sơ
Quả Tu Đà Hoàn gọi là Nhập Lưu, tức là “dự
vào hàng thánh nhân”. Phương pháp tu
học của Tiểu Thừa chẳng xảo diệu
như Đại Thừa, nhất là [so sánh giữa Tiểu
Thừa với] Thiền Tông. Thiền Tông tuy hay khéo, nhưng
người đạt được sự hay khéo ấy
cũng phải là bậc thượng căn lợi trí, chứ
không phải những kẻ thông thường mà hòng học
được. Do vậy, kém xa Tịnh Tông!
Trong phần trước, tôi nói tới
cõi trời, kinh Phật giảng tường tận nhất.
Ở đây, tôi bổ sung đại lược. Chẳng
hạn như Tứ Thiền Thiên, Tứ Không Thiên đều
ở trong tam giới, tuy thọ mạng rất dài, nhưng
vẫn có sanh tử. Có người tưởng hễ sanh
lên trời thì sẽ sống đời đời, ngỡ
khái niệm ấy tương tự như chuyện nhập
Niết Bàn trong Phật pháp. Cần biết rằng: Các tầng
trời Tứ Thiền, Tứ Không vẫn có sanh diệt,
hoàn toàn chẳng phải là rốt ráo. Đức Phật nói
có hai mươi tám tầng trời, nhân của mỗi tầng
khác nhau, quả cũng khác nhau. Chỉ tu Thập Thiện
thượng phẩm sẽ có thể sanh vào trời Tứ
Vương Thiên và Đao Lợi Thiên. Nếu lại muốn
sanh lên trời Dạ Ma mà chỉ tu Thập Thiện thì không
được, còn phải có công năng Thiền Định.
Dục Giới có tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ nghỉ.
Từ Sơ Thiền trở lên, không những chẳng có Ngũ
Dục về mặt Sự, mà ý niệm [tham luyến Ngũ
Dục] cũng chẳng có. Nếu vẫn còn có ý niệm,
thì công năng Thiền Định ấy đáng gọi là
“chưa đắc Định”, chẳng thể sanh lên trời
Sơ Thiền, chỉ có thể sanh lên bốn tầng trời
phía trên của Dục Giới. Nếu hiểu rõ sự thật
này thì Thiền quả thật là khó tu. Nếu vẫn còn ý
niệm Ngũ Dục thì còn chưa sanh lên được
[các cõi trời] thuộc Sắc Giới, há có phần sanh vào
Tứ Thiền, Tứ Không ư? Tứ Thiền Bát Định
là Thiền Định thế gian, Định của hàng
phàm phu mà còn chưa đạt được, làm sao đắc
công năng Thiền Định của Thanh Văn, Bồ
Tát? Nhà Phật nói bậc thượng căn lợi trí có
thể đoạn phiền não mới có đủ tư cách
học Thiền; chứ kẻ không thể khuất phục
phiền não thì học Thiền sẽ là chuyện nói xuông! Tịnh
Tông đới nghiệp vãng sanh, không cần đoạn phiền
não, chỉ cần tạm thời khuất phục phiền
não bèn có thể vãng sanh. Phật nhãn đích thân thấy được
điều này, do vậy nói: “Ngã
kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn” (Ta
thấy được điều lợi ấy nên nói lời
này). Hết thảy chư Phật độ chúng sanh liễu
sanh tử, thoát tam giới, trong một đời viên mãn vô
thượng Bồ Đề, chỉ có pháp môn Niệm Phật
này. Nếu chẳng chịu tiếp nhận thì dù tinh tấn
nơi Phật pháp, chẳng biết đến đời
nào mới có thể đắc độ! Đời này có
duyên gặp gỡ Phật pháp, chính là thiện căn, phước
đức sâu dày từ vô lượng kiếp [cảm nên];
nếu bỏ lỡ đời này, chắc là vô lượng
kiếp sau mới lại gặp gỡ pháp môn này. Sanh tử
luân hồi khổ lắm, sao lại đành chịu tội
oan uổng như vậy?
2) Thanh tịnh trọn vẹn bốn
cõi Tịnh Độ: Lợi ích này quá thù thắng, hàng Bồ
Tát thông thường và Biệt Giáo đều chẳng có được
điều lợi ích này. Quả vị Phật trong Biệt
Giáo vẫn chưa thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi Tịnh
Độ. Thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi Tịnh
Độ là cảnh giới của bậc Bồ Tát từ
Bát Địa [trong Viên Giáo] trở lên. Hàng Sơ Địa
trong Biệt giáo bằng với Sơ Trụ trong Viên Giáo,
quả vị Phật trong Biệt Giáo bằng với địa
vị Nhị Hạnh Bồ Tát trong Viên Giáo, so với Bát Địa
Bồ Tát của Viên Giáo thua xa lắm. Người niệm
Phật đới nghiệp vãng sanh, sanh về Tây
Phương liền thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi
Tịnh Độ, đây đúng là pháp khó tin. Quả báo thù
thắng như thế là do bổn nguyện oai thần của
A Di Đà Phật gia trì.
3) “Trực chí bất thoái
vị tận” (Đạt thẳng đến các địa
vị Bất Thoái viên mãn): “Tận”
có nghĩa là viên mãn. Ba thứ Bất Thoái đạt đến
viên mãn sẽ là Đẳng Giác Bồ Tát. Sanh về Tây
Phương liền đạt được những lợi
ích này ngay trong một đời. Do vậy, tôi thường
khuyên các đồng tu tụng niệm công khóa sáng tối thì
buổi sáng tụng bốn mươi tám nguyện để
biết rõ nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của
A Di Đà Phật, kiến lập tín tâm đối với Tịnh
Tông. nguyện lực cũng sẽ nhờ đó mà tăng
thêm. Bốn mươi tám nguyện giống như hiến
pháp của Tây Phương thế giới, chỉ cần
sanh về Tây Phương thì đều hưởng sự
thụ dụng giống hệt như A Di Đà Phật. Chúng
ta sanh về Tây Phương sẽ hưởng thụ [oai
thần, phước đức, thiện căn của] A
Di Đà Phật.
(Giải)
Phục thứ, thị lợi ước mạng chung thời,
tâm bất điên đảo nhi ngôn, cái uế độ tự
lực tu hành sanh tử quan đầu, tối nan đắc
lực.
(解) 復次是利。約命終時。心不顛倒而言。蓋穢土自力修行。生死關頭。最難得力。
(Giải: Lại nữa,
điều lợi này luận theo lúc lâm chung, tâm chẳng
điên đảo; bởi lẽ, trong uế độ, đối
với cửa ải lâm chung thì tự lực tu hành sẽ
khó đủ sức để vượt qua nhất).
Lời giải thích trong đoạn trước đã
nêu rõ lợi ích do vãng sanh Tây Phương thế giới, nêu
lên điều lợi ích chung do sanh về Tây Phương của
hết thảy chúng sanh trong mười phương thế
giới. Còn những điều được nói trong đoạn
này chỉ hạn cuộc trong chúng sanh trên địa cầu,
đặc biệt là loài người. Thông thường, ai
nấy đều mong cuộc sống tốt đẹp,
mong sanh trong gia đình giàu có, cả đời hưởng
phước, nhưng nơi cửa ải lâm chung, phải
theo nghiệp mà thọ báo, chính mình chẳng thể làm chủ
được. Người niệm Phật khi lâm chung, tâm
chẳng điên đảo, đầu óc tỉnh táo, Phật
đến tiếp dẫn thì chính là người có phước
đức lớn. Do vậy, tổ sư, đại đức
dạy chúng ta trì giới niệm Phật, phước huệ
song tu. Lão pháp sư Viên Anh tuổi già trụ tại Viên Minh
Tinh Xá ở Thượng Hải, từ năm hai
mươi lăm tuổi, Ngài dốc sức nơi kinh
Lăng Nghiêm, từng sáng lập một học viện chuyên
nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, giảng đường của
Ngài mang tên là Tam Cầu Đường, tức là “cầu
phước, cầu huệ, cầu sanh Tịnh Độ”.
Ngài giáo hóa tuân theo kinh Lăng Nghiêm, nhưng hạnh thì hành
theo kinh Di Đà. Chúng ta niệm Phật cũng là phước
huệ song tu. Tín nguyện trì danh thì phước lẫn huệ
đều nằm trong đó.
(Giải)
Vô luận ngoan tu cuồng huệ, ma la vô công, tức ngộ
môn thâm viễn, thao lý tiềm xác chi nhân, thảng phân hào tập
khí vị trừ, vị miễn tùy cường thiên trụy.
(解) 無論頑修狂慧。麼羅無功。即悟門深遠。操履潛確之人。儻分毫習氣未除。未免隨強偏墜。
(Giải: Những kẻ
tu hành ương bướng, trí huệ ngông cuồng, buồn
tủi không có kết quả thì đừng nói làm gì! Ngay cả
những người ngộ giải sâu xa, tu tập cẩn
thận, tinh nghiêm, mà nếu còn chút tơ tóc tập khí
chưa trừ thì vẫn chưa tránh khỏi tình trạng “[lúc
lâm chung], nghiệp nào mạnh sẽ lôi thần thức của
người ấy đi trước” khiến cho người
ấy bị đọa lạc).
“Ngoan tu” là những
người thông minh trong thế gian tu trì chẳng đúng
pháp, tự cậy thông minh, tu mù, luyện đui. “Cuồng huệ” là những
người thiên tư thông minh, đối với kinh
điển Đại Thừa cũng có thể thông hiểu,
có thể nói những điều tốt lành, nói đến
mức hoa trời rơi tán loạn, chỉ có điều
hành trì thiếu sót, rớt vào hạng có tâm tư thái độ
ngông cuồng. Hai loại người này đối trước
cửa ải sanh tử hoàn toàn vô dụng, chẳng thể
liễu sanh thoát tử. Nói “ma
la vô công” nghĩa là thiếu công phu, chẳng có thành tựu.
“Ngộ môn thâm viễn,
thao lý tiềm xác chi nhân, thảng phân hào tập khí vị trừ,
vị miễn tùy cường thiên trụy” (Những
người ngộ giải sâu xa, tu tập cẩn thận,
tinh nghiêm, mà nếu còn chút tơ tóc tập khí chưa trừ
thì vẫn chưa tránh khỏi tình trạng “[lúc lâm chung], nghiệp
nào mạnh sẽ lôi thần thức của người ấy
đi trước” khiến cho người ấy bị
đọa lạc), tình huống này đã có tiền lệ
trong lịch sử. Như thiền sư Thảo Đường
Thanh có giải, có hạnh, là bậc
đại đức lỗi lạc một thời trong
nhà Thiền. Trong các tín đồ, có một bà họ Tăng,
thường đến cúng dường thiền sư. Sư
Thảo Đường rất cảm kích, thường
mang tâm niệm báo ân. Mất rồi liền thác sanh làm con
trai bà Tăng, có trí, có phước, tuổi thiếu niên mà đã
thỏa chí, làm đến Tể Tướng, tức là Tăng
Lỗ Công. “Thao lý tiềm xác
chi nhân” nghĩa là người trì giới tinh nghiêm. Mọi
người đều biết câu chuyện “hòn đá tam
sanh”. Hòn đá tam sanh là câu chuyện được truyền
tụng về cuộc đời của thiền sư
Viên Trạch và cư sĩ Lý Nguyên. Lý Nguyên từ quan, sống
trong chùa của ngài Viên Trạch. Có một hôm, hai người
bàn bạc, tính sang núi Nga Mi triều bái; Lý Nguyên chủ
trương đi theo đường thủy, Viên Trạch
tính đi theo đường bộ. Cuối cùng, theo ý Lý
Nguyên đi đường thủy. Đi đến một
tiểu trấn, gặp một phụ nữ có thai giặt
áo bên sông. Viên Trạch vừa trông thấy liền rơi nước
mắt không ngừng. Lý cư sĩ hỏi nguyên do, Sư nói:
“Ta sở dĩ chẳng muốn
đi theo đường thủy là sợ gặp bà ta. Bà
ta mang thai đã ba năm, đợi ta đầu thai. Hôm nay
chẳng thể trốn được nữa, ba ngày nữa
xin ông hãy đến nhà bà ta, ta thấy ông sẽ cười
để làm tin. Mười lăm năm sau, vào ngày Trung
Thu tháng Tám sẽ lại gặp nhau tại chùa Linh Ẩn ở
Hàng Châu”. Về sau, mỗi mỗi đều ứng nghiệm.
Sư Viên Trạch có thần thông, có thể biết được
quá khứ, vị lai, mà vẫn chưa thoát khỏi luân hồi
đầu thai, chỉ vì tập khí chưa trừ! Trong thế
gian, những người làm quan lớn, phát tài lớn đều
là những bậc đại tu hành trong quá khứ, tập
khí chưa trừ, chẳng chịu vãng sanh Tây Phương,
nhọc nhằn tu luyện nhiều năm để đạt
vinh hoa, phú quý trong một đời, trở thành tam thế
oán, thật chẳng đáng chút nào, đáng than thay!
(Giải)
Vĩnh Minh tổ sư, sở vị “thập nhân cửu
tha lộ. Ấm cảnh nhược hiện tiền, miết
nhĩ tùy tha khứ”. Thử thành khả hàn tâm giả dã.
(解) 永明祖師。所謂十人九蹉路。陰境若現前。瞥爾隨他去。此誠可寒心者也。
(Giải: Tổ
sư Vĩnh Minh nói: “Mười người, chín chần
chừ. Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt
đi theo nó”. [Nghĩ đến] điều này đúng là lạnh
buốt cõi lòng vậy).
Vĩnh Minh Diên Thọ đại
sư là người sống dưới triều đại
của Ngô Việt Vương Tiền Thục cuối thời
kỳ Ngũ Đại. Ngài nối pháp Thiều quốc
sư tông Thiên Thai, mất vào năm Khai Bảo thứ tám
(975) đời Tống Thái Tổ, thọ bảy
mươi hai tuổi. Theo lịch sử ghi chép, khi chưa
xuất gia, Ngài làm một chức quan nhỏ, trông coi việc
chi thu thuế khóa, thường giao nhận tiền bạc.
Ngài lấy tiền từ của công để phóng sanh, bị
thượng cấp phát giác, tâu lên Văn Mục Vương
(Tiền Nguyên Quyền)[6],
vua phán tội tử hình. Vua dặn riêng người hành hình:
“Nếu lúc hành hình mà hắn không có lòng sợ hãi thì hãy dẫn
đến gặp ta”. Trong lúc bị giải ra pháp trường,
mặt Sư không đổi sắc, cật vấn, Sư
nói: “Tôi dùng một mạng để đổi lấy hàng
ngàn hàng vạn cái mạng, đáng lắm chứ!” Sau đấy,
[giám trảm quan] dẫn Sư về gặp Văn Mục
Vương. Vua hỏi Sư: “Sau này ông muốn làm chuyện
gì?” Sư nói muốn xuất gia. Vua liền giúp Sư thỏa
nguyện và còn làm hộ pháp cho Sư. Có một hôm, vua cúng
Trai Tăng một ngàn vị sư, bình đẳng cúng Tăng.
Trong Trai Đường có bày ghế chủ tọa, mọi
người đều khiêm nhượng [không ai ngồi],
chợt có một vị xuất gia quần áo xốc xếch
ngồi nghễu nghện trên ghế chủ tọa. Trai tăng
xong, mọi người đã giải tán, vua hỏi đại
sư Vĩnh Minh: “Buổi trai tăng hôm nay có thánh hiền
giáng lâm hay không?” Sư đáp: “Có, Định Quang cổ Phật
đến thọ cúng”. Hỏi: “Vị nào vậy?” Sư nói:
“Vị Hòa Thượng ngồi ghế chủ tọa”. Vua
vừa nghe nói liền sai người đi kiếm, tìm được
vị ấy trong một hang núi. Thị giả thỉnh vị
ấy về cung, tiếp nhận sự cúng dường. Hòa
Thượng chỉ nói một câu: “Di Đà lắm lời”
rồi nhập diệt. Thị giả trở về tâu lên
Hoàng Đế: “Hòa Thượng đã viên tịch, lâm chung chỉ
nói một câu Di Đà lắm lời”. Hoàng Đế nghĩ
Vĩnh Minh đại sư nhất định là hóa thân của
Phật Di Đà, [hóa thân của] Định Quang Phật tuy
viên tịch, nhưng [hóa thân của Phật] Di Đà vẫn
còn, phái người thỉnh ngài Vĩnh Minh nhập cung. Nào
ngờ lúc ấy có người đến báo: “Vĩnh Minh đại
sư đã viên tịch”. Chư Phật, Bồ Tát hóa độ
chúng sanh trong thế gian này, chẳng thể bộc lộ
thân phận. Hễ thân phận bị lộ bèn ra đi. Nếu
bị lộ thân phận mà vẫn chẳng nhập diệt
thì chính là mạo nhận. Ngài Vĩnh Minh do Thiền Tông mà đại
triệt đại ngộ, đến tuổi già chuyên tu Tịnh
Độ. Ngài có nói ra bốn bài Liệu Giản rất nổi
tiếng. Bài thứ hai là: “Hữu
Thiền, vô Tịnh Độ. Thập nhân cửu tha lộ,
ấm cảnh nhược hiện tiền, miết nhĩ
tùy tha khứ” (Có Thiền, không Tịnh Độ. Mười
người chín chần chừ, nếu ấm cảnh hiện
tiền, chớp mắt đi theo nó). Đấy là vì thuở
ấy Thiền Tông rất thịnh hành, mọi người
coi rẻ Tịnh Độ; nhằm độ những người
học Thiền, nên Ngài mới nói: “Có Thiền không Tịnh Độ, mười
người chín chần chừ” nhằm dẫn dắt
bọn họ trở về Tịnh Độ. [Ngài nói] Thiền
Tịnh Song Tu chính là một cách nói phương tiện quyền
xảo bất đắc dĩ dành cho những người
tham Thiền. Có những người tu Thiền rất khá,
nhằm khỏi tổn thương lòng tự tôn của họ,
nên Ngài mới nói Thiền cũng rất hay, nếu thêm vào
một chút Tịnh Độ thì càng hay hơn. Nói thật
ra, tu Tịnh Độ có thể vãng sanh, chứ tu Thiền
rất khó thành tựu.
Trong câu “hữu
Thiền, hữu Tịnh Độ” hãy chú ý chữ Hữu.
“Hữu Thiền” là đại
triệt đại ngộ, “hữu
Tịnh Độ” là trong một niệm trọn đủ
tin sâu, nguyện thiết, chấp trì danh hiệu. Có Thiền,
không Tịnh Độ, mười người chín chần
chừ[7].
Thiền sư Viên Trạch như đã nói trong phần trước
chính là hạng người “có Thiền”, có thể biết
quá khứ, vị lai, nhưng vẫn phải đầu
thai luân hồi, từ xưa đến nay, những người
giống như Viên Trạch chẳng ít.
“Ấm cảnh nhược
hiện tiền”: Chữ “Ấm
cảnh” có hai nghĩa, một là trong Định có ma xuất
hiện, tức Ngũ Ấm Ma xuất hiện. Kinh Lăng
Nghiêm nói có năm mươi loại Ấm Ma. Hiện thời
có kẻ bảo tôi: “Có người khi tịnh tọa, tay
rung động không cách nào khống chế được”.
Bọn họ cho đó là cảnh giới tốt đẹp,
đấy chính là vời ma đến. Định là tịnh,
chẳng phải tay múa, chân nhảy. Nghĩa thứ hai [của
chữ Ấm Cảnh] là thân Trung Ấm. Con người chết
đi, thần thức rời khỏi thân thể, còn chưa
đầu thai, trong thời gian ấy gọi là Trung Ấm
Thân. Trung Ấm Thân đại đa số tồn tại
trong vòng bốn mươi chín ngày. Trong thời gian ấy,
gia đình, quyến thuộc tụng kinh, niệm Phật
để hồi hướng thì người ấy sẽ
được lợi ích; nhưng người ấy sẽ
sanh vào chỗ nào vẫn là lưu chuyển theo nghiệp, chính
mình chẳng thể làm chủ được. “Có Thiền, không Tịnh Độ”,
không có Phật lực gia trì, hoàn toàn dựa vào Định
lực của chính mình thì lỡ một mai Định lực
mất đi, sẽ bị nghiệp lực khống chế.
Nghiệp nào mạnh sẽ lôi đi trước, suốt đời
tu hành nếu tốt đẹp thì sẽ đổi lấy
phú quý trong đời sau; còn nếu tu hành không ra gì, sẽ
phải lưu chuyển trong tam đồ. Quán sát cặn kẽ
[sẽ thấy] không vãng sanh Tây Phương phiền phức
rất lớn!
(Giải)
Sơ Quả muội ư xuất thai, Bồ Tát hôn ư
cách ấm. Giả lý khởi dung cưỡng tác chủ tể,
kiểu hãnh, man han? Duy hữu tín nguyện trì danh, trượng
tha lực cố, Phật từ bi nguyện, định bất
đường quyên. Di Đà thánh chúng, hiện tiền ủy
đạo, cố đắc vô đảo, tự tại
vãng sanh. Phật kiến chúng sanh lâm chung đảo loạn
chi khổ, đặc vị bảo nhậm thử sự,
sở dĩ, ân cần tái khuyến phát nguyện, dĩ nguyện
năng đạo hạnh cố dã.
(解) 初果昧於出胎。菩薩昏於隔陰。者裏豈容強作主宰。僥倖顢頇。唯有信願持名。仗他力故。佛慈悲願。定不唐捐。彌陀聖眾。現前慰導。故得無倒。自在往生。佛見眾生。臨終倒亂之苦。特為保任此事。所以殷勤再勸發願。以願能導行故也。
(Giải: Sơ Quả
mê muội khi ra khỏi thai, Bồ Tát hôn trược lúc
chuyển từ thân Ngũ Ấm này sang thân Ngũ Ấm
khác, trong khi ấy, há nó có dung cho mình gắng gượng
làm chủ tể mà còn lơ mơ mong được may mắn
hay sao? Chỉ có tín nguyện trì danh là do cậy vào tha lực
và thệ nguyện từ bi của Phật, nhất định
chẳng luống uổng. Phật Di Đà và thánh chúng hiện
đến trước mặt an ủi, hướng dẫn,
nên tâm không điên đảo, tự tại vãng sanh. Phật
thấy chúng sanh chịu khổ vì điên đảo tán loạn
khi lâm chung, nhằm đặc biệt đảm bảo
cho chúng sanh chuyện [vãng sanh] này, nên mới một lần
nữa ân cần khuyên nhủ hãy phát nguyện, bởi lẽ,
nguyện có thể dẫn đường cho hạnh vậy).
“Sơ Quả” là Tu Đà
Hoàn trong Tiểu Thừa, đã đoạn tám mươi tám
phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, dự vào dòng thánh.
Tuy còn có tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc chưa
đoạn, vẫn tu hành trong tam giới, nhưng quyết
định chẳng đọa vào tam ác đạo. Sống
chết bảy lần trong cõi trời, cõi người liền
thoát khỏi tam giới. Nếu lần thứ bảy sanh vào
nhân gian, gặp Phật, nhất định chứng quả
A La Hán. Nếu không có Phật xuất hiện trong cõi đời,
vị ấy cũng vượt thoát tam giới, gọi là Độc
Giác, tức Bích Chi Phật. Sơ Quả đầu thai
trong nhân gian, khi nhập thai thì hiểu biết rõ ràng, nhưng
lúc đẻ ra sẽ quên hết. Trí huệ lẫn công phu
đoạn phiền não của Bồ Tát đều vượt
trỗi Tiểu Thừa, chỉ có điều là vẫn mê
khi cách ấm (từ thân Ngũ Ấm này chuyển sang thân
Ngũ Ấm khác). Trong quá trình luân hồi trong sanh tử, Bồ
Tát và thánh nhân Sơ Quả còn chẳng thể làm chủ được,
huống gì là phàm phu? Lẽ đâu lại ôm lòng cầu may,
mà phải dựa vào bổn nguyện, oai thần của Phật
gia trì.
“Phật từ bi nguyện” chính là bốn
mươi tám nguyện, nguyện nguyện đều được
thực hiện rành rành. Người niệm Phật khi lâm
chung, trọn chẳng giống với những kẻ phàm
phu tay chân cuống quít. Phật Di Đà và thánh chúng hiện
ra trước mặt an ủi, hướng dẫn, nên người
ấy không điên đảo, tự tại vãng sanh. Chúng
sanh khi lâm chung thường bị khổ vì điên đảo,
lầm loạn, nên phải thuận theo nghiệp lực, đọa
trong đường ác, khổ chẳng thể nói được.
Nếu khi lâm chung, đầu óc tỉnh táo, người ấy
tuy không học Phật, chưa cầu vãng sanh thì cũng chẳng
đọa tam đồ. Đức Phật thấy tình huống
ấy đặc biệt rõ rệt, vì chúng ta nói ra pháp môn tín
nguyện trì danh vãng sanh Tịnh Độ. Trong kinh này đã
khuyên lần thứ nhất, rồi lại khuyên lần thứ
hai, rồi khuyên lần thứ ba, đặc biệt nhắc
nhở, chỉ dạy, một lần nữa ân cần khuyên
chúng sanh hãy nên phát nguyện, nhằm đảm bảo chúng
ta vãng sanh, bởi lẽ, Nguyện có thể hướng dẫn
Hạnh. Có nguyện vọng mạnh mẽ thì mới có thể
cảm ứng đạo giao với A Di Đà Phật.
(Giải) Vấn: Phật ký “tâm tác, tâm
thị”, hà bất cánh ngôn tự Phật, nhi tất dĩ
tha Phật vi thắng? Hà dã?
Đáp:
Thử chi pháp môn, toàn tại liễu tha tức tự.
Nhược húy ngôn tha Phật, tắc thị Tha Kiến vị
vong. Nhược thiên trọng tự Phật, khước
thành Ngã Kiến điên đảo.
(解) 問。佛既心作心是。何不竟言自佛。而必以他佛為勝。何也。答。此之法門。全在了他即自。若諱言他佛。則是他見未忘。若偏重自佛。卻成我見顛倒。
(Giải: Hỏi: Phật đã là “tâm này làm Phật, tâm này là
Phật”, thì sao chẳng hoàn toàn nói về tự Phật (vị
Phật của chính mình) mà cứ đề cao tha Phật
(vị Phật khác) là thù thắng? Vì cớ sao thế?
Đáp: Pháp môn này hoàn toàn ở chỗ hiểu
rõ Tha chính là Tự. Nếu kiêng không nói tới vị Phật
nào khác tức là chưa quên Tha Kiến (cái thấy có người
khác ngoài ta ra). Nếu thiên trọng tự Phật, sẽ trở
thành Ngã Kiến điên đảo).
Trong kinh Phật thường nói: “Thị tâm tác Phật, thị tâm
thị Phật” (Tâm này làm Phật, tâm này là Phật). Vậy
thì tâm của chính mình đã là Phật, cớ sao chẳng nói
tới tự tánh Phật (vị Phật ở trong tự
tánh) mà lại nói A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực
Lạc thế giới? Đại sư trả lời: Pháp
môn này hoàn toàn nhằm hiểu rõ Tha chính là Tự. Tha và Tự
là một, không hai. Nói là một, tức là nói theo Thể. Nói
theo Tánh thì là một. Nói theo Tướng thì là hai. “Nếu kiêng không nói đức Phật
khác thì là chưa quên Tha Kiến. Nếu thiên trọng Tự
Phật sẽ trở thành Ngã Kiến điên đảo”.
Chưa hiểu rõ chân tướng sự thật, ắt phải
phá trừ nghi vấn. Nếu không, sẽ có chướng ngại.
Dẫu tu trì siêng năng cũng chỉ có thể sanh về
biên địa nghi thành. Hãy nên biết: Pháp môn này giống như
Hoa Nghiêm, lại còn vượt trỗi Hoa Nghiêm, vì [trong kinh
Hoa Nghiêm đến phẩm] cuối cùng, mười đại
nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Hoa Nghiêm
là đại pháp viên đốn, kinh này là kinh viên nhất
trong các pháp viên, đốn nhất trong các pháp đốn.
Chỉ có nhất tâm thì mới có thể khế nhập. Nếu
có hai tâm, sẽ sanh chướng ngại. Nếu có nghi vấn,
sẽ biến thành hai tâm, có Tự, có Tha, Tự và Tha là hai,
[không còn là một nữa].
Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã nói
rất khéo. Ngài mới gặp sư Ấn Tông, Ấn Tông hỏi
Ngài: “Nghe nói ông đắc pháp ở núi Hoàng Mai, bình thường
Ngũ Tổ thuyết pháp có nói phương pháp tham Thiền
hay không?” Lục Tổ đáp: “Phật
pháp chân chánh là một”. Phật pháp là pháp môn Bất Nhị;
do vậy, hai bên Tự và Tha đều quên sạch, dùng một
câu A Di Đà Phật để gom vọng niệm về một
mối. Những tri kiến, phân biệt, chấp trước
khác đều chẳng có, chỉ có một câu A Di Đà Phật.
Có như thế mới hòng vào được Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đó cũng là
Nhất Chân pháp giới, hoàn toàn hiểu rõ “Tha chính là Tự”.
Nếu nói là Tha Phật (đức Phật khác, chẳng phải
là đức Phật trong tự tâm) thì là chưa quên Tha Kiến.
Nếu thiên chấp coi trọng Tự Phật thì là Ngã Kiến
điên đảo. Kinh Kim Cang dạy: “Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước
Ngã Kiến, Nhân Kiến, Chúng Sanh Kiến, Thọ Giả Kiến,
tắc ư thử kinh, bất năng thính, thọ, độc,
tụng, vị nhân giải thuyết” (Nếu là kẻ
thích pháp nhỏ, chấp trước vào Ngã Kiến, Nhân Kiến,
Chúng Sanh Kiến, Thọ Giả Kiến sẽ chẳng thể
nghe, nhận, đọc, tụng, vì người khác giải
nói kinh này). Nửa phần đầu kinh Kim Cang nói về Tứ
Tướng, nửa phần sau giảng về Tứ Kiến.
So với phần giảng về Tướng thì phần giảng
về Kiến càng sâu đậm hơn. Nếu chẳng thể
hiểu rõ “Tha chính là Tự”,
chắc là sẽ khó khế nhập Nhất Chân pháp giới.
(Giải)
Hựu Tất Đàn tứ ích, hậu tam ích, sự bất
cô khởi. Thảng bất tùng thế giới thâm phát khánh
tín, tắc Hân Yếm nhị ích thượng bất
năng sanh. Hà huống ngộ nhập lý Phật! Duy tức
Sự Trì đạt Lý Trì. Sở dĩ Di Đà thánh chúng hiện
tiền, tức thị bổn tánh minh hiển. Vãng sanh bỉ
độ, kiến Phật, văn pháp, tức thị thành
tựu huệ thân, bất do tha ngộ. Pháp môn thâm diệu,
phá tận nhất thiết hý luận, trảm tận nhất
thiết ý kiến. Duy Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Vĩnh
Minh chi lưu, triệt để đảm hà đắc
khứ. Kỳ dư thế trí biện thông, thông Nho, Thiền
khách, tận tư độ lượng, dũ thôi dũ
viễn. Hựu bất nhược ngu phu phụ lão thật
niệm Phật giả, vi năng tiềm thông Phật trí,
ám hợp đạo diệu dã. Ngã kiến thị lợi,
cố thuyết thử ngôn, phân minh dĩ Phật nhãn, Phật
âm, ấn định thử sự, khởi cảm vi kháng, bất thiện thuận nhập
dã tai? Nhị Chánh Tông Phần cánh.
(解)
又悉檀四益。後三益。事不孤起。儻不從世界深發慶信。
則欣厭二益尚不能生。何況悟入理佛。唯即事持達理持。所以彌陀聖眾現前。即是本性明顯。往生彼土。見佛聞法。即是成就慧身。不由他悟。法門深妙。破盡一切
戲論。斬盡一切意見。唯馬鳴。龍樹。智者。永明之流。徹底擔荷得去。其餘世智辯聰。通儒禪客。盡思度量。愈推愈遠。又不若愚夫婦老實念佛者。為能潛通佛
智。暗合道妙也。我見是利。故說此言。分明以佛眼佛音。印定此事。豈敢違抗。不善順入也哉。二正宗分竟。
(Giải: Lại nữa, trong bốn món lợi ích Tất
Đàn, ba thứ lợi ích sau chẳng thể tự nó khởi
lên được. Nếu chẳng từ [môn Tất
Đàn thứ nhất là] Thế Giới [Tất Đàn]
phát khởi sâu xa lòng vui mừng, tin tưởng thì hai thứ
lợi ích là ưa thích cõi Cực Lạc và chán nhàm cõi Sa Bà sẽ
chẳng thể sanh được, huống gì là ngộ nhập
lý Phật? Chỉ do Sự Trì mà đạt đến Lý
Trì, cho nên Phật Di Đà và thánh chúng hiện tiền chính
là do bổn tánh đã hiện rõ ra. Sanh về cõi kia, thấy
Phật, nghe pháp chính là thành tựu huệ thân (cái thân kết
tinh bằng trí huệ), chứ chẳng phải do cái gì khác
mà ngộ [được huệ thân ấy]. Pháp môn sâu mầu,
phá sạch hết thảy hý luận, chặt sạch hết
thảy ý kiến. Chỉ có những vị như Mã Minh,
Long Thọ, Trí Giả, Vĩnh Minh mới triệt để
gánh vác pháp này được. Còn những kẻ Thế Trí Biện
Thông khác, những kẻ thông hiểu cả Nho lẫn Thiền,
tận hết sức suy lường, càng suy nghĩ càng xa
cách hơn, hóa ra chẳng bằng những ông những bà ngu
muội, thật thà niệm Phật, mà có thể ngầm
thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. “Ta thấy
điều lợi ấy nên nói lời này”, dùng Phật
nhãn, Phật âm để nói ấn định rành rành chuyện
này, há dám trái nghịch, chống đối, chẳng khéo thuận
vâng theo hòng chứng nhập ư? Phần thứ hai là Chánh Tông Phần [đến đây
là] hết)
Thích Ca Mâu Ni Phật dùng bốn món Tất
Đàn làm chỗ căn cứ hòng định đặt việc
giáo hóa. “Tất Đàn” có nghĩa
là “thí trọn khắp”. Trong phần trước tôi đã
giải thích cặn kẽ. Bốn món lợi ích Tất Đàn
này nếu dùng để bàn luận sự niệm Phật
vãng sanh trong Tịnh Tông thì chúng chính là tổng cương lãnh
tiếp dẫn chúng sanh, Phật pháp Đại Thừa hay Tiểu
Thừa đều chẳng thể lìa khỏi nguyên tắc
này. Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, đi
theo con đường này sẽ ổn thỏa, thích đáng
nhất. Nhất tâm dùng Sự Trì, chẳng hiểu Lý cũng
không sao. Có nhiều ông cụ, bà cụ ăn chay, niệm Phật
vãng sanh, biết trước lúc mất. Hỏi họ kinh
điển Tịnh Độ, họ không hiểu, sanh về
Tây Phương họ sẽ hiểu hết. Sự Trì khẩn
thiết, tâm định, tín nguyện kiên cố, khi Phật
đến tiếp dẫn, trước hết sẽ dùng Phật
quang chiếu đến, nghiệp chướng của người
ấy tiêu trừ, khai trí huệ. Từ Sự Trì mà đạt
đến Lý Trì. Do vậy, Phật Di Đà và thánh chúng hiện
tiền, thấy Phật tức là bổn tánh sáng ngời, trí
huệ hiện tiền, một là vì công đức niệm
Phật, hai là do được Phật quang gia trì, những
pháp môn khác chẳng có điều này. Sanh về Tây
Phương, hằng ngày ở cùng một chỗ với A
Di Đà Phật, sáu trần trong Tây Phương đều
thuyết pháp không ngừng. Thấy Phật, nghe pháp, thành tựu
thân trí huệ, thân trí huệ chính là Báo Thân. Cảnh giới
này giống như cảnh giới của bậc Sơ Trụ
Bồ Tát trong Viên Giáo. Trong thế gian tu những pháp môn thông
thường để đạt đến cảnh giới
này thì phải mất một A-tăng-kỳ kiếp. Trong
A-tăng-kỳ kiếp thứ hai mới bắt đầu
chứng được quả vị Sơ Trụ Bồ
Tát của Viên Giáo. Chúng sanh trong chín pháp giới rất khó dùng
trí huệ và năng lực của chính mình để thấu
hiểu tột cùng sự lý của Tây Phương thế
giới, chỉ có Phật với Phật mới có thể
thấu hiểu rốt ráo. Chỗ mầu nhiệm là đới
nghiệp vãng sanh, chưa đoạn một phẩm phiền
não nào, mà sanh về Tây Phương liền chứng trọn
vẹn ba thứ Bất Thoái, mầu nhiệm ở chỗ
này.
“Phá sạch hết thảy
hý luận, chặt đứt hết thảy mọi ý kiến”.
Hai câu này nói về những kẻ tu hành theo đường
lối thông thường. Chữ “hý luận” chỉ Giáo Hạ, chữ “ý kiến” chỉ Tông Môn. Pháp
môn này là nhất tâm chấp trì danh hiệu, chẳng cần
phải phân biệt, suy lường, cho nên phá sạch hết
thảy mọi hý luận. “Hý
luận” là các thứ phê bình của Giáo Hạ đối
với Tịnh Tông, bất luận họ nói như thế
nào cũng chẳng liên quan gì! “Chặt
đứt hết thảy mọi ý kiến”: “Ý kiến” là phân biệt. Pháp
môn mầu nhiệm viên đốn rất sâu vô thượng
này chỉ có những vị như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả,
Vĩnh Minh mới hòng triệt để gánh vác được.
Các vị Mã Minh và Long Thọ đều là người Ấn
Độ, đều cầu sanh Tịnh Độ. Tại
Trung Quốc, ngài Long Thọ được xưng là Tổ
của tám tông phái Đại Thừa. Trí Giả và Vĩnh
Minh là người Trung Quốc. Trí Giả là tổ sư tông
Thiên Thai, còn ngài Vĩnh Minh từ Thiền trở về Tịnh,
là tổ sư đời thứ sáu của Tịnh Tông. Các
Ngài chẳng có ý kiến phân biệt, ngay lập tức gánh
vác. Những kẻ học thức thông minh tài trí khác và những
Thiền khách thông thạo Nho học tận hết sức suy
lường, càng suy tưởng càng sai lệch. Hàng Đẳng
Giác Bồ Tát nếu chẳng được gia trì bởi
oai thần của Phật cũng chẳng hiểu rõ. Kẻ
thông minh tài trí đâm ra chẳng bằng ngu phu ngu phụ! Kẻ
hạ ngu chẳng phân biệt, chấp trước, thật
thà niệm Phật, bỏ sạch ý niệm vọng tưởng,
chấp trước của chính mình, đắc Niệm Phật
tam-muội. Công phu sâu thì sẽ đạt đến Lý nhất
tâm bất loạn, khai trí huệ, tương ứng với
trí huệ nơi quả địa Như Lai, thầm hợp
chỗ nhiệm mầu trong đạo. Do vậy, những
người thuộc căn tánh bậc trung đâm ra thua kẻ
hạ ngu. Đức Phật trông thấy lợi ích thù thắng
như vậy, nên đem sự thật muôn vàn chân thật,
xác thực này buốt lòng rát miệng khuyên dạy chúng ta vãng
sanh, chúng ta há dám trái nghịch, chống đối? Nếu
khéo thuận theo ý nguyện giáo huấn của Phật thì sẽ
giống hệt như các đại sư Mã Minh, Long Thọ,
Trí Giả, Vĩnh Minh hoàn toàn tiếp nhận, y giáo phụng
hành, là học trò tốt của đức Phật. Lợi
ích Tứ Tất Đàn thù thắng viên mãn rốt ráo nhất
chúng ta đều đạt được trong hiện tiền.
Phần Chánh Tông của kinh này đến đây là hết.
4.3. Phần Lưu Thông
(Giải) Tín nguyện trì danh nhất
pháp, viên thâu, viên siêu nhất thiết pháp môn. Thụ dữ
nhất thiết pháp môn hồn đồng. Hoành dữ nhất
thiết pháp môn huýnh dị, ký vô vấn tự thuyết,
thùy kham xướng mộ lưu thông. Duy Phật dữ Phật,
nãi năng cứu tận chư pháp Thật Tướng. Thử
kinh duy Phật cảnh giới, duy Phật Phật khả
dữ lưu thông nhĩ.
(解) 信願持名一法。圓收圓超一切法門。豎與一切法門渾同。橫與一切法門迥異。既無問自說。誰堪倡募流通。唯佛與佛。乃能究盡諸法實相。此經唯佛境界。唯佛佛可與流通耳。
(Giải: Một pháp tín nguyện trì danh gồm thâu trọn vẹn
và vượt trỗi trọn vẹn hết thảy pháp
môn. Theo chiều dọc, nó giống như những pháp môn
khác. Theo chiều ngang, pháp này hoàn toàn khác với hết thảy
các pháp môn, đã do đức Phật không ai hỏi mà tự
nói thì ai mới có thể đề xướng, lưu
thông? Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu
hiểu cùng tận Thật Tướng của các pháp. Kinh
này chỉ là cảnh giới Phật, chỉ có Phật và
Phật mới có thể lưu thông mà thôi).
Đại sư phân chia khoa mục
của kinh này khác với cách phân chia của cổ đức.
Ngài xếp đoạn “sáu phương Phật” vào phần
Lưu Thông, những vị khác đều xếp đoạn
này vào phần Chánh Tông. Vì sao Ngài chia như thế, đại
sư đã giảng rõ, chúng ta hãy đọc đoạn chú
giải này. “Tín nguyện trì
danh nhất pháp, viên thâu viên siêu nhất thiết pháp môn” (Một
pháp tín nguyện trì danh gồm thâu trọn vẹn và vượt
trỗi trọn vẹn hết thảy pháp môn). “Viên thâu” (gồm thâu trọn vẹn)
tức là luận định kinh này theo chiều dọc, từ
cạn đến sâu thì kinh này giống với hết thảy
các kinh khác. Hết thảy các pháp môn khác đều có thứ
tự từ sâu đến cạn, như ba bậc chín phẩm
trong bốn cõi, lại còn có Sự Trì và Lý Trì. “Viên siêu” là luận định
theo chiều ngang, liễu sanh tử, xuất tam giới, chứng
đại Bồ Đề, hoàn toàn khác với hết thảy
pháp môn. Trong những pháp môn khác phải tiến từ từ
theo thứ tự: Đoạn Kiến Tư phiền não, nhập
dòng thánh; đoạn Trần Sa phiền não, đạt
đến cảnh giới Bồ Tát; đoạn hết thảy
Vô Minh, chứng Pháp Thân đại sĩ. Những kinh luận
thông thường đều nói như thế; còn kinh này thì
không cần đoạn phiền não, chỉ dựa vào tín
nguyện trì danh, đới nghiệp vãng sanh, vượt
khỏi tam giới theo chiều ngang, khác hẳn hết thảy
các pháp môn khác. Huống chi sanh về Tây Phương Tịnh
Độ, tuy có bốn cõi sai biệt, nhưng hễ sanh về
một cõi thì hết thảy cõi đều sanh; các pháp môn khác
chẳng có chuyện này! Kinh này đã là kinh không ai hỏi mà
Phật tự nói thì ai có thể gánh vác sứ mạng đề
xướng, truyền thừa, lưu thông? Kinh Di Đà là cảnh
giới thuộc quả địa Như Lai, là chân tướng
của nhân sinh, vũ trụ, chỉ có chư Phật mới
có thể hiểu rõ ràng. Hàng Đẳng Giác Bồ Tát đều
không có năng lực lưu thông. Đối với trách nhiệm
lưu thông, chỉ có Phật và Phật mới có thể
gánh vác. “Lưu” (流) là lưu truyền muôn đời, “thông” (通) là thông
đạt vô ngại.
4.3.1. Phổ khuyến
4.3.1.1. Khuyến tín lưu thông
(Kinh) Xá Lợi Phất! Như ngã
kim giả, tán thán A Di Đà Phật, bất khả tư
nghị công đức chi lợi.
(Giải) Bất khả tư
nghị, lược hữu ngũ ý: Nhất, hoành siêu tam giới,
bất sĩ đoạn Hoặc. Nhị, tức Tây
Phương hoành cụ tứ độ, phi do tiệm chứng.
Tam, đản trì danh hiệu, bất giả Thiền Quán
chư phương tiện. Tứ, nhất thất vi kỳ,
bất tạ đa kiếp, đa sanh, đa niên nguyệt.
Ngũ, trì nhất Phật danh, tức vị chư Phật
hộ niệm, bất dị trì nhất thiết Phật
danh. Thử giai đạo sư đại nguyện hạnh
chi sở thành tựu. Cố viết “A Di Đà Phật bất
khả tư nghị công đức chi lợi”.
(經) 舍利弗。如我今者。讚歎阿彌陀佛。不可思議功德之利。
(解) 不可思議。略有五意。一橫超三界。不俟斷惑。二即西方橫具四土。非由漸證。三但持名號。不假禪觀諸方便。四一七為期。不藉多劫多生多年月。五持一佛名。即為諸佛護念。不異持一切佛名。此皆導師大願行之所成就。故曰阿彌陀佛。不可思議功德之利。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Như ta nay khen ngợi A Di
Đà Phật công đức lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn của A Di Đà Phật.
Giải:
“Chẳng thể nghĩ bàn”, nói đại lược gồm
năm ý:
- Một là
vượt thoát tam giới theo chiều ngang, chẳng đợi
phải đoạn Hoặc.
- Hai là sanh về
Tây Phương liền trọn đủ bốn cõi, chẳng
phải do chứng từ từ.
- Ba, chỉ
trì danh hiệu, chẳng cần phải dùng tới các
phương tiện Thiền, Quán.
- Bốn là
lấy bảy ngày làm hạn, chẳng cần đến
nhiều kiếp, nhiều đời, nhiều năm tháng.
- Năm là
trì danh hiệu một vị Phật liền được
chư Phật hộ niệm, chẳng khác gì trì danh hiệu của hết thảy
chư Phật.
Những điều này
đều do đại nguyện hạnh của đấng
Đạo Sư mà thành tựu. Vì thế nói “A Di Đà Phật
lợi ích công đức chẳng thể nghĩ bàn”).
Đức Phật gọi ngài Xá Lợi
Phất, nhắc nhở Ngài hãy đặc biệt chú ý: “Tiếp
theo đây, ta sẽ nói những lời quan trọng. Như
ngày nay, ta khen ngợi công đức lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn của A Di Đà Phật”.
“Công đức lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn” là gì vậy? Trong đoạn
Yếu Giải này, đại sư đã nêu ra tường
tận. Nói đại lược thì có năm ý:
1) Siêu thoát tam giới theo chiều
ngang, chẳng đợi đoạn Hoặc: Hãy nên
biết: Tam giới chính là lục đạo. Tam giới
chia thành Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới.
Dục Giới có Ngũ Dục là “tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghỉ” (tài, sắc, danh, thực, thùy).
Nếu chỉ đoạn trên mặt Sự thì vô ích. Nếu
vẫn còn có ý niệm thì vẫn ở trong Dục Giới,
chẳng sanh lên Sắc Giới được. [Sanh lên Sắc
Giới phải] nhờ vào Thiền Định. Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, tổng cộng
mười tám tầng trời. Lại tính lên Vô Sắc Giới
thì có Tứ Không Định Thiên, rồi lại lên tới
Cửu Thứ Đệ Định (tên gọi đầy
đủ là Diệt Thọ Tưởng Thứ Đệ Định)
thì sẽ vượt thoát tam giới, thành A La Hán. Đấy
là vượt tam giới theo chiều dọc. Pháp môn này của
chúng ta chẳng cần phải đoạn Hoặc, vượt
ngang ra khỏi tam giới[8]
nên gọi là “hoành siêu tam giới”.
2) Tây Phương có đủ cả
bốn cõi, chẳng do chứng đắc dần dần:
Mười phương hết thảy các cõi Phật đều
có bốn cõi, nhưng bốn cõi tách biệt, chẳng liên tiếp
nhau. Còn bốn cõi Tịnh Độ của Tây Phương
ở cùng một chỗ, hễ sanh về một thì sẽ
sanh về hết thảy, chẳng cần phải tiến
từ từ. Như trong thế giới Sa Bà, đoạn hết
Kiến Tư phiền não liền vượt thoát tam giới.
Trong tam giới là Phàm Thánh Đồng Cư độ, vượt
thoát tam giới là Phương Tiện Hữu Dư độ.
Lại tu hành phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân liền sanh về Thật Báo Trang Nghiêm độ. Đấy
là “tiệm tấn” (tiến
từ từ, tiến dần dần). Tuy vãng sanh Tây
Phương thế giới thuộc Hạ Hạ Phẩm,
nhưng cũng viên tịnh tứ độ.
3) Chỉ trì danh hiệu, chẳng cần
tới các phương tiện Thiền, Quán: Phương
pháp tu hành chỉ dựa vào một câu Nam Mô A Di Đà Phật
từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật, chẳng
cần bất cứ một pháp môn nào khác để phụ
trợ. Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên
Thông Chương chính là chứng minh cực hay.
4) Lấy bảy ngày làm kỳ hạn,
chẳng cần đến nhiều đời, nhiều kiếp,
nhiều năm tháng: Tịnh Độ Tông đả
Phật thất, chính là căn cứ trên kinh Di Đà. Tín
nguyện trì danh, bảy ngày liền đắc Niệm Phật
tam-muội, quyết định được vãng sanh. Công
phu có sâu hay cạn khác nhau, Trung Quốc có thói quen chia thành ba
hạng: Bậc thượng là Lý nhất tâm bất loạn,
bậc trung là Sự nhất tâm bất loạn, bậc hạ
là công phu thành phiến. Công phu thành phiến cũng chia thành
ba bậc. Thành phiến bậc thượng thì sanh tử tự
tại. Từ xưa đến nay, những người
đã đạt cảnh giới này rất nhiều, người
ta làm được, vì sao chúng ta không làm được? Phải
tìm cho ra sự chướng ngại khiến cho ta không làm được,
trừ diệt nó đi thì công phu sẽ đắc lực.
5) Trì một danh hiệu Phật liền
được chư Phật hộ niệm, chẳng khác
trì danh hiệu của hết thảy chư Phật:
Tại Đài Loan có nhiều tự viện trong dịp Tết
bèn có pháp hội lạy một ngàn Phật hay một vạn
vị Phật. Nếu niệm danh hiệu A Di Đà Phật
tức là giống như đã niệm danh hiệu của
mười phương tất cả hết thảy chư
Phật. Đức Phật nói: “Không
một vị Phật nào chẳng niệm A Di Đà Phật,
không một vị Phật nào chẳng giảng kinh A Di
Đà”. Tựa đề của bộ kinh này là Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh (kinh được
hết thảy chư Phật hộ niệm), trong phần
sau, kinh văn có nói tới. Chúng ta niệm bộ kinh này thì hết
thảy chư Phật đều hộ niệm.
Năm điều này đều là do đại nguyện
đại hạnh của A Di Đà Phật thành tựu,
kinh Vô Lượng Thọ giảng rất cặn kẽ, ai
đã đọc rồi thì hãy nên thấu hiểu công đức của danh hiệu chẳng
thể nghĩ bàn. Cổ đại đức nói: “Một niệm tương ứng
một niệm Phật, niệm niệm tương ứng
niệm niệm Phật”. “Tương ứng” ở đây
không phải chỉ là tương ứng với A Di Đà
Phật, đấng Đạo Sư của thế giới
Cực Lạc, mà trên thực tế là tương ứng với
mười phương ba đời hết thảy chư
Phật. Công đức lợi ích này quả thật không gì
sánh bằng, hiểu rõ đạo lý thì sẽ niệm Phật
chẳng đến nỗi bỏ dở giữa chừng.
(Giải)
Hựu, hành nhân tín nguyện trì danh, toàn nhiếp Phật
công đức thành tự công đức. Cố diệc viết
“A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức
chi lợi”. Hạ hựu viết: “Chư Phật bất
khả tư nghị công đức, ngã bất khả
tư nghị công đức”, thị chư Phật, Thích
Ca giai dĩ A Di vi Tự dã.
(解) 又。行人信願持名。全攝佛功德。成自功德。故亦曰阿彌陀佛。不可思議功德之利。下又曰。諸佛不可思議功德。我不可思議功德。是諸佛釋迦。皆以阿彌為自也。
(Giải: Lại
nữa, hành nhân tín nguyện trì danh hoàn toàn thâu nhiếp công
đức của Phật thành công đức của chính
mình. Vì thế, cũng nói: “Công đức lợi ích của
A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn”. Trong đoạn
dưới, [kinh văn] lại nói: “Công đức chẳng
thể nghĩ bàn của chư Phật”, “công đức chẳng
thể nghĩ bàn của ta”, tức là chư Phật và Phật
Thích Ca đều lấy A Di Đà Phật làm Tự).
Cách nói này quả thật rất ít nghe
tới. Chúng ta suy nghĩ kỹ càng sẽ thấy rất có
lý. “Tín nguyện trì danh” là mấu
chốt trong sự tu học của Tịnh Tông, nguyên tắc
tu học là nhất tâm chấp trì danh hiệu thì có thể
hoàn toàn biến công đức từ vô lượng kiếp
của A Di Đà Phật thành công đức của chính
mình. Nếu quả thật là sự thật thì [người
tu pháp môn Niệm Phật] sẽ chiếm tiện nghi to lớn.
Các vị Bồ Tát trong mười phương thế giới
tu hành trong vô lượng kiếp, tu hết sức nhọc
nhằn, vẫn chẳng thể thành tựu được
vài phần công đức của A Di Đà Phật. Người
tu Tịnh Độ do tín nguyện trì danh, trong một thời
gian rất ngắn mà công đức, lợi ích thù thắng
vượt trỗi các vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát tu hành khổ nhọc trong nhiều năm. Đây là sự
thật. Trong nội dung của Vô Lượng Thọ Kinh,
Quán Vô Lượng Thọ Kinh và kinh này đều có những
đoạn kinh văn giảng rõ: Người niệm Phật
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
ngay cả Hạ Hạ Phẩm vãng sanh cũng sẽ vô lượng
thọ. Kinh Vô Lượng Thọ lại nói thân thể, tướng
mạo, các thứ thụ dụng và thần thông đạo
lực của họ đều tương tự A Di
Đà Phật thì há chẳng phải là đã thâu nhiếp công
đức của Phật để thành công đức của
chính mình hay sao? Đủ thấy lời đại sư nói
quả đúng là sự thật. Kinh văn lại nói: “Công đức chẳng thể
nghĩ bàn của chư Phật, công đức chẳng thể
nghĩ bàn của ta”, ở đây có hai thuyết:
1) Chư Phật là A Di Đà Phật.
2) Chư Phật là mười phương
hết thảy chư Phật Như Lai.
Hai thuyết này đều hợp lý.
Do đây có thể suy ra: Mười phương hết thảy
chư Phật và Phật Thích Ca đều coi A Di Đà Phật
là chính mình, Tự và Tha chẳng hai. Nói theo tâm tánh thì tâm tánh
của năng niệm (cái tâm của chư Phật và cái tâm
của chúng sanh) là một chứ không phải hai, tâm tánh và công
đức của danh hiệu đều chẳng thể
nghĩ bàn. Đã có lý luận này thì ắt có sự thật.
Từ đoạn kinh nói về sáu phương
Phật trở đi, đại sư phán định thuộc
vào phần Lưu Thông, Ngài nói “chỉ
có Phật và Phật mới có thể gánh vác sứ mạng
lưu thông”. Trước hết, chúng tôi giới thiệu
đại cương, đơn giản một lượt.
Bản dịch của La Thập đại sư chỉ
ghi sáu phương, còn Huyền Trang đại sư phiên dịch
trực tiếp theo bản tiếng Phạn, ghi là mười
phương. Ngài La Thập dịch ý, người Trung Quốc
thích đơn giản, sáu phương là nói rút gọn, nhưng
ý nghĩa vẫn viên mãn. Sáu phương là Đông, Tây, Nam, Bắc,
trên và dưới. Mười phương là sáu phương
thêm vào Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc. Mỗi
phương có vô lượng vô biên thế giới, mỗi
một thế giới đều có một vị Phật giáo
hóa.
Mỗi một phương đều
nói “như thị đẳng hằng
hà sa số chư Phật” (các vị Phật nhiều như
số cát sông Hằng như thế đó). Thuở đức
Phật tại thế, phần lớn thời gian Ngài giảng
kinh ở quanh lưu vực sông Hằng. Cát sông Hằng rất
mịn, giống như bột mì. Sông Hằng dài mấy ngàn
dặm, cát sông Hằng chẳng thể đếm nổi số.
Khi Phật nói đến số lượng nhiều, thường
dùng cát sông Hằng để làm tỷ dụ. Cát sông Hằng
tuy nhiều, nhưng số lượng còn có giới hạn,
chứ các thế giới ở mỗi phương trong mười
phương là vô lượng vô biên; vì thế, chư Phật
cũng vô lượng vô biên.
“Các ư kỳ
quốc xuất quảng trường thiệt tướng” (Mỗi vị
đều ở trong nước mình hiện tướng lưỡi
rộng dài) chính là khen ngợi, tuyên truyền trọn khắp,
giới thiệu Tây Phương A Di Đà Phật với hết
thảy chúng sanh, từ trước đến nay chưa hề
ngừng, phạm vi giáo hóa trọn khắp tam thiên đại
thiên thế giới.
“Thuyết
thành thật ngôn”: Ý nói những điều được
nói trong kinh này đều là những pháp thực tại. Những
kinh điển khác cũng đều là những lời
thành thật, như kinh Kim Cang dạy: “Như Lai thị chân ngữ giả, thật ngữ
giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả,
bất dị ngữ giả” (Như Lai là bậc nói lời
chân thật, nói đúng sự thật, nói đúng lý đúng
pháp, chẳng nói lời dối gạt, chẳng nói sai khác).
“Chân” là không giả, “thật” là thực tại, chẳng
hư vọng, “như” là
không tăng, không giảm, đúng mức, “bất cuống” là chẳng lừa dối. Sao lại
chỉ nói kinh này là lời thành thật? Là vì kinh này dạy
trực tiếp cách tu thành Phật cho phàm phu; do kinh này quá
huyền diệu, rất nhiều người chẳng tin
tưởng. Vì thế, phải đặc biệt nhấn
mạnh “thuyết thành thật
ngôn” (nói lời thành thật). Có người bảo tôi:
“Đối với pháp môn Tịnh Độ, có những vị
pháp sư đại đức thốt ra nhiều lời
lẽ phê bình và chẳng thể tin tưởng pháp này”. Tôi
bảo người ấy: “Bạn chưa đọc kỹ
kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh đã nói rành rành: ‘Nhược phi vãng tích tu phước
huệ, ư thử chánh pháp bất năng văn’ (Nếu
chẳng tu phước huệ trong đời quá khứ, sẽ
chẳng thể nghe chánh pháp này). Bọn họ chẳng thể
tin tưởng thì có gì lạ đâu!” Như trong Quán Kinh Tứ
Thiếp Sớ, trong phần Thượng Phẩm Thượng
Sanh Chương, Thiện Đạo đại sư
đã nói: Hàng Thập Địa Bồ Tát cùng nhau nói với
quý vị, bậc Đẳng Giác Bồ Tát cùng nhau nói với
quý vị, quý vị chẳng cần phải tin tưởng.
Chỉ tin tưởng lời Phật. Hễ tin tưởng
pháp môn này, vâng theo lời dạy mà hành, là do trong quá khứ
đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư
Phật Như Lai, có thiện căn vượt trỗi hết
thảy chúng sanh, chứ chẳng phải chỉ một sớm
một chiều mà hòng thành tựu được. Chính mình
gặp được pháp môn này mà có thể tin tưởng,
phát nguyện thì mười phương ba đời hết
thảy chư Phật Như Lai đều chúc mừng quý
vị, khen ngợi quý vị: “Ngày nay thiện căn,
phước đức của quý vị đã chín muồi
rồi, cơ duyên thành Phật đã đến rồi!”
Cuối cùng, đức Phật nói:
Chúng sanh các ngươi hãy nên tin tưởng bộ kinh này,
kinh có tên là “Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết
Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”. Khi phiên dịch,
La Thập đại sư đổi tên kinh thành “Phật Thuyết A Di Đà Kinh”.
La Thập đại sư dùng tên kinh này nhằm làm cho chúng
ta vừa nhìn vào tựa đề kinh liền niệm một
câu A Di Đà Phật, đấy chính là phương tiện
thiện xảo của người dịch kinh. “Xưng tán” là hết thảy chư
Phật khen ngợi A Di Đà Phật có công đức chẳng
thể nghĩ bàn, Phật dùng bốn mươi tám nguyện
tiếp dẫn hết thảy chúng sanh căn cơ đã
chín muồi trong mười phương pháp giới. Người
căn cơ chín muồi bèn tin tưởng, phát nguyện, hành
trì, nhất định vãng sanh trong một đời này. Nếu
chẳng tin, chẳng nguyện, chẳng chịu niệm thì
là [căn cơ, nhân duyên] còn chưa chín muồi, chẳng thể
vãng sanh trong đời này, vẫn luân hồi trong lục
đạo. Tên kinh này cũng có thể nói là Nhất Thiết Chư Phật Bất Khả Tư
Nghị Công Đức. Nếu không có Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật giới thiệu, đề xướng, làm
sao chúng ta biết được? Đức Thế Tôn giới
thiệu cõi nước Cực Lạc giống như một
trường học lớn. Đức Thế Tôn và mười
phương chư Phật thay mặt A Di Đà Phật
đến các nơi chiêu sinh, lại được hết
thảy chư Phật tuyên dương, khen ngợi. Theo khảo
chứng, Thiện Đạo đại sư là hóa thân của
A Di Đà Phật; lời Thiện Đạo đại
sư nói là lời A Di Đà Phật nói. Ngài nói: “Như Lai sở dĩ xuất
hiện trong cõi đời, chỉ nhằm nói ra biển bổn
nguyện của A Di Đà Phật”. Phật vì một đại
sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời, tức
là giới thiệu Tây Phương Tịnh Độ cho thế
gian. Đã là như vậy thì cả đời đức
Thế Tôn giảng ba kinh Tịnh Độ là đủ rồi,
cần gì phải giảng nhiều pháp môn khác? Là vì cơ
duyên thành Phật của chúng sanh đã đến nên mới
nói pháp môn này. Kinh này chẳng phải vì hàng Thanh Văn, Duyên
Giác, Bồ Tát mà nói. Cơ duyên thành Phật của họ còn
chưa đến thì có nói cũng vô dụng, họ chẳng
tiếp nhận. Nếu họ thuộc căn tánh Bồ
Tát thì giảng cho họ Đại Thừa Phật pháp. Nếu
họ là căn tánh Duyên Giác hay Thanh Văn thì giảng pháp Tiểu
Thừa cho họ. Họ không có ý nghĩ thoát khỏi tam giới,
nên nói với họ những kinh điển giảng về
trời người, để đời sau được
thân người và hạnh phúc mỹ mãn. Do vậy, nói vô
lượng vô biên pháp môn nhằm thích ứng những căn
tánh khác nhau. Kinh này chuyên để nói với những chúng
sanh căn cơ chín muồi, vượt trỗi những vị
Bồ Tát. Chỉ cần tin tưởng pháp môn này thì tất
cả hết thảy chư Phật, không một vị nào
chẳng hộ niệm. Chúng ta niệm bộ kinh này liền
được hết thảy chư Phật hộ niệm.
Mật Tông có chuyện quán đảnh.
Ở nước Mỹ và Đài Loan, nếu có Kim Cang thượng
sư Rinpoche[9]
của Mật Tông đến, là mọi người xúm nhau
đông nghẹt xin quán đảnh. Lão cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ là Kim Cang thượng sư của Mật Tông, tuổi
già chuyên tu Tịnh Độ. Trong cuốn Chú Giải Kinh Vô
Lượng Thọ, cụ có giảng rõ ý nghĩa quán đảnh.
“Quán” (灌) có nghĩa
là từ bi che chở, gia hộ, “đảnh”
(頂) có nghĩa là pháp môn chí cao vô thượng. Như vậy,
“quán đảnh” là đem pháp
môn cao tột vô thượng của đức Phật truyền
dạy cho quý vị, mà pháp môn cao tột vô thượng bậc
nhất của chư Phật Như Lai lại chính là kinh A
Di Đà. Nếu niệm một biến thì cũng giống
như được hết thảy chư Phật quán đảnh
cho quý vị một lượt. Người niệm Phật
suốt ngày từ sáng đến tối sẽ được
thấm đẫm Phật quang, nhưng chính mình mê hoặc
điên đảo, đối với lợi ích công đức
thù thắng này hoàn toàn chẳng biết, thật là đáng
thương!
PHẬT THUYẾT A DI
ĐÀ KINH YẾU GIẢI GIẢNG KÝ
Phần
8 hết
[1] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải của pháp sư Viên Anh trong A Di
Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký.
[2] Gọi là “quán tượng thấp kém” (quán
liệt tượng) vì tượng dù có to cách mấy vẫn
chẳng thể sánh bằng chân thân của Phật. Hơn
nữa, trong cách quán này, chỉ dạy quán thân Phật cao một
trượng sáu, tức là quán Ứng Thân, thua xa vẻ
đẹp thù thắng của Báo Thân nên gọi là “liệt
tượng” (tượng kém hèn). Hơn nữa, tượng
trong thế gian dù đẹp cách mấy vẫn không có cách
nào diễn tả một phần vẻ đẹp thù thắng
của ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ
đẹp phụ (tùy hình hảo) nơi Liệt Ứng
Thân nên gọi là “kém hèn”.
[3] Ngài Thiên Kỳ Bổn Thụy là danh
tăng tông Lâm Tế sống vào đời Minh, không rõ
năm sanh và năm mất, họ Giang, tự là Thiên Kỳ,
người Chung Lăng, phủ Nam Xương, được
người đời gọi là Quỳnh Tuyệt Lão Nhân.
Năm 20 tuổi, Sư tham yết ngài Vô Thuyết Năng ở
Kinh Môn, được thế độ xuất gia. Không
lâu sau, sang đất Thục tham yết các bậc kỳ
túc. Về sau, đến Cao Phong, tham yết ngài Bảo
Phong Minh Tuyên, được ấn khả, trở thành
người nối pháp đời thứ 29 của dòng Thiền
Nam Nhạc. Sư còn để lại tác phẩm Quỳnh
Tuyệt Lão Nhân Thiên Kỳ Trực Chú Vân Đậu Hiển
Hòa Thượng Tụng Cổ và Thiên Đồng Hòa Thượng
Tụng Cổ.
Ngài Độc Phong Bổn Thiện
cũng sống vào đời Minh, tổ quán tại Phụng
Dương, nhưng Sư được sanh ra tại Lôi
Dương (Quảng Đông), họ Ngô, ưa thích Phật
học từ nhỏ, xuất gia năm mười bảy
tuổi. Thoạt đầu cầu pháp với hòa thượng
Nguyên Minh, được thầy dạy quán công án chữ
Vô. Năm Chánh Thống thứ tám, Sư tham học với
ngài Vô Tế tại đất Mân, nghe tiếng chuông bèn tỉnh
ngộ. Về sau lần lượt tham học với các
vị Mông Ẩn, Sở Sơn, Nguyệt Khê, được
ngài Nguyệt Khê ấn khả. Từ đấy, Sư bế
quan dụng công. Sau đấy, Sư được thỉnh
làm tổ khai sơn chùa Tam Tháp ở Tây Hồ và nhiều
ngôi chùa khác ở vùng Giang Nam.
[4] Ở đây chắc là người ghi lại
lời giảng đã chép lầm, vì Bảo Vương Kinh
là tên gọi tắt của Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh; đây là một
bộ kinh giảng về duyên khởi, lực dụng, và
phép tu trì Lục Tự Đại Minh Chú (tức thần
chú “Om, mani padme hum”), hoàn toàn
chẳng nói gì tới chuyện vãng sanh hay pháp môn Tịnh
Độ. Bảo Vương được Tổ Ngẫu
Ích nhắc tới ở đây chính là sách Niệm Phật
Tam Muội Bảo Vương Luận do pháp sư Phi Tích
chùa Thảo Đường núi Tử Các soạn vào đời
Đường. Trong cuốn A Di Đà Kinh Yếu Giải
Giảng Nghĩa, pháp sư Viên Anh cũng giảng chữ Bảo
Vương ở đây là Niệm Phật Tam Muội Bảo
Vương Luận.
[5] Tánh giới: Những điều cần
phải tránh phạm vì bản tánh của những hành vi ấy
dẫn đến phiền não, đau khổ, ác quả. Dù
thọ giới hay không, hễ phạm phải những
điều ấy đều dẫn đến quả báo
xấu ác.
[6] Tiền Nguyên Quyền (887-941) là vua thứ
hai của xứ Ngô Việt, miếu hiệu Văn Mục
Vương, Tiền Thục (Tiền Hoằng Thục,
929-988) là con thứ chín của Tiền Nguyên Quyền, miếu
hiệu là Trung Ý Vương. Do Tổ Vĩnh Minh sanh năm
904, mất năm 975, nên nói Ngài là người sống
dưới thời Văn Mục Vương cũng
được mà bảo là Ngài sống dưới thời
Tiền Thục cũng không sai; nhưng chúng tôi vẫn
nghĩ là cụ Lưu Thừa Phù đã vô ý ghi sai vì khi tổ
Vĩnh Minh nhập diệt vào năm 975, Tiền Nguyên Quyền
(Văn Mục Vương) đã mất từ năm 941.
Chuyện cúng trai tăng này chỉ có thể xảy ra vào thời
Tiền Thục (Trung Ý Vương).
[7] Chữ “tha
lộ” thường bị hiểu là “lạc đường”, hay lầm lối,
nhưng trong Ấn Quang Văn Sao (Tăng Quảng, Tục
Biên, Tam Biên), tổ Ấn Quang nhiều lần giảng chữ
“tha” ở đây là “tha đà”
(thần chừ, lần chần). Do chỉ tu Thiền,
không tu Tịnh Độ nên không thể thoát khỏi tam giới
luân hồi, giống như người quanh quẩn mãi trên
đường, không về được nhà, chứ không
phải là “lạc lối”. Vì nếu lạc lối thì có
khác nào chê trách pháp Thiền là sai bét.
[8] Do từ nhân gian mà vượt thoát tam giới,
sanh thẳng về Cực Lạc, không phải theo thứ
tự sanh lên từng tầng trời, giống như con
sâu đục ngang ống tre liền thoát ra được
nên gọi là “hoành siêu” hoặc “hoành xuất”.
[9] Chữ Thượng Sư được
dịch từ chữ Guru, nghĩa gốc chỉ có
nghĩa là thầy. Nhưng trong Ấn Độ Giáo, Mật
Tông Tây Tạng, Guru có nghĩa là một vị thầy có tu
chứng, đạt đến một trình độ rất
khá; thậm chí coi như là hóa thân của một vị Phật
hay một vị Bồ Tát. Thậm chí, khi tu tập, quán
tưởng, họ đồng nhất vị Guru mình quy y
với bổn tôn (yidam) của Mật pháp họ đang tu.
Mật Tông Tây Tạng cho rằng nếu không nương tựa
nơi Guru, hành nhân sẽ không thể nào đạt bất
cứ thành tựu nào, và ngoài quy y ba ngôi Tam Bảo, họ
còn thêm vào một ngôi thứ tư là Guru. Rinpoche (thường
được người Hoa phiên âm là Nhân Ba Thiết) là một
mỹ hiệu để tôn xưng những vị lạt-ma
Tây Tạng. Rinpoche có nghĩa là “đấng tôn quý”. Thoạt
đầu, từ ngữ này thường chỉ dùng để
gọi những lạt-ma tái sanh, nhưng về sau thường
được dùng để gọi tất cả các lạt-ma.
Tuy vậy, danh xưng Guru Rinpoche chỉ dành riêng để
gọi Padmasambhava (Liên Hoa Sanh đại sĩ, sơ tổ
Mật Tông Tây Tạng).
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment