"Rất
nhiều người hiểu lầm Tịnh Độ
Tông, cho rằng Tịnh Độ Tông cầu nhất tâm bất
loạn tức là có Định nhưng thiếu Huệ, quả
thật chẳng biết một câu A Di Đà Phật chẳng
những bao gồm Giới - Định - Huệ mà còn là
trí huệ vô thượng..."
Phần 9
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng
Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu
Ngẫu Ích Trí Húc chú giải vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh
Không giảng thuật
淨空法師講述
Cư sĩ
Lưu Thừa Phù ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo bản in của
Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)
Giảo duyệt:
Minh Tiến, Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
(Kinh)
Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu
Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật,
Diệu Âm Phật, như thị đẳng hằng hà sa số
chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng
trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại
thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ
đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết
Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.
(Giải)
A Súc Bệ, thử vân Vô Động. Phật hữu vô
lượng đức, ưng hữu vô lượng danh.
Tùy cơ nhi lập, hoặc thủ nhân, hoặc thủ quả,
hoặc Tánh, hoặc Tướng, hoặc hạnh nguyện
đẳng. Tuy cử nhất ngung, nhưng cụ Tứ Tất.
Tùy nhất nhất danh, hiển sở thuyên đức. Kiếp
thọ thuyết chi, bất năng tất dã.
(經) 東方亦有阿閦鞞佛。須彌相佛。大須彌佛。須彌光佛。妙音佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。
(解) 阿閦鞞。此云無動。佛有無量德。應有無量名。隨機而立。或取因。或取果。或性或相。或行願等。雖舉一隅。仍具四悉。隨一一名。顯所詮德。劫壽說之。不能悉也。
(Chánh
kinh: Phương Đông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu
Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật,
Diệu Âm Phật, các đức Phật nhiều như
cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở
trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng
dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời
thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi
Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết
Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.
Giải: A Súc Bệ, cõi này dịch
là Vô Động, Phật có vô lượng đức,
đương nhiên có vô lượng danh hiệu. Tùy theo
căn cơ [của chúng sanh hóa độ] mà lập một
danh hiệu, hoặc dùng nhân, hoặc dùng quả, hoặc
Tánh, hoặc Tướng, hoặc hạnh nguyện v.v...
[để đặt tên]. Tuy nêu lên một khía cạnh,
nhưng mỗi danh hiệu đều đầy đủ
bốn món Tất Đàn. Đối với mỗi danh hiệu,
muốn giảng rõ tánh đức được phô diễn
bởi danh hiệu ấy thì dù có sống lâu cả kiếp
để diễn nói cũng chẳng thể nào nói trọn
hết được).
Phật
và Bồ Tát đều không có danh hiệu. Danh hiệu là giả
danh, thuận theo phía chúng sanh mà lập ra, [tức là] dựa
theo nhu cầu của chúng sanh trong hiện thời, thuận
theo căn cơ mà lập ra. Hoặc dựa theo nhân, dựa
theo quả, hoặc dựa theo Tánh, dựa theo tướng
để chọn lấy một đức năng trong vô
lượng đức năng [mà lập danh hiệu] nhằm
biểu thị pháp hòng tạo lợi ích thực dụng
cho chúng sanh. Ấn Độ và Trung Quốc đều coi
phương Đông là đứng đầu [trong các phương],
mặt trời mọc từ phương Đông. Trong Tứ
Quý (bốn mùa), phương Đông biểu thị mùa Xuân.
Trong Ngũ Hành, phương Đông thuộc Mộc,
phương Nam thuộc Hỏa, phương Tây thuộc
Kim, phương Bắc thuộc Thủy, chính giữa thuộc
Thổ, rất gần với cách nhìn của người Ấn
Độ. Danh hiệu của năm vị Phật này, A
Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu
Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, tượng
trưng cho căn bản tu học trong pháp môn.
Vị
thứ nhất là A Súc Bệ Phật, A Súc Bệ (Akshobhya)
nghĩa là Bất Động, biểu thị học Phật,
đối với bất cứ pháp môn nào, Đại Thừa
hay Tiểu Thừa, Tông Môn hay Giáo Hạ, Hiển Giáo hay Mật
Giáo đều phải bất động. Đấy là
điều kiện cơ bản nhất. Nếu thứ gì
cũng học, ắt sẽ chẳng thành một việc
nào! Cần phải “tám gió thổi
chẳng động” thì mới có tư cách nhập môn
nhà Phật. Đối với tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần tâm chẳng
động, lại còn phải tiến hơn một bước
nữa là chẳng bị lay động bởi các pháp môn
khác. Pháp môn, tông phái rất nhiều, ắt phải thâm nhập
một môn. Thiện Đạo đại sư nói: “Nếu muốn cầu Giải
thì học nhiều tới mấy pháp môn cũng chẳng trở
ngại gì; nhưng nếu muốn tu hành, nhất định
phải giữ lấy một môn”. Thiện Tài đồng
tử tham học năm mươi ba lần, năm
mươi ba vị thiện tri thức đều là biểu
thị pháp, tượng trưng cho nam nữ già trẻ
đủ các ngành nghề trong xã hội, phương diện
tiếp xúc hết sức rộng, Thiện Tài đều
hiểu rõ hết, nhưng đối với sự tu hành của
chính mình thì là “một môn thâm nhập”.
Do chẳng hề dao động, Thiện Tài tu pháp môn Niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Vị thầy thứ
nhất của Thiện Tài là tỳ-kheo Đức Vân
(Meghaśri Bhiksu, còn dịch là tỳ-kheo Cát Tường
Vân), là một vị xuất gia. Trong năm mươi ba vị
thiện tri thức, chỉ có năm vị là người
xuất gia. Tỳ-kheo Đức Vân dạy Thiện Tài niệm
Phật, môn nào học trước tiên sẽ là chánh yếu;
về sau, Thiện Tài gặp những vị thiện tri thức
khác, phương pháp tu trì của mỗi vị mỗi khác.
Thiện Tài nghe xong đều biểu lộ cung kính cảm
tạ, rồi liền cáo từ, biểu thị “chẳng
muốn học pháp môn ấy”. Mãi cho đến vị thiện
tri thức thứ năm mươi ba là Phổ Hiền Bồ
Tát dùng mười đại nguyện vương
đưa về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Thiện Tài là chúng sanh căn cơ đã chín muồi, thành
Phật trong một đời. Các tông, các phái đều hiểu
rõ, hoàn toàn chẳng chướng ngại pháp môn của chính
mình tu học. Thiện Tài nêu gương đáng cho chúng ta
noi theo. Nếu không có tinh thần độc lập ấy,
đừng nên lãng phí thời gian, có học cũng vô ích! Từ
xưa, các vị tổ sư đại đức nếu
nhận thấy người nào có thể đào tạo
thành nhân tài bèn dùng đủ mọi phương pháp để
rèn giũa kẻ ấy, tới khi kẻ ấy chịu
không nổi sẽ bỏ đi, tức là chẳng thể
thành tựu. Rèn giũa trăm cách mà người ấy vẫn
chẳng động tâm thì mới là pháp khí. Cương lãnh
tu học của Bồ Tát, thứ nhất là bố thí, thứ
hai là nhẫn nhục. Bảo quý vị buông xuống, thế
gian lẫn xuất thế gian đều buông xuống hết,
chuyên tu pháp môn này. Do vậy, A Súc Bệ là vị Phật thứ
nhất tại phương Đông, dịch nghĩa là Vô
Động, bao hàm những nghĩa đã nói trên đây.
Ba
vị Phật kia là Tu Di Tướng Phật, Đại Tu
Di Phật, Tu Di Quang Phật, đều dùng chữ Tu Di
(Sumeru, Meru) làm danh hiệu để sánh ví. Cao nhất trong
thế giới này là núi Tu Di, nhưng nó chẳng nằm trên
địa cầu. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói một
hệ Ngân Hà là một đơn vị thế giới;
trung tâm của hệ Ngân Hà được giới thiên
văn gọi là “hắc đỗng”
(black hole). Hắc đỗng chính là núi Tu Di. Tất cả
tinh cầu đều xoay chuyển quanh nó, nó là trung tâm của
thế giới. Trong Phật pháp, gọi nó là núi Diệu
Cao. Kinh thường dùng Pháp Thân để tỷ dụ bản
thể. Ba vị Phật được nêu trên đây nhằm
biểu thị Tam Thân, tức Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Hóa
Thân. Ba thân nhưng cùng một Thể.
Vị
thứ nhất là Tu Di Tướng Phật (Merudhvaja Buddha),
Tướng là tướng hảo, quang minh. Chúng sanh trong
chín pháp giới đều ngưỡng mộ tướng
hảo của Phật, [như vậy Tu Di Tướng] biểu
thị Báo Thân. Vị thứ hai là Đại Tu Di Phật
(Mahameru), Đại là từ ngữ khen ngợi, khen ngợi
Lý thể của Pháp Thân trong tâm tánh chẳng thể nghĩ
bàn, những nhà triết học gọi nó là “bản thể của vạn hữu
trong vũ trụ”, còn Phật pháp gọi là Pháp Thân. Hết
thảy vạn pháp đều do nó biến hiện ra.
Vị
thứ ba là Tu Di Quang Phật (Meruprabhasa Buddha); Quang là quang
minh chiếu trọn khắp, lợi ích trọn khắp hết
thảy chúng sanh. Đây chính là nói về Ứng Thân. Nên dùng
thân nào để đắc độ bèn hiện thân ấy
để độ, tùy loại hóa thân, tức là ý nghĩa
“quang minh biến chiếu”
(quang minh chiếu trọn khắp). Mục tiêu học Phật
chính là phải thành tựu Tam Thân.
Cuối
cùng là Diệu Âm Phật (Manjughosha Buddha), đem
phương pháp tu học nói ra. Tịnh Độ Tông niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, tín nguyện trì danh
là pháp môn trực tiếp để thành Phật. “Diệu Âm” chính là “nam-mô A Di Đà Phật”, chúng
sanh trong chín pháp giới khắp mười phương ba
đời đều dùng phương pháp này để vãng
sanh Tịnh Độ, bất thoái thành Phật.
(Giải)
Đông phương hư không bất khả tận, thế
giới diệc bất khả tận. Thế giới bất
khả tận, trụ thế chư Phật diệc bất
khả tận. Lược cử “hằng hà sa” nhĩ. Thử
đẳng chư Phật, các xuất quảng trường
thiệt, khuyến tín thử kinh, nhi chúng sanh do bất sanh
tín, ngoan minh cực hỹ. Thường nhân tam thế bất
vọng ngữ, thiệt năng chí tỵ. Tạng Quả
Đầu Phật, tam đại tăng-kỳ kiếp bất
vọng ngữ, thiệt bạc, quảng trường khả
phú diện. Kim chứng Đại Thừa Tịnh Độ
diệu môn, sở dĩ biến phú tam thiên, biểu Lý thành
xứng Chân, Sự thật phi mậu dã. Tiêu xuất kinh
đề, lưu thông chi bổn. Thập sư thuận thử
phương hiếu lược, dịch kim đề, xảo
hợp trì danh diệu hạnh. Trang sư dịch vân
Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh.
Văn hữu tường lược, nghĩa vô tăng giảm.
(解) 東方虛空不可盡。世界亦不可盡。世界不可盡。住世諸佛亦不可盡。
略舉恆河沙耳。此等諸佛。各出廣長舌。勸信此經。而眾生猶不生信。頑冥極矣。常人三世不妄語。舌能至鼻。藏果頭佛。三大僧祇劫不妄語。舌薄廣長可覆面。今
證大乘淨土妙門。所以遍覆三千。表理誠稱真。事實非謬也。標出經題。流通之本。什師順此方好略。譯今題。巧合持名妙行。奘師譯云。稱讚淨土。佛攝受經。文
有詳略。義無增減。
(Giải:
Phương Đông hư không chẳng thể cùng tận,
nên thế giới cũng chẳng thể cùng tận. Do thế
giới chẳng thể cùng tận nên chư Phật trụ
thế cũng chẳng thể cùng tận, chỉ nêu đại
lược là “nhiều như số cát sông Hằng” mà thôi.
Các vị Phật vị nào cũng hiện tướng
lưỡi rộng dài, khuyên nên tin kinh này, mà chúng sanh vẫn
chẳng sanh lòng tin, ương bướng, tối tăm
đến tột bậc vậy! Người thường
mà ba đời không nói dối thì lưỡi có thể chạm
được mũi. Quả vị Phật trong Tạng
Giáo ba đại A-tăng-kỳ kiếp không nói dối,
lưỡi mỏng, rộng dài có thể che mặt. Nay nhằm
chứng thực pháp môn Tịnh Độ mầu nhiệm,
cho nên [chư Phật thè lưỡi] che khắp tam thiên, nhằm
biểu thị “Lý quả thật xứng hợp chân thật,
Sự là đúng với sự thật, chẳng sai lầm”.
Nêu ra tựa đề kinh nhằm làm cái gốc cho việc
lưu thông. Ngài La Thập thuận theo thói thích đơn giản
của phương này, mà dịch tựa đề kinh
như [đề kinh đang được sử dụng]
trong hiện tại, phù hợp khéo léo với diệu hạnh
trì danh. Ngài Huyền Trang dịch [tựa đề kinh này]
là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ
Kinh. Lời văn tuy có cặn kẽ hay đại lược
khác nhau, nhưng ý nghĩa chẳng bị tăng hay giảm).
Phương
Đông hư không chẳng thể cùng tận, thế giới
và chư Phật trụ thế đều chẳng thể
cùng tận nên dùng cát sông Hằng để so sánh. Cát sông Hằng
có cùng tận, nhưng thế giới vô tận. Mười
phương hết thảy chư Phật đều khuyên
con người hãy nên tin tưởng kinh này mà chúng sanh vẫn
chẳng tin tưởng, đúng là ương bướng,
u tối đến tột cùng. Đọc kinh Vô Lượng
Thọ rồi mới hoảng nhiên đại ngộ, [có
tình trạng ngoan cố, tối tăm ấy] vốn là do
thiện căn và phước đức chẳng đủ.
Trong kinh ấy, vương tử A Xà Thế và năm
trăm vị trưởng giả nghe Phật giảng kinh
Vô Lượng Thọ, nghe xong hết sức hoan hỷ,
dùng hoa bằng vàng để cúng Phật nhằm biểu thị
ý cảm tạ, trong tâm khởi lên ý niệm mong mỏi
trong tương lai khi thành Phật cũng sẽ giống hệt
như A Di Đà Phật. Họ vừa dấy khởi ý niệm
ấy, đức Phật đã biết rõ. Phật nói bọn
họ trong đời quá khứ đã từng cúng dường
bốn trăm ức Phật, nhưng thiện căn và
phước đức vẫn chưa đủ, bọn họ
chỉ khởi lên ý niệm ấy, sanh lòng hoan hỷ,
nhưng hoàn toàn chẳng phát tâm cầu nguyện vãng sanh. Nếu
có ai thật sự phát nguyện cầu sanh về Tịnh
Độ, đấy chính là trong đời quá khứ
đã từng cúng dường vô lượng chư Phật,
chứ không phải chỉ có bốn trăm ức Phật.
“Tướng lưỡi rộng
dài” là một trong ba mươi hai tướng. Nếu
có thể le lưỡi liếm tới đầu mũi
thì đấy là điều cho thấy người ấy
trong ba đời không nói dối. Kinh nói đức Thế
Tôn đời đời kiếp kiếp chẳng nói dối,
nên đầu lưỡi khi le ra có thể che cả mặt.
Vị Phật trong Tạng Giáo do không nói dối trong ba
đại A-tăng-kỳ kiếp nên lưỡi mỏng,
dài rộng, có thể che được mặt. Phật
Thích Ca như vậy đó. Hết thảy chư Phật
Như Lai chứng minh cho chúng ta biết Tịnh Độ
là pháp môn Đại Thừa mầu nhiệm nhất. Mầu
nhiệm ở chỗ có thể khế hợp hết thảy
chúng sanh khiến cho họ có thể trong một đời
viên mãn thành Phật, viên mãn rốt ráo Phật quả.
Kinh
này có tựa đề là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị
Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm Kinh. Kinh này do La Thập đại sư dịch,
Ngài biết người Hoa ưa nói đơn giản, bất
luận ngôn ngữ, văn tự nào cũng đều mong
sao nói được những điểm trọng yếu
nhưng tường tận, rõ ràng. Do vậy, Ngài đặt
tựa đề kinh là Phật Thuyết A Di Đà Kinh, lấy
ngay danh hiệu làm tựa đề kinh. Huyền Trang đại
sư cũng dịch kinh này, nhưng không được
trôi chảy cho lắm, ai nấy đều thích bản dịch
của ngài La Thập; [bởi lẽ, bản của ngài La
Thập] văn từ lưu loát, thông đạt, ngay cả
đệ tử của ngài Huyền Trang cũng chẳng
phải là ngoại lệ. Tuy Huyền Trang đại
sư đem Duy Thức Học truyền vào Trung Quốc,
nhưng chưa tạo lập tông phái, phải đợi
đến khi đồ đệ của Ngài là pháp sư
Khuy Cơ mới sáng lập Pháp Tướng Tông. Vì thế,
ngài Khuy Cơ là tổ sư đời thứ nhất của
Pháp Tướng Tông. Ngài Khuy Cơ cũng viết một bản
chú giải kinh Di Đà mang tựa đề [A Di Đà Kinh]
Thông Tán Sớ, dùng bản dịch của ngài La Thập
để viết chú giải, vì bản này được
lưu hành trong cõi đời đã lâu, cho nên không dùng bản
dịch của thầy mình. Đủ thấy thầy trò
ngài Huyền Trang đều hết sức tôn trọng bản
dịch của ngài La Thập.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Nam phương thế giới hữu Nhật
Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại
Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng
Tinh Tấn Phật, như thị đẳng hằng hà sa
số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng
trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại
thiên thế giới thuyết thành thật ngôn: “Nhữ
đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết
Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.
(經) 舍利弗。南方世界。有日月燈佛。名聞光佛。大燄肩佛。須彌燈佛。無量精進佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。
(Chánh
kinh: Trong các thế giới ở phương Nam có Nhật
Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại
Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng
Tinh Tấn Phật, các đức Phật nhiều như số
cát sông Hằng như thế đó, mỗi vị ở
trong nước mình, hiện tướng lưỡi rộng
dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời
thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi
Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết
Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”).
Trong
đoạn trước đã giới thiệu
phương Đông. Phương Đông nhằm tượng
trưng cho căn bản tu học Phật pháp. Tại
phương Đông [nêu đại lược] năm vị
Phật, vị Phật thứ nhất tượng
trưng cho thái độ cơ bản trong sự tu học
Phật pháp. Bất luận tu học một pháp môn hay tông
phái nào, mấu chốt thành bại chính là “chuyên nhất, bất động”. Có nhiều vị
đồng tu chẳng thể nói là không dụng công,
nhưng xét theo thực tại thì chẳng có thành tựu,
chính là vì cái tâm chúng ta phập phều, chao động, hoàn
toàn chẳng trấn định, đúng như cổ đức
đã nói: “Tâm bị cảnh
chuyển”. Như thế sẽ trọn chẳng thể
tu đạo được! Do vậy, vị Phật thứ
nhất là Bất Động Phật dạy chúng ta bất
luận trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, điều
trước tiên phải học là tâm bất động.
[Danh hiệu của] ba vị Phật tiếp đó nhằm
nêu ra mục tiêu tu hành, chứng đắc viên mãn Pháp, Báo, Ứng
ba thân. [Danh hiệu của] vị Phật thứ năm nhằm
nêu ra phương pháp tu hành cơ bản trong tông này là Trì
Danh Niệm Phật. Phương Nam thuộc Hỏa,
tượng trưng cho hiện tượng quang minh. Rất
nhiều người hiểu lầm Tịnh Độ
Tông, cho rằng Tịnh Độ Tông cầu nhất tâm bất
loạn tức là có Định nhưng thiếu Huệ, quả
thật chẳng biết một câu A Di Đà Phật chẳng
những bao gồm Giới - Định - Huệ mà còn là
trí huệ vô thượng.
Vị
Phật thứ nhất ở phương Nam là Nhật Nguyệt
Đăng Phật (Candrasuryapradipa Buddha), mang ý nghĩa “quang minh chiếu trọn khắp”,
biểu thị tự tánh vốn trọn đủ trí huệ
viên mãn, vũ trụ, nhân sinh, quá khứ, hiện tại, vị
lai, không gì chẳng hiểu.
Vị
Phật thứ hai là Danh Văn Quang Phật (Yaśahprabha
Buddha), “danh văn” nói theo
cách bây giờ là “mức độ nổi tiếng”. Người
tu hành thật sự dụng công, tu đến mức độ
khá, quả thật sẽ nổi tiếng. Danh lẫn lợi
đều có thể hại người. Nếu thiếu
trí huệ, sẽ thường bị mê, hễ mê ắt
đọa lạc. “Quang” là
trí huệ, đối với họa hại của tiếng
tăm, lợi dưỡng đều thấu hiểu rõ
ràng, tự mình ắt phải xa lìa danh lợi thì mới chẳng
bị hại.
Vị
Phật thứ ba là Đại Diệm Kiên Phật
(Maharciskandha Buddha), “Diệm”
(燄) là ngọn lửa,
trí huệ quang minh, biểu thị đột phá cửa ải
danh lợi thì công phu sở học ắt sẽ tăng cao.
Khi ấy sẽ có đủ hai thứ trí là Căn Bản
Trí và Hậu Đắc Trí trên mức độ nông cạn.
Hai thứ trí này được biểu thị bằng
[hình tượng] hai vai trái và phải, hai trí hiện tiền
giúp Phật giáo hóa. Căn Bản Trí là Thật Trí, là Thể
của trí huệ. Hậu Đắc Trí là Quyền Trí, là Dụng
của trí huệ. Kinh Bát Nhã đã nói: Căn Bản Trí là “Bát Nhã vô tri”, Hậu Đắc
Trí là “không gì chẳng biết”.
Chúng ta chỉ có vọng tưởng, phân biệt, về
căn bản là chẳng có trí huệ, trí huệ là do Định
mà có. Nếu cầu trí huệ thì trong bất luận tông
phái nào, bậc thiện tri thức chân chánh sẽ dạy
người ta trước hết phải cầu vô tri.
Như Lục Tổ đại sư đã nói “vốn không có một vật”,
có tri kiến nhất định là tà tri tà kiến. Chánh tri
là trí huệ Bát Nhã trong tự tánh. Vì thế, nó được
gọi là Tự Nhiên Trí hay Vô Sư Trí. Người học
Phật hiện thời hoàn toàn làm trái cách dạy bảo của
cổ đức. Trước hết, cầu học rộng
nghe nhiều, thứ gì cũng muốn học, kết quả
là hiểu biết hữu hạn. Trí huệ trong tự tánh
chẳng do khảo cứu, đọc rộng rãi các sách mà
có, mà phải do Định. Nhà Phật nói: “Nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ”.
Pháp môn Niệm Phật là phải niệm đến mức
nhất tâm bất loạn. Nếu đắc nhất tâm, sẽ
đắc Căn Bản Trí. Hậu Đắc Trí là tác dụng
của Căn Bản Trí. Lục căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần bên ngoài, hiểu rõ hết thảy chính
là Hậu Đắc Trí. Thật Trí là Tự Thụ Dụng,
vô tri. Quyền Trí là Tha Thụ Dụng, không gì chẳng biết.
Hai trí đều đắc nên gọi là Đại Diệm
Kiên Phật. Chính mình thụ dụng thì vô tri, cũng là “vô thuyết” (không nói), không nói
mà nói. Không gì chẳng biết là Tha Thụ Dụng, nhằm
giáo hóa chúng sanh nên có biết, có nói, nói mà chẳng nói. Chính
mình vĩnh viễn ở trong cảnh giới thanh tịnh,
vắng lặng, giúp đỡ chúng sanh, hòa quang đồng
trần, sống động, hoạt bát, thì mới có thể
giáo hóa hết thảy chúng sanh. Nhà Phật thường nói
“tục Phật huệ mạng,
hoằng pháp lợi sanh” (tiếp nối huệ mạng
của Phật, hoằng pháp lợi sanh). Không có hai thứ
trí huệ này sẽ chẳng làm được, chỉ có
tâm từ bi xuông thì cũng chẳng sử dụng
được.
Vị
Phật thứ tư là Tu Di Đăng Phật (Merupradipa
Buddha). Tu Di Đăng là tỷ dụ, biểu thị tu Huệ,
chuyển Thức thành Trí. Núi Tu Di do bốn thứ báu hợp
thành, biểu thị chuyển tám Thức thành Tứ Trí.
Năm Thức trước, tức Nhãn Thức, Nhĩ Thức,
Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, tiếp xúc cảnh
giới bên ngoài, là “lãnh thọ”
(tiếp nhận). Thức thứ sáu (Ý Thức) là phân biệt.
Thức thứ bảy (Mạt Na Thức) là chấp trước.
Thức thứ tám ghi ấn
tượng, tồn trữ thành chủng tử (hạt giống)
trong cái kho A Lại Da Thức. Cổ đức nói: May là những
chủng tử ấy chẳng có thể tích; nếu không, tột
cùng hư không đều chẳng thể chứa đựng
hết. Mỗi ngày chứa thêm chủng tử; sau khi chết,
chủng tử nào có tánh chất mạnh mẽ sẽ lôi thần
thức đi thọ báo trước. Khởi tâm động
niệm lúc bình thường có quan hệ lớn nhất, tạo
ảnh hưởng sẽ đầu thai vào đường
nào. Trong lục đạo, xả thân này, thọ thân khác
đều tuân theo quy luật này. Đức Phật nói
mười pháp giới đều là hoàn cảnh sống của
chúng ta. Nhân tố trọng yếu nhất của Phật
Pháp Giới là “tánh bình đẳng”;
hễ trong tâm khởi lên một niệm sẽ là chẳng
bình đẳng. Điều kiện làm Bồ Tát là hành Lục
Độ, [điều kiện làm] Duyên Giác là mười
hai nhân duyên, [điều kiện làm] Thanh Văn là Tứ
Đế. Đấy là Tứ Thánh Pháp Giới (Phật, Bồ
Tát, Duyên Giác, Thanh Văn) ở ngoài tam giới. [Điều
kiện của] Thiên Giới là Thập Thiện. Chỉ tu
Thập Thiện thì chỉ có thể sanh vào các tầng trời
thuộc Dục Giới. Từ Sắc Giới Thiên trở
lên còn phải tu thêm Tứ Vô Lượng Tâm, tức từ,
bi, hỷ, xả. [Điều kiện của] Nhân Đạo
(loài người) là Ngũ Giới. Nho Gia Trung Quốc nói
Ngũ Thường, tức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, gần
giống với Ngũ Giới. Thực hiện [những
điều ấy] viên mãn thì đời sau chẳng mất
thân người. Sốt sắng tu nhiều điều
lành, nhưng lại có tập khí rất lớn, ngạo nghễ,
ngã mạn, sẽ sanh vào A Tu La đạo. Keo kiệt, tham
lam là ngạ quỷ đạo. Ngu si là súc sanh đạo.
Nóng giận là địa ngục đạo. Trong
tương lai chúng ta sẽ phải sanh vào đường
nào, chính mình khi trở về nhà, hãy lắng lòng suy nghĩ
thì sẽ nhận biết, chẳng cần phải hỏi
ai khác! Nói theo pháp môn Niệm Phật thì là chuyển Thức
thành Trí. Thân lễ kính A Di Đà Phật, miệng xưng niệm
A Di Đà Phật, tâm tưởng A Di Đà Phật, chuyển
Thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí. Từ đấy
trở đi, chẳng còn suy nghĩ lung tung nữa, biết
hết thảy pháp đều là Không, như mộng, huyễn,
bọt, bóng, chuyển Mạt Na Thức thành Bình Đẳng
Tánh Trí, chẳng chấp trước hết thảy pháp,
tâm địa bình đẳng. Chuyển A Lại Da Thức
thành Đại Viên Kính Trí, không gì chẳng biết[1].
Vị
Phật thứ năm tức vị Phật cuối cùng [ở
phương Nam] là Vô Lượng
Tinh Tấn Phật (Anantavirya Buddha), dạy chúng ta
phương pháp tu hành. Thiện căn của Bồ Tát chỉ
có một thứ là tinh tấn, thành tựu đại trí huệ.
Chướng ngại lớn nhất đối với tu
hành là giải đãi. Xem Cao Tăng Truyện, Cư Sĩ
Truyện, không một người biếng nhác, bê trễ
nào có thể thành tựu! Chúng ta rất muốn dụng
công, nhưng tinh thần uể oải, nguyên nhân là do nghiệp
chướng, ắt phải lập cách khắc phục. Tại
Đài Bắc có một vị đồng tu lái taxi, tức
cư sĩ Hứa Thu Hùng, bị bệnh, tinh thần uể
oải, nhất định muốn khắc phục. Do cuộc
sống ràng buộc, mỗi tháng ông tu tinh tấn niệm Phật
hai lần; mỗi lần niệm Phật suốt hai ngày
hai đêm không ngừng, một câu Phật hiệu niệm
đến cùng. Càng niệm tinh thần càng tốt đẹp.
Mỗi lần chỉ cần nghỉ ngơi hai tiếng
đồng hồ liền có thể làm việc tiếp.
Đừng thấy ông ta làm công việc tầm thường,
nhỏ nhoi, tương lai ông ta nhất định vãng
sanh. Một vị khác nữa là cư sĩ Khưu Hiển
Đạt, làm việc tại Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội, hiện đang sống tại một ngôi
chùa ở Phước Châu, phụ trách gởi tặng kinh
sách. Ông ta là người ngoài đời, mỗi ngày ngủ
đến bảy tám giờ mới dậy. Người xuất
gia trong chùa ba giờ sáng đã dậy, bốn giờ tụng
khóa sáng. Ông ta ở trong chùa cảm thấy hết sức hổ
thẹn, chân tâm phát lộ sám hối; hiện thời đã
theo mọi người làm việc, chẳng nề hà khó
khăn, ai cũng phải khen ngợi. Không có chướng
ngại nào chẳng thể khắc phục, chính mình phải
có chí nguyện kiên cường thì mới dũng mãnh thực
hiện được, xin đừng cam phận đọa
lạc. Thế gian có ba thứ thiện căn là không tham,
không sân, không si; hết thảy thiện pháp sanh từ những
điều này. Thiện căn của Bồ Tát chỉ có một
thứ là tinh tấn.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Tây Phương thế giới hữu Vô
Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật,
Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại
Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật,
như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật,
các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt
tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới,
thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh
đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư
Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Kinh”.
(Giải) Vô Lượng Thọ Phật dữ
Di Đà đồng danh, thập
phương các
phương diện,
đồng danh chư Phật vô lượng dã. Nhiên tức
thị đạo sư diệc khả. Vị độ
chúng sanh, bất phương chuyển tán Thích Ca Như Lai sở
thuyết.
(經) 舍利弗。西方世界。有無量壽佛。無量相佛。無量幢佛。大光佛。大明佛。寶相佛。淨光佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。
(解) 無量壽佛。與彌陀同名。十方各方面。同名諸佛無量也。然即是導師亦可。為度眾生。不妨轉讚釋迦如來所說。
(Chánh
kinh: Trong các thế giới ở phương Tây có Vô
Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật,
Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại
Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật,
các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng
như thế đó, mỗi vị ở trong nước
mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp
tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật:
“Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức
Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy
Chư Phật Hộ Niệm này”.
Giải: Vô Lượng Thọ Phật cùng tên với A Di
Đà Phật. Trong mười phương, tại mỗi
phương có vô lượng chư Phật mang cùng tên.
Nhưng dù cho Vô Lượng Thọ Phật chính là đạo
sư A Di Đà Phật thì cũng vẫn được. Vì độ chúng sanh nên khen ngợi
lời Thích Ca Như Lai đã nói cũng đâu có trở ngại
gì).
Những
vị Phật có cùng danh hiệu với A Di Đà Phật
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng
biết là bao nhiêu! Vì rộng độ chúng sanh, các vị
Phật khen ngợi lẫn nhau. A Di Đà Phật cũng
khen ngợi Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng tán thán mười
phương thế giới chư Phật. Phương Nam biểu thị
tu huệ, phương Tây biểu thị tu phước.
Trì danh niệm Phật là phước huệ song tu.
Vị
Phật thứ nhất là Vô Lượng Thọ Phật
(Amitayus Buddha), Vô Lượng Thọ tượng trưng
cho phước thọ. Trong các thứ phước đức,
Thọ là bậc nhất. A Di Đà dịch là Vô Lượng,
chẳng những thọ mạng vô lượng, mà quang
minh, trí huệ, đức năng, thần thông của Ngài
đều vô lượng. Trong các thứ vô lượng, thọ
mạng là cao tột nhất. Nếu không có tuổi thọ
thì hết thảy những thứ khác cũng như không.
Vị
thứ hai là Vô Lượng Tướng Phật
(Amitalakśana Buddha). “Tướng”
biểu thị phú quý. Những thầy bói trong và ngoài nước,
hễ xem tướng đều phân biệt phú quý hay bần
tiện. Tướng chuyển theo tâm. Tướng tốt
đẹp nhất trong thế gian là Phật tướng.
Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ
đẹp phụ. Hãy nên biết: Tướng là quả
báo, có quả ắt phải có nhân. Chẳng hạn như
ba đời không nói dối, đầu lưỡi có thể
liếm đụng chót mũi. Kinh dạy: Bồ Tát sau khi
thành Phật còn phải tu phước trong một trăm
kiếp, tu tướng hảo trang nghiêm. Nhiếp thọ
chúng sanh không chỉ cần phải có Huệ mà còn phải
có Phước. Có người học vấn rất giỏi,
nhưng giảng kinh chẳng ai thích nghe, là vì vô phước.
A Nan trông thấy
tướng hảo của Phật liền phát nguyện xuất
gia. Phật có vô lượng tướng, tướng có vô
lượng hảo, ba mươi hai tướng, tám
mươi thứ hảo chính là tướng được
thị hiện nơi thân Liệt Ứng của Phật
Thích Ca.
Vị
Phật thứ ba là Vô Lượng Tràng Phật (Amitadhvaja
Buddha). Thời cổ có tràng, phan. Tràng (幢, dhvaja) hình tròn, còn Phan (幡, patākā hoặc
ketu) thì dẹp. [Tràng] giống như ống thông gió ở
phi trường. Tại Đại Lục và Nhật Bản
vẫn còn thấy có Tràng. Tác dụng của nó là tuyên cáo hoặc
thông cáo. Phật giáo là giáo dục, tôn trọng thầy, chỉ
nghe “tới học”, chứ chưa nghe “đến dạy”.
Nhà Phật từ xưa đến nay chưa từng nghe
nói có chuyện chiêu sinh, cũng chẳng dám mang ý tưởng
làm thầy người khác. Do vậy trách nhiệm tiếp
dẫn đại chúng đều do học sinh. Sau này, các vị
tổ sư đại đức hễ hoằng hóa ở
một nơi nào, nếu trong chùa có giảng kinh, sẽ treo
tràng trên cột cờ ngoài miếu, biểu thị hôm nay
trong chùa có giảng kinh, ai muốn đến nghe cứ tự
do tham gia. Nếu tổ chức pháp hội thì treo phan.
Vị
Phật thứ tư là Đại Quang Phật (Mahaprabha
Buddha) biểu thị Căn Bản Trí, vị Phật thứ
năm là Đại Minh Phật (Mahanirbhasa Buddha) biểu thị
Hậu Đắc Trí. Hai thứ trí huệ, “đại quang” là Tự Thụ
Dụng, “đại minh” là
Tha Thụ Dụng. Đối với hết thảy pháp,
pháp nào Phật cũng hiểu rõ, nhưng chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước, tợ hồ hoàn toàn không biết,
chưa khởi tâm, chưa động niệm, vạn pháp
bình đẳng, vạn pháp giống hệt như một,
đấy chính là hiện tượng của Căn Bản
Trí. Nếu có người hướng về Phật
thưa hỏi, Phật liền giải đáp tận cội
nguồn của chuyện được hỏi ấy.
Đó là Hậu Đắc Trí, không gì chẳng biết.
Vị
Phật thứ sáu là Bảo Tướng Phật
(Ratnalakśana Buddha). Bảo (寳) có nghĩa là tôn quý thù thắng.
Từ Vô Lượng Thọ Phật đến Bảo
Tướng Phật là phước đức vô lượng
vô biên. Thuyết minh đại khái đức hiệu của
sáu vị Phật là “nếu không có phước sẽ chẳng
thể độ chúng sanh”. Phật còn như thế, huống
là từ Bồ Tát trở xuống! Thầy Lý một đời
giảng kinh, thuyết pháp, mở lớp học kinh ở
Đài Trung, thường bảo chúng tôi phải tu phước,
kết pháp duyên với chúng sanh. Phương thức rất
nhiều, như khi thầy Lý giảng kinh thì chăm sóc
thính chúng nhằm kết duyên với họ. Pháp duyên của
tôi rất tốt, dùng in kinh để kết duyên, càng kết
càng rộng.
Vị
Phật thứ bảy, tức vị Phật cuối cùng
[trong phương Tây], là Tịnh Quang Phật
(Suddharaśmiprabha Budda), dạy chúng ta phương pháp tu
phước: Phải tịnh, phải quang minh. Tịnh là
tam nghiệp thanh tịnh, tâm địa phải chánh đại
quang minh. Thanh tịnh nhất định phải đoạn
sạch mười ác nghiệp. Tuy tu Thập Thiện nghiệp,
nhưng chẳng chấp vào tướng tu thiện, tam luân
thể không, thì gọi là “tịnh nghiệp”. Trong hết thảy
các bức vẽ hình Phật, phía trên có viết ba chữ bằng
tiếng Phạn là “Ông, A, Hồng”
(Aum, Ah, Hum), nghĩa là “tam nghiệp
thanh tịnh”. Ông (Aum) là thân, A (Ah) là khẩu, Hồng
(Hum) là ý. Ba nghiệp thanh tịnh, tâm địa
đương nhiên chánh đại quang minh, không có tơ
hào ác niệm và ngã chấp. Có Ngã sẽ có riêng tư, tâm
địa chẳng quang minh. Ngã đã không có, nào còn có Ngã Sở?
Phá được Ngã Chấp thì mới thật sự chánh
đại quang minh. Trong Tứ Thánh Pháp Giới có tình hình
như vậy. A La Hán, Bích Chi Phật phá được Ngã
Chấp, lục đạo phàm phu đều có Ngã Chấp.
Có tâm riêng tư sẽ chẳng bình đẳng. Có sai biệt
sẽ sanh phiền não, nghiệp chướng. Muốn tu
đại phước đức, phải dụng công
nơi tam nghiệp thanh tịnh và tâm địa quang minh thì
mới có thể thành tựu viên mãn phước đức
xứng tánh. Vị Phật cuối cùng nhằm giáo hóa
phương pháp tu hành.
Chư
Phật trong các thế giới ở phương Tây
cũng đều ở trong cõi nước của mỗi
vị, giống như Phật Thích Ca, vì hết thảy
chúng sanh mà tuyên giảng kinh A Di Đà, tán thán y báo và chánh báo
trang nghiêm trong Tây Phương thế giới, khuyến
khích mọi người hãy tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh
Độ. Do vậy, hết thảy chư Phật đều
nói kinh này, khế cơ, khế lý. Phật Thích Ca thuyết
pháp trong thế giới này bốn mươi chín năm, thời
gian không dài, kinh điển được Ngài giảng có hạn.
Những kinh chưa giảng rất nhiều, là vì những
kinh khác đều chẳng khế cơ, có giảng
cũng vô ích. Chỉ có pháp môn này đối với hết
thảy căn cơ đều có ích, thích hợp trọn
khắp hữu tình trong pháp giới, nên không có vị Phật
nào chẳng giảng kinh A Di Đà.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Bắc phương thế giới hữu
Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở
Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, như thị
đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ
quốc, xuất quảng trường thiệt tướng,
biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết
thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh
đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư
Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Kinh”.
(經) 舍利弗。北方世界。有燄肩佛。最勝音佛。難沮佛。日生佛。網明佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。
(Chánh
kinh: Trong các thế giới ở phương Bắc có
Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở
Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, các đức
Phật nhiều như số cát sông Hằng như thế
đó, mỗi vị ở trong nước mình, hiện
tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên
đại thiên thế giới, nói lời thành thật:
“Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức
Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy
Chư Phật Hộ Niệm này”).
Tại
phương Bắc cũng kể tên năm vị Phật,
biểu thị sự hóa độ người khác. Trong phần
trước, phương Nam là tu Huệ,
phương Tây là tu Phước. Có đại trí huệ,
có đại phước đức. Khi ấy, phải làm
chuyện hóa độ chúng sanh, khiến cho họ phá mê khai
ngộ, lìa khổ, được vui. Sau khi phước và
huệ đầy đủ, nhất định phải học
theo chư Phật Như Lai, lấy hoằng pháp lợi
sanh làm thiên chức.
Vị
Phật thứ nhất là Diệm Kiên Phật (Arciskandha
Buddha). Đại Diệm Kiên Phật trong phần trước
là hai thứ trí huệ vừa mới tu thành, còn vị Diệm
Kiên Phật này là phước huệ viên mãn, gánh vác gia nghiệp
của Như Lai, hoằng pháp lợi sanh.
Vị
Phật thứ hai là Tối Thắng Âm Phật
(Vaishvanaranirghosha Buddha). Chúng sanh trong mười
phương thế giới căn tánh khác nhau. Chúng sanh trong
thế giới này nhĩ căn lanh lợi nhất, như
trong kinh Lăng Nghiêm, Văn Thù Bồ Tát vì thế giới
này chọn lựa pháp Viên Thông đã nói: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại
âm văn” (Chân giáo thể phương này, thanh tịnh
nơi nghe tiếng). Khổng lão phu tử dạy học
dùng âm thanh, Phật Thích Ca cũng giống như vậy.
Không có kinh sách, văn tự, hoàn toàn dựa vào lời nói.
Trong các kinh, kinh A Di Đà thù thắng nhất. Kinh Vô Lượng
Thọ tuy xưng tụng là kinh bậc nhất về Tịnh
Độ, giới thiệu viên mãn y báo chánh báo trang nghiêm
trong Tây Phương thế giới, nhưng nguyên tắc
cơ bản nhất là kinh A Di Đà, vì Tín - Nguyện - Hạnh
là điều kiện vãng sanh quan trọng nhất. Một
lần, rồi hai lần, rồi lại ba lần khuyên
lơn, khích lệ chúng ta, xót lòng rát miệng giáo huấn.
Kinh văn tuy không nhiều, lời lẽ đơn giản,
nhưng ý bao trùm. Tối Thắng Âm chính là dạy chúng ta hãy
niệm Phật, tuyên nói kinh này.
Vị
Phật thứ ba là Nan Trở Phật (Dushpradharsha Buddha), Trở
(沮) là trở ngại,
[Nan Trở (khó thể gây chướng ngại)] bao hàm ý
nghĩa ủng hộ chánh pháp, dũng mãnh tinh tấn, hàng
phục ma chướng. Ma chướng xảy đến
là do đời đời kiếp kiếp tạo ác nghiệp
vô lượng vô biên, kết oán cừu với chúng sanh quá
nhiều, cho nên họ thường tới xâm phạm hãm hại.
Lúc đức Phật tại thế cũng có nhiều ma nạn.
Học Phật chẳng phải là thuận buồm xuôi gió.
Lục Tổ Huệ Năng đại sư từng lánh nạn
suốt mười lăm năm trong đám thợ săn,
chẳng dám lộ diện. Ngài là người đắc
đạo, là bậc Pháp Thân đại sĩ minh tâm kiến
tánh mà còn như thế. Trong thế gian hiện thời, yêu
ma quỷ quái chỗ nào cũng có, ắt phải có Định
- Huệ để hàng phục ma oán, khắc phục hết
thảy những thử thách khó khăn.
Nan
Trở Phật vừa được nêu lên trên đây,
tượng trưng cho ý nghĩa hoằng dương, bảo
vệ chánh pháp, chẳng bị ma vương ngoại đạo,
hết thảy chướng ngại ngăn trở, nhiễu
loạn. Vị Phật tiếp đó, là vị thứ
tư, Nhật Sanh Phật (Adityasambhava Buddha), tượng
trưng sự dạy học tăng trưởng. “Nhật” tượng trưng
trí huệ. Chỉ có đột phá hết thảy chướng
ngại, khó khăn thì trí huệ mới tăng trưởng,
chánh pháp mới có thể thường trụ thế gian, lợi
ích chúng sanh.
Vị
Phật cuối cùng, thứ năm, là Võng Minh Phật
(Jaliniprabha Buddha). “Võng” (網) là cái lưới,
hình dung chúng sanh trầm luân trong biển khổ, Bồ Tát
dùng lưới vớt lên để cứu độ họ.
Vô lượng pháp môn đến cuối cùng nhất định
phải dẫn về Cực Lạc. Chẳng sanh Tịnh
Độ, ắt phải vào luân hồi. Chúng ta chẳng thể
đoạn Kiến Tư phiền não, tập khí vọng
tưởng, chấp trước thì lục đạo sẽ
do đấy mà có. Có một loại chúng sanh, công phu định
lực rất sâu, nhưng vẫn ở trong lục đạo,
do tập khí vọng tưởng chẳng hiện hành bèn tự
cho là đã đắc Đại Niết Bàn. Thật ra, họ
đắc Vô Tưởng Định, vẫn ở trong lục
đạo, tuy tập khí phiền não chẳng hiện hành,
căn bệnh là do một tí vô minh ngăn lấp. Chỗ
khó khăn của chúng sanh là chẳng rớt vào bên vọng
tưởng thì sẽ rơi vào bên vô minh. Định của
Phật, Bồ Tát không có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, thông đạt hiểu rõ hết thảy
vạn pháp, tâm địa quang minh chẳng phải là tối
tăm, cảnh giới bên ngoài đều hiểu rõ. Nếu
có Định rất sâu mà bất cứ chuyện gì bên
ngoài cũng chẳng biết thì tu thành công bất quá là Vô
Tưởng Định đó thôi! Tương lai, sau khi chết
sẽ sanh lên Vô Tưởng Thiên trong Tứ Thiền Thiên,
thuộc ngoại đạo, ngoại đạo là ma.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Hạ phương thế giới hữu
Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật,
Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật,
như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật,
các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt
tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới,
thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh
đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư
Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm Kinh”.
(Giải)
Thử giới thủy luân, kim luân, phong luân chi hạ, phục
hữu hạ giới Phi Phi Tưởng Thiên đẳng,
nãi chí trùng trùng vô tận dã. Đạt Ma thử vân Pháp.
(經) 舍利弗。下方世界。有師子佛。名聞佛。名光佛。達磨佛。法幢佛。持法佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。
(解) 此界水輪。金輪。風輪之下。復有下界非非想天等。乃至重重無盡也。達磨此云法。
(Chánh
kinh: Trong các thế giới ở phương dưới
có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật,
Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, các
đức Phật nhiều như số cát sông Hằng
như thế đó, mỗi vị ở trong nước
mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp
tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật:
“Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức
Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy
Chư Phật Hộ Niệm này”.
Giải: Phía dưới thủy luân, kim luân và phong luân[2]
của thế giới này lại có các cõi trời như Phi
Phi Tưởng v.v... của thế giới ở
phương dưới, cho đến trùng trùng vô tận.
Đạt Ma được cõi này dịch là Pháp).
Trong
các thế giới ở phương dưới nêu tên sáu vị
Phật, tượng trưng cho ý nghĩa phổ độ
giáo hóa. Vị Phật thứ nhất là Sư Tử Phật
(Simha Buddha), tỷ dụ đức Phật thuyết pháp.
Sư tử là vua trong các loài thú, gầm một tiếng,
trăm loài thú đều run sợ. Phật thuyết pháp
thì hết thảy tà môn ngoại đạo đều bị
hàng phục. Do vậy, ví Phật thuyết pháp như sư
tử rống. Bồ Tát thay Phật thuyết pháp,
được gọi là Pháp Vương Tử. Pháp
Vương Tử thay Phật thuyết pháp, chẳng hai, chẳng
khác gì Phật thuyết pháp, cũng có thể gọi là
“sư tử hống”.
Vị
Phật thứ hai là Danh Văn Phật (Yaśa Buddha), nói về
mức độ nổi tiếng của Phật, Bồ
Tát. Như tại Trung Quốc “gia
gia Quán Thế Âm, hộ hộ Di Đà Phật” (nhà nhà
Quán Thế Âm, nhà nhà Di Đà Phật), mọi người
đều biết. Vị Phật này tượng trưng
cho bậc nhân thiên đại sư, có năng lực, có trí
huệ giáo hóa hết thảy chúng sanh, như Quán Âm, Địa
Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, cho đến các vị
tổ sư các tông phái đều là thay Phật hành hóa.
Vị
Phật thứ ba là Danh Quang Phật (Yaśaprabhava Budda).
Quang tượng trưng trí huệ, ứng cơ thuyết
pháp, pháp âm vang xa, khiến cho hết thảy chúng
sanh phá mê
khai ngộ, được thụ dụng chân thật nơi
Phật
pháp, tức là hễ
có thực chất thì danh tiếng sẽ dồn về.
Vị
Phật thứ tư là Đạt Ma Phật (Dharma Buddha),
tượng trưng cho sư thừa, đặc biệt
chỉ Tịnh Độ Tông. Tịnh Độ Tông là do A
Di Đà Phật trực tiếp truyền xuống. A Di
Đà Phật truyền cho chư Phật, tổ sư các
tông đều là đời đời truyền cho nhau, chỉ
riêng Tịnh Độ Tông chẳng có. Lịch đại tổ
sư của Tịnh Độ Tông là những vị đại
đức xuất gia, cả đời chuyên tu chuyên hoằng
dương Tịnh Độ Tông, người đời
sau suy tôn các Ngài là “nhất đại tổ sư”. Tại
Trung Quốc, từ thoạt đầu là Huệ Viễn
đại sư mãi cho đến thời Dân Quốc, trong
lịch sử, những vị chuyên tu, chuyên hoằng
dương gồm mười ba vị, vị cuối cùng
là Ấn Quang đại sư. Do vậy, tổ sư Tịnh
Độ Tông được người đời tôn
xưng là “đại sư”. Đại sư là tiếng
tôn xưng Phật, đấy là một kiến thức
thông thường trong việc học Phật. Xưng hô
người khác chớ nên quá phận, chỉ có tổ
sư Tịnh Độ Tông đáng gọi là đại
sư, Phật có năng lực giáo hóa hết thảy chúng
sanh thành Phật. Tổ sư Tịnh Độ Tông có
sư thừa từ Phật, cũng dùng tín nguyện trì
danh, dạy chúng sanh vãng sanh bất thoái thành Phật, giáo
pháp hoàn toàn giống như chư Phật, nhân đồng,
quả cũng đồng. Do vậy, gọi các Ngài là đại
sư chẳng quá lố tí nào. Bồ Tát thì gọi là Đại
Sĩ hoặc Khai Sĩ, Chánh Sĩ, chẳng thể gọi
là đại sư.
Trước
khi đức Phật diệt độ đã chỉ dạy
hậu thế một phương pháp ổn thỏa, tốt
đẹp là “Tứ Y Pháp”; nếu người đời
sau tuân thủ Tứ Y Pháp thì sẽ chẳng khác gì khi đức
Phật còn tại thế.
Thứ
nhất là “y pháp, bất y nhân”
(tuân theo pháp, đừng tuân theo người nói pháp). Trong
tác phẩm chú giải Quán Kinh, Thiện Đạo đại
sư đã giảng điều này hết sức rõ ràng. Kể
từ những pháp sư, đại đức thông thường
cho đến hàng Pháp Thân đại sĩ, Đẳng Giác Bồ
Tát, nếu lời nói của các vị đại thiện
tri thức ấy không tương ứng với những
gì được dạy trong kinh Phật thì chớ nên tuân
theo. Có kẻ còn nói quá đáng: “Mười phương
chư Phật nói pháp môn Tịnh Độ do Phật Thích
Ca đã nói chính là phương tiện quyền biến, thiện
xảo, chẳng phải là chân thật”. Chúng ta cũng chớ
nên tin theo. Bởi lẽ, Phật Phật đạo đồng,
nếu nói pháp chẳng giống nhau sẽ thuộc về
ngoại đạo.
Thứ
hai là “y nghĩa, bất y ngữ”
(tuân theo ý nghĩa, đừng tuân theo lời nói). Ngôn ngữ
nói dài, nói ngắn, nói sâu, nói cạn, đều chẳng sao
hết, hễ ý nghĩa đúng là được rồi,
không cần phải chấp trước. Kinh Phật bằng
tiếng Phạn từ Ấn Độ truyền sang, có rất
nhiều bản dịch. Như kinh Vô Lượng Thọ
có đến mười hai bản dịch, đã bị thất
truyền bảy bản, hiện thời lưu truyền
trong cõi đời chỉ có năm loại. Lại như
kinh A Di Đà, ngài La Thập và Huyền Trang mỗi vị
đều có bản dịch riêng, văn tự khác nhau,
nhưng ý nghĩa chẳng khác gì. Vì thế, chớ nên tranh
luận về mặt văn tự.
Thứ
ba, “y liễu nghĩa, bất y
bất liễu nghĩa”. So sánh hết thảy kinh, nếu
kinh nào có thể giúp con người liễu sanh tử thì là
“liễu nghĩa”. Có một
số người chí nguyện chẳng cao, chỉ cầu
phước báo nhân thiên, Phật liền giảng những
kinh điển liên quan tới Ngũ Giới, Thập Thiện
để thuận theo ý nguyện của họ. Trước
kia, những tiểu thuyết lịch sử hoặc tuồng
hát Trung Quốc diễn nói những chuyện thiện ác
nhân quả báo ứng, khuyên người ta bỏ ác hướng
lành, bao hàm ý nghĩa giáo dục rất sâu, có ảnh hưởng
đúng đắn tới xã hội. Trong lục đạo
của thế gian không có sự sung sướng thật sự,
mà có thì cũng chẳng thể giữ cho nó tồn tại
vĩnh viễn được! Sang như thiên tử, giàu
có khắp bốn biển, hằng ngày vẫn phải
ngăn ngừa kẻ khác lật đổ chánh quyền,
chịu áp lực tinh thần, hồi hộp không yên, khổ
não hết sức. Đức Phật nói ba cõi chẳng yên,
ví như nhà lửa. Nếu con người có thể thật
sự suy nghĩ thấu suốt thì mới buông xuống
được, và còn tiến hơn một bước nữa
là muốn vượt thoát tam giới. Nếu muốn
vượt thoát tam giới mà có tâm lượng bảo thủ
thì đức Phật dạy họ học pháp Tiểu Thừa,
còn người tâm lượng rộng mở thì đức
Phật dạy họ học Đại Thừa. Nếu cầu
liễu nghĩa rốt ráo thì trong vô lượng vô biên pháp
môn, chỉ có “tín nguyện trì danh” của kinh A Di Đà là có
thể chứng đắc viên mãn Phật quả ngay trong một
đời.
Thứ
tư, “y Trí, bất y Thức”.
Trí là lý trí, Thức là tình thức. Điều này dạy
chúng ta nên vận dụng thái độ nào để chọn
lựa pháp môn tu học. Lục đạo, Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, mỗi một giai đoạn
đều là giai đoạn sau vượt trội giai
đoạn trước, giai đoạn sau là liễu
nghĩa, giai đoạn trước là bất liễu
nghĩa. Chẳng hạn như đem Bồ Tát so với
Phật thì Phật là liễu nghĩa, Bồ Tát là chẳng
liễu nghĩa. Cứ suy luận tương tự
như vậy, chúng ta phải dùng lý trí để chọn lựa
pháp môn liễu nghĩa rốt ráo, xin hãy đừng vì cảm
tình vướng mắc mà chọn pháp môn chẳng liễu
nghĩa. Kinh A Di Đà là liễu nghĩa nhất trong các môn
liễu nghĩa, là Đại Thừa nhất trong các pháp
Đại Thừa. Nay ta đã tiếp nhận pháp môn liễu
nghĩa rốt ráo này thì bất cứ pháp môn nào khác cũng
nhất định phải nên triệt để buông xuống,
chính mình phải có lý trí, đừng chịu ảnh hưởng
của người khác. Tôi thường khuyên các đồng
tu, chúng ta quy y A Di Đà Phật, làm đệ tử tốt
của Phật, nương theo Trí, đừng dựa theo
Thức. Đặc biệt là kinh Di Đà và chương
[Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật] Viên Thông
đã chuyên giảng nói [pháp môn Tịnh Độ] đến
tột bậc, thuần đến tột bậc. Một
bộ kinh, thậm chí một câu danh hiệu là đủ rồi,
những thứ khác đều buông xuống hết, tâm sẽ
Định. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư bảo Đại
Thế Chí Bồ Tát là Sơ Tổ của Tịnh Tông trong
pháp giới, Ngài dạy chúng ta niệm “chẳng cần
đến phương tiện nào khác mà tâm tự
được khai ngộ”. Chẳng cần đến
phương pháp nào khác để phụ trợ, một câu
Phật hiệu sẽ thành công. “Đô
nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế”
(Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục),
quyết định chẳng để xen tạp! Học
Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, đều gây chướng ngại
cho tâm thanh tịnh. Hãy học theo tổ sư, đại
đức, “Tam Tạng mười
hai bộ kinh nhường cho người khác ngộ!”
Đó là sự chọn lựa bằng trí huệ đấy
nhé.
Kinh
A Di Đà là tiểu bổn của kinh Vô Lượng Thọ,
là bản tinh túy nhất. Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Di
Đà được giảng cặn kẽ. Vì thế, cổ
nhân gọi là Đại Bổn và Tiểu Bổn. Tịnh
Độ là chỗ quy túc của Hoa Nghiêm, mà cũng là tổng
kết của Hoa Nghiêm. Bản hội tập kinh Vô Lượng
Thọ của cụ Hạ gồm bốn mươi tám phẩm,
trong ấy lấy phẩm thứ sáu “bốn mươi tám
nguyện” làm bậc nhất. Trong bốn mươi tám nguyện,
tuân theo cách giảng của cổ nhân thì nguyện thứ
mười tám là bậc nhất. Nguyện thứ mười
tám là “mười niệm ắt sanh”. Do điều này, có
thể thấy rõ: Trì danh niệm Phật là bậc nhất.
Niệm một tiếng A Di Đà Phật chính là niệm hết
thảy chư Phật. Một chính là hết thảy, hết
thảy chính là một. Đọc một bộ kinh A Di
Đà giống như đọc vô lượng vô biên kinh luận
của mười phương tam thế chư Phật
đã giảng. Những kinh luận khác đều có thể
buông xuống.
Vị
Phật thứ năm là Pháp Tràng Phật (Dharmadhvaja Buddha). “Pháp Tràng” là làm mẫu cho chúng
sanh. Dựng pháp tràng là phổ biến, tuyên dương pháp
môn, kinh điển, tạo dựng pháp tràng đấy!
Đầu thời Dân Quốc, Ấn Quang pháp sư lập
đạo tràng tại Tô Châu, là đạo tràng Tịnh Tông
duy nhất thời ấy. Bất cứ ai chỉ muốn
chuyên tu Tịnh Độ đều được hoan
nghênh, lại còn quy định “không
thâu nhận đồ đệ, không truyền giới,
không giảng kinh, không tổ chức pháp hội”. Một
năm ba trăm sáu mươi lăm ngày đều niệm
Phật, mỗi ngày đều giống như đả Phật
thất. Hiện thời, chúng ta kiến lập đạo
tràng, cũng mong noi theo quy củ của Ấn Tổ (tổ
Ấn Quang), nhưng nhất định phải giảng
kinh, vì con người hiện thời hiểu lầm Tịnh
Độ rất sâu, nhất định phải nói rõ ràng,
khiến cho những người đã nhập môn tâm sẽ
Định, người chưa nhập môn nghe xong sẽ
khởi lòng ngưỡng mộ. Giảng đường
và Niệm Phật Đường phải tách rời, nghe
kinh hay niệm Phật tùy ý. Mỗi ngày giảng kinh hai tiếng,
niệm Phật tám tiếng, phổ biến Tịnh Tông, hoằng
dương trên toàn thế giới, ấy là thật sự
báo ân Phật.
Vị
Phật thứ sáu là Trì Pháp Phật (Dharmadhara Buddha), học
nhân Tịnh Tông ắt phải tùy thuận giáo huấn chân
thật của chư Phật, quyết chí cầu vãng sanh,
vĩnh viễn không ngờ vực.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Thượng phương thế giới
hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật,
Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật,
Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa
Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo
Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật,
Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng hằng
hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất
quảng trường thiệt tướng, biến phú tam
thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thực
ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị
Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.
(經) 舍利弗。上方世界。有梵音佛。宿王佛。香上佛。香光佛。大燄肩佛。雜色寶華嚴身佛。娑羅樹王佛。寶華德佛。見一切義佛。如須彌山佛。如是等。恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是。稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。
(Chánh
kinh: Trong các thế giới ở phương trên có Phạm
Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng
Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật,
Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ
Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến
Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật,
các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng
như thế đó, mỗi vị ở trong nước
mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp
tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật:
“Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức
Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy
Chư Phật Hộ Niệm này”).
Trong
phương trên, nói ra danh hiệu của mười vị
Phật. “Mười” biểu
thị đại viên mãn, giác hạnh viên mãn, một đời
thành Phật, [nói như vậy] để tổng kết.
Phải hơn bốn mươi năm tôi mới nhận
biết giá trị của Tịnh Độ, quả thật
chẳng dễ dàng. Có người gặp được
pháp môn này, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, thật
đáng tiếc!
Vị
Phật thứ nhất là Phạm Âm Phật (Brahmahghosa
Buddha). Phạm Âm là thuyết pháp thanh tịnh. Trong sáu
phương Phật, [danh hiệu những vị Phật ở]
phương Đông thể hiện thái độ cơ bản
để tu học, mục tiêu mong cầu và cương
lãnh của phương pháp tu hành. [Danh hiệu các vị Phật
ở] phương Nam chỉ rõ pháp
môn này nương vào trí huệ sẵn có trong tâm tánh, có
đại trí huệ thì mới có thể chọn lựa
pháp môn này. [Danh hiệu những vị Phật ở]
phương Tây dạy chúng ta tu phước, niệm Phật
là biến phước đức do A Di Đà Phật
đã tu trong vô lượng kiếp thành phước đức
của chính mình. Trong một câu Phật hiệu có tin thật,
nguyện thiết, trì danh, một mà ba, ba nhưng một
thì gọi là “tương ứng”. Phước huệ thành
tựu sẽ gánh vác sự nghiệp giáo hóa chúng sanh của
Như Lai. Đến phương dưới là thực hiện
sự nghiệp phổ biến, giáo hóa rộng rãi, cho đến
phương trên là viên mãn rốt ráo. Vị Phật thứ
nhất [biểu thị] sự thuyết pháp thanh tịnh.
Nếu trong lời thuyết pháp mà còn có danh văn, lợi
dưỡng sẽ chẳng thanh tịnh. Làm nhiều chuyện
lợi ích chúng sanh, nhưng trong tâm sạch sẽ, chẳng
có tí nhiễm trước nào. Kinh Kim Cang dạy: “Nhược Bồ Tát hữu Ngã
Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ
Giả Tướng, tức phi Bồ Tát” (Nếu Bồ
Tát có tướng Ta, tướng Người, tướng
Chúng Sanh, tướng Thọ Giả thì chẳng phải là
Bồ Tát). Đấy là lời khai thị thuộc nửa
phần đầu kinh Kim Cang. Nửa phần sau là nói đến
“Ngã Kiến”. Kiến (見) là ý niệm.
Làm hết thảy thiện hạnh, nhưng tâm giống
như chẳng có chuyện gì [thì gọi là không có Ngã Kiến,
cho đến không có Tứ Kiến].
Vị
Phật thứ hai là Tú Vương Phật (Nakshatraraja
Buddha). Chữ Tú (宿) đọc âm Tú (秀). Tinh Tú là những chòm sao ta thấy vào ban đêm.
Trong ấy, tinh cầu lớn nhất là mặt trăng,
tượng trưng pháp Đại Thừa thù thắng nhất
do đức Phật đã giảng, là con đường
tắt nơi vô thượng đạo.
Vị
Phật thứ ba là Hương Thượng Phật
(Gandhottama Buddha), tượng trưng cho con đường
tắt trong các pháp Đại Thừa, tức Thiền Tông.
Phẩm thứ năm, tức phẩm Sám Hối trong Lục
Tổ Đàn Kinh chính là truyền dạy phương pháp tu
học trong Thiền Tông. Năm phần Pháp Thân Hương
là Giới Hương, Định Hương, Huệ
Hương, Giải Thoát Hương và Giải Thoát Tri Kiến
Hương. Thiền Tông là pháp Đại Thừa nhất
trong các pháp Đại Thừa, tượng trưng cho con
đường gần nhất trong những con đường[3].
Vị
Phật thứ tư là Hương Quang Phật
(Gandhaprabhasa Buddha), tượng trưng cho Tịnh Tông. Trong
Niệm Phật Viên Thông Chương, Đại Thế Chí
Bồ Tát gọi [Tịnh Tông] là Hương Quang Trang Nghiêm.
Điểm đặc sắc của Tây Phương là
quang minh và hương báu, bất cứ vật chất nào
cũng đều tỏa hương. Cõi Tây Phương
hương báu tỏa ngát lan xa, là thế giới được
trang nghiêm bởi mùi thơm và ánh sáng (hương quang trang
nghiêm). Tịnh Độ Tông là con đường tắt
nhất trong những con đường tắt, là con
đường tắt nhất. Ba vị Phật này hiển
thị liễu nghĩa viên mãn rốt ráo. Nếu thật sự
hiểu rõ, sẽ biết chọn lựa pháp môn như thế
nào.
Vị
Phật thứ năm là Đại Diệm Kiên Phật
(Maharciskandha Buddha). Danh hiệu này đã được giải
thích trong phần trước, nhưng ở đây mang ý
nghĩa khác với phần trước. Danh hiệu trong phần
trước biểu thị hai thứ trí huệ Quyền
Trí và Thật Trí của chính mình đã thành tựu, có thể
gánh vác gia nghiệp của Như Lai. Ở đây, danh hiệu
này biểu thị giai đoạn viên mãn, đem pháp môn thù
thắng nhất truyền cho những người hữu
duyên trong đại chúng, để họ được
thụ dụng chân thật. Người vô duyên cũng phải
truyền, nếu đời này họ chẳng thụ dụng
được thì một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn
trở thành hạt giống đạo. Trong A Lại Da Thức
của người ấy có chủng tử danh hiệu A
Di Đà Phật. Thậm chí đến vô lượng kiếp
sau, gặp được duyên, cũng có thể vãng sanh. Gặp
hết thảy chúng sanh, hãy đều nên truyền “vô thượng đảnh pháp”
(pháp không còn gì cao hơn được) cho họ. Niệm
Phật niệm ra tiếng khiến cho người ta nghe
thấy là “truyền trao”. Hiện thời chúng ta có rất
nhiều tấm băng dính (sticker) in chữ A Di Đà Phật,
người khác trông thấy liền niệm một tiếng
A Di Đà Phật, họ đã gieo cái nhân thành Phật.
Vị
Phật thứ sáu là Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật
(Ratna-kusuma-sampushpitagatra Buddha). Khi Phật còn tại thế,
kinh giảng về sự “viên mãn trong một đời”
thì chỉ có một bộ kinh Hoa Nghiêm, lấy sự tu hành
của Thiện Tài làm mẫu. Thiện Tài Bồ Tát viên mãn
trong một đời, quả thật là do mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc
của Phổ Hiền Bồ Tát nên mới có thể viên mãn
trong một đời. “Tạp
Sắc Bảo Hoa” hình dung một vườn hoa lớn,
tỷ dụ Phật nói vô lượng vô biên pháp môn, không
sót một pháp nào đều được bao gồm trong ấy.
Vị
thứ bảy là Sa La Thụ Vương Phật
(Sālendraraja Buddha). Cây Sa La (Sāla) mọc tại Ấn
Độ, hết sức cứng chắc. Ở đây, “Sa La Thụ” biểu thị sự
chứng đắc kiên cố rốt ráo viên mãn, tức là
Phật quả trong Viên Giáo, thật sự là Đại
Pháp Vương, và cũng biểu thị Mật Tông, chỉ
rõ “Tịnh - Mật bất nhị”.
Tịnh và Thiền là pháp Bất Nhị, một câu “A Di Đà Phật” chính là cảnh
giới vô thượng thậm thâm vi diệu Thiền mà
cũng là thậm thâm Mật. Danh hiệu A Di Đà Phật
thuần túy là tiếng Phạn, chẳng phiên dịch thành
tiếng Hoa, là vô thượng mật chú, là pháp môn Đại
Tổng Trì, bao gồm hết thảy Đại Thừa,
Thiền Tông, Mật Tông cũng như Tiểu Thừa, viên
tu, viên chứng.
Vị
Phật thứ tám là Bảo Hoa Đức Phật
(Ratnotpalaśri Buddha), biểu thị Báo Thân viên mãn.
Vị
Phật thứ chín là Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật
(Sarvarthadarsha Buddha), biểu thị trăm ngàn ức Hóa
Thân, như kinh Kim Cang đã nói: Như Lai ngũ nhãn viên minh,
ứng khắp các căn cơ, chính là “kiến nhất thiết nghĩa” (thấy hết
thảy các nghĩa).
Vị
Phật thứ mười là Như Tu Di Sơn Phật
(Sumerukalpa Buddha), biểu thị Pháp Thân thanh tịnh, là bản
thể của vạn hữu trong vũ trụ.
Ba
vị Phật cuối cùng biểu thị Pháp Thân, Báo Thân và
Ứng Hóa Thân, một Thể ba thân, cùng với ba vị Phật
ở phương Đông trước sau hô ứng. [Danh hiệu
của ba vị Phật] ở phương Đông trong phần
trước nhằm nêu ra những điều mà chúng ta
hướng đến, mong cầu. Ba vị Phật cuối
cùng trong phương trên nhằm biểu thị điều
chúng ta đích thân muốn tự chứng đắc. Đức
Thế Tôn nói ra danh hiệu chư Phật bao hàm những ý
nghĩa hết sức sâu xa, ngầm dạy cho người
niệm Phật lộ trình để theo đuổi trong một
đời từ lúc Sơ Phát Tâm cho đến khi viên mãn Bồ
Đề. Con đường ấy trải qua sáu giai
đoạn, hãy nên vâng theo, phụng hành như thế nào? Phật
độ chúng sanh, chúng sanh tiếp nhận sự chỉ dạy
của Phật có khó - dễ, sâu - cạn sai khác, nói chung là
vì một chữ Duyên. Đức Phật thuyết pháp có thể
phát khởi thiện căn trong quá khứ của chúng sanh,
làm Tăng Thượng Duyên. Đồng thời do quang minh
và nguyện lực của Phật gia trì, nên tâm người
niệm Phật đắc Định, trí huệ tăng
trưởng, ma chẳng thể thừa dịp khuấy
nhiễu được!
(Giải)
Thử giới Phi Phi Tưởng thiên chi thượng, phục
hữu thượng giới phong luân, kim luân, cập tam giới
đẳng, trùng trùng vô tận dã.
Vấn:
Chư phương tất hữu Tịnh
Độ, hà thiên tán Tây Phương?
Đáp:
Thử diệc phi thiện vấn. Giả sử tán A Súc Phật
quốc, nhữ hựu nghi thiên Đông phương, triển
chuyển hý luận!
Vấn:
Hà bất biến duyên pháp giới?
Đáp:
Hữu tam nghĩa, linh sơ cơ dị tiêu tâm cố, A Di
bổn nguyện thắng cố, Phật dữ thử
độ chúng sanh thiên hữu duyên cố. Cái Phật độ
sanh, sanh thọ hóa, kỳ gian nan dị, thiển thâm, tổng
tại ư duyên. Duyên chi sở tại, ân đức hoằng
thâm, chủng chủng giáo khải, năng linh hoan hỷ tín
nhập, năng linh xúc động túc chủng, năng linh
ma chướng nan giá, năng linh thể tánh khai phát. Chư
Phật bổn tùng Pháp Thân thùy tích, cố kết duyên chủng.
Nhược thế, xuất thế, tất bất khả
tư nghị. Tôn long ư giáo thừa, cử dương
ư hải hội, thấm nhập ư khổ hải, từ
khế ư Tịch Quang. Sở dĩ vạn đức
khâm thừa, quần linh củng cực. Đương tri
Phật chủng tùng duyên khởi, duyên tức pháp giới,
nhất niệm, nhất thiết niệm, nhất sanh, nhất
thiết sanh, nhất hương, nhất hoa, nhất thanh,
nhất sắc, nãi chí thọ sám, thọ ký, ma đảnh,
thùy thủ. Thập phương tam thế, mạc bất
biến dung. Cố thử Tăng Thượng Duyên nhân,
danh “pháp giới duyên khởi”. Thử chánh sở vị “biến
duyên pháp giới” giả dã. Thiển vị nhân, tiện khả quyết
chí chuyên cầu, thâm vị nhân, diệc bất tất xả
Tây Phương, nhi biệt cầu Hoa Tạng. Nhược
vị Tây Phương thị Quyền, Hoa Tạng thị
Thật, Tây Phương tiểu, Hoa Tạng đại giả,
toàn đọa chúng sanh biến kế chấp tình, dĩ bất
đạt Quyền Thật nhất thể, Đại Tiểu
vô tánh cố dã.
(解) 此界非非想天之上。復有上界風輪。金輪。及三界等。重重無盡也。
問。諸方必有淨土。何偏讚西方。答。此亦非善問。假使讚阿閦佛國。汝又疑偏東方。展轉戲論。問。何不遍緣法界。答有三義。令初機易標心故。阿彌本願勝故。
佛與此土眾生偏有緣故。蓋佛度生。生受化。其間難易淺深。總在於緣。緣之所在。恩德弘深。種種教啟。能令歡喜信入。能令觸動宿種。能令魔障難遮。能令體性
開發。諸佛本從法身垂跡。固結緣種。若世出世。悉不可思議。尊隆於教乘。舉揚於海會。沁入於苦海。慈契於寂光。所以萬德欽承。群靈拱極。當知佛種從緣起。
緣即法界。一念一切念。一生一切生。一香一華。一聲一色。乃至受懺授記。摩頂垂手。十方三世。莫不遍融。故此增上緣因。名法界緣起。此正所謂遍緣法界者
也。淺位人。便可決志專求。深位人。亦不必捨西方。而別求華藏。若謂西方是權。華藏是實。西方小。華藏大者。全墮眾生遍計執情。以不達權實一體。大小無性
故也。
(Giải: Trên trời Phi Phi
Tưởng của cõi này, lại có phong luân, kim luân và tam giới
v.v... của cõi trên, trùng trùng vô tận.
Hỏi: Trong các
phương ắt có Tịnh Độ, cớ gì phải
riêng khen ngợi Tây Phương?
Đáp: Đây
cũng chẳng phải là lời hỏi đúng lý! Giả
sử khen ngợi cõi A Súc Phật thì ông lại nghi vì sao
riêng khen ngợi Đông phương? Quẩn quanh đùa bỡn
như thế đó!
Hỏi: Sao không
nghĩ niệm trọn khắp pháp giới?
Đáp: Là do có ba nghĩa: Nhằm
làm cho hàng sơ cơ dễ biết chỗ
để
chú tâm, do A Di Đà Phật có bổn nguyện thù thắng,
do Phật đặc biệt có duyên với chúng sanh cõi này. Ấy
là vì Phật hóa độ chúng sanh, chúng sanh tiếp nhận sự giáo hóa, trong ấy có [tình
trạng] khó - dễ, cạn - sâu, nói chung là do duyên. Duyên
đã có, ân đức rộng sâu, đủ mọi cách dạy
bảo, khơi gợi thì sẽ có thể làm cho [chúng sanh]
vui vẻ tin tưởng, chứng nhập, có thể dấy
động chủng tử từ trong quá khứ, có thể
làm cho ma khó thể gây chướng ngại, ngăn trở,
có thể làm cho thể tánh khai phát. Chư Phật vốn từ
Pháp Thân mà thị hiện hình tích, tạo duyên sâu chắc với
chúng sanh. Dù là [so với] pháp thế gian hay xuất thế
gian, [pháp môn này] luôn luôn là chẳng thể nghĩ bàn, nên nó
được tôn trọng nhất trong các giáo pháp và tam thừa
Phật pháp, được tuyên dương trong các hội
[giảng kinh rộng lớn như] biển cả [của
chư Phật], thấm sâu trong biển khổ, từ bi khế
hợp với Tịch Quang. Do vậy, các bậc vạn
đức (chư Phật) đều kính trọng, tuân giữ,
các sanh linh đều ngưỡng mộ tuân hành đến
tột bậc. Hãy nên biết rằng: Phật chủng (hạt
giống thành Phật) từ duyên mà khởi, duyên chính là pháp
giới. Niệm một tức là niệm hết thảy,
sanh về một là sanh về hết thảy, một
hương, một hoa, một tiếng, một sắc, cho
đến chấp nhận [kẻ có tội đối
trước Phật] sám hối, thọ ký, xoa đầu,
duỗi tay, mười phương ba đời không gì chẳng
dung hội trọn khắp. Vì thế, tăng thượng
duyên nhân gọi là “pháp giới duyên khởi”. Đây chính là
“duyên trọn khắp pháp giới”
vậy. Người thuộc địa vị cạn sẽ
quyết chí chuyên cầu, mà người ở địa vị
sâu cũng chẳng cần phải bỏ Tây Phương
để riêng cầu Hoa Tạng. Nếu bảo Tây
Phương là Quyền, Hoa Tạng là Thật, Tây
Phương là Tiểu Thừa, Hoa Tạng là Đại Thừa,
tức là hoàn toàn rơi vào tình thức Biến Kế Chấp
của chúng sanh, bởi chẳng thấu hiểu Quyền
và Thật cùng một Thể, Tiểu Thừa và Đại
Thừa chẳng có tánh vậy).
Mười phương thế
giới vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, không
một vị Phật nào chẳng khen ngợi Tây
Phương Cực Lạc thế giới, khen ngợi công
đức chẳng thể nghĩ bàn. Công đức chẳng
thể nghĩ bàn ấy nếu dựa trên kinh này thì có thể
nêu ra ba điều về mặt Sự:
-
Thứ nhất là hoàn cảnh y báo của Tây Phương thế
giới là chẳng thể nghĩ bàn.
-
Thứ hai là chánh báo tức Phật Di Đà và những
người vãng sanh Cực Lạc từ mười
phương thế giới thành tựu chẳng thể
nghĩ bàn.
-
Thứ ba là thuyết pháp chẳng thể nghĩ bàn.
Người
đời thường mong cầu Phật, Bồ Tát ban ân
che chở, nếu chúng
ta đọc bộ
kinh này, chiếu theo lý luận và phương pháp tu hành
được dạy trong kinh điển, chắc chắn
sẽ được hết thảy chư Phật hộ
niệm. Xin lại xem lời chú giải của đại
sư.
Phương trên của thế
giới chúng ta có tầng tầng vô tận các thế giới
Phật. Có người hoài nghi: Hết thảy chư Phật
đều có Tịnh Độ, sao lại chỉ tán thán
mình cõi Tây Phương? Thật ra, các phương tuy đều
có Tịnh Độ, nhưng chẳng sánh bằng Tây
Phương Cực Lạc thế giới vì Cực Lạc
có ba điều như trên đây vừa nói: Hoàn cảnh y
báo, đại chúng thành tựu, và thuyết pháp viên mãn. Những
cõi Tịnh Độ khác chẳng có những điều ấy.
Đại sư giải đáp lại càng tuyệt hơn
nữa: Lời người ấy hỏi chẳng cao minh
gì! Giả sử tán thán cõi A Súc Phật ở phương
Đông, ắt người ấy sẽ hỏi vì sao lại
riêng khen ngợi phương Đông. Đấy hoàn toàn là
hý luận, chẳng đáng bàn tới!
Lại hỏi: Sao chẳng duyên
trọn khắp pháp giới? Đại sư đáp: Có ba
nghĩa:
1) Duyên trọn pháp giới nói
thì dễ dàng, nhưng thực hiện khó lắm. Duyên trọn
khắp pháp giới là dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng,
phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, là
cảnh giới của Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo,
phàm phu chẳng làm được! Tâm có phân biệt, chấp
trước sẽ chẳng thể duyên trọn khắp
pháp giới. Vì những chúng sanh đới nghiệp, sơ
cơ học Phật, chưa đoạn phiền não mà chỉ
ra một phương hướng, một mục tiêu thì
trong phương diện tu học, họ sẽ dễ thực
hiện thuận theo lòng nghĩ.
2)
[Người ấy lại vặn hỏi] nếu chỉ
nêu một mình cõi Tây Phương để hàng sơ cơ
dễ có phương hướng xác định nhằm tu
tập cái tâm thì lấy các phương Đông, Nam, Bắc làm mục
tiêu cũng chẳng phải là không được, sao cứ
nhất định phải nêu lên Tây Phương? Lý do thứ
hai là vì A Di Đà Phật có bổn nguyện thù thắng. Nhằm
tiếp dẫn chúng sanh, nên khi tu nhân Phật Di Đà đã
phát ra bốn mươi tám nguyện, vượt trỗi lời
nguyện của các vị Phật khác, thật là thù thắng
viên mãn. Cho nên, đặc biệt chỉ bày Tây
Phương.
3)
A Di Đà Phật đặc biệt có duyên với cõi này. Hết
thảy các pháp dù thế gian hay xuất thế gian đều
do duyên. Nếu vô duyên thì đôi bên gặp mặt cũng chẳng
biết nhau. Mười phương chư Phật chẳng
có duyên thù thắng với cõi này như A Di Đà Phật. Vì
vậy, chúng ta cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ
khá dễ dàng. Trong kinh Đại Thừa, đức Thế
Tôn nói “thế giới là duyên
sanh”, tức là “do duyên mà các
pháp được sanh”, giữa người với
người cũng giống như vậy. Người nào
đó đặc biệt có duyên với quý vị thì quý vị
nói với người ấy, người ấy sẽ tin
tưởng. Duyên có thiện duyên và ác duyên. Phật pháp là
thiện duyên, nhưng trong thời kỳ Mạt pháp, có rất
nhiều Phật giáo đồ dựa vào Phật để
gạt gẫm người khác, trong Quán Kinh và Vô Lượng
Thọ Kinh nhắc tới chuyện này rất nhiều.
Không chỉ Phật giáo, ngay cả Cơ Đốc giáo
cũng nói đến chuyện thời đang gặp lúc mạt,
tai họa dồn dập, tà ma, trá ngụy luôn xuất hiện,
quan điểm khá giống nhau. Nếu có thể y giáo phụng
hành thì sẽ có thể khai ngộ bổn tánh, ma chướng
chẳng có dịp gây hại được. Chư Phật
Như Lai chứng đắc Pháp Thân viên mãn, Pháp Thân là bản
thể của muôn loài trong vũ trụ. Chư Phật giác
ngộ, biết tận cùng hư không, trọn khắp pháp
giới có cùng một Thể với chính mình, nên bảo là “cố kết duyên chủng”
(đã gieo duyên sâu chắc). Đã là một Thể, ắt sẽ
chiếu cố. Khi duyên của chúng sanh chín muồi, Phật
liền đến độ kẻ ấy.
“Tôn long ư giáo thừa”: Giáo
là mười hai phần giáo, còn Thừa là tam thừa Phật
pháp (Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa).
Trong hết các kinh, kinh này được tôn xưng long trọng
nhất. “Cử dương
ư hải hội”: Hết thảy các đạo tràng
giảng kinh của chư Phật trong tận hư không, trọn
pháp giới, không đạo tràng nào chẳng giảng kinh A
Di Đà. “Thấm nhập ư
khổ hải”: Chữ “khổ
hải” chỉ lục đạo. A Di Đà Phật và hết
thảy chư Phật có duyên sâu đậm với cõi này,
tuyên dương pháp môn này, chúng sanh đều có thể tin
sâu chẳng nghi, phát nguyện cầu vãng sanh. “Từ khế ư Tịch Quang”:
“Từ” là từ bi. Chư Phật giới thiệu pháp
môn thành Phật này cho phàm phu, lòng từ bi đến tột
cùng! Kinh Đại Thừa nói Bồ Tát thành Phật, chứ
Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể thành Phật. Trời,
người càng chẳng có phần. Pháp môn này chung khắp
từ địa ngục A Tỳ cho đến cõi Thường
Tịch Quang, một mực tự nâng cao [cảnh giới]
cho đến khi viên mãn Phật quả trong Tịch Quang.
Đây là pháp Đại Thừa nhất trong các pháp Đại
Thừa, là liễu nghĩa nhất trong những pháp liễu
nghĩa.
“Sở dĩ, vạn đức
khâm thừa, quần linh củng cực” (Do vậy, các bậc
vạn đức đều kính trọng, tuân giữ, các
sinh linh đều ngưỡng mộ tuân hành đến tột
bậc): Chữ “vạn đức”
chỉ chư Phật, mười phương hết thảy
chư Phật đều tôn kính, thừa sự. Chữ “quần linh” chỉ các vị
thượng thiện nhân trong cõi Tây Phương, mà cũng
có thể giải thích là vô lượng Bồ Tát trong mười
phương, ai nấy đều tiếp nhận sự
giáo huấn của A Di Đà Phật.
“Phật chủng tùng duyên khởi,
duyên tức pháp giới”: Bậc Pháp Thân đại
sĩ từ Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo trở lên mới
thực hiện được “biến
duyên pháp giới” (duyên trọn khắp pháp giới). Vị
ấy phải có tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh thì mới
có thể duyên trọn khắp. Lý luận và phương
pháp của Tịnh Tông ngầm hợp với thanh tịnh,
bình đẳng. Nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, nhất tâm chính là thanh tịnh, bình đẳng,
không phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng có
giới hạn. “Nhất sanh,
nhất thiết sanh”: Sanh về Tây Phương Tịnh
Độ chính là sanh về mười phương hết
thảy cõi nước. Một hương, một hoa, một
tiếng, một sắc, cho đến tiếp nhận sự
sám hối của chúng sanh, thọ ký [người ấy sẽ
thành Phật], xoa đỉnh đầu, duỗi tay, khởi
tâm động niệm, không gì chẳng dung hợp trọn
khắp. Đấy là chân tâm thường trụ. Tâm của
chúng ta là vọng tâm, chưa thể thường trụ,
nên gọi là “tâm viên, ý mã”
(tâm như vượn nhảy nhót tung tăng, ý như ngựa
chạy lồng). Dùng phương pháp Niệm Phật để
đạt đến cảnh giới này, khiến cho chân
tâm bổn tánh thời thời khắc khắc hiện tiền.
Trọn chớ nên coi nhẹ phương pháp Niệm Phật!
Ai thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ
thì người ấy đã “duyên
trọn khắp pháp giới”.
Chữ
“thiển vị nhân” (người
thuộc địa vị cạn) chỉ kẻ thiếu
công phu, phiền não nặng nề, nghiệp chướng
sâu đậm, không thể dựa vào tự lực để
liễu sanh tử, thoát tam giới, hãy nên hạ quyết
tâm chuyên cầu vãng sanh Tây Phương. “Thâm vị nhân” (người thuộc địa vị
sâu) là người có công phu, có thể đoạn phiền
não, liễu sanh tử, thoát tam giới, chứng Bồ
Đề, cũng chẳng cần phải đi lòng vòng, bỏ
Tây Phương để cầu nhập Hoa Tạng trước.
Đợi đến khi sanh vào thế giới Hoa Tạng,
gặp gỡ Phổ Hiền Bồ Tát, lại phải dựa
vào mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc!
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh? Xá Lợi
Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ
nhân, văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư
Phật danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện
nữ nhân giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ
niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố Xá Lợi
Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ
ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết.
(經) 舍利弗。於汝意云何。何故名為一切諸佛所護念經。舍利弗。若有善男子。善女人。聞是經受持者。及聞諸佛名者。是諸善男子。善女人。皆為一切諸佛之所護念。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。是故舍利弗。汝等皆當信受我語。及諸佛所說。
(Chánh
kinh: Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi
kinh này có tên là “kinh được hết thảy chư Phật
hộ niệm”? Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam
tử, thiện nữ nhân nghe kinh này mà thọ trì cùng nghe
danh
hiệu của chư Phật
thì các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều
được hết thảy chư Phật hộ niệm,
đều chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, Xá Lợi Phất! Các
ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói).
Xá
Lợi Phất tuy là bậc đại trí, nhưng Phật
hỏi Ngài: “Ý ông nghĩ sao?” thì Xá Lợi Phất cũng chẳng
đáp được một câu. Do vậy, đức Phật
giải thích: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân; chữ Thiện này chỉ những người thiện
căn, phước đức chín muồi, nghe xong sẽ
hoan hỷ, tin sâu chẳng ngờ, lòng chân thành tiếp nhận,
phát nguyện cầu sanh, hạng người ấy sẽ
được chư Phật hộ niệm[4], “đều
chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác”, Đây là lợi ích do chính mình chứng
được. Nếu chúng ta nghĩ mình phiền não nặng
nề, sợ rằng chẳng thể chứng được
trọn vẹn ba món Bất Thoái bèn là nghi ngờ chính mình, tự
đánh mất lợi lành. Hãy nên biết: Từng chữ, từng
câu trong kinh này đều nói hết sức khẳng định,
không có lời nào mập mờ nước đôi! Cuối
cùng, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: Các ông
nhất định phải tin nhận lời ta và lời
hết thảy chư Phật đã nói.
(Giải)
Thử kinh độc thuyên vô thượng tâm yếu,
chư Phật danh tự, tịnh thuyên vô thượng viên
mãn cứu cánh vạn đức. Cố văn giả giai vị
chư Phật hộ niệm. Hựu, văn kinh, thọ
trì, tức chấp trì danh hiệu, A Di danh hiệu chư Phật
sở hộ niệm cố.
(解) 此經獨詮無上心要。諸佛名字。並詮無上圓滿究竟萬德。故聞者皆為諸佛護念。又。聞經受持。即執持名號。阿彌名號。諸佛所護念故。
(Giải:
Một mình kinh này giảng về tâm yếu vô thượng,
danh hiệu của chư Phật và giảng giải vạn
đức rốt ráo viên mãn vô thượng. Vì thế,
người nghe đều được chư Phật hộ
niệm. Lại nữa, nghe kinh, thọ trì, tức là chấp
trì danh hiệu, vì danh hiệu A Di Đà được
chư Phật hộ niệm).
“Độc” là duy nhất, [câu
“thử kinh độc thuyên vô
thượng tâm yếu” có nghĩa là] chỉ có mình kinh
này giảng rõ vô thượng tâm yếu cho chúng ta. A Di
Đà Phật là danh hiệu của hết thảy chư
Phật, là vạn đức đã viên mãn rốt ráo. “Vô thượng tâm yếu”
chính là cái tâm tánh niệm Phật. Vì thế, niệm một
vị A Di Đà Phật chính là niệm hết thảy
chư Phật Như Lai, một chính là hết thảy.
Chư Phật nhân viên quả mãn, trí huệ đạt
đến rốt ráo. Ba đức Pháp Thân, Bát Nhã, Giải
Thoát đều đạt đến viên mãn; niệm một
câu danh hiệu sẽ khởi lên tác dụng cảm ứng
đạo giao với ba đức viên mãn. Chúng sanh tuy
chưa chứng đắc, nhưng tự tánh đã sẵn
có, ắt sẽ tương ứng tam đức do chư
Phật đã chứng nơi quả vị Như Lai. Do vậy,
trong phần trước đã có nói: “Niệm danh hiệu Phật là đem công đức
của A Di Đà Phật biến thành công đức của
chính mình”.
(Giải)
Vấn: Đản văn chư Phật danh, nhi vị trì
kinh, diệc đắc hộ niệm bất thoái da?
Đáp:
Thử nghĩa hữu cục, hữu thông. Chiêm Sát vị:
“Tạp loạn cấu tâm, tuy tụng ngã danh, nhi bất vi
văn, dĩ bất năng sanh quyết định tín giải,
đản hoạch thế gian thiện báo, bất đắc
quảng đại thâm diệu lợi ích. Nhược
đáo Nhất Hạnh tam-muội, tắc thành quảng
đại vi diệu hạnh tâm, danh đắc
Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, nãi vi đắc
văn thập phương Phật danh”. Thử diệc
ưng nhĩ. Cố tu văn dĩ chấp trì, chí nhất
tâm bất loạn, phương vi văn chư Phật
danh, mông chư Phật hộ niệm. Thử cục
nghĩa dã. Thông nghĩa giả, chư Phật từ bi bất
khả tư nghị, danh hiệu công đức diệc bất
khả tư nghị. Cố nhất văn Phật danh, bất
luận hữu tâm vô tâm, nhược tín, nhược phủ,
giai thành duyên chủng. Huống Phật độ chúng sanh,
bất giản oán thân, hằng vô bì quyện. Cẩu văn
Phật danh, Phật tất hộ niệm, hựu hà nghi
yên? Nhiên cứ Kim Cang Tam Luận, căn thục Bồ Tát,
vi Phật hộ niệm, vị tại Biệt Địa,
Viên Trụ. Cái ước tự lực, tất nhập
Đồng Sanh Tánh, nãi khả hộ niệm. Kim trượng
tha lực, cố Tương Tự Vị, tức mông hộ niệm.
Nãi chí Tương Tự Vị dĩ hoàn, diệc giai hữu
thông hộ niệm chi nghĩa. Hạ chí nhất văn Phật
danh, ư đồng thể pháp tánh, hữu tư phát lực,
diệc đắc viễn nhân, chung bất thoái dã. A Nậu
Đa La, thử vân Vô Thượng, Tam Miệu Tam Bồ
Đề, thử vân Chánh Đẳng Chánh Giác, tức Đại
Thừa quả giác dã. Viên tam Bất Thoái, nãi “nhất sanh
thành Phật” dị danh. Cố khuyến Thân Tử đẳng
giai đương tín thọ. Văn danh công đức
như thử, Thích Ca cập thập phương chư Phật
đồng sở tuyên thuyết, khả bất tín hồ?
Sơ khuyến tín lưu thông cánh.
(解) 問。但聞諸佛名。而未持經。亦得護念不退耶。答。此義有局有通。
占察謂。雜亂垢心。雖誦我名。而不為聞。以不能生決定信解。但獲世間善報。不得廣大深妙利益。若到一行三昧。則成廣大微妙行心。名得相似無生法忍。乃為得
聞十方佛名。此亦應爾。故須聞已執持。至一心不亂。方為聞諸佛名。蒙諸佛護念。此局義也。通義者。諸佛慈悲。不可思議。名號功德。亦不可思議。故一聞佛
名。不論有心無心。若信若否。皆成緣種。況佛度眾生。不簡怨親。恆無疲倦。苟聞佛名。佛必護念。又何疑焉。然據金剛三論。根熟菩薩。為佛護念。位在別地圓
住。蓋約自力。必入同生性。乃可護念。今仗他力。故相似位。即蒙護念。乃至相似位以還。亦皆有通護念之義。下至一聞佛名。於同體法性。有資發力。亦得遠
因。終不退也。阿耨多羅。此云無上。三藐三菩提。此云正等正覺。即大乘果覺也。圓三不退。乃一生成佛異名。故勸身子等。皆當信受。聞名功德如此。釋迦及十
方諸佛。同所宣說。可不信乎。初勸信流通竟。
(Giải:
Hỏi: Chỉ nghe danh hiệu chư Phật, nhưng
chưa trì kinh thì cũng được hộ niệm bất
thoái ư?
Đáp: Điều này có
nghĩa hạn cuộc và nghĩa phổ biến. Kinh Chiêm
Sát dạy: “Tâm nhơ tạp loạn, tuy tụng niệm
danh hiệu ta, vẫn chẳng thể coi là ‘nghe’, vì chẳng
thể sanh lòng tin hiểu quyết định, chỉ
đạt được quả báo tốt lành trong thế
gian, chẳng đạt được lợi ích sâu mầu
rộng lớn. Nếu đạt được Nhất
Hạnh tam-muội, sẽ thành cái tâm tu hành rộng lớn
vi diệu, gọi là đạt
được Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn
được coi là đã nghe danh hiệu của mười
phương Phật”. Ở đây, cũng nên hiểu giống
như vậy. Vì thế, nghe rồi, phải nên chấp trì
đến mức nhất tâm bất loạn thì mới là
“đã nghe danh hiệu của chư Phật”, được
chư Phật hộ niệm. Đấy là nghĩa hạn
cuộc.
Nghĩa phổ biến là
chư Phật từ bi chẳng thể nghĩ bàn, công
đức của danh hiệu cũng chẳng thể
nghĩ bàn. Vì thế, vừa nghe danh hiệu Phật, bất
luận là hữu tâm hay vô tâm, dù tin hay không, đều tạo
thành cái duyên và hạt giống [thành Phật trong A Lại Da
Thức]. Huống chi, Phật độ chúng sanh chẳng
phân biệt là kẻ oán hay người thân, luôn luôn không mệt
mỏi. Nếu nghe danh hiệu Phật, ắt Phật sẽ
hộ niệm, há còn đáng nghi gì nữa ư? Nhưng theo
Kim Cang Tam Luận, Bồ Tát căn cơ chín muồi,
được Phật hộ niệm thì địa vị
thuộc Sơ Địa trong Biệt Giáo hoặc Sơ Trụ
trong Viên Giáo. Bởi lẽ, luận theo phía tự lực
thì phải thuộc địa vị Đồng Sanh Tánh mới
được [chư Phật] hộ niệm. Nay cậy
vào tha lực, nên thuộc vào địa vị Tương
Tự liền được Phật hộ niệm, cho
đến từ địa vị Tương Tự trở
xuống cũng đều có ý nghĩa “cùng được
chư Phật hộ niệm”. Thậm chí vừa nghe danh hiệu
Phật thì đã có sức giúp cho đồng thể pháp
tánh được phát khởi, cũng trở thành cái nhân
xa, trọn chẳng bị lui sụt.
A Nậu Đa La cõi này dịch
là Vô Thượng, Tam Miệu Tam Bồ Đề cõi này dịch
là Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là quả giác Đại
Thừa vậy. “Trọn vẹn ba thứ Bất Thoái” chính
là tên khác của “thành Phật ngay trong một đời”.
Vì thế, đức Phật khuyên các vị như Thân Tử
(Xá Lợi Phất) đều nên tin nhận. Phật Thích
Ca và mười phương chư Phật cùng tuyên nói công
đức nghe danh hiệu như thế, há chẳng
đáng tin ư? Tiểu đoạn thứ nhất [trong phần
Lưu Thông] là Khuyến Tín Lưu Thông đã xong).
Đại
sư trả lời: Nghĩa này có nghĩa hạn cuộc
(cục nghĩa) và nghĩa phổ
cập (thông
nghĩa). “Cục” là
nghĩa hẹp, “thông” là
nghĩa rộng. Kinh Địa Tạng gồm ba loại:
1)
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh được
phổ biến rộng rãi nhất.
2)
Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân Kinh.
3)
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh (gọi tắt là kinh
Chiêm Sát).
Trong kinh Chiêm Sát,
có một đoạn nói: “Tạp
loạn cấu tâm, tuy tụng ngã danh, nhi bất vi văn”
(Tâm nhơ tạp loạn thì tuy tụng danh hiệu ta vẫn
chẳng thể coi là đã nghe). Câu này ý nói tâm tạp loạn
niệm Phật không có công đức. Tuy không có công đức,
vẫn đạt được quả báo tốt lành
trong thế gian, chứ không đạt được “lợi ích sâu mầu rộng lớn”.
[Lợi ích sâu mầu rộng lớn] là đắc Định,
khai ngộ, liễu sanh tử, thoát tam giới.
“Nhược đáo Nhất Hạnh tam-muội, tắc
thành quảng đại vi diệu hạnh tâm, danh đắc
Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, nãi vi đắc
văn thập phương Phật danh” (Nếu đạt
được Nhất Hạnh tam-muội sẽ thành cái
tâm tu hành rộng lớn vi diệu, gọi là đạt
được Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn
được nghe danh hiệu của mười
phương Phật). Trong Lục Tổ Đàn Kinh, Huệ
Năng đại sư coi trọng Nhất Hạnh tam-muội.
Trong Tịnh Độ Tông có Niệm Phật tam-muội. Thật
ra, Niệm Phật tam-muội chính là Nhất Hạnh tam-muội,
còn gọi là Nhất Tướng tam-muội. Trong kinh
Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát khai thị một
tiêu chuẩn: “Nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm liên tục”, đấy là Nhất
Hạnh tam-muội, còn kinh này (kinh A Di Đà) gọi là “nhất
tâm bất loạn”. Nhất tâm bất loạn là Nhất Hạnh
tam-muội, mà cũng là Niệm Phật tam-muội. Nhất
tâm bất loạn có công phu sâu hay cạn sai khác. Niệm
đến mức đoạn hết Kiến Tư phiền
não thì gọi là Sự nhất tâm bất loạn. Niệm
đến mức phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân thì gọi là Lý nhất tâm bất loạn. Cảnh
giới được nói tới trong đoạn này chính
là vừa mới đạt đến Lý nhất tâm bất
loạn, thì gọi là “quảng
đại vi diệu hạnh tâm”, đắc
Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thật sự đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn thì như trong kinh Nhân Vương đã giảng
rất rõ ràng, đấy là Thất Địa Bồ Tát.
Trước khi đạt đến địa vị Thất
Địa Bồ Tát đều gọi là Tương Tự
Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thất Địa là Hạ Phẩm, Bát
Địa là Trung Phẩm, Cửu Địa là Thượng
Phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Lại
lên tới Thập Địa thì gọi là Hạ Phẩm Tịch
Diệt Nhẫn, Đẳng Giác Bồ Tát là Trung Phẩm Tịch
Diệt Nhẫn, Như Lai quả địa gọi là
Thượng Phẩm Tịch Diệt Nhẫn. Nếu
cũng hiểu pháp môn Niệm Phật theo cùng một lý này,
thì đấy là nghĩa hạn cuộc.
Đối
với nghĩa phổ cập thì do chư Phật từ bi
chẳng thể nghĩ bàn, công đức của danh hiệu
cũng chẳng thể nghĩ bàn, dùng một câu A Di Đà
Phật có thể khiến cho phàm phu nghiệp chướng
cực nặng thành Phật viên mãn ngay trong một đời.
Vừa nghe danh hiệu Phật, bất luận hữu tâm
hay vô tâm, dù tin hay chẳng tin, chủng tử thành Phật
đã được gieo vào [thức điền]. Tâm Phật
thanh tịnh, bình đẳng, không phân biệt, chấp
trước, quan tâm trọn khắp chúng sanh, chỉ luận
định duyên đã chín muồi hay chưa, chẳng cần
biết là kẻ oán hay người thân. Người tạo
tội cực ác như vua A Xà Thế, tạo Ngũ Nghịch,
Thập Ác, lúc lâm chung sám hối, nhất tâm niệm Phật
cũng được vãng sanh. Trong kinh, đức Phật
tuyên nói: Vua A Xà Thế sanh về Tây Phương, phẩm vị
là Thượng Phẩm Trung Sanh, thật chẳng thể
nghĩ bàn! Có hai loại vãng sanh:
-
Một là lúc bình thường đoạn ác tu thiện,
chuyên tâm niệm Phật.
-
Hai là kẻ nghiệp nặng, lúc lâm chung chân tâm sám hối,
cũng được vãng sanh.
Bất
luận là ai dù chỉ trì danh chứ chẳng tụng kinh
cũng đều được Phật hộ niệm,
không cần phải hoài nghi!
Theo
như cách Phật đã giảng trong các kinh Đại Thừa
thì thông thường phải là bậc Sơ Địa của
Biệt Giáo trở lên hoặc là từ Sơ Trụ trong
Viên Giáo trở lên, những vị ấy đều là bậc
Pháp Thân đại sĩ thì mới được Phật
hộ niệm. Vì họ đã phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân, tâm thanh tịnh, bình đẳng, hết
thảy chướng ngại đều không có, từ
đấy trở đi, tâm tâm lưu nhập biển Tát Bà
Nhã (Nhất Thiết Trí). Nhưng trong tông này (Tịnh Độ
Tông) thì lại khác, nhờ được bổn nguyện
và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, mười
phương chư Phật cũng gia trì. Nếu chẳng
tu pháp môn này sẽ không được A Di Đà Phật gia
trì, những vị Phật khác cũng chẳng quan tâm tới.
Sau khi đọc cuốn Yếu Giải, [mới thấy]
một câu Phật hiệu chẳng thể không niệm. [Hễ
niệm Phật], dù chưa đạt tới địa vị
Tương Tự, vẫn nhất định được
chư Phật hộ niệm. Một câu A Di Đà Phật
này là chủng tử thành Phật, trong một đời
được nghe một câu A Di Đà Phật, nhưng
đời này chưa thể vãng sanh thì đời sau hay
đời sau nữa, hoặc đời khác nữa,
được mang thân người, lại gặp pháp môn
này, chủng tử trong A Lại Da Thức sẽ dấy
lên hiện hành, có thể tin, có thể nguyện, có thể
hành, người ấy cũng sẽ nhất định
vãng sanh.
“A Nậu Đa La, cõi này dịch
là Vô Thượng, Tam Miệu
Tam Bồ Đề,
cõi này dịch là Chánh Đẳng Chánh Giác”, nói theo cách bây
giờ là “trí huệ viên mãn rốt ráo”. Chứng trọn vẹn
ba thứ Bất Thoái, chính là tên gọi khác “thành Phật
ngay trong một đời”. Kinh này do đức Thế Tôn
và mười phương chư Phật buốt lòng rát miệng
khuyên chúng ta hãy đều nên tin nhận, há chúng ta chẳng
tin tưởng ư?
4.3.1.2. Khuyến nguyện lưu thông
(Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược
hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện,
đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật
quốc giả, thị chư nhân đẳng, giai đắc
bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược
dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương
sanh. Thị cố Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử,
thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả, ưng
đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
(Giải) Dĩ nguyện dĩ
sanh, kim nguyện kim sanh, đương nguyện
đương sanh, chánh hiển y tín sở phát chi nguyện
vô hư dã. Phi tín, bất năng phát nguyện. Phi nguyện,
tín diệc bất sanh. Cố vân: “Nhược hữu tín giả,
ưng đương phát nguyện”. Hựu, nguyện giả,
tín chi khoán, hạnh chi xu, vưu vi yếu vụ. Cử nguyện,
tắc tín hạnh tại kỳ trung. Sở dĩ ân cần
tam khuyến dã. Phục thứ, nguyện sanh bỉ quốc,
tắc hân yếm nhị môn, yếm ly Sa Bà, dữ y Khổ
Tập nhị đế, sở phát nhị chủng hoằng
thệ tương ứng. Hân cầu Cực Lạc, dữ
y Đạo Diệt nhị đế, sở phát nhị chủng
hoằng thệ tương ứng. Cố đắc bất
thoái chuyển ư đại Bồ Đề đạo.
(經) 舍利弗。若有人。已發願。今發願。當發願。欲生阿彌陀佛國者。是諸人等。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。於彼國土。若已生。若今生。若當生。是故舍利弗。諸善男子。善女人。若有信者。應當發願。生彼國土。
(解) 已願已生。今願今生。當願當生。正顯依信所發之願無虛也。非信。
不能發願。非願。信亦不生。故云。若有信者。應當發願。又。願者。信之券。行之樞。尤為要務。舉願。則信行在其中。所以殷勤三勸也。復次願生彼國。即欣厭
二門。厭離娑婆。與依苦集二諦。所發二種弘誓相應。欣求極樂。與依道滅二諦。所發二種弘誓相應。故得不退轉於大菩提道。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất!
Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện,
sẽ phát nguyện, muốn sanh về cõi Phật A Di
Đà thì những người ấy đều đắc
bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Đối với cõi ấy hoặc đã sanh, hoặc
đang sanh, hoặc sẽ sanh. Vì thế Xá Lợi Phất!
Các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu có lòng tin,
hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy.
Giải: Đã nguyện đã sanh, nay nguyện nay
sanh, sẽ nguyện sẽ sanh, nhằm tỏ rõ do tin
tưởng mà phát ra lời nguyện thì lời nguyện ấy
chẳng hư huyễn. Không tin sẽ chẳng thể phát
nguyện. Không có nguyện, lòng tin cũng chẳng thể
sanh. Vì thế nói: “Nếu có lòng tin, hãy nên phát nguyện”.
Hơn nữa, nguyện là bằng khoán của lòng tin, là mấu
chốt của hạnh, có vai trò quan trọng
nhất. Nêu ra nguyện thì tín và hạnh đều nằm
trong ấy. Do vậy, Phật ân cần ba lượt khuyên
nhủ. Lại nữa, nguyện sanh về cõi ấy chính
là hai môn Ưa Thích và Chán Lìa. Chán lìa Sa Bà, tương ứng
với hai thứ hoằng thệ do nương theo Khổ
Đế và Tập Đế mà phát ra. Ưa cầu Cực
Lạc, tương ứng với hai thứ hoằng thệ
do nương theo Đạo Đế và Diệt Đế
mà phát ra. Vì thế, đạt được chẳng thoái
chuyển nơi đại Bồ Đề đạo).
Đoạn này thuộc phần
“khuyến nguyện lưu thông”.
Đại sư nói, người đã phát nguyện đã
vãng sanh, người hiện đang phát nguyện thì trong một
đời này nhất định vãng sanh, phát nguyện
trong tương lai thì tương lai nhất định
vãng sanh. Từ ngữ “đương
phát nguyện giả” chỉ cho chúng ta trong hiện tại,
cũng giống như người trong quá khứ, nhằm
chỉ rõ lời phát nguyện xuất phát từ lòng tin
không hư dối, tin tưởng sâu xa, không hoài nghi tí nào.
Không có lòng tin sẽ chẳng thể phát nguyện. Thông
thường có chân tín, chánh tín và mê tín. Có không ít pháp sư
đại đức khuyên người khác niệm Phật,
nhưng chính họ không niệm, họ nghĩ còn có những
pháp môn khác cao hơn. Đấy gọi là “chánh tín”[5].
“Nguyện giả, tín chi khoán”
(Nguyện là bằng khoán của tín). “Khoán” (券) là bằng chứng,
Tín cũng là mấu chốt của Hạnh. Trong ba món
tư lương, Tín đặc biệt quan trọng. Nếu
ai thật sự chịu phát nguyện vãng sanh, người
ấy tất nhiên có lòng tin rất sâu, ắt sẽ chịu
thật thà niệm Phật, điều này thuộc về
Hạnh. Khuyên nên tin tưởng, khuyên nên hành trì, mỗi phần
đức Phật chỉ khuyên một lần, nhưng lại
khuyên “hãy phát nguyện” đến
ba lần. Đủ thấy, đức Phật hết sức
coi trọng nguyện. Lần thứ nhất là trong đoạn
thứ hai của phần Chánh Tông, Phật nói xong sự
trang nghiêm nơi y báo và chánh báo, chúng sanh vãng sanh về đó
đều đắc Bất Thoái, đức Phật khuyên
“chúng sanh văn giả, ưng
đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc”
(chúng sanh nghe nói, đều nên phát nguyện, nguyện sanh về
cõi ấy). Lần thứ hai là trong đoạn cuối của
phần Chánh Tông: “Thị nhân
chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc
vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ,
ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.
Nhược hữu chúng sanh
văn thị thuyết giả, ưng đương phát
nguyện, sanh bỉ quốc độ” (Người ấy
lúc lâm chung, tâm chẳng điên đảo, liền
được sanh về cõi nước Cực Lạc của
A Di Đà Phật. Ta thấy điều lợi này, nên nói lời
như sau: Nếu có chúng sanh nghe nói như vậy, hãy nên phát
nguyện, nguyện sanh về cõi ấy). Còn trong đoạn
này là lần khuyên thứ ba, lại nói: “Nhược hữu tín giả, ưng đương
phát nguyện, sanh bỉ quốc độ” (Nếu ai có
lòng tin, hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy). Chẳng ngại
phiền rộn, chẳng sợ trùng lặp, đức Bổn
Sư lòng từ bi khẩn thiết, thật sự mong chúng
ta ngay trong một đời sẽ vĩnh viễn thoát khỏi
luân hồi viên thành Phật đạo, thỏa mãn hoằng
nguyện độ sanh. Tâm cảm ơn đội đức
đối với đức Thế Tôn nẩy sanh tràn trề.
Đại sư lại dựa
trên Tứ Hoằng Thệ Nguyện để giải
thích, nguyện sanh cõi ấy chính là viên mãn Tứ Hoằng Thệ
Nguyện. Nguyện vãng sanh nhất định lìa khỏi
Sa Bà. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”
thuộc về Khổ Đế và Tập Đế. “Pháp môn vô lượng thệ
nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ
nguyện thành” thuộc về Diệt Đế và Đạo
Đế. Tứ Hoằng Thệ Nguyện hễ phát tâm
thì đại Bồ Đề tâm liền viên mãn. Đại
sư nói lời này khiến chúng ta giật nẩy mình, vì từ
trước đến giờ chưa có ai nói cả! Ở
đây, Ngài đã nêu ra căn cứ, Tứ Hoằng Thệ
Nguyện chính là vô thượng Bồ Đề tâm.
(Giải) Vấn: Kim phát nguyện,
đản khả vân đương sanh, hà danh kim sanh?
Đáp: Thử diệc nhị
nghĩa. Nhất ước nhất kỳ danh “kim”, hiện
sanh phát nguyện trì danh, lâm chung định sanh Tịnh
Độ. Nhị ước sát-na danh “kim”, nhất niệm
tương ứng, nhất niệm sanh. Niệm niệm
tương ứng, niệm niệm sanh. Diệu nhân, diệu
quả, bất ly nhất tâm. Như xứng lưỡng
đầu, đê ngang thời đẳng, hà sĩ Sa Bà báo
tận, phương dục trân trì? Chỉ kim tín nguyện
trì danh, liên ngạc quang vinh, kim đài ảnh hiện, tiện
phi Sa Bà giới nội nhân hỹ. Cực viên, cực đốn,
nan nghị, nan tư. Duy hữu đại trí, phương
năng đế tín.
(解) 問。今發願但可云當生。何名今生。答。此亦二義。一約一期名今。
現生發願持名。臨終定生淨土。二約剎那名今。一念相應。一念生。念念相應。念念生。妙因妙果。不離一心。如秤兩頭。低昂時等。何俟娑婆報盡。方育珍池。只
今信願持名。蓮萼光榮。金臺影現。便非娑婆界內人矣。極圓極頓。難議難思。唯有大智。方能諦信。
(Giải:
Hỏi: Nay phát nguyện thì chỉ có thể nói là “sẽ
sanh”, sao lại bảo là “nay sanh?”
Đáp: Điều này
cũng có hai nghĩa:
- Một là dựa trên cùng một
kỳ hạn mà bảo là “nay”. Đời này phát nguyện
trì danh thì lâm chung nhất định sanh về Tịnh
Độ.
- Hai là dựa theo sát-na mà gọi
là “nay”. Một niệm tương ứng thì sanh vào cõi kia
trong một niệm ấy, niệm niệm tương ứng
thì trong từng niệm đều sanh.
Diệu nhân, diệu quả,
chẳng lìa nhất tâm. Như hai đầu cái cân, hễ
đầu này chúc xuống thì đầu kia nâng lên cùng một
lúc, cần gì phải đợi đến khi hết báo
thân nơi Sa Bà mới sanh trong ao báu. Chỉ cần nay tín
nguyện trì danh thì [nơi Cực Lạc] hoa sen rạng ngời,
đài vàng hiện bóng, tức là đã không còn là người
trong cõi Sa Bà nữa! Cực viên, cực đốn, khó
nghĩ, khó suy, chỉ có bậc đại trí mới có thể
tin tưởng chắc thật mà
thôi!)
Có
người hỏi: “Nay phát nguyện thì chỉ có thể
nói là sẽ sanh, vì sao lại nói là nay sanh?” Chữ “kim” (nay) chỉ lúc đức
Thế Tôn đang thuyết pháp. “Đương
phát nguyện” là nói về những kẻ sau lúc ấy,
như chúng ta ở trong thời đại hiện thời
thuộc vào những người “sẽ phát nguyện”. Một
đời tu học pháp môn này, lâm chung quyết định
sanh về Tịnh Độ; vì thế nói là “kim sanh” (đời này).
Nghĩa thứ hai là nói trong khoảng sát-na. Hễ
tương ứng trong một niệm thì sanh về Tịnh
Độ ngay trong niệm ấy. Người phát nguyện
ắt phải trọn đủ ba món tư lương,
Tín phải là chân tín, Nguyện phải khẩn thiết, thấy
thấu suốt hết thảy mọi thứ trong thế
gian, trong tâm triệt để buông xuống, chứ không phải
chỉ buông xuống trên mặt Sự. Nếu chỉ trên mặt
Sự thì chẳng đáng để bàn tới. Trong tâm phải
nên không vướng mắc, giống như Thiện Tài tham
học năm mươi ba lần, nhưng luôn là người
tâm địa thanh tịnh, chẳng vướng mắc mảy
may. Biểu hiện trên mặt Sự, các ngành, các nghề,
nam, nữ, già, trẻ đều không trở ngại. Trong
một niệm phải có đủ Tín, Nguyện, Hạnh
cũng như tương ứng với Giới, Định,
Huệ, và Giác, Chánh, Tịnh. Một niệm như thế,
thân tuy chưa sanh sang đó, mà trong ao bảy báu nơi Tây
Phương Cực Lạc thế giới đã trổ một
đóa hoa sen có ghi rõ tên hành giả. Đấy là do chính mình
cảm ứng biến hiện ra, chứ không phải do Phật
biến hiện. Niệm nào cũng tương ứng thì
hoa sen báu càng ngày càng lớn, ánh sáng, màu sắc ngày càng
tươi đẹp. Diệu nhân, diệu quả, chẳng
lìa nhất tâm. Lâm chung liền thác sanh trong hoa sen. Nhân quả
đồng thời chẳng thể nghĩ bàn. Các pháp môn
khác là “nhân trước, quả sau”, còn hoa sen là nhân quả
đồng thời, cần gì phải đợi tới
khi cái thân nghiệp báo hết tuổi thọ rồi mới
có thể sanh trên đài vàng trong ao sen bảy báu. Chỉ cần
hiện tại tín nguyện trì danh, hoa sen trong cõi Tây
Phương liền rạng rỡ xinh tươi, chẳng
còn là người trong thế giới Sa Bà nữa!
Trong
tác phẩm của pháp sư Viên Anh có nhắc tới hai
người:
1)
Một là pháp sư Khả Cứu đời Tống.
Sư thường niệm kinh Pháp Hoa cầu sanh Tịnh
Độ. Trong chương Tam Bối Vãng Sanh của kinh Vô
Lượng Thọ, đoạn thứ tư có nói: Hễ
ai tu học hết thảy pháp Đại Thừa, hồi
hướng cầu sanh Tịnh Độ thì A Di Đà Phật
cũng đến tiếp dẫn giống hệt [như
người chuyên tu Tịnh Độ]. Đủ thấy
pháp môn này bao dung hết sức rộng lớn. Pháp sư Khả
Cứu ngồi vãng sanh, mất đã ba ngày, sống lại,
bảo các đồng tu: “Tôi đã đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, trông thấy
tình hình hoàn toàn giống như kinh đã dạy”. Ngài lại
nói những ai tu Tịnh Độ trong cõi đời, hoa
sen trong ao bảy báu ở Tây Phương đều có ghi
tên. Người Thượng Phẩm vãng sanh là lão hòa
thượng của Quảng Giáo Viện tại Thần
Châu. Khi ấy, lão hòa thượng còn chưa vãng sanh. Ngoài
ra, còn có Tôn Thập Nhị Lang ở Minh Châu và chính sư Khả
Cứu đều là đài vàng. Kém hơn là đài bạc,
người chứng được đài bạc là Từ
đạo cô. Pháp sư Khả Cứu thuật tình hình
đã thấy cho mọi người nghe rồi lại vãng
sanh. Sau này, Tôn Thập Nhị Lang lâm chung, nhạc trời
vang rền hư không; khi Từ
đạo cô lâm
chung, có mùi hương lạ
ngập thất
không tan.
2)
Người kia là pháp sư Hoài Ngọc, khi lâm chung, thấy
A Di Đà Phật cầm đài bạc đến đón,
Sư nghĩ ta bình sinh công phu rất đắc lực, cớ
sao chỉ được đài bạc, tợ hồ chẳng
cam lòng. Ý niệm vừa khởi, chẳng thấy A Di
Đà Phật nữa. Sư lại dốc hết tánh mạng
niệm Phật bảy ngày bảy đêm không ngớt, A Di
Đà Phật lại hiện, cầm đài vàng tiếp dẫn.
Trong
thế gian, người tu pháp môn Tịnh Độ chân tâm
niệm Phật cầu vãng sanh, hoa sen của người ấy
bèn sáng ngời, rực rỡ chóa mắt. Nếu giải
đãi, biếng nhác, hoa liền khô héo. Đổi dạ
chuyển sang tu pháp môn khác, hoa liền chết khô. Hết thảy
sự vật trong Tây Phương đều chẳng sanh
diệt, chỉ có hoa sen trong ao bảy báu là có sanh, có diệt.
Sự tươi, khô, sanh, diệt ấy do hành nhân cảm
thành, chứ không liên quan gì tới A Di Đà Phật.
Khi niệm Phật,
tâm tánh năng niệm chẳng thể nghĩ bàn, nhưng
phải dùng chân tâm, đừng dùng vọng tâm. Niệm Phật
bằng chân tâm thì xử thế đãi người tiếp
vật cũng phải dùng chân tâm. Niệm niệm cầu
sanh về Tịnh Độ, khi còn sống trên đời
thì hết thảy thuận theo tự nhiên, chớ nên cưỡng
cầu. Một câu Phật hiệu đầy đủ
viên mãn Tam Học, Tam Huệ, và ba món tư lương, mà
cũng đầy đủ viên mãn vô lượng hạnh
môn, nhất tâm chấp trì sẽ có thể viên siêu, viên đốn.
Những bộ kinh lớn trong Viên Giáo như Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa vẫn chưa thể nói là “cực”
(tột bậc); cực viên cực đốn chỉ có một
pháp môn này. Thiền là Đốn, nhưng đem so với
kinh này, chẳng thể thành tựu trong bảy ngày. Mật
Tông nói “tức thân thành Phật”
(thành Phật ngay trong thân này), nhưng Ấn Quang đại
sư nói rất hay: “Tức
thân thành Phật trong Mật Tông chẳng qua chỉ là liễu
sanh tử, thoát tam giới mà thôi!” Loại công phu ấy
thì A La Hán, Bích Chi Phật mới có đủ tư cách, [“tức
thân thành Phật” của Mật Tông] chỉ là quả vị
Phật trong Tạng Giáo, chẳng thể bằng quả vị
Phật trong Biệt Giáo và Viên Giáo. Hết thảy tông, giáo,
pháp môn bày ra trước mặt quý vị, quý vị chẳng
chao đảo, tín tâm mới có thể kiên cố. Thông minh
thế gian là Thế Trí Biện Thông, trí huệ thật sự
là đối với hết thảy pháp môn chẳng nghi hoặc
một tí ti nào. Cổ nhân thường nói: “Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di dã”
(Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu mới
chẳng thay đổi chí hướng), thật chẳng
biết hạ ngu là thượng trí. Tín tâm chẳng đủ
thì có thể vun bồi. Đối với pháp môn này mà có thể
sanh lòng hoan hỷ, chứng tỏ người ấy trong
đời quá khứ quả thật có duyên với Phật
pháp. Đọc nhiều kinh điển Đại Thừa
có thể tăng mạnh tín tâm, đọc Tịnh Độ
Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện Ký nhiều lượt
có thể thúc đẩy ý nguyện cầu vãng sanh.
4.3.1.3. Khuyến hạnh lưu thông
(Kinh) Xá Lợi Phất! Như ngã
kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư
nghị công đức, bỉ chư Phật đẳng diệc
xưng tán ngã bất khả tư nghị công đức,
nhi tác thị ngôn: “Thích Ca Mâu Ni Phật năng vi thậm nan
hy hữu chi sự, năng ư Sa Bà quốc độ,
ngũ trược ác thế, kiếp trược, kiến
trược, phiền não trược, chúng sanh trược,
mạng trược trung, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, vị chư chúng sanh, thuyết thị
nhất thiết thế gian nan tín chi pháp”.
(經) 舍利弗。如我今者。稱讚諸佛不可思議功德。彼諸佛等。亦稱讚我不可思議功德。而作是言。釋迦牟尼佛。能為甚難希有之事。能於娑婆國土。五濁惡世。劫濁。見濁。煩惱濁。眾生濁。命濁中。得阿耨多羅三藐三菩提。為諸眾生。說是一切世間難信之法。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất!
Như ta nay khen ngợi chư Phật có công đức chẳng
thể nghĩ bàn, các vị Phật ấy cũng khen ngợi
công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta, mà nói
như thế này: “Thích Ca Mâu Ni Phật làm được
chuyện rất khó, là có thể ở trong đời ác
năm thứ trược là kiếp trược, kiến
trược, phiền não trược, chúng sanh trược,
mạng trược, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, vì các chúng sanh nói pháp mà hết thảy thế gian
khó tin tưởng này).
Đoạn
kinh văn này là “khuyến hạnh
lưu thông”. Chữ “chư
Phật” trong câu trước chỉ A Di Đà Phật. “Bỉ chư Phật đẳng”
là A Di Đà Phật và mười phương vô lượng
vô biên chư Phật đều cùng tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật
ở trong đời ác ngũ trược, tức kiếp
trược, kiến trược, phiền não trược,
chúng sanh trược, mạng trược, đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì các chúng sanh nói ra
pháp mà hết thảy thế gian khó thể tin tưởng
này. Khi Phật Thích Ca xuất thế, tuổi thọ trung
bình của con người trong thế giới Sa Bà là một
trăm tuổi, đang nhằm kiếp giảm, cứ mỗi
một trăm năm lại giảm một tuổi. Do
đức Phật xuất thế cách đây đã ba ngàn
năm nên tuổi thọ trung bình của con người hiện
thời là bảy mươi tuổi, đang bước
vào đời ác ngũ trược. Để có thể tu
hành chứng quả thành Phật ngay trong thời này, phải
dùng phương pháp nào để thành Phật? Ngẫu Ích
đại sư bảo Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật. Câu này nằm
ngay trong đoạn kinh văn này. Phật Thích Ca đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là thành Phật,
thị hiện thành Phật ngay trong một đời, rồi
mới đem pháp môn thành Phật ngay trong một đời
truyền cho chúng ta. Đấy là “vì các chúng sanh, nói ra pháp mà hết thảy thế gian
khó tin tưởng” này.
(Giải)
Chư Phật công đức, trí huệ, tuy giai bình đẳng,
nhi thi hóa tắc hữu nan dị. Tịnh Độ thành Bồ
Đề dị, trược thế nan. Vị Tịnh
Độ chúng sanh thuyết pháp dị, vị trược
thế chúng sanh nan. Vị trược thế chúng sanh thuyết
tiệm pháp do dị, thuyết đốn pháp nan. Vị
trược thế chúng sanh thuyết dư đốn pháp
do dị, thuyết Tịnh Độ hoành siêu đốn
pháp vưu nan. Vị trược thế chúng sanh, thuyết
Tịnh Độ hoành siêu đốn tu đốn chứng
diệu quán, dĩ tự bất dị. Thuyết thử vô
tạ cù lao tu chứng, đản trì danh hiệu, kính
đăng Bất Thoái, kỳ đặc thắng diệu,
siêu xuất tư nghị, đệ nhất phương
tiện, cánh vi nan trung chi nan. Cố thập phương
chư Phật, vô bất thôi ngã Thích Ca, thiên vi dũng mãnh dã.
(解) 諸佛功德智慧。雖皆平等。而施化則有難易。淨土成菩提易。濁世
難。為淨土眾生說法易。為濁世眾生難。為濁世眾生說漸法猶易。說頓法難。為濁世眾生說餘頓法猶易。說淨土橫超頓法尤難。為濁世眾生。說淨土橫超頓修頓證妙
觀。已自不易。說此無藉劬勞修證。但持名號。徑登不退。奇特勝妙。超出思議。第一方便。更為難中之難。故十方諸佛。無不推我釋迦。偏為勇猛也。
(Giải:
Công đức và trí huệ của chư Phật tuy đều
bình đẳng, nhưng thực hiện sự giáo hóa thì có
dễ hay khó. Trong Tịnh Độ thành Bồ Đề dễ
dàng, trong đời trược thì khó. Vì chúng sanh trong Tịnh
Độ thuyết pháp thì dễ, vì chúng sanh đời
trược thuyết pháp khó khăn. Vì chúng sanh đời
trược thuyết pháp Tiệm (tu tấn dần dần)
còn dễ, nói pháp Đốn sẽ khó. Vì chúng sanh đời
trược nói các pháp Đốn khác còn dễ, nói Đốn
pháp Tịnh Độ vượt ngang tam giới rất
khó. Vì chúng sanh đời trước nói diệu quán Tịnh
Độ đốn tu đốn chứng vượt
ngang tam giới đã chẳng dễ dàng, nói pháp chẳng cần
đến tu chứng nhọc nhằn, chỉ trì danh hiệu,
mau chóng vượt lên Bất Thoái, kỳ lạ, đặc
biệt, thù thắng, nhiệm mầu, vượt khỏi
suy nghĩ, phương tiện bậc nhất này càng là
điều khó nhất trong những điều khó. Vì thế,
mười phương chư Phật không một vị
nào chẳng suy tôn đức Thích Ca của chúng ta là bậc
đặc biệt dũng mãnh).
Mười
phương tam thế hết thảy chư Phật
Như Lai có cùng một tâm nguyện phổ độ chúng
sanh viên thành Phật đạo. Công đức, trí huệ,
năng lực của chư Phật đều bình đẳng,
nhưng để thực hiện sự giáo hóa lại có dễ,
khó [khác biệt]. Khó hay dễ là dựa trên đối
tượng được giáo hóa mà nói, kẻ căn tánh
lanh lợi sẽ dễ giáo hóa, chứ căn tánh đã chậm
lụt mà nghiệp chướng lại nặng nề thì
khó lắm. Đối với kẻ chướng nặng,
nếu chẳng lập nhiều phương tiện chỉ
dạy, bọn họ chẳng có hy vọng gì thành Phật.
A Di Đà Phật hóa hiện Tịnh Độ ở Tây
Phương thế giới chính là vì những kẻ như
vậy mà lập bày ra. Có những kẻ hiểu lầm
tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới
để chuyên độ những hạng vô tri vô thức,
làm sao có thể sánh bằng các pháp môn Đại Thừa. Thật
ra, họ đã thấy sai! Thật chẳng biết Phật
Di Đà lập ra pháp môn này, vượt trỗi pháp Nhất
Thừa trong Đại Thừa, pháp này chính là pháp môn trực
tiếp để thành Phật, những kẻ căn tánh cực
độn, tội nghiệp sâu nặng, hễ tiếp nhận
sẽ lập tức thành Phật. Vì sao kẻ ấy có thể
tin, có thể nguyện, có thể hành? Đọc kinh Vô
Lượng Thọ sẽ biết ngay, vốn là vì thiện
căn, phước đức đã tích lũy trong nhiều
đời nhiều kiếp của những người ấy
đã chín muồi, hoàn toàn chẳng phải là ngẫu nhiên!
Tiếp
đó, luận về sự khó - dễ nơi hoàn cảnh.
Tây Phương thế giới thành Phật dễ dàng, Sa Bà
khó khăn. Mỗi một người sanh về Tây
Phương đều được bổn nguyện của
A Di Đà Phật gia trì, Phật quang phổ chiếu, trí huệ
tăng trưởng, nghe pháp dễ khai ngộ. Cổ đức
nói, hoàn cảnh giữa hai thế giới có nhiều điểm
khác nhau:
1)
Ở Tịnh Độ thường xuyên thấy Phật.
Kẻ đới nghiệp vãng sanh, dẫu là Hạ Hạ
Phẩm vãng sanh ở trong hoa sen mười hai kiếp hoa
sen mới nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh, nhưng ở
trong hoa sen cũng có thể thấy Ứng Hóa Thân của A
Di Đà Phật và chư Phật, cũng như thấy
Văn Thù, Phổ Hiền v.v... các vị thượng thiện
nhân. “Hoa nở thấy Phật” là thấy được
Báo Thân Phật, khi hoa chưa nở thì thấy Ứng Hóa
Thân, [khi hoa nở thì người ấy] cũng đồng
thời có năng lực đến mười
phương thế giới hóa độ chúng sanh hữu
duyên.
2)
Thường nghe pháp. Ba kinh [Tịnh Độ] đều
nói trong Tây Phương thế giới, sáu trần đều
thuyết pháp, nên [chúng sanh trong Cực Lạc] chẳng bị
mê hoặc mà cũng chẳng thể thoái chuyển. Trong thế
giới Sa Bà nghe pháp rất khó.
3)
Ở Tịnh Độ, các vị thượng thiện
nhân tụ hội một chỗ, những thứ được
tiếp xúc đều giúp cho hành nhân đạt thành tựu,
không bị chướng ngại; còn thế giới Sa Bà
chướng ngại trùng trùng.
4)
Tịnh Độ không có ma sự, cõi này các loài ma nhiễu
loạn.
5)
Người sanh vào Tịnh Độ đều thọ vô
lượng, Sa Bà đoản mạng.
6)
Tịnh Độ chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái, Sa Bà tiến ít, lùi nhiều. Hễ sanh sang đời
khác, phải học lại từ đầu.
7)
Tịnh Độ quyết định một đời
thành Phật, Sa Bà thành Phật phải mất ba đại
A-tăng-kỳ kiếp.
Cuối
cùng đại sư lại nói: “Vì
chúng sanh đời trược nói các pháp Đốn khác còn
dễ, nói pháp Tịnh Độ là pháp Đốn vượt
khỏi tam giới theo chiều ngang rất khó”. Thế
nào là các pháp Đốn khác? Thiền là pháp Đốn khác,
người học Thiền đông đảo. Vì chúng sanh
trong đời trược nói pháp Thật Tướng Niệm
Phật và Quán Tưởng Niệm Phật đã chẳng dễ
dàng, may ra còn có người chịu tiếp nhận, chứ
nói pháp môn bậc nhất “không
cần phải tu chứng nhọc nhằn, chỉ trì danh
hiệu, nhanh chóng vượt lên Bất Thoái” càng là sự
khó nhất trong các sự khó. Vì đây là cảnh giới của
chư Phật, người thường ai có thể hiểu
được? Tôi thường khen ngợi chư vị
đồng tu, nhân duyên thiện căn, phước đức
của quý vị tốt đẹp hơn tôi. Quý vị vừa
học Phật liền tin tưởng pháp môn này. Tôi học
Phật cả bốn mươi năm mới tin tưởng.
Tôi xuất gia lúc mới hai mươi sáu tuổi, gặp
lão cư sĩ Châu Kính Trụ đã ngoài bảy mươi,
cụ đối với tôi rất tốt, thường
thường chăm sóc tôi. Về sau, cụ giới thiệu
tôi đến Đài Trung thân cận thầy Lý học Phật.
Thầy Lý là đệ tử của Ấn Quang đại
sư, chuyên tu Tịnh Độ. Tôi [đến Đài
Trung] nhằm mục đích học giảng kinh, cụ Lý
khuyên tôi tu Tịnh Độ, tôi chẳng thể tiếp nhận,
thậm chí còn ép thầy đến nỗi cụ phải
thốt ra một câu: “Từ
xưa đến nay bao nhiêu cao tăng đại đức
và những vị tại gia cư sĩ có học thức,
tu tập vững vàng đều học Tịnh Độ,
cứ coi như là họ bị lừa đi. Chúng ta bị
lừa một lần cũng không sao!” Năm Dân Quốc
sáu mươi (1971), tôi giảng kinh Hoa Nghiêm ở Đài Bắc,
chẳng thể không thâm nhập nghiên cứu, giảng suốt
mười bảy năm, đến cuối cùng, thấy
các vị Văn Thù và Phổ Hiền là những vị Phật
sẽ bổ xứ trong thế giới Hoa Tạng, các Ngài
đều cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chứng tỏ Tây Phương có chỗ đáng
chú ý, ban cho tôi một nhân duyên phản tỉnh to lớn. Từ
đấy, tôi lại chú ý thật kỹ càng: Thiện Tài
đồng tử tu pháp môn Niệm Phật, Thiện Tài là
học trò đắc ý của ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù
phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, truyền pháp
cho Thiện Tài ắt cũng là pháp môn Niệm Phật. Về
sau, Thiện Tài đi tham học, vị thầy thứ nhất
(tỳ-kheo Cát Tường Vân) dạy Ngài pháp môn Niệm Phật,
đến vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát,
mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, khiến cho Thiện Tài thành Phật viên mãn
ngay trong một đời. Do vậy, tôi mới quay đầu,
mới lại thâm nhập nghiên cứu ba kinh Tịnh Độ.
Nếu chẳng do kinh Hoa Nghiêm, tôi không có cách gì thâm nhập
Tịnh Độ. Về sau, lại đọc những lời
luận định của các bậc đại đức
thời Tùy - Đường: “Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa chẳng qua nhằm dẫn đường cho
kinh Vô Lượng Thọ mà thôi!” Tôi đọc câu bình luận
này, cảm nhận đặc biệt sâu đậm hơn
những người khác. Đúng là khó nhất trong những
sự khó! Học Giáo mà có thể quy hướng Tịnh
Độ thì số lượng những vị như vậy
qua các đời truyền thừa chẳng nhiều. Do vậy,
mười phương chư Phật không vị nào chẳng
suy tôn Phật Thích Ca là đấng dũng mãnh.
(Giải)
Kiếp Trược giả, trược pháp tụ hội
chi thời. Kiếp Trược trung, phi đới nghiệp
hoành xuất chi hạnh, tất bất năng độ.
(解) 劫濁者。濁法聚會之時。劫濁中。非帶業橫出之行。必不能度。
(Giải:
Kiếp Trược là lúc các pháp nhơ bẩn tụ hội.
Trong thuở Kiếp Trược, nếu chẳng có hạnh
“mang theo nghiệp vượt thoát theo chiều ngang”, ắt
chẳng thể độ được)
Đối
với từ ngữ Ngũ Trược, trong đoạn
Huyền Nghĩa trong phần trước đã trình bày
đại lược, ở đây, tôi lại y theo lời
giải thích của đại sư để giảng rõ.
Thứ
nhất là Kiếp Trược. Chữ Kiếp (劫) chỉ thời
đại. Trược (濁) là ô nhiễm. Chúng ta cảm nhận sâu xa sự ô
nhiễm trong môi trường sinh thái và địa cầu.
Các nhà khoa học đã đưa ra lời cảnh cáo: Nếu
chẳng cải thiện tình hình ô nhiễm, thì năm
mươi năm sau, thế giới này sẽ chẳng
thích hợp cho nhân loại sanh sống. Hiện thời mọi
người đều nghiên cứu vấn đề bảo
vệ môi trường, nhưng hiệu quả chẳng lớn
lắm. Đức Phật nói: “Y
báo chuyển theo chánh báo”. Y báo là hoàn cảnh sống, hoàn
cảnh bị ô nhiễm bởi chánh báo. Chánh báo là lòng
người, tâm tịnh ắt cõi nước tịnh. Trong
xã hội hiện thời, lòng người ô nhiễm,
tư tưởng ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm,
tinh thần ô nhiễm; nếu chẳng dốc sức thanh
tịnh hóa lòng người, sợ rằng chẳng thay
đổi được gì. Ấn Quang đại sư
đến tuổi xế chiều từng có lần chủ
trì pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng
Hải suốt bảy ngày. Ngày cuối cùng, Ngài truyền
trao Tam Quy, Ngũ Giới, lúc ấy có đệ tử ghi
chép những lời Ngài diễn giảng thành một cuốn
sách nhỏ. Ngài đề xướng “kiêng giết, ăn chay, niệm Phật, chẳng những
có thể tiêu trừ tai nạn, mà còn có thể bảo vệ
đất nước”. Nếu bây giờ chúng tôi đề
xướng thuyết ấy, ai sẽ tin tưởng?
Nhưng ba điều ấy quả thật hữu hiệu,
niệm Phật tịnh hóa lòng người, kiêng giết,
ăn chay sẽ giảm nhẹ sự tàn bạo, dữ dằn,
hiệu quả trông thấy lập tức. Đáng tiếc
là mọi người chẳng tin tưởng, coi đó là
mê tín. Đấy là cộng nghiệp khó lòng cứu vãn!
(Giải)
Kiến Trược giả, Ngũ Lợi Sử tà kiến
tăng thịnh, vị Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ,
Giới Thủ, cập chư tà kiến. Hôn muội cốt
một, cố danh vi Trược. Kiến Trược
trung, phi bất giả phương tiện chi hạnh, tất
bất năng độ.
(解) 見濁者。五利使邪見增盛。謂身見。邊見。見取。戒取。及諸邪見。昏昧汨沒。故名為濁。見濁中。非不假方便之行。必不能度。
(Giải:
Kiến Trược là năm thứ Lợi Sử tà kiến
tăng trưởng mạnh mẽ, tức là Thân Kiến,
Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến,
và các tà kiến. Tối tăm, chìm đắm, nên gọi là
Trược. Trong thời Kiến Trược, nếu chẳng
cậy vào hạnh phương tiện, ắt chẳng thể
độ được).
Thứ
hai, “Kiến Trược là
năm thứ Lợi Sử tà kiến tăng trưởng
mạnh mẽ”. Ngũ Lợi Sử: Sử (使) có nghĩa là
nha dịch, giống như cảnh sát hình sự hiện thời.
Lợi (利) là lợi hại.
Ngũ Lợi Sử chính là Kiến Hoặc. Kiến Hoặc
chia thành năm thứ, tức Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến
Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến và Tà Kiến.
Trong phần trước tôi đã giảng cặn kẽ, ở
đây không nói nhiều. Những kiến giải sai lầm
này che lấp trí huệ trong chân tâm, nên gọi là Trược.
Nếu chẳng nhờ vào phương tiện bậc nhất,
ắt chẳng thể độ được.
(Giải)
Phiền Não Trược giả, Ngũ Độn Sử
phiền hoặc tăng thịnh, vị tham, sân, si, mạn,
nghi, phiền động não loạn, cố danh vi Trược.
Phiền Não Trược trung, phi tức phàm tâm thị Phật
tâm chi hạnh, tất bất năng độ.
(解) 煩惱濁者。五鈍使煩惑增盛。謂貪。瞋。癡。慢。疑。煩動惱亂。故名為濁。煩惱濁中。非即凡心是佛心之行。必不能度。
(Giải:
Phiền Não Trược là năm thứ Độn Sử
phiền não mê hoặc tăng trưởng mạnh mẽ,
tức là tham, sân, si, mạn, nghi gây phiền não, rối loạn,
nên gọi là Trược. Trong thuở Phiền Não Trược,
nếu không dùng hạnh “tâm phàm chính là tâm Phật”, ắt chẳng
thể độ được).
Kiến
Trược là kiến giải sai lầm, tức thấy
sai lầm. Phiền Não Trược là tư tưởng sai
lầm, tức suy nghĩ lầm lạc. Ngũ Độn
Sử cũng gồm năm loại lớn. Năm thứ
Lợi Sử trong phần trước xảy đến
mãnh liệt, còn năm thứ Độn Sử này tuy chẳng
mãnh liệt nhưng rất khó đoạn. Cổ đức
thường ví von là “dẫu
lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Dẫu cho đắc Tứ
Quả La Hán, Kiến Hoặc và Tư Hoặc đều
đã đoạn, nhưng tập khí vẫn còn. Ngũ
Độn Sử là tham, sân, si, mạn, nghi. Tham là tham ái. Sân
là nóng giận. Si là ngu si, đối với chân, vọng,
tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, lợi, hại, chẳng
phân biệt rõ ràng, thường thấy biết điên
đảo. Trong các phiền não, ngu si là nghiêm trọng nhất,
vì không có Huệ sẽ chẳng đoạn được
Si, chỉ dựa vào Định vẫn chưa được.
Do vậy, A La Hán có Cửu Thứ Đệ Định. Mạn
là ngạo mạn. Nghi là hoài nghi. Nghi đây không phải là
ngờ vực thông thường, mà là hoài nghi Thánh Ngôn Lượng,
đời này sẽ khó thoát tam giới. Trong thời đại
hiện thời, Phiền Não Trược nghiêm trọng
hơn bất cứ thời kỳ nào trong quá khứ. Đại
sư nói nếu chẳng dùng phương pháp “cái tâm phàm
chính là tâm Phật” sẽ chẳng thể thành tựu. Nói
theo Lý, tâm phàm chính là tâm Phật, về mặt Sự, thì
[tâm phàm và tâm Phật] khác hẳn nhau. Ngoài pháp môn Niệm Phật
ra, kinh Đại Thừa có nói tới Đồng Sanh Tánh
và Dị Sanh Tánh. Hàng Bồ Tát từ Tam Hiền trở xuống
và chúng sanh trong sáu đường đều là Dị Sanh
Tánh, khó thể thành tựu. Phàm phu trong lục đạo
càng chẳng dễ gì vượt thoát tam giới. Con người
luân hồi, cuộc sống trong đời này ngắn ngủi,
tạm bợ, cuộc sống trong những đời sau
sẽ làm như thế nào đây? Người mê hoặc,
điên đảo, chỉ thấy chuyện trước mắt,
thường chẳng nghĩ tới hậu quả. Trong
pháp môn tu hành, chỉ có tâm niệm Phật là chân tâm bổn
tánh. Tâm tánh năng niệm chẳng thể nghĩ bàn, tâm ấy
chính là Phật tâm, đức Phật được niệm
chẳng thể nghĩ bàn. Phật hiệu là tánh đức,
lại còn là đức hiệu (danh hiệu của phẩm
đức nơi tự tánh) của chân tâm bổn tánh viên
mãn. Câu “tức phàm tâm thị Phật
tâm chi hạnh” chỉ pháp môn Niệm Phật vãng sanh. Trừ
pháp môn này ra, ắt chẳng [có pháp môn nào khác mà] có thể
độ được.
(Giải)
Chúng Sanh Trược giả, kiến phiền não, sở cảm
thô tệ Ngũ Ấm hòa hợp, giả danh chúng sanh. Sắc,
tâm tịnh giai lậu liệt, cố danh vi Trược.
Chúng Sanh Trược trung, phi Hân Yếm chi hạnh, tất
bất năng độ.
(解) 眾生濁者。見煩惱。所感麤弊五陰和合。假名眾生。色心並皆陋劣。故名為濁。眾生濁中。非欣厭之行。必不能度。
(Giải:
Chúng Sanh Trược là do Kiến Hoặc, cảm vời
Ngũ Ấm thô tệ hòa hợp, giả gọi là chúng
sanh. Sắc lẫn tâm đều thô lậu, hèn kém, nên gọi
là Trược. Trong thuở Chúng Sanh Trược, nếu
không do hạnh Ưa Thích và Chán Lìa, ắt chẳng thể
độ được).
“Do các duyên hòa hợp mà sanh” nên
gọi là “chúng sanh”. Chúng sanh
do Ngũ Ấm, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,
Thức kết hợp thành. Sắc tượng trưng cho
vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần.
Có cảm nhận, suy nghĩ liên tục sanh diệt trong từng
sát-na. Trong Duy Thức Học gọi Thức là A Lại Da
Thức, nói thông tục là “linh hồn”, nhà Phật gọi
là “thần thức”. Luân hồi trong sáu nẻo là do thần
thức đầu thai. Khi chưa khai ngộ kiến tánh,
thần thức là chủ tể, đó là Ngã. Sau khi kiến
tánh, chân tâm bổn tánh mới chính là con người thật
của chính mình. Khi mê muội [chưa thấu hiểu] chân
tâm bổn tánh thì gọi là Thức, ngộ rồi thì gọi
là Chân Như Bổn Tánh. Thức và Chân Như Bổn Tánh là
một, chẳng qua là hai danh từ khác nhau mà thôi. Chân tánh là
bản thể của hết thảy vạn pháp trong vũ
trụ, ở nơi hữu tình chúng sanh thì gọi là Phật
Tánh, còn nơi vô tình chúng sanh thì gọi là Pháp Tánh. Do kiến
giải, tư tưởng sai lầm nên cảm vời Sắc
và Tâm đều chẳng thanh tịnh, nên gọi là Trược.
Trong hoàn cảnh ô nhiễm này, ắt phải phát tâm lìa khỏi,
ắt phải vui vẻ nguyện sanh về cõi Phật
thanh tịnh nơi thế giới Tây Phương. Có hạnh
Vui Cầu và Nhàm Lìa thì mới có hy vọng đắc độ.
(Giải)
Mạng Trược giả, nhân quả tịnh liệt, thọ
mạng đoản xúc, nãi chí bất mãn bách tuế, cố
danh vi Trược. Mạng Trược Trung, phi bất phí
thời kiếp, bất lao cần khổ chi hạnh, tất
bất năng độ.
(解) 命濁者,因果並劣,壽命短促,乃至不滿百歲,故名為濁。命濁中,非不費時劫,不勞勤苦之行,必不能度。
(Giải:
Mạng Trược là nhân và quả đều kém cỏi,
tuổi thọ ngắn ngủi, thậm chí chẳng đầy
trăm tuổi, nên gọi là Trược. Trong thuở Mạng
Trược, mà chẳng dùng hạnh “chẳng tốn kiếp
số, chẳng cần phải nhọc nhằn tu tập”,
ắt chẳng thể độ được).
Mọi
người thường nói tới khỏe mạnh, sống
lâu, đấy là chuyện chúng sanh mong cầu nhiều nhất.
Nếu luận theo nhân thì điều thứ nhất là phải
có tâm thanh tịnh và tâm đại từ bi. Nếu cái nhân
không tốt, tâm chẳng thanh tịnh, chẳng từ bi,
thân ắt sẽ đoản mạng, lắm bệnh. Phật
nói người có đủ sáu căn, tức sáu căn
không thiếu sót, chẳng sứt sẹo, rất khó có. Bất
cứ quả báo nào cũng đều có nguyên nhân. Nói theo mặt
cương lãnh thì bố thí là nhân, phước báo là quả.
Tài Bố Thí được giàu có, Pháp Bố Thí được
thông minh, trí huệ, Vô Úy Bố Thí được mạnh
khỏe, sống lâu. Chẳng tu nhân mà mong có quả báo tốt
thì chính là huyễn tưởng. Con người hiện thời
thiếu khuyết tâm từ bi và tâm thanh tịnh; do vậy,
Mạng Trược. Trong thời kỳ này, nhất định
phải chọn một phương pháp tu hành chẳng tốn
bao nhiêu thời gian, chẳng phải nhọc nhằn tu tập
thì mới hòng đắc độ.
(Giải)
Phục thứ, chỉ thử tín nguyện, trang nghiêm nhất
thanh A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược vi
thanh tịnh hải hội, chuyển Kiến Trược
vi vô lượng quang, chuyển Phiền Não Trược vi
Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược vi
liên hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược vi vô lượng
thọ. Cố, nhất thanh A Di Đà Phật tức Thích
Ca Bổn Sư ư ngũ trược ác thế, sở
đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
pháp. Kim dĩ thử quả giác toàn thể, thọ dữ
trược ác chúng sanh, nãi chư Phật sở hành cảnh
giới, duy Phật dữ Phật năng cứu tận,
phi cửu giới tự lực sở năng tín giải
dã. “Chư chúng sanh”, biệt chỉ ngũ
trược ác nhân. “Nhất thiết thế gian”, thông chỉ
tứ độ khí thế gian, cửu giới hữu tình
thế gian dã.
(解) 復次。祇此信願。莊嚴一聲阿彌陀佛。轉劫濁。為清淨海會。轉見
濁。為無量光。轉煩惱濁。為常寂光。轉眾生濁。為蓮華化生。轉命濁。為無量壽。故一聲阿彌陀佛。即釋迦本師。於五濁惡世。所得之阿耨多羅三藐三菩提法。今
以此果覺全體。授與濁惡眾生。乃諸佛所行境界。唯佛與佛能究盡。非九界自力。所能信解也。諸眾生。別指五濁惡人。一切世間。通指四土器世間。九界有情世間
也。
(Giải:
Lại nữa, chỉ dùng tín nguyện này để trang
nghiêm, niệm một tiếng A Di Đà Phật, sẽ chuyển
Kiếp Trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển
Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển Phiền
Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển
Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong hoa sen, chuyển Mạng
Trược thành vô lượng thọ. Vì thế, một
câu A Di Đà Phật chính là pháp mà đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng để đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác
ngũ trược. Nay Ngài đem toàn thể sự giác ngộ
nơi Phật quả truyền cho chúng sanh trong đời
trược ác. Đấy chính là cảnh giới thực
hành của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới hòng thấu suốt
cùng tận, chứ chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào tự
lực sẽ chẳng thể tin hiểu được.
Chữ “chư chúng sanh” chỉ riêng những kẻ ác trong
đời ngũ trược. Chữ “nhất thiết thế
gian” chỉ chung thế giới vật chất trong bốn
cõi và hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới).
Có
lòng tin chân thật, nguyện thiết tha thì một tiếng
A Di Đà Phật sẽ chuyển Kiếp Trược thành
hải hội thanh tịnh, chuyển biến ngay lập tức.
Chuyển Kiến Trược thành vô lượng quang, chuyển
biến kiến giải sai lầm thành sự quán sát trí huệ.
Chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch
Quang, chuyển hết thảy phiền não thành Đại
Định. Chuyển Chúng Sanh Trược thành hóa sanh trong
hoa sen, chuyển Mạng Trược thành vô lượng thọ.
Cách chuyển như thế nào? Chỉ dựa vào tín nguyện
trì danh, dễ dàng xiết bao! Khó ở chỗ người
ta chẳng chịu tin tưởng. Hết thảy chư
Phật đều cảm thán pháp này là pháp khó tin, ai có thể
tin tưởng thì chính là người thật sự có
phước. Phàm phu hoàn toàn chẳng thể thấu hiểu
nghĩa lý của pháp này, đấy là đại phước
báo viên mãn rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn. Đại
sư lại dạy rõ: Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di
Đà Phật mà thành Phật, vì đức Phật Thích Ca
đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
trong đời ác ngũ trược. A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, mà cũng là “thành Phật”.
Nếu Phật chẳng giảng kinh Di Đà, chẳng dạy
chúng ta pháp môn Niệm Phật, dù Phật có nói ngàn kinh muôn luận
thì cũng là phạm lỗi thiếu sót đối với
chúng ta. Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, nếu
chẳng giảng pháp môn thành Phật viên mãn ngay trong một
đời này thì làm sao gọi là đối xử đúng lẽ
với con người cho được? Do vậy, hết
thảy chư Phật nhất định chẳng phụ
bạc chúng sanh. Tận hư không, khắp pháp giới tuyên
dương phổ biến pháp môn này, bất luận tu học
bất cứ pháp môn nào, Thiền Tông, Giáo Hạ, Mật
Tông, Giới Luật, sau khi tu thành tựu, đến cuối
cùng đều về thế giới Hoa Tạng, Hoa Tạng
là chỗ quy túc chung. Đến được thế giới
Hoa Tạng rồi sẽ gặp Văn Thù, Phổ Hiền.
Văn Thù, Phổ Hiền dạy mọi người niệm
Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc
hòng viên thành Phật đạo. Khi tôi giảng Quán Kinh, giảng
đến phần ba thứ phước, thấy “tin sâu
nhân quả” được xếp vào điều thứ
ba; nếu xếp vào điều thứ nhất, tôi cũng
chẳng hoài nghi một tí nào, [nay tin sâu nhân quả] lại
xếp vào điều thứ ba, mà điều thứ ba là
pháp tu của Bồ Tát. Tôi giảng kinh cũng là giảng
theo kiểu nuốt trộng quả táo, nhưng vẫn hoài
nghi, tự hỏi Bồ Tát mà vẫn chẳng tin nhân quả
hay sao? Nhiều năm sau mới biết “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”.
Đấy là cảnh giới của Phật, rất nhiều
vị Bồ Tát chẳng biết. Chúng sanh trong chín pháp giới
nếu không được bổn nguyện và oai thần của
Phật gia trì, sẽ đều chẳng tin tưởng.
Chúng sanh thiện căn chưa chín muồi, Phật cũng
chẳng gia trì được! Do vậy, đại sư
nói: “Chúng sanh trong chín pháp giới
cậy vào tự lực sẽ chẳng thể tin hiểu
được”. Chữ “chư
chúng sanh” riêng chỉ những kẻ tạo ác trong đời
ác ngũ trược. Theo Thiện Đạo đại
sư, chữ “chư chúng sanh”
trong Quán Kinh chỉ ba bậc vãng sanh thuộc hạng Hạ.
Ba phẩm thuộc bậc Thượng là đại tâm
phàm phu, ba phẩm thuộc bậc Trung là phàm phu tu thiện
trong thế gian, ba phẩm thuộc bậc Hạ là phàm phu
tạo ác. Chữ “nhất thiết thế gian” chỉ chung
các hữu tình thế gian trong chín pháp giới.
(Giải)
Tiền khuyến tín lưu thông, thị chư Phật phó
chúc. Thử Bổn Sư phó chúc, chúc ngữ lược biệt
tùng thông, đản vân “nhất thiết thế gian” do tiền
chư Phật sở vân “nhữ đẳng chúng sanh”,
đương tri Văn Thù, Ca Diếp đẳng, giai tại
sở chúc dã.
(解) 前勸信流通。是諸佛付囑。此本師付囑。囑語略別從通。但云一切世間。猶前諸佛所云。汝等眾生。當知文殊迦葉等。皆在所囑也。
(Giải:
Đoạn Khuyến Tín Lưu Thông trong phần trước
là lời dặn bảo của chư Phật. Trong đoạn
này là đức Bổn Sư dặn bảo. Trong lời dặn
bảo riêng này, chỉ nói đại lược, nhưng ý
nghĩa vẫn giống như trong phần dặn bảo
chung [của mười phương chư Phật]. Trong
phần trước, chư Phật đã nói “chúng sanh các
ngươi”, cho nên biết Văn Thù, Ca Diếp v.v... đều
thuộc trong số những người được
đức Phật căn dặn).
Trong
phần Lưu Thông, ba tiểu đoạn Tín, Nguyện, Hạnh
đến đây là hết. Tiếp theo đây là lời
đức Giáo Chủ khen ngợi để kết thúc. Phần
sáu phương Phật [tán thán] trong phần trước
chính là vô lượng vô biên chư Phật Như Lai dặn
dò chúng ta, còn khuyên phát nguyện, khuyên hành trì là lời Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni dặn bảo. Lời dặn dò nằm
trong phần kinh văn này, kinh văn khá giản lược,
chỉ gồm hai từ ngữ “nhữ
đẳng chúng sanh” và “nhất
thiết thế gian”, nhưng bao gồm thánh phàm trong chín
pháp giới. Văn Thù là thượng thủ của hàng Bồ
Tát, Ca Diếp là thượng thủ trong hàng A La Hán, đều
là đối tượng để Phật căn dặn.
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Đương tri ngã ư ngũ trược ác thế,
hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, vị nhất thiết thế gian,
thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan.
(經) 舍利弗。當知我於五濁惡世。行此難事。得阿耨多羅三藐三菩提。為一切世間。說此難信之法。是為甚難。 (Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Hãy nên biết: Ta ở trong
đời ác ngũ trược, làm chuyện khó khăn
này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì hết
thảy thế gian, nói pháp khó tin này, thật là rất khó).
Trong đoạn trước,
đại sư đã nói: “Vì thế, niệm một tiếng
A Di Đà Phật, chính là pháp để Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác trong đời ác ngũ trược” chính là
dựa trên đoạn kinh văn ngắn ngủi này. Chúng
ta niệm hằng ngày nhưng hoàn toàn chẳng nhận biết.
Có người niệm kinh A Di Đà, niệm nhuyễn nhừ,
nhưng nếu có ai hỏi: “Thích Ca Mâu Ni Phật do tu pháp
môn gì mà thành Phật?” liền lúng túng không biết đáp ra
sao. Nếu đại sư không nhắc nhở, chúng ta vẫn
cứ lơ mơ chẳng hiểu biết y như cũ.
Đủ thấy đại sư có ân đức rất
lớn đối với chúng ta.
(Giải) Tín nguyện trì danh nhất
hạnh, bất thiệp thi vi, viên chuyển ngũ trược,
duy tín nãi nhập, phi tư nghị sở hành cảnh giới.
Thiết phi Bổn Sư, lai nhập ác thế, thị
đắc Bồ Đề. Dĩ đại trí, đại
bi, kiến thử, hành thử, thuyết thử, chúng sanh hà
do bẩm thử dã tai! Nhiên ngô nhân xử Kiếp Trược
trung, quyết định vị thời sở hữu, vị
khổ sở bức, xử Kiến Trược trung, quyết
định vị tà trí sở triền, tà sư sở hoặc.
Xử Phiền Não Trược trung, quyết định vị
tham dục sở hãm, ác nghiệp sở thích. Xử Chúng
Sanh Trược Trung, quyết định an ư xú uế,
nhi bất năng đỗng giác, cam ư liệt nhược,
nhi bất năng phấn phi. Xử Mạng Trược
trung, quyết định vị vô thường sở thốn,
thạch hỏa, điện quang, thố thủ bất cập.
Nhược bất thâm tri kỳ thậm nan, tương vị
cánh hữu biệt pháp khả xuất ngũ trược,
bồng bột trạch lý, hý luận phân nhiên. Duy thâm tri kỳ
thậm nan, phương khẳng tử tận thâu tâm, bảo
thử nhất hạnh. Thử Bổn Sư sở dĩ cực
khẩu, thuyết kỳ nan thậm, nhi thâm chúc ngã đẳng
đương tri dã. Sơ phổ khuyến cánh.
(解) 信願持名一行。不涉施為。圓轉五濁。唯信乃入。非思議所行境界。設非本師。來入惡世。示得菩提。以大智大悲。見此。行此。說此。眾生何由稟此也哉。然吾人處劫濁中。決定為時所囿。為苦所偪。處見濁中。決定為邪智所纏。邪師所惑。處煩惱濁中。決
定為貪欲所陷。惡業所螫。處眾生濁中。決定安於臭穢。而不能洞覺。甘於劣弱。而不能奮飛。處命濁中。決定為無常所吞。石火電光。措手不及。若不深知其甚
難。將謂更有別法可出五濁。熢勃宅裡。戲論紛然。唯深知其甚難。方肯死盡偷心。寶此一行。此本師所以極口。說其難甚。而深囑我等當知也。初普勸竟。
(Giải:
Một hạnh tín nguyện trì danh, chẳng xen lẫn những
hạnh nghiệp nào khác, chuyển biến trọn vẹn
ngũ trược, chỉ có tin mới hòng chứng nhập,
là cảnh giới chẳng thể do nghĩ bàn mà hòng thấu
hiểu được. Nếu đức Bổn Sư chẳng
vào trong đời ác, thị hiện chứng đắc Bồ
Đề, do đại trí, đại bi, thấy điều
này, hành pháp này, giảng pháp này, chúng sanh sẽ do đâu mà nhận
lãnh được pháp này vậy thay? Nhưng chúng ta sống
trong Kiếp Trược, quyết định bị thời
đại vây bủa, bị khổ não bức bách. Sống
trong Kiến Trược, chắc chắn bị tà trí trói
buộc, bị tà sư mê hoặc. Sống trong Phiền Não
Trược, chắc chắn bị tham dục vây hãm, bị
ác nghiệp cắn rứt. Sống trong Chúng Sanh Trược,
chắc chắn ở yên trong cảnh hôi nhơ mà chẳng
thấu hiểu, cam lòng kém hèn, chẳng thể phấn chấn
mạnh mẽ tiến lên. Ở trong Mạng Trược,
chắc chắn bị vô thường nuốt mất, [mạng
người ngắn ngủi] như tia lửa xẹt do
đập vào đá, như ánh chớp, trở tay chẳng
kịp. Nếu chẳng biết sâu xa [thoát ly Ngũ Trược]
là cực khó, ắt sẽ ngỡ còn có một pháp nào khác
để thoát khỏi Ngũ Trược, cứ hý luận
rối bời trong ngôi nhà lửa cháy bừng bừng. Chỉ
có hiểu sâu xa [thoát ly Ngũ Trược]
là rất khó thì mới chịu chết sạch tấm lòng
mong ngóng so đo, quý báu một hạnh này. Đây chính là lý
do vì sao đức Bổn Sư cạn hết lời, bảo
pháp này rất khó, lại còn tha thiết dặn dò chúng ta phải
nên thấu hiểu. [Đoạn lớn] thứ nhất [trong
phần Lưu Thông] là Phổ Khuyến hết).
“Tín nguyện trì danh nhất hạnh,
bất thiệp thi vi”: “Thiệp”
(涉) là thiệp cập
(涉及: dính dáng), “thi vi” (施為) là chẳng dùng
tới phương tiện, chẳng dùng những pháp môn
nào khác để phụ trợ; chẳng dùng Thiền mà
cũng chẳng dùng chú. Dùng ngay một câu Phật hiệu
này bèn có thể chuyển biến trọn vẹn ngũ
trược. Trong thời rất gần đây, ở
Đài Loan bị hạn hán thiếu nước, Quán Trưởng
phát khởi lòng từ bi, tính thông báo đạo tràng tại
Đài Bắc hãy cầu mưa, hỏi tôi cách thức cầu
mưa. Trong Thiền Môn Nhật Tụng có Cầu Vũ Nghi
Quy (nghi thức cầu mưa). Trong quá khứ, Liên Trì đại
sư trụ tích[6] tại Hàng Châu, có một
năm trời hạn hán. Quan Thái Thú Hàng Châu biết đại
sư là bậc cao tăng hữu đức, thỉnh Ngài lập
đàn cầu mưa. Đại sư nói: “Tôi chỉ biết niệm Phật, chẳng biết
cầu mưa, nhưng là chuyện cầu phước cho
dân chúng thì cũng nên tùy hỷ”. Ngài liền dẫn đồ
đệ niệm Phật suốt trên đường
đi. Đại sư đi tới đâu, trời đổ
mưa tới đó, cũng là kỳ tích. Trong truyện ký của
Liên Trì đại sư có chép chuyện này. Bất luận
cầu điều gì, chỉ một câu Phật hiệu thật
sự đủ dùng rồi.
Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian,
do đại trí, đại bi, thấy pháp trì danh niệm
Phật này sẽ thành Phật, bèn đích thân thực hành,
và nói cho chúng ta biết, chúng ta mới biết ân đức
lớn lao của Phật. Sống trong cõi đời
nhơ bẩn này, giống như tù nhân bị nhốt chặt
trong ngục khó trốn, lại không may gặp phải thời
pháp yếu, ma mạnh. Đạo tràng chánh pháp phần nhiều
đìu hiu; ngược lại, đạo tràng của tà
sư đông đúc. Chúng ta tự thẹn đạo đức,
định lực chẳng đủ, trước hết,
hãy nên thành tựu chính mình, đừng bị mê hoặc,
trói buộc bởi tà trí, tà sư. Hãy nên biết rằng:
Trong đời này, không ai chẳng tham, tham là hầm bẫy.
Tham tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, ngũ
dục, lục trần chính là hầm bẫy tam ác đạo.
Tham pháp xuất thế gian thì vẫn là cạm bẫy tam ác
đạo. Đức Phật bảo chúng ta trừ khử
tâm tham, chứ không bảo chúng ta thay đổi đối
tượng tham lam. Nếu có pháp môn nào chưa học,
đợi đến Tây Phương hãy học cũng chẳng
muộn. Trong giai đoạn hiện thời, nhất tâm nhất
ý cầu sanh Tịnh Độ. Trong xã hội hiện thời,
đại đa số con người tâm chẳng thanh tịnh,
tranh danh, đoạt lợi, đều là tạo ác, điều
sai chồng chất mãi trở thành đúng. Nếu chẳng
tùy thuận thế tục, đâm ra sẽ bị coi như
kẻ quái dị. Vì thế, chúng ta phải độc lập,
độc hành thì mới có thể thoát khỏi [người
đời dị nghị].
“Bồng bột trạch lý, hý luận
phân nhiên” (trong căn nhà cháy bừng bừng, tơi bời
hý luận): Trong căn nhà khói lửa mù mịt như thế,
người tỉnh táo sẽ gấp rút chạy thoát thân, kẻ
mê hoặc vẫn ở trong nhà thảo luận, nghiên cứu.
Chỉ có thấu hiểu [tam giới] rất khó thoát lìa, mới
chịu chết sạch những ý nghĩ chụp giựt,
cầu may, coi một câu A Di Đà như thần chú cứu
mạng hết sức quý báu.
4.3.2. Kết khuyến
(Kinh) Phật thuyết thử
kinh dĩ, Xá Lợi Phất, cập chư tỳ-kheo, nhất
thiết thế gian, thiên, nhân, A Tu La đẳng, văn Phật
sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.
(Giải) Pháp
môn bất khả
tư nghị, nan tín, nan tri, vô nhất nhân
năng phát vấn
giả. Phật trí giám cơ, tri chúng sanh thành Phật duyên
thục, vô vấn tự thuyết, linh đắc tứ
ích, như thời vũ hóa. Cố “hoan hỷ tín thọ”
dã. Thân tâm di duyệt, danh “hoan hỷ”. Hào vô nghi nhị, danh
“tín”. Lãnh nạp bất vong, danh “thọ”. Cảm đại
ân đức, đầu thân quy mạng, danh “tác lễ”. Y
giáo tu trì, nhất vãng bất thoái, danh “nhi khứ”.
(經) 佛說此經已。舍利弗。及諸比丘。一切世間。天人阿修羅等。聞佛所說。歡喜信受。作禮而去。
(解) 法門不可思議。難信難知。無一人能發問者。佛智鑒機。知眾生成佛緣熟。無問自說。令得四益。如時雨化。故歡喜信受也。身心怡悅。名歡喜。毫無疑貳。名信。領納不忘。名受。感大恩德。投身歸命。名作禮。依教修持。一往不退。名而去。
(Chánh kinh: Đức Phật
nói kinh này xong, ngài Xá Lợi Phất và các vị tỳ-kheo,
hết thảy thế gian, trời, người, A Tu La
v.v... nghe lời Phật dạy, hoan hỷ tin nhận, làm lễ,
lui ra.
Giải: Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, khó tin,
khó biết, không một ai có thể nêu câu hỏi. Đức
Phật dùng trí huệ xét soi căn cơ, biết duyên thành
Phật của chúng sanh đã chín, bèn không ai hỏi tự
nói, khiến cho mọi người được bốn
thứ lợi ích, giống như trận mưa đúng thời
khiến cho muôn loài tăng trưởng. Vì thế, [đại
chúng] “hoan hỷ tín thọ” (hoan hỷ tin nhận). Thân tâm
vui sướng gọi là “hoan hỷ”. Chẳng nghi ngờ mảy
may, gọi là “tín”. Lãnh nhận chẳng quên mất, gọi
là “thọ” (nhận). Cảm kích ân đức lớn lao,
gieo toàn thân quy mạng, gọi là “tác lễ”. Vâng theo lời
dạy tu trì, thẳng tiến chẳng lui sụt, gọi
là “nhi khứ”).
Tuy đức Thế Tôn gọi
ngài Xá Lợi Phất, mà ngài Xá Lợi Phất từ đầu
đến giờ chẳng thưa một câu. Đối với
chuyện này, Ngài chẳng biết một điều nào,
cho thấy pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, khó
biết. Đây là cảnh giới viên mãn nơi quả
địa Như Lai, Phật dùng trí huệ viên mãn xét soi
chúng sanh, thấy cơ duyên của họ đã chín muồi,
không ai hỏi tự nói, nói ra bộ kinh A Di Đà này. Chúng
ta nghe xong, nếu hoan hỷ tin nhận, liền được
bổn nguyện và oai thần của chư Phật Như
Lai gia trì, giống như mưa ngọt đúng lúc, thân tâm
vui sướng, đối với lời Phật nói chẳng
hoài nghi mảy may, hoàn toàn tiếp nhận lời Phật
giáo huấn, cảm tạ ân đức khôn sánh của
đức Thế Tôn, nương theo lời dạy tu trì.
Pháp hội đã giải tán nhưng tu hành mới bắt
đầu. Chính mình phải vui mừng, chớ phụ bạc
thiện căn từ vô lượng kiếp của chính
mình, đừng phụ bạc chư Phật gia trì, đừng
phụ bạc Thích Ca Mâu Ni Phật buốt lòng rát miệng
vì chúng ta nói ra pháp môn này, mà cũng đừng phụ rẫy
Ngẫu Ích đại sư đã giải thích cặn kẽ
trong cuốn Di Đà Yếu Giải này, khiến cho chúng ta
có thể trên báo bốn ân, dưới cứu tam khổ.
Hôm nay đã giảng đến ngày thứ bốn
mươi tám, viên mãn vừa khéo. Cảm ơn quý vị.
Phụ lục - Ngẫu Ích đại sư bạt
Kinh vân: “Mạt pháp ức ức
nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo. Duy y niệm Phật
đắc độ”. Ô hô! Kim chánh thị kỳ thời hỹ!
Xả thử bất tư nghị pháp môn, kỳ hà năng
thục? Húc xuất gia thời, tông thừa tự phụ,
miểu thị giáo điển, vọng vị trì danh, khúc
vi trung hạ. Hậu nhân đại bệnh, phát ý Tây quy. Phục
nghiên Diệu Tông, Viên Trung nhị sao, cập Vân Thê Sớ
Sao đẳng thư, tri kỳ Niệm Phật tam-muội,
thực vô thượng bảo vương, phương khẳng
tử tâm, chấp trì danh hiệu, vạn ngưu mạc vãn
dã. Ngô hữu Khứ Bệnh, cửu sự Tịnh nghiệp,
dục linh thử kinh đại chỉ, từ bất phiền,
nhi bỉnh trước, thỉnh dư vị thuật Yếu
Giải. Dư dục phổ dữ pháp giới hữu tình
đồng sanh Cực Lạc, lý bất khả khước,
cử bút vu Đinh Hợi cửu nguyệt nhị thập
hữu thất, thoát cảo ư thập nguyệt sơ
ngũ, phàm cửu nhật cáo thành. Sở nguyện nhất
cú, nhất tự, hàm tác tư lương, nhất kiến,
nhất văn, đồng giai Bất Thoái. Tín nghi giai thực
đạo chủng, tán báng đẳng quy giải thoát.
Ngưỡng duy chư Phật, Bồ Tát, nhiếp thọ
chứng minh, đồng học hữu nhân tùy hỷ gia bị.
Tây Hữu
đạo nhân Ngẫu Ích Trí Húc các bút cố bạt, thời
niên tứ thập hữu cửu.
蕅益大師跋
經云:末法億億人修行,罕一得道,唯依念佛得度。嗚呼!今正是其
時矣。捨此不思議法門,其何能淑。旭出家時,宗乘自負,藐視教典。妄謂持名,曲為中下。後因大病,發意西歸。復研《妙宗》《圓中》二鈔,及雲棲《疏鈔》等
書,始知念佛三昧,實無上寶王,方肯死心執持名號,萬牛莫挽也。吾友去病,久事淨業,欲令此經大旨,辭不繁而炳著,請余為述要解。余欲普與法界有情同生極
樂,理不可卻。舉筆于丁亥九月二十有七,脫稿於十月初五,凡九日告成。所願一句一字,咸作資糧。一見一聞,同階不退。信疑皆植道種,讚謗等歸解脫。仰唯諸
佛菩薩攝受證明,同學友人隨喜加被。西有道人蕅益智旭閣筆故跋,時年四十有九。
Lời bạt của Ngẫu Ích đại sư
Kinh dạy: “Trong đời Mạt Pháp, ức ức người
tu hành, hiếm có một ai đắc đạo, chỉ có
nương vào pháp Niệm Phật thì mới đắc
độ”. Than ôi! Nay đúng nhằm thời ấy vậy.
Bỏ pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này, thì còn cậy
vào đâu để giải thoát cho được? Húc tôi
lúc xuất gia, tự phụ là người thuộc Thiền
Tông, coi thường những kinh điển thuộc Giáo
môn, nói xằng “phép trì danh là pháp quyền biến nhằm
phù hợp căn tánh của những kẻ trung căn và hạ
căn”. Về sau, do bệnh ngặt nghèo, mới phát tâm quy
Tây. Lại nghiên cứu hai bộ Viên Trung Sao và Diệu Tông
Sao, và sách Sớ Sao của ngài Vân Thê, mới biết Niệm
Phật tam-muội quả thật là vua báu vô thượng,
mới chịu chết sạch tấm lòng mong ngóng, so
đo, chấp trì danh hiệu, một vạn con trâu cũng
không lôi lại được. Bạn tôi là ông Khứ Bệnh,
tu Tịnh nghiệp đã lâu, muốn cho tông chỉ của
kinh này nêu tỏ rạng ngời mà lời lẽ giảng
giải đơn giản, xin tôi viết lời giải
thích những điểm trọng yếu. Tôi muốn làm cho
hữu tình trong khắp pháp giới đều cùng sanh về
Cực Lạc, xét theo lý chẳng thể chối từ
được, bèn cầm bút viết từ ngày Hai
Mươi Bảy tháng Chín năm Đinh Hợi (1647), đến
ngày mồng Năm tháng Mười là hoàn thành, tổng cộng
viết xong trong chín ngày. Kính mong mỗi một câu, mỗi một
chữ đều là tư lương [cho người tu Tịnh
nghiệp]. Ai thấy, ai nghe cũng đều đạt
lên Bất Thoái. Người tin tưởng hay nghi ngờ,
kẻ khen ngợi hay hủy báng đều cùng về giải
thoát. Ngưỡng mong chư Phật, Bồ Tát nhiếp thọ,
chứng minh, các bạn đồng học tùy hỷ gia bị.
Tây Hữu đạo
nhân Ngẫu Ích Trí Húc gác bút.
(Đề lời
bạt này vào năm bốn mươi chín tuổi).
Phật
Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
Trọn
bộ
(Hoàn thành cảo
bản ngày 22 tháng 09 năm 2010
Giảo duyệt
lần hai ngày 26 tháng 9 năm 2011)
Hồi
Hướng
Nếu
việc chuyển ngữ này có chút công đức nào đều
xin hồi hướng cho cha mẹ hiện tiền và quá
vãng, sư trưởng, Bổn Sư Thượng Tọa
Thích Giải Thắng (trụ trì Bửu Quang Tự, quận
7, Sài Gòn), lịch đại tổ tiên, cừu gia oán đối
nhiều đời nhiều kiếp, các liên hữu cùng hết
thảy hữu tình hàm thức trong mười phương
pháp giới đều cùng vãng sanh Cực Lạc quốc.
Cũng như đặc biệt trân trọng hồi hướng
công đức này đến các liên hữu Vạn Từ,
Minh Tiến, Huệ Trang, Đức Phong và Chơn Phù đã
tốn không ít thời gian và công sức giảo duyệt, sửa
chữa bản dịch Trong quá trình chuyển ngữ, do kiến
thức nông cạn, hiểu biết nội điển kém
cỏi, tâm trí si ám, nghiệp chướng trùng trùng chắc
chắn sẽ phạm rất nhiều lỗi sai lầm
không thể chấp nhận được, ngưỡng
xin Tam Bảo từ bi gia hộ khiến cho chúng đệ
tử tội chướng tiêu trừ, không đến nỗi
đọa lạc, không đến nỗi biến diệu
dược cam lộ thành độc dược.
[1] [Ghi chú của cư sĩ Lưu Thừa
Phù]: “Chuyển Thức thành Trí ”
như trên đã nói, chủ yếu là hai Thức thứ sáu
và thứ bảy. Hai thức thứ sáu và thứ bảy
đã chuyển thì thức thứ tám cũng chuyển theo,
trở thành Đại Viên Kính Trí. Năm Thức trước
là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và [thức thứ sáu là]
Ý cũng chuyển theo Thành Sở Tác Trí. Tên gọi của bốn
Trí này được Thành Duy Thức Luận giải thích
như sau:
1) Như Lai vì muốn lợi lạc các
chúng sanh nên trong khắp mười phương thế giới,
thị hiện các thứ thần thông biến hóa, dẫn
các chúng sanh bước vào thánh đạo, thành tựu những
điều đáng làm theo nguyện lực của chính mình
nên gọi là Thành Sở Tác Trí.
2) Như Lai khéo quán sát viên dung các pháp theo
thứ tự, lại biết căn tánh và sự ưa
thích, ham muốn của chúng sanh, mà dùng vô ngại biện
tài nói các diệu pháp, khiến họ khai ngộ, đạt
được đại an lạc. Trí ấy gọi là Diệu
Quán Sát Trí.
3) Như Lai quán hết thảy pháp và hết
thảy chúng sanh đều bình đẳng, do tâm đại
từ bi, tùy thuận căn cơ mà thị hiện hướng
dẫn, chỉ dạy, khiến họ chứng nhập thì
gọi là Bình Đẳng Tánh Trí.
4) Bổn tánh của chân trí Như Lai là
thanh tịnh, xa lìa các trần nhiễm, trong ngoài rỗng
rang, thấu suốt, không tối tăm, không nhơ bẩn,
như tấm gương tròn lớn, chiếu tỏ muôn vật,
không gì chẳng hiểu rõ thì gọi là Đại Viên Kính
Trí.
[2] Theo luận Câu Xá, tầng thấp nhất
của một thế giới gọi là Phong Luân (Vāyu
mandala), tức là một tầng không khí. Phía dưới tầng
Phong Luân ấy gọi là Không Luân (Ākāśa-mandala, tức hư không). Phong
Luân dầy mười sáu ức do-tuần, kiên cố
như kim cang. Trên Phong Luân có Thủy Luân (Jala-mandala) gồm
toàn nước, dầy tám ức do-tuần. Trên Thủy
Luân là Kim Luân (Kāñcana-mandala), dầy ba ức hai vạn do-tuần,
do chất kim cang kết thành hình tròn xoe như bánh xe. Phía
trên Kim Luân là chín rặng núi lần lượt vây quanh nhau,
gần như những vòng tròn đồng tâm, tính từ
trong ra ngoài là Tu Di (Sumeru), Du Càn Đà La (Yugandhara), Y Sa Đà
La (Isadhara), Khư Đề La (Khadiraka), Tô Đạt Lê Xá
Na (Sudarśana),
An Thấp Phược Kiệt Noa (Aśvakarna), Tỳ Na Đà La
(Vinadhara), Ni Dân Đà La (Nimindhara), Chước Ca La (Cakravāda,
Thiết Vy sơn) và tám cái biển lớn (tám cái biển chứa
toàn nước thơm, nên gọi là Hương Thủy Hải.
Mỗi biển nằm giữa các rặng núi, từ ngoài
vào trong có chín vòng núi nên có tám biển Hương Thủy),
vây quanh đại địa. Tầng này gọi là Địa
Luân (Prthivī-mandala).
[3] [Chi chú của cư sĩ Lưu Thừa
Phù]: Trong đoạn văn trên đây, [lão pháp sư] nhắc
tới năm phần Pháp Thân Hương, toàn văn
được chép trong phẩm Sám Hối thứ năm của
Lục Tổ Đàn Kinh. Ở đây, tôi sao lục một
đoạn nguyên văn để độc giả tham khảo:
“Khi ấy, đại sư thấy
mọi người từ bốn phương trong xứ
Quảng Thiều kéo nhau vào núi nghe pháp. Sư liền lên tòa,
bảo đại chúng: “Các thiện tri thức hãy đến
đây. Chuyện này phải từ trong tự tánh mà khởi.
Trong hết thảy thời, niệm niệm tự tịnh
cái tâm, tự tu cái hạnh, thấy Pháp Thân của chính mình,
thấy đức Phật trong tự tâm, tự độ,
tự giữ giới thì mới chẳng tốn công đến
đây. Đã từ xa đến, họp mặt tại
đây, đều là cùng nhau có duyên. Nay ai nấy hãy nên hồ
quỳ, trước hết, tôi sẽ truyền năm phần
Pháp Thân Hương trong tự tánh, kế đến dạy
pháp vô tướng sám hối”. Mọi người hồ quỳ.
Sư nói:
- Thứ
nhất, Giới Hương, chính là trong tự tâm không sai,
không ác, không ganh ghét, không tham sân, không cướp hại thì
gọi là Giới Hương.
- Thứ
hai, Định Hương, tiếp xúc các cảnh tướng
thiện ác, tự tâm chẳng loạn thì gọi là Định
Hương.
- Thứ
ba, Huệ Hương, tự tâm vô ngại, thường
dùng trí huệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo các
điều ác. Tuy tu các điều lành, tâm chẳng chấp
trước, kính trên, nghĩ dưới, thương xót
giúp đỡ kẻ cô đơn, nghèo túng, gọi là Huệ
Hương.
- Thứ
tư, Giải Thoát Hương, tức là trong tâm không nắm
níu gì, chẳng nghĩ lành, chẳng nghĩ ác, tự tại
vô ngại, gọi là Giải Thoát Hương.
- Thứ
năm, Giải Thoát Tri Kiến Hương, tự tâm đã
không nắm níu thiện và ác, chớ nên trầm trệ
nơi không tịch, dẫu cho học rộng nghe nhiều
vẫn hiểu biết bổn tâm của chính mình, thông
đạt các Phật lý, hòa đồng với chúng sanh
để tiếp độ họ, không ta, không người,
mãi cho đến khi đắc Bồ Đề, chân tánh chẳng
thay đổi thì gọi là Giải Thoát Tri Kiến
Hương.
Bậc thiện
tri thức dùng các thứ hương này tự xông ướp
bên trong, chớ nên hướng ra ngoài tìm cầu. Nay tôi dạy
cho các ông vô tướng sám hối, diệt tội trong ba
đời, khiến cho tam nghiệp được thanh tịnh”.
[4] Theo Phật Quang
Sơn Đại Từ Điển, “hộ niệm” có
nghĩa là che chở, quan tâm, bảo vệ. Chư Phật,
Bồ Tát và chư thiên, hộ pháp thần thường quan
tâm bảo vệ Phật giáo đồ khiến cho họ
chẳng bị các thứ chướng ngại gây hại như
bóng theo hình, chẳng hề tách lìa chút nào, nhắc nhở,
sách tấn họ khiến cho họ không giải đãi, lui
sụt. Hiểu theo nghĩa này thì hộ niệm còn gọi
là “ảnh hộ hộ niệm”. Ngoài ra, nhằm chứng
minh những giáo pháp do Phật đã nói là chân thực, Phật,
Bồ Tát liền lập thệ nếu có chúng sanh nào tin nhận,
phụng hành, sẽ đạt được lợi ích vô
tận. Đó gọi là “chứng thành hộ niệm”. Sự
hộ niệm của chư Phật đối với danh
hiệu A Di Đà Phật trong đoạn Yếu Giải kế
tiếp chính là “chứng thành hộ niệm”. Chư Phật,
Bồ Tát, hộ pháp thần luôn hộ niệm hành nhân,
nhưng do chính phiền não của hành nhân gây chướng
ngại, không thể thụ dụng sự hộ niệm ấy.
Vì thế mới nói phải từ Bát Địa trở lên
mới được chư Phật hộ niệm, bởi
lẽ, đạt đến Bát Địa mới không bị
phiền não gây chướng ngại sự hộ niệm của
chư Phật.
[5] Sở dĩ gọi là chánh tín vì những
vị pháp sư ấy tin tường cõi Cực Lạc,
tin có A Di Đà Phật, tin A Di Đà Phật tiếp dẫn
chúng sanh niệm Phật nên mới khuyên người khác niệm
Phật. Do vậy, lòng tin tưởng ấy là đúng nên gọi
là chánh tín. Nhưng họ chỉ tin chứ không phát nguyện
vãng sanh, tức là chưa có lòng tin thật sự nơi
năng lực chẳng thể nghĩ bàn của pháp môn này,
nên chẳng thể gọi là “chân tín”.
HẾT
0 Kommentare:
Post a Comment