"Phương pháp
tu học của Bồ Tát không có gì khác cả, chỉ có một
pháp Bố Thí mà thôi! Bố Thí chính là Xả, cũng có nghĩa
là buông xuống. Nếu chẳng chịu buông xuống, tâm
chẳng thanh tịnh, tạo thành chướng ngại..."
Phần 6
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập dịch kinh,
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí
Húc chú giải vào đời Thanh,
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng
thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù
ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ
Trang, Đức Phong & Vạn Từ
(Giải) Tạng Đạo Phẩm, danh bán tự
pháp môn. Tịnh Độ trược
khinh, tự bất tất dụng, vi Tiểu chủng tiên
thục giả, hoặc tạm dụng chi. Thông Đạo
Phẩm, danh Đại Thừa sơ môn, tam thừa cộng
bẩm, Đồng Cư Tịnh Độ đa thuyết
chi. Biệt Đạo Phẩm, danh độc Bồ Tát
pháp, Đồng Cư, Phương Tiện độ
đa thuyết chi. Viên Đạo Phẩm, danh vô thượng
Phật pháp, hữu lợi căn giả, ư tứ Tịnh
Độ, giai đắc văn dã.
(解) 藏道 品。名半字法門。淨土濁輕。似不必用。為小種先熟者。或暫用之。通道品。名大乘初門。三乘共稟。同居淨土多說之。別道品。名獨菩薩法。同居方便淨土多說之。圓道品。名無上佛法。有利根者。於四淨土。皆得聞也。
(Giải: Đạo phẩm của Tạng
Giáo gọi là bán tự pháp môn. Trong Tịnh Độ
trược ác nhẹ nhàng, nên hầu như không cần phải
dùng đến, nhưng vì người căn cơ Tiểu
Thừa đã quen nghe từ trước nên tạm dùng
đến. Đạo phẩm của Thông Giáo, gọi là
Đại Thừa sơ môn, ba thừa cùng vâng nhận,
trong Đồng Cư Tịnh Độ thường nói
nhiều về đạo phẩm này. Đạo phẩm của
Biệt Giáo, gọi là pháp dành riêng cho Bồ Tát, được
nói nhiều trong hai cõi Tịnh Độ Đồng Cư
và Phương Tiện. Đạo phẩm của Viên Giáo,
gọi là Phật pháp vô thượng, kẻ có lợi
căn ở trong bốn cõi ấy sẽ đều
được nghe nói tới).
“Bán tự pháp môn”
là nói tỷ dụ, “bán” (半: một nửa) là chưa viên mãn. Tạng Giáo chỉ đoạn
Kiến Tư phiền não, chưa hoàn toàn [đoạn phiền
não] viên mãn vì chưa đoạn Trần Sa và Vô Minh. Tây
Phương Tịnh Độ vốn không có Ngũ Trược;
ngay trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hiện tượng
Ngũ Trược hết sức nhẹ ít, có thể chẳng
cần dùng đến bốn thứ đạo phẩm ấy.
Chỉ vì người căn tánh Tiểu Thừa phát tâm niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ mà thiện tri thức
dùng bốn thứ đạo phẩm ấy [để thuyết
pháp] hòng xứng hợp với căn tánh của những người
ấy, khiến họ sanh tâm hoan hỷ nên có thể tạm
thời dùng đến. Nếu chẳng phải là căn tánh
Tiểu Thừa, không cần phải dùng đến phương
pháp này.
Đạo phẩm của Thông Giáo gọi là “Đại Thừa sơ môn”
(môn đầu tiên của Đại Thừa), cả ba thừa
cùng vâng nhận, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đều
phải tu học. Đây là khoa mục phổ thông thừa
nào cũng phải tu. Đồng Cư Tịnh Độ là
chỗ chúng sanh đới nghiệp vãng sanh ở. [Những
người đới nghiệp vãng sanh] chưa đoạn
Kiến Tư phiền não, chỉ do công phu niệm Phật
đắc lực, có thể khuất phục phiền não
[mà được vãng sanh]. Vì thế, đạo phẩm của
Thông Giáo là môn tu học tất yếu nhằm giúp cho họ
thấu triệt lý luận và phương pháp.
Đạo phẩm của Biệt Giáo gọi là
“độc Bồ Tát pháp”, tức
là pháp dành riêng cho Đại Thừa Bồ Tát, không phải
dành cho cả ba thừa cùng tu. Hàng Bồ Tát trong cõi Đồng
Cư và cõi Phương Tiện có những vị chuyên tu môn
học này, nhưng hàng Bồ Tát trong Thật Báo và Thường
Tịch Quang hoàn toàn chẳng cần đến đạo
phẩm của Biệt Giáo.
Đạo phẩm của Viên Giáo gọi là “vô thượng Phật pháp”. Trong
kinh Đại Thừa thường nói đức Phật dùng
một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi
loài đều hiểu. Âm thanh thuyết pháp của đức
Phật gọi là “viên âm”. Bốn
hạng hành nhân khác nhau nghe đức Phật thuyết pháp
cùng một lúc, nhưng người Tiểu Thừa
được lợi ích nơi Tiểu Thừa, cho đến
người Viên Giáo được lợi ích nơi Viên Giáo.
Tình huống này chẳng khó hiểu cho lắm. Ví như
trong trường học, thầy giảng bài, học trò mỗi
đứa hiểu khác nhau. Đạo phẩm trong Viên Giáo
là vô thượng Phật pháp, bất luận ở cõi nào cũng
đều nghe được, vì Tây Phương thế giới
bốn cõi viên dung. Hết thảy kinh luận khen ngợi Tây
Phương thế giới đều chuyên khen ngợi điều
này. Hết thảy các thế giới Phật cũng đều
có bốn cõi, nhưng chẳng viên dung; chẳng hạn như
đạo phẩm của Viên Giáo thì chỉ tại cõi Tịch
Quang và Thật Báo là có thể nghe được. Đấy
chính là tình hình nơi các thế giới khác. Trong Tây
Phương thế giới, người căn tánh Viên Giáo
sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương cũng
có thể nghe vô thượng Phật pháp. Lúc đức Phật
Thích Ca mới thành đạo, giảng kinh Hoa Nghiêm, đấy
cũng là đạo phẩm trong Viên Giáo. Khi Ngài thuyết
pháp dưới cội Bồ Đề thì có hai thuyết:
Một là đức Phật thuyết pháp trong mười
bốn ngày, thuyết kia bảo đức Phật thuyết
pháp trong hai mươi mốt ngày, giảng cho bốn mươi
mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, giảng
Hoa Nghiêm trong Định, náo nhiệt phi phàm, nhưng phàm phu
chỉ thấy Phật tịnh tọa trên đụn cỏ
dưới gốc Bồ Đề, chúng sanh chẳng có phần.
Người Tiểu Thừa chấp trước sự tướng
bèn nói “Đại Thừa chẳng phải do đức Phật
nói”. Sau khi Phật diệt độ sáu trăm năm thì
Long Thọ Bồ Tát lấy kinh Hoa Nghiêm từ long cung ra.
Con người hiện thời chẳng chấp nhận [điều
này], cho rằng tiềm thủy đĩnh (tàu ngầm) cả
Bắc Cực lẫn Nam Cực đều đã tới, mà
chẳng tìm thấy long cung. Con người hiện thời
đều biết là có quỷ, quỷ và người sống
lẫn lộn với nhau, nhưng con người chẳng
thấy được quỷ, vì chúng ta sống trong không
gian ba chiều, còn bọn họ sống trong không gian nhiều
chiều (đa duy không gian: multi-dimensional space). Phật có thể
tùy loại hóa thân, cũng có thể biến hiện sáu trần
thuyết pháp, đều là do A Di Đà Phật biến hóa
ra. Đối với tình huống này, trong kinh đã nói là nếu
dùng tâm sanh diệt để dò lường biển Viên Giác,
quyết chẳng có lẽ ấy!
Trong bốn
cõi Tịnh Độ, tại cõi Phàm Thánh Đồng Cư,
kinh điển của tứ giáo đều có. Tại long
cung, Long Thọ Bồ Tát thấy kinh Hoa Nghiêm số lượng
lớn đến nỗi địa cầu không có cách nào
chứa đựng được. Trung bổn Hoa Nghiêm cũng
lớn, Bồ Tát chỉ lấy “hạ bổn” (bản nhỏ
nhất). Bản nhỏ nhất là toát yếu. Kinh truyền
đến Trung Quốc, chỉ dịch được một
nửa nguyên văn, hoàn toàn chẳng phải là hạ bổn
nguyên gốc. Kinh Hoa Nghiêm nguyên văn có mười vạn
bài kệ[1],
quý vị muốn biết tường tận có thể tham
khảo Long Thọ Truyện, Ngài là tổ sư của tám
tông phái.
(Giải)
“Như thị đẳng pháp” giả, đẳng tiền
Niệm Xứ, Chánh Cần, Như Ý Túc, đẳng dư Tứ
Nhiếp, Lục Độ, Thập Lực, Vô Úy, vô lượng
pháp môn dã.
(解) 如是等法者。等前念處正勤。如意足。等餘四攝六度。十力無畏。無量法門也。
(Giải: “Những pháp giống như vậy”
nghĩa là những pháp giống như Tứ Niệm Xứ,
Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc trong phần trước
và những pháp khác như Tứ Nhiếp, Lục Độ,
Thập Lực, Vô Úy, vô lượng pháp môn).
Kinh văn có một chữ “đẳng” (等) bao gồm tất cả pháp môn Đại
Thừa và Tiểu Thừa. Trong ba khoa ở phần trước,
kinh văn không nói đến Tứ Niệm Xứ, Tứ
Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, trong phần trên, tôi đã giới
thiệu và trong vô lượng pháp môn khác [Ngẫu Ích đại
sư] cũng nêu đại lược mấy thứ.
“Tứ Nhiếp” là nhiếp
thụ chúng sanh, cũng có nghĩa là “tiếp dẫn chúng sanh”: Thứ
nhất là Bố Thí, thứ hai là Ái Ngữ, thứ ba là Lợi
Hành, thứ tư là Đồng Sự.
Bố Thí là
ban ân huệ cho chúng sanh, cảm tình dần dần sâu đậm,
rồi lại giới thiệu Phật pháp cho họ biết,
họ sẽ dễ dàng tiếp nhận, cũng là ý nghĩa
“tiên dĩ dục câu khiên, hậu
linh nhập Phật trí” (trước hết dùng dục để
lôi kéo, sau làm cho họ nhập Phật trí). Thoạt đầu,
tôi thờ Chương Gia đại sư làm thầy để
học Phật, Ngài hết sức quan tâm tới bọn người
mới học Phật chúng tôi, Ngài liền sử dụng Tứ
Nhiếp Pháp. Ngài sống ở nhà số 8 đường
Thanh Điền, Đài Bắc, bảo tôi mỗi Chủ Nhật
đến nhà Ngài. Nếu có một hai lần tôi không tới,
Ngài liền sai người đi hỏi thăm xem vì sao tôi
không tới. Hỏi thăm như vậy, tôi chẳng thể
không tới.
Thứ hai
là Ái Ngữ, đối với học sinh nói lời yêu thương
quan tâm chân thành khiến cho người nghe cảm động
sâu sắc.
Thứ ba là
Lợi Hành, Lợi là lợi ích. Người đời rất
coi trọng lợi. Nếu có chỗ nào tốt đẹp,
ắt sẽ bằng lòng vâng theo lời dạy bảo.
Thứ tư là Đồng
Sự. Ba thứ trước dễ làm, môn thứ tư là Đồng
Sự [đòi hỏi] chính mình phải có trí huệ cao độ
và định lực rất sâu. Nếu không, ắt sẽ
thất bại. Như có người nào đó thích đánh
mạt chược[2],
liền cùng chơi mạt chược với kẻ ấy.
Đấy là hành
vi của bậc
đại Bồ Tát. Đồng Sự là
phương thức tiếp
dẫn chúng sanh tối cao.
Lục Độ
là hạnh pháp của Bồ Tát, trong phần trước chúng
ta đã đọc qua rồi.
“Bồ Tát” là chúng sanh đã
giác ngộ. Dịch theo lối cổ là “đại đạo tâm chúng sanh”, dịch theo lối
mới (tức lối dịch theo quy cách, khuôn phép của
ngài Huyền Trang) thì là “giác hữu
tình”. Phật không có tình, tình hoàn toàn biến thành trí huệ.
Trong Phật pháp Đại Thừa, trí và tình là một, hễ
giác ngộ thì tình biến thành trí huệ, còn mê thì trí huệ
biến thành tình thức. Bậc giác ngộ xử thế, đãi
người, tiếp vật, nhất định tuân hành Lục
Độ. Độ (度) có ý nghĩa là chúng ta từ bờ sanh tử
luân hồi bên này vượt sang bờ Đại Niết
Bàn bất sanh bất diệt bên kia, còn gọi là “siêu phàm nhập thánh”. Điều
thứ nhất trong sáu điều này là Bố Thí, có cùng tên
gọi với Bố Thí trong Tứ Nhiếp Pháp, nhưng ý
nghĩa khác biệt. Bố Thí trong Tứ Nhiếp Pháp nhằm
kết thiện duyên với người khác, Bố Thí trong
Lục Độ của Bồ Tát nhằm độ chính
mình. Quý vị nên biết cái gốc của phiền não là
keo kiệt tham lam. Phiền não vô
lượng vô biên, quy nạp thành tám vạn bốn ngàn [loại
phiền não], Thiên Thân Bồ Tát quy nạp chúng thành hai mươi
sáu loại lớn. Trong ấy có sáu Căn Bản Phiền Não
và hai mươi Tùy Phiền Não[3].
Nếu đơn giản hóa thì sáu món Căn Bản Phiền
Não đến cuối cùng quy nạp thành Tam Độc Phiền
Não, tức tham, sân, si. Lục Độ nhằm
độ tham, sân, si; Đại Thừa đoạn phiền
não cao minh hơn Tiểu Thừa nhiều lắm. Bố Thí
nhằm độ keo tham; Tam Độc Phiền Não đến
cuối cùng quy nạp thành một món là Tham. Phương pháp
tu học của Bồ Tát không có gì khác cả, chỉ có một
pháp Bố Thí mà thôi! Bố Thí chính là Xả, cũng có nghĩa
là buông xuống. Nếu chẳng chịu buông xuống, tâm
chẳng thanh tịnh, tạo thành chướng ngại. Pháp
Đại Thừa nói Bồ Tát có năm mươi mốt
cấp bậc, tức là căn cứ trên mức độ
buông xuống nhiều hay ít mà phân chia thành tầng cấp.
Buông xuống nhiều thì địa vị nâng cao, ngược
lại sẽ thấp xuống, chỉ có vậy mà thôi! Chúng
ta rốt ráo là phàm phu, tập khí phiền não do vô lượng
kiếp dưỡng thành, trọn chẳng phải một
sáng một chiều mà có thể trừ hết được!
Do vậy, thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, quả thật khó lắm, nhưng khó cũng phải
làm. Lại còn phải thực hiện từ chỗ khó buông
xuống nhất.
Lúc tôi mới
học Phật, Chương Gia đại sư dạy tôi
trước hết hãy bố thí vật gì tôi ưa thích nhất.
Tôi mê sách vở, cũng rất keo kiệt, chẳng chịu
cho ai mượn. Về sau, dần dần tặng sách cũ
cho người khác, sách mới giữ lại để mình
dùng. Đến khi tôi tặng hết sạch sách vở rồi
thì nhân duyên xuất gia của tôi cũng chín muồi. Thoạt
đầu, Chương Gia đại sư dạy tôi sáu
chữ, bảo tôi hãy học cho thật tốt đẹp
trong sáu năm. Sáu chữ ấy là “thấy thấu suốt, buông xuống được”.
Tôi lại hỏi Ngài thực hiện bằng cách nào, Ngài nói:
“Hãy bắt đầu bằng
Bố Thí”.
Bố Thí
thông thường chia thành ba loại lớn: Thứ nhất
là Tài Bố Thí, thứ hai là Pháp Bố Thí, thứ ba là Vô Úy
Bố Thí. Tiền bạc và hết thảy vật chất
thuộc về Tài, chính là thứ hết thảy chúng sanh
tham cầu. Người đời cầu của cải,
nhưng chẳng biết của cải do đâu mà có. Nói thật
ra, trong một đời có bao nhiêu của cải đều
do số mạng định sẵn. Sách Liễu Phàm Tứ
Huấn giảng điều này cặn kẽ nhất. Đã
là do số mạng định sẵn thì muốn cầu
nhiều cũng chẳng cầu được, chẳng cầu
cũng tự nhiên đưa tới. Tiên sinh Viên Liễu Phàm
được Khổng lão tiên sinh ở Vân Nam tiên đoán những điều tốt
xấu suốt cả đời, thoạt đầu, chuyện
gì cũng đều ứng nghiệm. Vì thế, ông Viên
trong tâm an định, chẳng còn mong cầu
chi nữa; về sau, ngồi đối diện với thiền
sư Vân Cốc suốt ba ngày ba đêm chẳng khởi ý
niệm nào. Vân Cốc hỏi ông ta dụng công như thế
nào. Ông ta nói: “Vận mạng của tôi đã được
Khổng lão tiên sinh đoán định, khởi vọng tưởng
cũng chẳng có ích gì!” Vân Cốc nghe xong, cười ha hả,
bảo: “Tôi ngỡ ông là thánh nhân, nhưng ông vẫn là một
gã phàm phu”. Do vậy, Sư dạy ông ta cách cải tạo vận
mạng: Tu phước, tu đức như thế nào, ông
ta đều nhất nhất tuân theo, thực hành sát rạt
lời chỉ giáo. Về sau, những sự kiện tình huống
trong đời Viên Liễu Phàm khác biệt rất lớn với
lời tiên đoán của cụ Khổng. Tôi trong một đời
này của cải chẳng nhiều, sống tiết kiệm,
hễ dư dả đều tận hết sức bố
thí, càng bố thí thì của cải đạt được
càng nhiều. Bố Thí cũng phải có trí huệ, tuy chính
mình đã phát khởi cái tâm lành, nhưng tiền bị kẻ
khác lừa gạt dùng món tiền ấy để làm ác thì
hắn là “tội khôi họa thủ” (kẻ cầm đầu
gây họa), nhưng người thí cũng là kẻ giúp đỡ
hắn làm ác.
Bố Thí
phải gieo trồng nơi phước điền chân chánh.
Một là hiếu dưỡng cha mẹ, hai là cứu giúp chúng
sanh nghèo khổ, hoạn nạn, ba là cúng dường Tam Bảo.
Nói theo cách bây giờ, hoằng dương nền giáo dục
Phật giáo chính là gieo phước điền. Từ khi tôi
học Phật đến nay, đối với Tam Bảo,
thực hiện sự nghiệp in kinh chẳng ít. Bố thí
theo kiểu ấy, có lẽ không nẩy sanh mối tệ.
Có người bảo tôi, những sách vở do chúng ta ấn
hành hiện đang thấy được mua đi bán lại
trong các sạp sách cũ. Tôi cho rằng, sách được
lưu thông trong cõi đời cũng là chuyện tốt.
Ngoài ra, còn làm những chuyện phóng sanh và cứu giúp người
bệnh khổ, nhưng in kinh nhiều nhất. Gần đây,
bộ Tứ Thư của Nho Gia cũng được in
mấy lượt. Những loại khác như Liễu Phàm
Tứ Huấn, Duyệt Vy Thảo Đường Bút Ký
v.v... là những sách thuật chuyện nhân quả báo ứng
cũng thường in tặng. Người tiếp nhận
kinh điển, thiện thư, đọc xong, tâm an lý đắc,
biến đổi khí chất, bỏ ác, hướng thiện,
giúp cho xã hội an ninh, quả thật đã gồm trọn
công dụng của ba loại Bố Thí. Trong hết thảy
các kinh, đức Phật thường nhắc tới Bố
Thí; Tứ Nhiếp, Lục Độ đều lấy Bố
Thí làm đầu, thật chí lý. Bố Thí nhằm mục
đích vượt thoát keo kiệt tham lam, thật sự có
lợi ích đối với chính mình. Vận mạng con người
cứ năm năm biến chuyển một lần. Trong một
đời người, nhất định có năm năm
tốt đẹp nhất, mà cũng có năm năm tệ
hại nhất. Vận tốt hay vận xấu chính mình có
thể điều khiển được. Gặp lúc vận
mạng tốt đẹp chớ nên hưởng thụ, hãy
để dành cho lúc tuổi già. Khi tuổi trẻ, phát tài,
hãy nên bố thí, làm chuyện từ thiện, công ích. Tiền
xả được, nhưng tài vẫn
còn đó, đợi đến tuổi già tài sẽ lại
phát. Hạnh phúc thuở tuổi già là hạnh phúc chân chánh.
Thứ
hai là Trì Giới. Không chỉ hạn cuộc trong Giới Luật
Đại Thừa và Tiểu Thừa, mà nói theo cách bây giờ,
[Trì Giới] là tuân thủ hết thảy những khuôn phép
sinh hoạt. Chúng ta ở một mình, nhất cử nhất
động chẳng buông lung, Nho Gia gọi là “thận độc” (慎獨: Cẩn thận ngay cả khi
chỉ có một mình), điều này thuộc giới tỳ-kheo
của Tiểu Thừa. Ở trong đại chúng, hãy nên
tuân thủ các quy củ, giữ lễ, giữ pháp, thuộc
Đại Thừa Bồ Tát giới. Người học
Phật không chỉ tuân thủ giáo huấn của đức Phật mà ở bất cứ nơi nào
cũng đều phải tuân thủ pháp luật, quy định,
phong tục, tập quán và quan niệm đạo đức.
Hành như vậy, khi thuyết pháp ắt sẽ được
nhân sĩ nơi ấy hoan nghênh. Tinh thần của Giới
Luật là “đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều thiện”.
Thứ ba là
Nhẫn Nhục. Nhẫn Nhục có nghĩa là Nhẫn Nại.
Người dịch kinh đã thay đổi bằng cách thêm
vào chữ Nhục, do người Trung Quốc coi chuyện
bị lăng nhục rất nặng. Cổ nhân nói: “Sĩ khả sát, bất khả
nhục” (Kẻ sĩ có thể giết, chứ không chịu
nhục). Kinh luận Đại Thừa chia Nhẫn thành ba
loại lớn:
1) Loại
thứ nhất bị người khác khinh rẻ, làm nhục,
làm hại, bất luận hữu ý hay vô ý.
2) Loại
thứ hai là tai hại do tự nhiên, trời rét dữ, hoặc
nắng gắt, phải chịu đựng.
3) Loại
thứ ba là Phật pháp. Tu học Phật pháp cần một
thời gian rất dài. Phật dạy chúng ta rất nhiều
đạo lý và phương pháp nhằm sửa đổi
những khuyết điểm, tập khí trong cuộc sống
thường nhật, chẳng thể nào thành tựu trong một
sớm một chiều được! Nhẫn nhục
quan trọng nhất là nhằm đối trị nóng giận.
Kinh dạy: “Nhất niệm
sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai” (một
niệm sân tâm nổi, trăm vạn cửa chướng mở).
Kinh Kim Cang dạy: “Nhất thiết
pháp đắc thành ư nhẫn” (Hết thảy pháp do
nhẫn mà được thành tựu). Chẳng nhẫn được
chuyện nhỏ sẽ hỏng chuyện lớn, chẳng
thể không cẩn thận!
Thứ tư
là Tinh Tấn. Tinh Tấn nhằm đối trị giải
đãi. Giải đãi là bệnh chung của mọi người,
người khác chẳng giúp được. Nhất là
trong thời đại dân chủ mở rộng hiện thời,
đặc biệt tôn trọng nhân quyền, hễ không cẩn
thận một chút liền chuốc lấy phiền phức.
Chính tôi đã từng trải qua kinh nghiệm ấy, khi tôi
đi học, có bản lãnh gạt thầy rất lớn.
Thuở bé trí nhớ rất tốt, sách nào đọc đến,
xem qua một lượt liền có thể nhớ nằm lòng.
Do vậy, ở trường không học bài, mười phút
trước khi thi mới chuẩn bị. Mỗi lần
thi vừa đủ đậu là được rồi, có
thời gian rảnh bèn tới thư viện xem sách. Do vậy,
kiến thức thông thường của tôi rất phong phú.
Về sau, biết giảng kinh cũng là một cách đối
trị giải đãi. Vì vậy, liền học giảng
kinh, mục đích nhằm khắc phục cái tật giải
đãi của chính mình. Thoạt đầu, để giảng
một tiếng rưỡi, phải tốn hơn ba mươi
tiếng đồng hồ để chuẩn bị. Đối
phó với một vị thầy thì dễ, chứ đối
với mấy trăm thính chúng thì không có cách gì xí gạt được.
Do vậy, phải dốc sức để tìm hiểu thật
rõ. Sau một năm, thời gian chuẩn bị giảm xuống
một nửa. Sau mười năm, có thể không cần
chuẩn bị nữa. Nhưng kinh vẫn phải đọc,
chỉ sợ trong ấy có những chữ lạ, phải
tra tự điển trước. Giải đãi quả thật
là một căn bệnh nghiêm trọng nhất, chẳng nhẹ
hơn tham, sân, si. Thiện căn duy nhất của Bồ
Tát là Tinh Tấn.
Thứ năm
là Thiền Định. Giải thích theo nghĩa rộng,
[Thiền Định có nghĩa là] trong tâm có chủ ý, chẳng
dễ dàng bị ngoại giới lay động. Như
trong thế gian ắt cần phải chuyên học một,
hai kỹ năng để duy trì cuộc sống, hễ
chuyên tinh thì sẽ trội hơn người khác, Phật pháp
cũng giống như thế. Trong nhiều pháp môn, chuyên học
một môn. Dẫu cho trí huệ cao minh, mạnh mẽ, học
nhiều môn cũng không trở ngại gì, nhưng muốn
có thành tựu to lớn thì vẫn phải chuyên! Hễ chuyên
tâm thì tâm không bị chia đôi, trừ một chuyện nào đó
ra, không có một chút tạp niệm nào, ý chí tinh thần tập
trung, chuyên tinh là Thiền Định.
Thứ sáu
là Bát Nhã (Prajñā).
Bát Nhã là chân trí huệ, chứ không phải là tài trí, thông
minh thế gian. Ở đây, do tôn trọng nên không dịch
nghĩa chữ Bát Nhã, mà vẫn giữ nguyên cách dịch âm
tiếng Phạn. Trí huệ thế gian gọi là Thế Trí
Biện Thông. Thế Trí là do ý thức, tư duy thúc đẩy
tạo ra, còn Bát Nhã chân trí huệ là do Thiền Định
sanh ra. Nói cách khác, Bát Nhã sanh từ tâm thanh tịnh, chẳng
cần phải nghiên cứu, suy đoán, khảo sát, nghĩ
ngợi, mà tự nhiên hiểu rõ, vừa tiếp xúc liền
thông đạt. Toàn bộ Phật pháp nhằm cầu khai trí
huệ, nhân Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ.
Định là mấu chốt để tu học Phật pháp.
Cổ đức
dạy chúng ta một mặt tu Định, một mặt đọc
tụng kinh điển Đại Thừa, tiến hành hai
cách đồng thời. Trước kia, theo học với
thầy Lý, thầy dạy tôi dùng phương pháp niệm Phật
để tu Định, lại dùng phương pháp nghiên cứu
kinh điển hòng giúp khai trí huệ. Ngài nêu ra lệ như
thế này: Nếu đơn độc tu Định mà muốn
khai Huệ thì phải tốn thời gian mười năm.
Nếu đồng thời nghiên cứu kinh luận Đại
Thừa, thì có thể rút ngắn thời gian khai huệ còn
năm hay sáu năm. Trong nhà Phật gọi cách này là Chánh Trợ
Song Tu. Đọc tụng Đại Thừa có hai cách. Một
là hoàn toàn đọc tụng không cần hiểu. Như rất
nhiều người đọc kinh Pháp Hoa, suốt ngày niệm
một bộ tốn chừng năm tiếng đồng hồ,
khi đọc tuyệt đối chớ nên nghiên cứu văn
tự, hễ nghiên cứu sẽ hỏng. Nếu muốn
nghiên cứu thì cần phải kiếm thời gian khác, chỉ
dùng [thời gian] đọc kinh để tu Định là
chủ yếu. Dẫu nghiên cứu rất giỏi, giảng
đến mức hoa trời rơi loạn xạ, nhưng
vẫn y như cũ, trí huệ chẳng mở mang! Sở
đắc là Thế Trí Biện Thông, chẳng phải là chân
trí huệ.
Lục Độ
là cương lãnh xử thế, đãi người, tiếp
vật trong cuộc sống thường nhật của Bồ
Tát. Dùng Bố Thí đối trị keo kiệt tham lam, dùng
Trì Giới đối trị ác nghiệp, dùng Nhẫn Nhục
đối trị nóng giận, dùng Tinh Tấn đối trị
giải đãi, dùng Thiền Định đối trị
tán loạn, dùng Bát Nhã đối trị ngu si. Sáu đại
cương lãnh này chẳng nhằm độ ai khác mà nhằm
độ chính mình. Tham, sân, si là gốc bệnh của chúng
ta. Đức Thế Tôn dạy chúng ta dùng Lục Độ
làm thuốc. Nếu dùng đúng pháp, uống thuốc vào sẽ
hết bệnh. Nói cặn kẽ nhất là như Đại
Trí Độ Luận, sách dành một phần thật lớn
để giải thích Lục Độ. Kinh Hoa Nghiêm chỉ
giảng riêng về Bố Thí đã gồm một trăm
thứ. Tài Bố Thí chia thành Nội Tài và Ngoại Tài. Nội
Tài là đầu, mắt, não, tủy, hết sức cặn
kẽ! Nếu các đồng tu muốn học nhiều hơn
một chút, có thể tham khảo cuốn Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa của Giang Vị Nông và cuốn Tâm Kinh Thuyên Chú của
Châu Chỉ Am, nội dung hai bộ sách ấy đều rất
phong phú, giải thích những thuật ngữ, danh từ Đại
Tiểu Thừa hết sức cặn kẽ, có thể dùng
làm sách đọc để biết những kiến thức
thông thường trong Phật pháp, hết sức có giá trị.
“Thập Lực, Vô Úy”: Lực (力) là năng lực, kinh Đại Thừa
thường nói nơi quả địa, đức Phật
chứng được mười thứ năng lực
thù thắng đặc biệt. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ, đức tướng của Như Lai”. Đức
tướng là năng lực, mà cũng là khả năng sẵn
có của chúng sanh. Nhưng do vọng tưởng chấp
trước nên chẳng thể chứng đắc. Có hai
thứ chướng ngại: Một là Sở Tri Chướng,
hai là Phiền Não Chướng. Hết thảy những lời
Phật chỉ dạy chúng sanh chẳng ngoài trừ hai thứ
chướng mà thôi! Năng lực vô lượng vô biên, nhằm
thuận tiện giải nói nên nêu đại lược mười
thứ.
1) Tri
thị xứ phi xứ trí lực: Nói rõ nhân quả tương
ứng. Thiện có thiện báo, ác có ác báo. Tạo nhân nào, gặt
quả ấy thì gọi là “thị
xứ”. Nếu làm lành mà gặp ác báo thì gọi là “phi xứ”. Đầu thời
Dân Quốc, Ấn Quang đại sư nói: Trong lúc thiên hạ
đại loạn này, nếu nghĩ cách cứu giúp muôn dân
thì phương pháp hữu hiệu nhất là đem sự
thật nhân duyên quả báo chỉ dạy chúng sanh, khiến
họ hiểu rõ một miếng ăn, một hớp uống
không gì chẳng phải là định sẵn, giàu, nghèo,
vinh, nhục, đều là do tự mình làm, tự mình chịu,
chớ nên oán trời hờn người, ai nấy hãy nên yên
phận.
2) Tri
quá hiện vị lai nghiệp báo trí lực: Nghiệp
là “tạo tác”. Đang trong
khi tạo tác thì gọi là Sự, tạo tác xong thì gọi là
Nghiệp. Nghiệp có ba loại, tức là thiện, ác và vô
ký (không thiện, không ác). Đức Phật có năng lực
biết trọn khắp nghiệp duyên, quả báo ba đời
của chúng sanh. Như trong kinh này, đức Phật
đã ba lần khuyên dạy niệm Phật, nhằm mục
đích mong mỏi chúng sanh trong một đời này sẽ
viên thành Phật đạo, đấy chính là điều lành
nhất trong các điều lành. Nói ngược lại, người
chẳng muốn tu Tịnh nghiệp sẽ rất khó thể
thoát lìa lục đạo luân hồi.
3) Tri
chư Thiền giải thoát tam-muội trí lực:
Trong Phật pháp có thế gian Thiền Định và xuất
thế gian Thiền Định. Đức Phật tự
tại vô ngại nơi các Thiền Định, thứ lớp
cạn sâu của chúng, Ngài đều biết trọn khắp,
đúng như thật. Phàm phu trong có vô lượng phiền
não, ngoài có vô lượng dụ dỗ, mê hoặc, rất
khó tu Thiền Định. Chỉ có Niệm Phật tam-muội
là thường được chư Phật tán thán. Phương
pháp niệm Phật thật nhiều, nhưng tam-muội
đạt được do trì danh là thượng thượng
thừa đại định.
4) Tri
chư căn thắng liệt trí lực: Phật biết
căn tánh của hết thảy chúng sanh. Phàm phu gặp Phật,
nghe Phật giảng kinh, thuyết pháp khế hợp căn
cơ nhất. Đức Phật nói mấy câu liền có
thể khai ngộ. Sách Luận Ngữ có câu: “Tánh tương cận, tập
tương viễn” (Về bản tánh thì gần giống
như nhau, nhưng do huấn luyện, giáo dục mà trở
thành khác nhau). “Tập tánh” mà
Nho Gia nói đến [trong câu trên đây] là tập khí sinh hoạt
trong đời quá khứ của chúng sanh, mỗi người
mỗi khác, ắt phải triệt để liễu giải
thì mới có thể thuyết pháp khế cơ. La Hán cũng
có trí lực này, nhưng chỉ có thể thấy được
năm trăm đời, còn Phật có thể biết tập
khí, căn cơ của chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến
nay, cho nên tùy theo căn bệnh cho thuốc rất phù hợp.
5) Tri
chủng chủng giải trí lực: Đối với
dục vọng, tri kiến thiện ác của chúng sanh, đức
Phật biết trọn khắp đúng như thật. Mỗi
người ưa thích, yêu chuộng khác nhau. Nếu biết
được dục vọng, hiểu biết, ham thích
trong đời này và đời quá khứ [của người
khác] thì có thể chỉ điểm khớp với điều
họ ưa chuộng, ắt sẽ có thể khế cơ.
Dục vọng luôn luôn biến hóa, chẳng dễ gì hiểu
được, chính mình còn chẳng biết, cũng phức
tạp giống như Nghiệp và Định đã nói
trong phần trên, có quan hệ mật thiết với tập
khí trong đời đời kiếp kiếp quá khứ, chỉ
có Phật mới thấy rõ ràng.
6) Tri
chủng chủng giới trí lực: Giới (界) là giới hạn, tức là cực hạn
(mức tột cùng) của năng lực, chẳng thể
vượt hơn được. Chẳng hạn như
đối với căn tánh Tiểu Thừa, nếu giới
hạn của người ấy là Sơ Quả, thì Phật
có thể giúp cho người ấy chứng Sơ Quả.
Nếu cực hạn là Tứ Quả thì Phật giúp cho
người ấy đạt đến A La Hán. Đối
với các thứ giới hạn sai biệt của hết
thảy chúng sanh, Phật đều biết rất tường
tận, giáo hóa mỗi người đều đạt
được nguyện vọng của họ.
7) Tri
nhất thiết chí xứ đạo trí lực: Đây
là nói về quả vị. Có nghiệp nhân nào, tương
lai sẽ đạt đến đạo quả nào, Như
Lai đều có thể biết trọn khắp đúng như
thật. Như người thế gian chưa thoát khỏi
lục đạo thì mục tiêu giáo học là ngăn ngừa
hết thảy chúng sanh tạo tác ác nghiệp, đọa
nhập tam đồ. Vì ác đạo rất khổ, dễ
vào, khó ra. Nếu là người có căn tánh nhân, thiên, bèn nói
Ngũ Giới, Thập Thiện, thuận theo nguyện của
họ. Đây đều là ứng theo căn cơ mà lập
cách giáo hóa. Do đây có thể thấy rằng: Đại
Thừa nói Phật chẳng độ chúng sanh, Phật chỉ
làm Tăng Thượng Duyên, chỉ dạy con đường
tu hành, chỉ do tài năng [của từng đối tượng]
mà lập cách dạy dỗ, trọn chẳng miễn cưỡng,
thật ra, [mỗi một người được đức
Phật giáo hóa] vẫn là tự độ.
8) Tri
túc mạng vô lậu trí lực: Tức là trí thông đạt,
hạnh viên mãn. Quỷ thần cũng có thần thông, nhưng
năng lực của họ hết sức hữu hạn.
Trung Quốc có thuyết cầu cơ, linh quỷ giáng đàn
chuyển cơ bút, có thể biết được chuyện
xảy ra trong mấy tháng hoặc một, hai năm. Đối
với các thứ túc mạng của hết thảy chúng
sanh, Như Lai có thể biết tình trạng sanh tử từ
một đời cho đến trăm ngàn vạn đời,
biết trọn khắp, đúng như thật.
9) Tri
thiên nhãn vô ngại trí lực: Thiên nhãn của Phật
là tận hư không, trọn pháp giới, quá khứ, hiện
tại, vị lai, không gì chẳng thấy, không gì chẳng
biết. La Hán cũng có Thiên Nhãn Thông, nhưng cần phải
tác ý. Hơn nữa, chỉ thấy được một
tiểu thiên thế giới, vượt ra ngoài [phạm vi ấy]
thì dù có nhìn thật kỹ cũng không thấy, là vì họ còn
có Trần Sa và Vô Minh gây chướng ngại, họ chỉ
đoạn được Kiến Tư phiền não. Chỉ
có thiên nhãn của Phật mới có thể thấy vô tận
thế giới và quá khứ, vị lai lâu xa.
10) Tri
vĩnh đoạn tập khí trí lực: Đây chính là
Lậu Tận Thông. Lậu (漏) là tên gọi khác
của phiền não. Tự mình biết Kiến Tư, Trần
Sa, Vô Minh đều đã đoạn sạch, chẳng cần
phải hỏi ai khác, đã thành tựu đại giác viên
mãn.
Mười
loại này chính là “bổn
năng” (năng lực sẵn có) của chính mình, vốn
có sẵn. Ngoài bổn năng ra chẳng có một pháp nào để
đắc.
Tiếp
theo là Vô Úy, chính là Như Lai đối với sự giáo hóa
hết thảy chúng sanh mà nói thành bốn món Vô Úy, tức là trí
huệ, đức năng của chính mình viên mãn, liền có
thể giáo hóa hài hòa:
1) Nhất
Thiết Trí Vô Sở Úy: Không gì chẳng biết, không
gì chẳng thể. Bất cứ ai cũng chẳng thể
bắt bí được. Trên thực tế, đây cũng
là năng lực sẵn có của chính mình. Thuở ấy,
có người toan trắc nghiệm Thích Ca Mâu Ni Phật, hỏi
Ngài trên cái cây này có bao nhiêu lá, Phật trả lời lập
tức. Sai người kiểm rõ, quả nhiên chẳng sai.
Những chuyện như vậy trong kinh ghi chép rất nhiều.
2) Lậu
Tận Vô Sở Úy: Môn thứ nhất (tức Nhất
Thiết Trí Vô Sở Úy) là trí huệ viên mãn, môn thứ hai là
Như Lai đoạn sạch phiền não, đức hạnh
viên mãn. Phật có đức lớn, ở trong hết thảy
đại chúng chẳng sợ hãi.
3) Thuyết
Chướng Đạo Vô Sở Úy: Tà tri tà kiến
thường nói trong thế gian đều thuộc về
chướng đạo, người đời không biết,
chẳng thể phân biệt tà, chánh. Do vậy, thời gian tu
hành của chúng ta rất dài, chính là vì chuyện gây chướng
đạo quá nhiều, chướng ngại sự tu trì của
chính mình. Cao Tăng Truyện, Cư Sĩ Truyện, Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục đều khơi gợi đạo
tâm của chúng ta, người ta vì sao có thể thành tựu,
còn chúng ta vì sao chẳng thể thành tựu. Nếu tiêu trừ
chướng ngại thì sẽ có hy vọng thành công. Phật
biết sâu xa chuyện này, trong kinh, Ngài thường nhắc
tới nhân duyên gây chướng đạo.
4) Thuyết
Tận Khổ Đạo Vô Sở Úy: Tam giới là khổ,
ngoài tam giới cũng có khổ. Bậc Đẳng Giác Bồ
Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, đấy
cũng là khổ. Dùng phương pháp nào để tiêu trừ
khổ sạch sẽ? Phật biết phương pháp ấy,
liền nói cách hết khổ không sợ hãi. Phật dạy
chúng sanh lìa khổ được vui, [chúng sanh] bao gồm cả
Đẳng Giác trong ấy. Phật dạy Đẳng Giác
Bồ Tát các pháp môn, trong ấy có một phương pháp rất
xảo diệu. Trong hội Hoa Nghiêm, khuyên Đẳng Giác Bồ
Tát niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nói thật
ra, lúc đầu tôi học Phật, đối với pháp
môn Tịnh Độ cũng chẳng hứng thú cho lắm.
Thầy Lý học Tịnh Tông, tôi theo học với thầy
mười năm, tôi tôn trọng thầy, đối với
Tịnh Tông chẳng hủy báng mà thôi, chứ bảo tôi suốt
ngày từ sáng tới tối niệm Phật, tôi không chịu
làm đâu nhé! Mãi cho đến khi đọc thấy trong hội
Hoa Nghiêm, trong phương pháp tu thành Phật do đức Phật
dạy hàng Đẳng Giác Bồ Tát có pháp môn này, tôi mới
tỉnh ngộ, quay đầu lại nhìn thấy pháp môn này
khác hẳn trước kia. Phật dạy các đại Bồ
Tát các thứ lý luận và phương pháp, chúng ta là phàm phu
đều chẳng thể làm được, còn dạy phương
pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thấy A
Di Đà Phật thì chúng ta cũng có thể làm được.
Chúng ta chọn lấy pháp môn này, há chẳng phải là một
bước lên trời? Sau đấy mới biết hết
thảy chư Phật Như Lai đều khen ngợi pháp
môn này đúng là đại từ đại bi vậy!
Pháp môn Niệm Phật
này chỉ cần quý vị chịu tin,
chịu niệm, bằng lòng ra đi (vãng sanh), thì vạn
người tu vạn người đến. Lý ấy rất
sâu, trong Di Đà Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư đã phơi bày chẳng sót, phương pháp xảo
diệu, tín nguyện trì danh, một đời thành Phật.
Đấy chính là Tận Khổ Đạo Vô Úy.
(Giải) Tam thập thất
phẩm, thâu pháp tuy tận, nhi cơ duyên bất đẳng,
tác chủng chủng khai hợp, danh nghĩa bất đồng,
tùy sở dục văn, vô bất diễn sướng. Cố
linh văn giả, niệm Tam Bảo, phát Bồ Đề
tâm, phục diệt phiền não dã.
(解) 三十七品。收法雖盡。而機緣不等。作種種開合。名義不同。隨所欲聞。無不演暢。故令聞者。念三寶。發菩提心。伏滅煩惱也。
(Giải: Ba mươi bảy phẩm tuy
bao gồm trọn hết các pháp, nhưng do cơ duyên khác
nhau mà có các thứ mở rộng, hay tóm gọn, danh
nghĩa khác nhau, tùy theo ý muốn của người nghe,
không gì chẳng diễn nói thông suốt. Vì thế,
có thể làm cho người nghe nghĩ nhớ Tam Bảo,
phát Bồ Đề tâm, khuất phục, diệt trừ
phiền não).
Ba mươi
bảy đạo phẩm là tổng cương lãnh, gồm
trọn hết thảy pháp. Khi Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng
sanh, căn tánh và cơ duyên [của mỗi chúng sanh] khác
nhau; do vậy, đức Phật thuyết pháp sẽ vì người
nghe, vì thời cơ, vì nơi chốn mà thuyết pháp khác
nhau, sử dụng đủ mọi cách triển khai hay quy
nạp, tùy theo ý muốn của người nghe, không gì chẳng
diễn nói thông suốt. Mỗi người tập tánh khác
nhau, nhưng bổn tánh giống nhau, chúng sanh vốn là Phật.
Vì sao ngàn kinh muôn luận, chốn chốn chỉ quy? Bất
luận pháp môn nào cũng đều chỉ về tự tánh,
nhưng pháp môn Niệm Phật là Sự trong tự tánh. Do vậy,
pháp này dạy chúng sanh niệm Tam Bảo, giác chứ không mê,
chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm. Phật
là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh. Tam Bảo là món báu tánh đức
trong tự tánh. Học Phật nhập môn liền quy y Tam Bảo,
Quy (歸) là quay đầu trở lại, Y (依) là nương tựa. Phản nghĩa của Tam Bảo
là “mê, tà, nhiễm”. Chúng ta hiện
đang sống trong “mê, tà, nhiễm”, học Phật là từ
trong mê hoặc quay đầu trở lại, nương
theo Giác nơi tự tánh thì gọi là “quy y Phật”. Từ
tà tri tà kiến quay đầu trở lại, nương
theo Chánh trong tự tánh, tức chánh tri chánh kiến thì gọi
là “quy y Pháp”. Từ trong hết thảy tâm lý, tư tưởng,
kiến giải, tinh thần ô nhiễm mà quay đầu trở
lại, nương theo sự thanh tịnh trong tự tánh
thì gọi là “quy y Tăng”. Tam Bảo là chỗ quy y chân chánh;
thời thời khắc khắc cảnh tỉnh chính mình. Công
khóa sáng tối đơn giản nhất của đệ
tử Phật là niệm Tam Quy Y. Buổi sáng nhắc nhở
chính mình, buổi tối phản tỉnh, trong ngày hôm nay, ta
xử thế, đãi người, tiếp vật có sai lầm
gì hay chăng? Tư tưởng có sai lệch gì chăng? Tự
mình kiểm điểm lỗi quấy của chính mình, như
vậy thì mới có tác dụng, chứ không phải là niệm
Tam Quy Y cho Phật, Bồ Tát nghe.
Phát Bồ Đề tâm,
tức là giác tâm. Đại Thừa Phật pháp thời thời
khắc khắc khuyên lơn chúng sanh phát Bồ Đề tâm.
Chúng sanh đều đang mê, do cách nghĩ, cách nhìn, cách làm đều
sai lầm; do làm sai nên kết nghiệp cảm quả, rắc
rối ở chỗ này. Nhất Chân pháp giới do bổn tánh
đã hiện bị biến thành mười pháp giới, mười
pháp giới là do “mê, tà, nhiễm” biến hiện. Mê nhẹ
thì là bốn thánh pháp giới, mê nặng thì là lục đạo
pháp giới, càng nặng thì càng đi xuống. Phật dạy
chúng ta phát Bồ Đề tâm. Quán Vô Lượng Thọ
Kinh nói thứ nhất là chí thành tâm, thứ hai là thâm tâm, thứ
ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Chí thành tâm là Thể,
có Thể ắt sẽ có Dụng, Dụng chia thành Tự Thụ
Dụng và Tha Thụ Dụng. Thâm tâm ưa thiện chuộng
đức là Tự Thụ Dụng. Hồi hướng phát
nguyện tâm là tâm đại từ đại bi đối
đãi chúng sanh, là Tha Thụ Dụng. Đối với chính
mình phải thanh tịnh, đối với người khác
phải từ bi. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận,
Mã Minh Bồ Tát dùng các danh từ khác, nhưng ý nghĩa giống
hệt. Ngài nói Bồ Đề tâm là Trực Tâm, đấy
là Thể, tức Chí Thành Tâm. [Tự Thụ Dụng là] Thâm
Tâm giống như trong Quán Kinh, còn Tha Thụ Dụng là Đại
Bi Tâm. Thời thời khắc khắc phải nghĩ cách điều
phục, diệt trừ phiền não, trước hết phải
điều phục rồi sau đấy mới diệt. Nương
theo tiêu chuẩn trong Yếu Giải, Đẳng Giác Bồ
Tát là điều phục [phiền não], đến quả địa
Như Lai mới là đoạn. Tiểu Thừa La Hán đoạn
Kiến Tư, nhưng Trần Sa và Vô Minh vẫn còn. Đại
Thừa Bồ Tát đoạn được Trần Sa phiền
não, phá được mấy phẩm Vô Minh, chỉ là điều
phục. Chúng ta chưa đoạn phiền não thì phải có
năng lực chế phục nó. Nói theo đường lối
thông thường thì dùng Định lực; trong pháp môn Niệm
Phật thì dùng Phật hiệu, tịnh niệm tiếp nối,
phiền não chẳng hiện tiền, dễ dàng hơn dùng
công phu Định lực.
(Giải) Chước kiến
từ oai bất khả tư nghị, cố niệm Phật.
Pháp hỷ nhập tâm, pháp vị sung túc, cố niệm Pháp.
Đồng văn cộng bẩm, nhất tâm tu chứng, cố
niệm Tăng. Năng niệm tức Tam Quán. Sở niệm
Tam Bảo, hữu biệt tướng nhất thể, cập
tứ giáo ý nghĩa. Tam Đế quyền, thật chi bất
đồng, như thượng liệu giản đạo
phẩm ưng tri.
(解) 灼見慈威。不可思議。故念佛。法喜入心。法味充足。故念法。同聞共稟。一心修證。故念僧。能念即三觀。所念三寶。有別相一體。及四教意義。三諦權實之不同。如上料簡道品應知。
(Giải: Thấy rõ rành
rành oai đức từ bi chẳng thể nghĩ bàn, vì thế
niệm Phật. Tâm sanh pháp hỷ, pháp vị tràn ngập,
vì thế niệm Pháp. Cùng nghe, cùng tiếp nhận, nhất
tâm tu chứng, vì thế niệm Tăng. Năng niệm là
Tam Quán. Sở niệm là Tam Bảo, tuy có tướng sai
khác, nhưng là cùng một Thể, và mang ý nghĩa bốn
phương pháp giáo hóa. Tam Đế có quyền biến hay
thật pháp khác nhau, hãy nên dựa theo sự phân định
về đạo phẩm trong phần trước để
hiểu điều này).
Phần này
giải thích nhân duyên niệm Tam Bảo. Trong phần trên, kinh
văn đã giới thiệu những điểm trọng
yếu trong tình trạng cuộc sống và tình hình thuyết
pháp nơi Tây Phương Tịnh Độ, đến cuối
cùng, nói thành tích giáo học chính là niệm Tam Bảo. Trước
tiên, phải biết vì sao quy kết về Tam Bảo? Tam Bảo
đại diện toàn thể Phật pháp. Trong tựa đề
kinh Vô Lượng Thọ có ghi “thanh
tịnh, bình đẳng, giác”, tâm thanh tịnh là Tăng
Bảo, tâm bình đẳng là Pháp Bảo, tâm giác ngộ là Phật
Bảo. Lại còn là Tam Học: “Thanh tịnh” là Giới Học,
“bình đẳng” là Định Học, “giác” là Huệ Học.
Do vậy, Tam Bảo và Tam Học bao quát toàn thể Phật
pháp. Toàn thể Phật pháp chính là tánh đức của chính
mình. Chúng ta hết sức ngưỡng mộ đức Phật,
tới một ngày nào đó có thể thấy rõ ràng A Di
Đà Phật, chúng ta sẽ nhất định hết sức
hoan hỷ. Trong thế gian này cũng có thể thấy, kinh
Lăng Nghiêm dạy: “Nhớ Phật,
niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất
định thấy Phật”. Có cảm ắt có ứng,
cảm chẳng phải là dùng vọng niệm, tâm thanh tịnh
thì mới có cảm ứng. Đã có thể thấy Phật,
ắt sẽ có thể thấy hết thảy những nhân
vật khác nhau trong pháp giới, mà [đối với những
sự vật] trong những chiều không gian khác nhau cũng
đều có thể thấy được. Tại Ấn
Độ, có không ít nhà tôn giáo từ
trong Định thật sự thấy được tình
huống trên trời và lục đạo. Định có thể
sanh thần thông, mức độ sâu hay cạn khác nhau. Lão
hòa thượng Hư Vân hễ tịnh tọa là từ
mười ngày cho đến nửa tháng, cảnh giới
trong Định được ghi chép tường tận
trong Hư Vân Niên Phổ. Có một lần, trong Định,
Sư tới được Nội Viện trời Đâu
Suất, nghe Di Lặc Bồ Tát thuyết pháp, đấy
tuyệt đối chẳng phải là hư cấu. Điểm
đặc thù nhất trong Phật pháp là dạy hành giả
chiếu theo lý luận, phương pháp trong kinh để
thực hành, chính mình sẽ có thể đích thân chứng được.
Niệm Phật công phu thành phiến chính là Định sơ
cấp. Có người khi công phu thành phiến, thấy Phật
và Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tu đến
mức Sự nhất tâm bất loạn, cảnh giới
giống như A La Hán, Bích Chi Phật. Tu đến Lý nhất
tâm bất loạn, công phu Định lực sâu xa, không có
nhập Định hay xuất Định.
Thầy dạy
học trò, đã có lòng từ ái, lại còn có sự oai nghiêm,
chẳng thể phế bỏ một bên nào. Do vậy, học
sinh đối với thầy vừa cung kính lại vừa
kiêng dè. A Di Đà Phật là một vị thầy tốt nhất,
do mười phương hết thảy chư Phật và
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đều tán thán A Di
Đà Phật. Đức Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật
là “Phật trung cực tôn, Phật
trung chi vương” (tôn quý nhất trong các vị Phật,
vua của các vị Phật).
Thờ tượng
Phật có hai ý nghĩa:
1)
Thứ nhất là chẳng quên gốc. Người Trung Quốc
nói: “Thận chung truy viễn,
dân đức quy hậu”[4].
Nho gia Trung Quốc và Đại Thừa Phật pháp đều kiến lập trên hiếu
đạo, sanh mạng do cha mẹ mà có; vì thế ân đức
phụ mẫu rất lớn. Kế đến là huệ mạng,
huệ mạng là giáo dục, giáo dục do thầy mà có.
Theo cổ lễ, cha mẹ qua đời, để tang ba
năm. Thầy qua đời, để tang trong lòng ba năm,
chẳng mặc hiếu phục (áo tang) mà thôi. Con cái của
thầy giống như anh em trai, chị em gái của chính
mình, phải luôn luôn chăm sóc họ. Do vậy, thờ tượng
Phật và thờ bài vị tổ tiên mang ý nghĩa kỷ
niệm giống nhau. Thờ Phật là thờ vị thầy
bậc nhất nhằm biểu thị ý nghĩa “chẳng
quên ân sư”.
2) Thứ
hai là “kiến hiền tư tề”
(thấy người hiền, mong được bằng).
Trông thấy tượng Phật bèn nhớ trong kinh điển
nhà Phật có rất nhiều giáo huấn, thường ngày
chúng ta làm người sống trong cõi đời có tuân thủ,
làm theo lời chỉ dạy của Phật hay không.
“Pháp hỷ nhập tâm, pháp vị
sung túc” (Tâm sanh pháp hỷ,
pháp vị tràn ngập).
Hiện thời, Phật đã không còn trên cõi đời, nhưng
giáo huấn của Ngài vẫn còn lưu lại nhân gian. Mong
tiếp nhận giáo huấn của Phật để đạt
được lợi ích chân thật, ắt phải đọc
tụng kinh điển, nhớ mãi chẳng quên. Đối
với thầy ắt phải có tín tâm, thành tựu của quý
vị lớn hay nhỏ tỷ lệ thuận với tín tâm
đối với thầy. Nếu không có lòng cung kính thầy,
chẳng bằng không học, học cũng vô ích. Người
thật sự có trí huệ, chẳng coi trọng tiếng tăm,
lợi dưỡng, mà quý trọng thời gian, “một tấc quang âm, một tấc
vàng, tấc vàng khó chuộc tấc quang âm”. Cầu học
ắt phải theo học với vị thầy mà ta ngưỡng
mộ nhất thì mới được lợi ích; vì đối
với lời thầy nói, ta ắt sẽ làm theo một trăm
phần trăm. Cổ nhân tham học, tìm thầy, hỏi đạo,
từ Cao Tăng Truyện, ta có thể thấy có người
học đến tham phỏng thầy, thầy nói chuyện
với người ấy xong liền bảo: “Nhân duyên của
ông là theo học với vị thầy nọ ở chỗ
kia thì sẽ được lợi ích”. Người ấy
tuân lời dạy đi qua đó, chẳng đầy mấy
năm liền khai ngộ.
Từ nhỏ,
tôi mang tư tưởng khá độc lập, chẳng bị
ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài cho lắm. Lúc
cầu học ở Nam Kinh, từng học hai năm trong
giáo hội Cơ Đốc Giáo, đã hai lượt đọc
Tân Ước Cựu Ước Toàn Thư[5],
lại học theo Y Tư Lan giáo (Islam, đạo Hồi) một
năm. Giáo hội Cơ Đốc Giáo bảo tôi chịu
phép rửa tội (baptism), tôi không nghe, vì tôi có nhiều nghi
vấn nhưng không có cách nào giải đáp. Sau khi đến
Đài Loan, thân cận tiên sinh Phương Đông Mỹ,
trong lòng tôi, Ngài là một vị đáng ngưỡng mộ
nhất trong tâm ý của tôi. Ngài nói: “Triết học trong kinh Phật là triết học
cao sâu nhất trên thế giới, học Phật cũng là
sự hưởng thụ tối cao trong đời người”.
Tôi đến chùa xem kinh, có rất nhiều câu văn chẳng
dễ hiểu, ắt phải có người chỉ dạy,
huống chi những kinh luận trọng yếu phần
nhiều là ý nằm ngoài lời. Về sau, gặp được
Chương Gia đại sư hết sức từ bi, được
Ngài chỉ dạy ba năm, định vững cơ sở
học Phật cho tôi. Về sau, lão
cư sĩ Châu Kính Trụ giới thiệu cho tôi quen biết
với thầy Lý Bỉnh Nam. Tôi lại theo học với
cụ mười năm. Bái sư ắt phải chí
thành, cung kính, y giáo phụng hành thì tu học mới có tâm đắc,
thoát thai hoán cốt[6],
biến đổi khí chất, pháp hỷ ngập tràn, phiền
não nhẹ đi, trí huệ tăng thêm, tự nhiên hoan hỷ.
Theo Cao Tăng
Truyện, Huệ Viễn đại sư kiến lập
một đạo tràng tại Lô Sơn, gọi là Đông Lâm
Niệm Phật Đường, suốt ba mươi năm
chưa từng rời khỏi nơi đó, tuy không bế
quan, nhưng thật sự giống như cấm túc. Một
đời Ngài ba lần thấy thế giới Cực Lạc,
chẳng hai, chẳng khác với những gì kinh đã nói. Đến
khi lâm chung, Ngài mới nói rõ với các đệ tử. Do vậy,
“hành” thì mới có thể trừ khử được vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, khôi phục
tâm thanh tịnh. Nếu chỉ cầu hiểu biết xuông,
sẽ chẳng thể trừ chướng ngại
được!
“Đồng văn cộng bẩm,
nhất tâm tu chứng, cố niệm Tăng” (Cùng nghe,
cùng lãnh thụ, nhất tâm tu chứng, vì thế niệm
Tăng). Dưới tòa của A Di Đà Phật, những người
cùng tu đều là thượng thiện nhân, tức là niệm
Tăng. “Năng niệm tức
là Tam Quán”, ở chỗ này giảng Năng Niệm và Sở
Niệm khác nhau. “Năng niệm” là nói đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta không làm được.
Thành quả tu học của họ chúng ta có thể lãnh ngộ
sơ lược đôi chút. Tông Thiên Thai nói đến Tam
Quán Tam Đế thì ở trong Tây Phương thế giới,
[các vị thượng thiện nhân] hoàn toàn chứng đắc
[những điều ấy]. Đối với tư tưởng,
lý luận, cảnh giới của tông Thiên Thai, có thể nói
là chúng ta hiểu biết có hạn; chẳng qua, tổ sư,
đại đức nêu ra mấy danh từ, thuật ngữ
mà thôi. Pháp môn Niệm Phật đặc biệt ở chỗ
chỉ cần nhất tâm xưng niệm thì lý luận,
phương pháp, cảnh giới đều nằm trong ấy,
không riêng gì tông Thiên Thai mà Thiền Tông, Mật Tông cũng nằm
trong một câu Phật hiệu.
Có người
hỏi tôi: “Hiện thời chúng tôi học Phật, nhưng
người già trong nhà chẳng chịu học Phật thì
phải làm sao?” Tôi nói: “Vậy là chỉ trách ông học Phật
chưa nghiêm túc, không có thành tựu!” Hà Đông tước sĩ[7]
phu nhân ở Hương Cảng niệm Phật, người
trong nhà hoàn toàn tin theo Cơ Đốc Giáo, nhưng rất
hiếu thuận với mẹ. Bà cụ khi lâm chung bảo
con cái: “Nhà ta tự do tôn giáo, đối xử với nhau hết
sức hòa hợp. Hôm nay mẹ sắp về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta có dịp
làm mẹ con với nhau, vậy các con hãy niệm Phật mấy
câu tiễn mẹ đi”. Nói xong, chưa đầy một
khắc, cụ đã ngồi vãng sanh. Từ lúc ấy, cả
nhà tướng quân Hà Thế Lễ, ông này là con trai bà cụ,
đều tin Phật. Chuyện này từng gây xôn xao đất
Hương Cảng một thời.
Phật pháp
từ đầu đến cuối là cầu khai trí huệ,
Năng Niệm là Tam Quán. Tam Quán là trí huệ chân thật,
Tam Quán là quán sát chân tướng của nhân sinh và vũ trụ,
quán sát từ ba phương diện: Một là Không, hai là Giả,
ba là Trung.
- Không chẳng phải
là cái gì cũng chẳng có, Không là bản thể của vạn
pháp trong vũ trụ. Bản thể tồn tại, nhưng
không thấy được, mò chẳng được,
nghe chẳng được, nói chẳng được, sáu
căn không có cách nào tiếp xúc nó, nhưng nó tồn tại,
nó có thể sanh ra Hữu. Hữu là sâm la vạn tượng,
hết thảy vạn pháp, đều do bản thể biến
hiện ra. Không là Tánh, Tánh là không. Tướng là có. Trong ứng
xử nên dùng Trung, Nho gia gọi Trung là Trung Dung, còn Phật pháp
gọi là Trung Đạo. Đã không thiên chấp Hữu mà
cũng đừng thiên chấp Không. Phàm phu phạm lỗi
chấp Hữu, chấp tướng, chẳng biết bản
thể, rớt vào lục đạo luân hồi. Hữu là
giả có, chớ nên chấp trước! Thể là bất
sanh bất diệt, còn Tướng sanh diệt trong từng
sát-na, vạn pháp vô thường. Do vậy, nói “Năng Niệm tức Tam Quán”.
Trong các hiện tượng, hãy nên dùng Trung[8].
Đối tượng được niệm (Sở Niệm)
là Tam Bảo. Tam Bảo là biệt tướng[9].
Từ hiện tượng mà nói thì phiền não, vọng tưởng
đã đoạn hết, trí huệ viên mãn hiện tiền
bèn gọi là “thành Phật”. Phật
có đại trí, thành tựu sự giác ngộ trí huệ viên
mãn, thì gọi là Phật Bảo. Hết thảy các pháp do đức
Phật đã nói, lưu truyền thành kinh điển thì gọi
là Pháp Bảo. Đệ tử xuất gia nương theo
kinh luận để tu hành thì gọi là Tăng Bảo. “Nhất Thể” là nói theo Tánh,
tức là “giác, chánh, tịnh”.
Chánh giác là Phật Bảo, chánh tri chánh kiến là Pháp Bảo,
thanh tịnh vô nhiễm là Tăng Bảo. Giác chứ không mê,
chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm, thì gọi
là Tự Tánh Tam Bảo, còn gọi là Nhất Thể Tam Bảo.
“Tứ giáo ý nghĩa” chính là
“Tạng, Thông, Biệt, Viên”
như trong tông Thiên Thai đã nói.
(Kinh) Xá Lợi Phất!
Nhữ vật vị thử điểu thật thị tội
báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc
độ vô tam ác đạo. Xá Lợi Phất! Kỳ Phật
quốc độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống
hữu thật? Thị chư chúng điểu giai thị A
Di Đà Phật dục linh pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở
tác.
(經) 舍利弗。汝勿謂此鳥。實是罪報所生。所以者何。彼佛國土。無三惡道。舍利弗。其佛國土。尚無惡道之名。何況有實。是諸眾鳥。皆是阿彌陀佛。欲令法音宣流。變化所作。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi
Phất! Ông đừng nói những con chim ấy là do tội
báo mà sanh ra. Vì cớ sao vậy? Cõi nước Phật ấy
không có ba đường ác. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước
Phật ấy còn không có danh từ ba đường ác, huống
là có thật! Các loài chim ấy là do A Di Đà Phật muốn
cho pháp âm được lan truyền rộng khắp mà biến
hóa ra).
Trong đoạn
kinh văn này, đức Phật sợ có người nghe
nói trong Tây Phương vẫn còn có bạch hạc, chim công
v.v... thuộc về súc sanh đạo, vậy thì Tây
Phương khác với thế giới này ở chỗ nào?
Tại Tây Phương, những loài chim như vậy hoàn
toàn chẳng có sanh mạng, đều là do A Di Đà Phật
biến hóa ra. Toàn thể cấu tạo của Tây
Phương là do tỳ-kheo Pháp Tạng đối trước
tòa của đức Thế Tự Tại Vương Phật,
nương vào oai thần của Phật, tham khảo tình hình
trong các thế giới Phật ở khắp mười
phương, tập hợp những điểm tốt đẹp
nhất để tạo thành. Không riêng gì các loài chim thuyết
pháp, mà thậm chí cây báu, nước chảy đều có
thể thuyết pháp, đều do A Di Đà Phật hóa ra.
Thuở còn trẻ, tôi thích đọc những sách như Liêu
Trai Chí Dị, chưa từng thấy quỷ, nhưng đã
thấy hồ ly. Trong thời kỳ Kháng Chiến, tôi sống
trong nhà một người giàu có tại Hành Sơn thuộc
tỉnh Hồ Nam. Nhà ấy đã suy vi, trên lầu không có
ai ở, nghe nói có hồ ly, rất nhiều người đã
thấy. Tôi chỉ thấy một người đàn ông mặc
áo dài bằng vải xanh, nhưng mặt mũi lờ mờ
không rõ ràng. Ngoài ra, quê tôi sản xuất gạo, có một người
họ hàng đong đầy một thuyền gạo, tính
chở sang Nam Kinh bán. Trong lúc thuyền sắp nhổ neo, có
người thấy một con vật giống con chồn
lông vàng chạy lên thuyền, nhưng tìm khắp nơi không
thấy, bèn vẫn theo đúng giờ khởi hành. Đến
Nam Kinh, cả một thuyền đầy gạo không còn gì,
chỉ toàn là bao rỗng, chưng hửng quay về. Đến
nhà rồi mới thấy gạo chở đi còn nguyên trong
kho. Chắc là người buôn gạo ấy đắc tội
với nó nên nó mới giở trò như vậy. Đây là điều
chính tôi mắt thấy tai nghe. Trên thế giới chuyện
kỳ lạ gì cũng có. Rất nhiều nhà tôn giáo ở Ấn
Độ có công phu định lực có thể thấy được
những chuyện giống như thế, họ nhìn thấy
lục đạo rất rõ ràng, chỉ biết lẽ đương
nhiên, chứ không biết nguyên do sự tình phát sanh như thế
nào? Kết quả về sau ra sao họ cũng không biết!
Chỉ riêng kinh Phật là giảng lý sự nhân quả tường
tận nhất.
A Di Đà Phật do đại
nguyện từ bi, giúp đỡ con người đới
nghiệp vãng sanh, sanh về Cực Lạc thế giới
là nơi có hoàn cảnh tu học tốt đẹp và thiện
duyên thù thắng, chẳng đến nỗi nẩy sanh một
vọng niệm nào. Do vậy, Cực Lạc thế giới
giống như một lớp học vĩ đại, Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và mười phương hết
thảy chư Phật cổ vũ, khích lệ chúng ta vãng
sanh Cực Lạc thế giới là vì nguyên nhân này. Nói thật
ra, vãng sanh Tây Phương dễ hơn sanh lên trời. Tôi sống
tại Câu Tử Khẩu, Đài Bắc, cách vách có một
nhà thờ Thiên Chúa, linh mục là tiên sinh Phương Hào, ông
ta chỉ tốt nghiệp Sơ Trung (học hết cấp
hai), tự tu thành tựu. Ông ta là chuyên gia về Sử đời
Tống, là viện sĩ viện nghiên cứu văn hóa
Trung Quốc, và là viện trưởng viện văn học
của Quốc Lập Chánh Trị Đại Học, thường
mượn tôi Đại Tạng Kinh để đọc.
Ông ta nói: “Kinh Phật giảng Thiên Đường tỉ mỉ
hơn Thánh Kinh, chắc là Phật đã thật sự
đến được Thiên Đường!” Cõi trời
có rất nhiều tầng, điều kiện sanh lên trời
chẳng dễ dàng. Trời có đức hạnh cao hơn
người. Đức Phật nói điều kiện
để sanh lên trời là Thập Thiện Nghiệp đạo.
Đấy là tiêu chuẩn của Dục Giới Thiên. Nếu
muốn sanh lên Sắc Giới Thiên ắt phải tu Tứ
Vô Lượng Tâm, tức Từ, Bi, Hỷ, Xả và Tứ
Thiền Bát Định, khó hơn sanh về Tây
Phương nhiều lắm.
(Giải)
Trưng thích khả tri.
Vấn: Bạch
hạc đẳng, phi ác đạo danh da?
Đáp: Ký
phi tội báo, tắc nhất nhất danh tự, giai thuyên
Như Lai cứu cánh công đức. Sở vị cứu
cánh, bạch hạc đẳng, vô phi tánh đức mỹ
xưng, khởi ác danh tai!
Vấn:
Hóa tác chúng điểu hà nghĩa?
Đáp: Hữu Tứ Tất
Đàn nhân duyên. Phàm tình hỷ thử chư điểu, thuận
tình nhi hóa, linh hoan hỷ cố. Điểu thượng
thuyết pháp, linh văn sanh thiện cố, bất ư
điểu khởi hạ liệt tưởng, đối
trị phân biệt tâm cố. Điểu
tức Di Đà, linh ngộ Pháp Thân bình đẳng, vô bất
cụ, vô bất tạo cố. Thử trung hiển vi phong,
thụ, võng đẳng âm, cập nhất thiết y chánh giả
thật, đương thể tức thị A Di
Đà Phật. Tam thân tứ đức, hào vô sai biệt dã.
(解) 徵釋
可知。問。白鶴等。非惡道名耶。答。既非罪報。則一一名字。皆詮如來究竟功德。所謂究竟。白鶴等。無非性德美稱。豈惡名哉。問。化作眾鳥何義。答。有四悉
檀因緣。凡情喜此諸鳥。順情而化。令歡喜故。鳥尚說法。令聞生善故。不於鳥起下劣想。對治分別心故。鳥即彌陀。令悟法身平等。無不具。無不造故。此中顯微
風樹網等音。及一切依正假實。當體即是阿彌陀佛。三身四德。毫無差別也。
(Giải: Lời Phật gạn hỏi
và lời Ngài tự giải thích dễ hiểu.
Hỏi: Những
danh từ như bạch hạc v.v... chẳng phải là
danh xưng trong ác đạo ư?
Đáp: Đã
không có tội báo thì mỗi một danh tự đều nói
lên công đức rốt ráo của Như Lai. Đã nói là rốt
ráo thì những danh tự như bạch hạc v.v... không gì
chẳng phải mỹ hiệu của tánh đức, há có
phải là ác danh vậy thay!
Hỏi: [A Di
Đà Phật] hóa ra các loài chim có ý nghĩa như thế
nào?
Đáp: Có nhân
duyên của Tứ Tất Đàn. Phàm tình[10]
ưa thích những loài chim ấy nên thuận theo lòng chúng
sanh ưa thích mà hóa ra, khiến cho [chúng sanh trong cõi Cực Lạc]
hoan hỷ. Chim còn có thể thuyết pháp, khiến cho
người nghe sanh điều thiện, sẽ chẳng khởi
ý niệm coi những con chim ấy là kém hèn, nhằm đối
trị cái tâm phân biệt. Chim chính là Di Đà, khiến cho
[chúng sanh trong cõi Cực Lạc] ngộ Pháp Thân bình đẳng,
không gì chẳng đầy đủ, không gì chẳng tạo.
Trong đoạn này chỉ rõ: Âm thanh của gió nhẹ, cây cối,
lưới báu v.v... và hết thảy y báo, chánh báo là “giả
thật”, bản thể của chúng là A Di Đà Phật. Ba
thân, bốn đức, chẳng sai biệt mảy may).
Nếu có người
nêu câu hỏi: Bạch hạc, chim công v.v... chẳng phải
là tên gọi trong ác đạo ư? Sao kinh nói “thượng vô ác đạo chi
danh, hà huống hữu thật” (còn không có danh từ ác đạo, huống
là thật sự có?) Pháp thế
gian và xuất thế gian chẳng có tiêu chuẩn tuyệt đối
dành cho chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác. Chẳng
hạn như đối với thiện, ác, tà, chánh, tiêu
chuẩn của cổ nhân khác với hiện thời, xưa
nay không giống nhau. Trong và ngoài nước cũng khác nhau.
Đó gọi là “người
nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”. Theo cách
nhìn của phàm phu, bạch hạc, chim công thuộc súc sanh đạo,
nhưng trong cách nhìn của Phật, Bồ Tát, như kinh Hoa
Nghiêm, kinh Viên Giác đã nói, “hết thảy chúng sanh vốn đã
thành Phật”. Không riêng gì súc sanh đạo mà ngạ quỷ,
địa ngục cũng là danh hiệu xứng tánh rốt
ráo; nhất là sống trong xã hội hiện thời, giao thông,
thông tin phát triển, toàn thể địa cầu gần
giống như một quốc gia, nhưng lịch sử,
văn hóa, quan niệm đạo đức, tập quán
sinh hoạt của mỗi nước đều khác nhau. Nếu
chẳng hiểu cặn kẽ, hợp tác với nhau, sẽ
khó tránh khỏi nẩy sanh chướng ngại xung đột.
Trong quá khứ, tại Trung Quốc, hoằng dương Phật
pháp chỉ hạn chế trong phạm vi Phật học, tối
đa là dính dáng đến tư tưởng của Nho, Đạo,
bá gia chư tử. Còn hoằng pháp trong hiện tại, đối
với nội dung của sáu tôn giáo lớn[11]
trên thế giới và lịch sử dân tộc các nước,
nếu chẳng hiểu rõ, ắt sẽ gặp trở ngại,
mâu thuẫn. Tôi đến nước Mỹ, trước
hết, đọc lịch sử, phong tục, tập quán,
văn hóa nước Mỹ; vì để
lợi ích hết thảy chúng sanh, hoằng dương Phật
pháp thì cần phải hiện đại hóa, địa
phương hóa. Phật giáo truyền đến Trung Quốc
vào năm sáu mươi bảy Công Nguyên, đã hợp thành
một thể với văn hóa Trung Quốc, hoàn toàn chẳng
thể tách rời. Phật giáo truyền vào Trung Quốc liền
bị Trung Quốc hóa, địa phương hóa, hòa lẫn
thành một khối với tư tưởng, tập quán
sinh sống, đạo đức, luân lý của người
Trung Quốc. Do vậy, Phật giáo
được toàn dân Trung Quốc tiếp nhận, biến
thành văn hóa của chính Trung Quốc.
Có một mục sư người
Mỹ rất cảm khái, bảo tôi: “Cơ Đốc Giáo
truyền vào Trung Quốc chừng một trăm ba
mươi hay một trăm bốn mươi năm
trước, đã phái rất nhiều người sang công
tác tại Trung Quốc, đến nay mới chỉ có
hơn một trăm vạn tín đồ, thật đáng
than thở!” Ông ta chẳng biết
vì sao thất bại đến như thế! Là vì họ
chẳng hiểu rõ lịch sử văn hóa Trung Quốc, họ
muốn theo đuổi đường lối trái ngược
văn hóa Trung Quốc. Người Trung Quốc lấy hiếu
đạo làm gốc, họ chẳng thờ tổ tiên tức
là đã mất gốc, chẳng thể nào dung nạp giáo
nghĩa của bọn họ được, khiến cho
những người Trung Quốc học theo người ngoại
quốc, hễ có hiểu biết đôi chút liền hoàn toàn
chẳng chịu “sổ điển
vong tổ” (tính đếm sách vở, quên mất tổ
tiên, ý nói: mất gốc)[12].
Thuở đầu, Phật giáo xây dựng đạo tràng,
chọn cách kiến trúc theo lối cung điện Trung Quốc.
Nếu dùng kiến trúc theo kiểu Ấn Độ, sợ
rằng sẽ khó thể phát triển được! Tổng
cương lãnh của Phật pháp là “giác, chánh, tịnh”. Giác
ngộ viên mãn, chánh tri chánh kiến viên mãn, tâm thanh tịnh viên
mãn thì gọi là thành Phật. Vì sao hết thảy chúng sanh vốn
đã thành Phật? Phật nói “giác, chánh, tịnh” trong tự
tánh của hết thảy chúng sanh vốn đã viên mãn. Các
nhà tôn giáo tán thán Thượng Đế là toàn tri toàn năng;
nhưng kinh Đại Thừa nói “toàn tri, toàn năng là tự
tánh của mỗi cá nhân, tánh đức chính là toàn tri, toàn năng”.
Hiện thời chúng ta có vọng tưởng, chấp
trước, khiến cho toàn tri toàn năng bị chướng
ngại. Tuy có trí năng, nhưng không thể hiển lộ
được. Đức Phật chẳng ban cho con người
cái gì cả, Đại Thừa Khởi Tín Luận chép: “Bổn giác vốn có, bất giác
vốn không”. Đã vốn có thì đương nhiên sẽ
có thể khôi phục; vốn không thì tự nhiên sẽ trừ
được. Hiểu rõ đạo lý này, ắt sẽ có
tín tâm trong phương diện tu học, nhất định
có thể thành tựu trí huệ đức năng của
chính mình. Trí huệ đức năng hiện tiền [mới
là điều đáng kể], còn những phước báo mà
người thế gian mong cầu chính là lông gà, vỏ tỏi.
Đáng sợ nhất là mê, tà, nhiễm! Giác, chánh, tịnh là
tánh đức, nhưng mê, tà, nhiễm có bao giờ tách khỏi
tánh đức? Do vậy, mới nói “mê và ngộ không hai, nhiễm tịnh hệt như một”.
Hiểu rõ đạo lý này thì đoạn kinh văn này sẽ
dễ hiểu. Bất cứ một danh tự nào đều
nhằm trình bày, giải thích công đức rốt ráo của
Như Lai. Hết thảy những sự đặt bày
trong thế giới Cực Lạc đều là do A Di
Đà Phật biến hóa ra.
Lại có kẻ
hỏi: “Hóa ra các loài chim là do ý
nghĩa nào?” Đáp: “Có bốn
nhân duyên Tất Đàn”. “Tất”
là phổ biến bình đẳng, “đàn” là bố thí. Phật giáo hóa chúng sanh, điều
kiện thứ nhất là làm cho người tiếp nhận
sự giáo hóa ấy sẽ sanh tâm hoan hỷ. Tiếp đó,
chim có thể thuyết pháp, người chẳng bằng
chim, nên có thể tự cảnh tỉnh, răn nhắc chính
mình. Vốn coi thường loài chim chóc, chúng có thể thuyết
pháp khiến cho con người sanh lòng kính nể, bèn đoạn
trừ cái tâm ngạo nghễ, ngã mạn. Chim là vật được
biến hóa từ tự tánh của A Di Đà Phật, khiến
cho con người hoảng nhiên đại ngộ, minh tâm
kiến tánh, đấy chính là lợi ích thù thắng nhất.
Đức Phật thuyết pháp, trước hết quán sát
căn cơ, phương pháp dạy học rất cao minh.
Trước hết, quán sát trình độ căn cơ, sự
yêu thích, thói quen sống, bối cảnh tư tưởng
của chúng sanh, điều gì cũng hiểu rõ, rồi mới
thuyết pháp khế cơ, tất nhiên sẽ phù hợp rất
tốt đẹp. Chúng tôi dạy học hoặc giảng
kinh trên bục giảng, từ những nguyên tắc dạy
học của Phật mà đạt được khải
thị rất lớn. Tóm lại, có mấy điều như
sau:
1) Vì sao phải giảng kinh? Ví dụ như chúng
sanh đều đang mê, đức Phật giảng kinh để
làm cho chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được
vui. Chúng sanh tri kiến bất chánh, tư tưởng sai lầm,
[đức Phật] giảng kinh nhằm uốn nắn tâm
họ. Tâm địa họ ô nhiễm, giảng kinh để
tâm họ được thanh tịnh.
2) Giảng cho ai? Con người có lợi căn,
độn căn; căn tánh mỗi người mỗi khác,
ắt phải hiểu rõ đối tượng. Trong xã hội,
người đi học muốn hiểu rõ lý, người
làm ăn muốn kiếm tiền, công tác, sự nghiệp của
mỗi chúng sanh đều khác biệt! Cùng một bộ kinh
điển, có đủ mọi cách giảng khác nhau, đều
là vận dụng sống động. Bất luận áp dụng
vào nghề nghiệp nào đều được hoan nghênh.
Đời Tống, Triệu Phổ dùng nửa bộ Luận
Ngữ để trị thiên hạ, [Luận Ngữ] là một
bộ sách rất nổi tiếng. Tống Thái Tổ dùng
Triệu Phổ làm Tể Tướng để xây dựng
chánh quyền. Về sau, Tống Thái Tông tức vị (lên
ngôi), vẫn dùng Triệu Phổ làm Tể Tướng. Ông
ta tâu với Tống Thái Tông: “Thần
có một bộ Luận Ngữ, dùng nửa bộ phù tá Thái
Tổ định thiên hạ, dùng nửa bộ để
phù tá bệ hạ đạt đến thái bình”. Dùng một
bộ Luận Ngữ vận dụng vào quân sự, chính trị
cho đến công thương nghiệp. Do những điều
đã nói trong kinh điển đều là nguyên lý, nguyên tắc,
nhưng trên phương diện ứng dụng, mỗi nơi
mỗi khác. Vận dụng khéo léo là nhờ nhất tâm.
3) Giảng vào lúc nào? Xã hội bình trị hay loạn
lạc khác nhau, quốc gia hưng thịnh hay suy vong cũng
khác nhau, nhỏ thì như một năm có bốn mùa, tình cảm
con người cũng biến hóa, ắt phải khế cơ,
phải chú ý thấu hiểu, phải hiểu rõ thời tiết,
nhân duyên hòng ứng hợp căn cơ.
4) Dùng phương
pháp nào để giảng khiến cho chúng sanh vui vẻ tiếp
nhận, lại còn có thể lãnh ngộ, đạt được
lợi ích chân thật.
Đức
Phật giáo hóa giống như vậy đó. Trong kinh nhắc
đến những loài chim như bạch hạc, công v.v...
là do A Di Đà Phật thuận theo sự ưa thích của
chúng sanh mà biến hóa ra, để làm họ vui thích. Do vậy,
Phật giáo hoằng pháp tại các nơi, chẳng phá hoại
tín ngưỡng, tập quán sinh hoạt và bối cảnh văn
hóa của dân địa phương, vẫn gìn giữ những
khuôn khổ cũ. Dùng phương pháp này để dạy
dỗ thì gọi là Thế Giới Tất Đàn.
Thứ hai
là Vị Nhân Tất Đàn, là nội dung và thành quả của
sự dạy dỗ nhằm giúp cho người ta đoạn
ác, tu thiện. Phong tục, tập quán của Trung Quốc
và cổ Ấn Độ có nhiều chỗ khá giống
nhau, chẳng hạn như giềng mối đạo đức
của Trung Quốc được kiến lập trên nền
tảng hiếu đạo, hiếu thảo cha mẹ, tôn
trọng thầy thì Phật pháp cũng giống như vậy.
Kinh Địa Tạng là Hiếu Kinh trong nhà Phật, đại
địa chứa đựng vô lượng kho báu, chúng ta
phải dựa vào nó để sanh tồn. “Địa” biểu thị tâm địa, tâm địa
có vô lượng trí huệ, đức năng, tài nghệ,
chẳng cày cấy nơi đất sẽ chẳng thể
thâu hoạch ngũ cốc, các loại lương thực,
chẳng đào bới kho tàng dưới đất thì chẳng
thể sử dụng được. Kho báu trong tâm địa
phải dùng hiếu kính để đào bới, có hiếu
thảo cha mẹ, tôn trọng thầy thì tánh đức của
chính mình mới tỏ lộ rộng lớn.
“Bất ư điểu
khởi hạ liệt tưởng” (Chẳng khởi ý
tưởng nghĩ những loài chim ấy là hèn kém) chính là Đối
Trị Tất Đàn, chẳng khinh thị chúng sanh. Trong
kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói: Hữu tình và vô tình
đều cùng viên thành Chủng Trí. Không chỉ động
vật là bình đẳng, mà thực vật, khoáng vật cũng
phải bình đẳng. Chúng đều do duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến. Thiền gia nói: “Khi chưa ngộ, đâu đâu cũng là chướng
ngại, lúc đã ngộ, tùy ý lấy một vật nào cũng
đều là Chân Như bổn tánh, thứ gì cũng là
đạo, nơi nào cũng là nguồn, vạn pháp bình
đẳng”. A Di Đà Phật do tự tánh của chúng
ta biến hiện, đó gọi là “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Tận
cùng hư không, trọn khắp pháp giới, có vật nào chẳng
phải do tự tánh biến hiện? Ngoài tâm không pháp, ngoài
pháp không tâm. Tâm và pháp là một, chẳng phải hai. Tâm là Năng
Biến, pháp là Sở Biến. Ví như tâm là vàng, pháp là đồ
vật, đồ vật và vàng có tách rời nhau hay không? Thông
đạt nghĩa này, sẽ biết chúng sanh và Phật bình
đẳng, hữu tình và vô tình bình đẳng, hết thảy
muôn pháp bình đẳng, liền ngộ Pháp Thân bình đẳng.
“Vô bất cụ” (không gì chẳng
đủ) là như Lục Tổ khi khai ngộ đã nói: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn
đầy đủ”. “Vô bất tạo” (không gì chẳng
tạo) là như Lục Tổ đã nói: “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”. Nếu hiểu rõ đoạn kinh
văn này thì sẽ ngộ nhập cảnh giới ấy,
liền giống hệt như Lục Tổ đại
sư.
“Thử trung hiển
vi phong, thụ, võng đẳng âm, cập nhất thiết
y chánh giả thật, đương thể tức thị
A Di Đà Phật, tam thân tứ đức, hào vô sai biệt
dã” (Trong đoạn này chỉ rõ: Âm thanh của gió nhẹ,
cây cối, lưới báu v.v... và hết thảy y báo, chánh
báo là “giả thật”, bản thể của chúng là A Di
Đà Phật. Ba thân, bốn đức, chẳng sai biệt
mảy may): Lãnh hội thấu triệt những nghĩa trên
đây thì đoạn chú giải nhỏ này chẳng cần
phải giải thích nữa. Đoạn văn trước
đó nói về chim là hữu tình chúng sanh, còn đoạn này
nói đến vô tình chúng sanh, mà cũng là sự thật của
“vô bất cụ” và “vô bất tạo” như trong đoạn
trước đã nói. “Vi phong”
(gió nhẹ) là không khí chuyển động mà cũng là tướng
được hiện bởi tự tánh của chúng ta. Đức
Phật thường nói “y báo chuyển theo chánh báo”. Y báo là
hiện tượng vật chất, chánh báo là tâm. Tâm là chủ
tể, vận mạng cả đời của mỗi người
đều đã định sẵn, [số mạng định
sẵn ấy không do Thượng Đế hay do một vị
chúa tể nào quyết định mà là] do tâm thiện hay ác
mà có. Tâm thiện thì hành vi ắt thiện, ắt được
thiện báo, cả đời hạnh phúc. Thân là chánh báo, những
vật ngoài thân và hoàn cảnh, hư không đều thuộc
y báo. Đời thái bình, nhân dân cơm no áo ấm, lòng người
thuần hậu. Thuở loạn động, lòng người
gian dối, tà ngụy, cảm vời thiên tai, nhân họa.
Trong ấy có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Trong cộng
nghiệp có biệt nghiệp, đại chúng tuy cùng sống
trong đời ác, nhưng mỗi cá nhân cảm nhận họa
phước khác nhau. Tây Phương Cực Lạc thế
giới thuần thiện không ác, đều tu Tịnh nghiệp,
tâm tịnh ắt cõi nước tịnh. Huống hồ còn
có một vị tu giác chánh tịnh đến viên mãn rốt
ráo là A Di Đà Phật chủ trì sự giáo hóa tại Tây
Phương. Tâm chúng ta thanh tịnh cảm ứng đạo
giao với “giác, chánh, tịnh” của Phật; cho nên hết
thảy hoàn cảnh vật chất, hết thảy y báo và
chánh báo là “giả thật”,
bản thể của nó chính là tam thân và tứ đức của
A Di Đà Phật, không có mảy may sai biệt nào! Chữ
Giả chỉ vạn pháp được biến hiện,
Thật chỉ tâm tánh Năng Biến.
“Tam thân” của A Di Đà Phật
là Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân. Nói theo Lý, Pháp Thân chính là chân
tâm bổn tánh. Nói theo mặt Sự thì là hết thảy vạn
pháp; hết thảy vạn pháp đều là chính mình. Ý nghĩa
này hết sức khó hiểu! Ví như nằm mộng, trong
mộng có bản thân ta và núi, sông, đại địa, người,
vật, hoàn toàn do cái tâm ý thức của ta biến hiện
ra. Ngoài tâm không có pháp, hết thảy mọi thứ tồn
tại trong vũ trụ chỉ là chính mình. Nếu quý vị
nhận biết điều này rõ ràng thì quý vị chứng được
Pháp Thân. Sau khi chứng được Pháp Thân, sẽ thương
yêu hết thảy mọi người, hết thảy chúng
sanh là chính mình; cho nên yêu thương chúng sanh vô điều
kiện. Đấy gọi là “vô
duyên đại từ”, “vô duyên” là vô điều kiện,
từ bi là yêu thương. Yêu thương hết thảy chúng
sanh tức là yêu thương chính mình. Báo Thân là trí huệ. Ứng
Hóa Thân là Dụng, [tức là] dùng Ứng Hóa Thân để thực
hành đại từ đại bi. Tam Thân là một Thể,
Phật có đủ ba thân, chúng ta cũng có đủ ba thân,
nhưng do mê nên không có trí huệ, Pháp Thân tuy ở trước
mắt mà chẳng biết gì. Thân thể hiện thời của
chúng ta là thân nghiệp báo.
“Tứ đức” là
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. “Thường” là bất sanh, bất diệt. Chúng
ta đang mê, những gì ta cảm nhận đều là pháp
sanh diệt. Chúng ta dùng cái tâm sanh diệt để quán sát vũ
trụ nhân sinh nên hết thảy pháp đều là sanh diệt.
Tâm Phật là chân tâm, chân tâm vô niệm, bất sanh bất diệt.
Dùng chân tâm quán sát nhân sinh và vũ trụ thì đều là bất
sanh bất diệt, thấy được chân tướng
sự thật. Chúng ta định tâm lại, trừ bỏ
vọng tưởng, chấp trước, sẽ thấy cảnh
giới giống như chư Phật, Bồ Tát đã nói.
Hết thảy những cảnh giới mà đức Phật
đã nói, chúng ta đều có thể đích thân chứng đắc.
Kinh Phật định nghĩa Ngã là “chủ tể”. Nếu
chính mình có thể làm chủ tể thì lẽ ra năm nào cũng
là năm mười tám tuổi, tự tại chẳng cần
phải nói nữa, trong cuộc sống vạn sự xứng
tâm vừa ý. Hễ có một sự kiện nào chẳng vừa
lòng tức là chẳng tự tại. Đến khi minh tâm
kiến tánh thì mới thật sự được tự
tại. “Lạc” là chân lạc,
vĩnh viễn chẳng khổ, không có phiền não, vĩnh
viễn thanh tịnh, quyết định chẳng bị ô
nhiễm mảy may nào. Trong Tây Phương, ai nấy đều
viên mãn trọn đủ “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”.
Nhìn lại chúng ta trong lục đạo, chẳng những
con người không được tự tại mà trời
cũng chẳng hề tự tại! Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Thiên thọ mạng tám vạn đại kiếp,
khi hết tuổi thọ, lại phải đọa lạc.
Do vậy, trong lục đạo không có Tứ Đức
(Thường, Lạc, Ngã, Tịnh). Trong ấy, trọng yếu
nhất là tinh nghĩa (nghĩa lý tinh vi) “chúng sanh và Phật chẳng hai”, bình đẳng với
Phật. Bình đẳng về mặt Lý, mà về mặt Sự
cũng bình đẳng. Hiện thời có một giả tướng
bất bình đẳng là do mê hay ngộ khác nhau. Phật là
giác, chúng ta là mê, trừ điều ấy ra, không có gì khác
nhau. Do vậy, Phật tôn kính chúng sanh, vì Ngài biết chúng
sanh và Phật trọn chẳng sai biệt, nhưng chúng sanh
chẳng hoàn toàn cung kính Phật. Chúng sanh có kẻ ngạo
nghễ, ngã mạn là vì họ chẳng hiểu rõ chân tướng
sự thật, còn chúng ta phải tôn kính người khác. Người
khác chẳng cung kính chúng ta là chuyện đương nhiên,
vì họ chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật.
Chẳng tôn kính người khác chính là chẳng tôn kính chính
mình, mà cũng là chẳng tôn kính cha mẹ, sư trưởng,
Phật, Bồ Tát, đặc biệt là đối với
những tôn giáo khác! Ở Mỹ, tôi đã từng viếng
thăm giáo đường của Thiên Chúa Giáo, Cơ Đốc
Giáo. Vào giáo đường phải hành lễ. Tôn trọng
họ, họ cũng hoan hỷ tiếp đón tôi. Thượng
Đế của họ là thượng đế của tôi,
Thượng Đế là quốc vương trong thiên giới.
Đối với nguyên thủ của quốc gia khác, chúng
ta cũng phải tôn kính, đấy chính là lễ tiết.
Nho Gia nói: “Kính quỷ thần
nhi viễn chi” (Kính trọng quỷ thần, nhưng không
thân cận họ). Do trước kia không hoàn toàn hiểu rõ
ràng tình hình quỷ thần nên phải giữ khoảng cách đối
với họ. Phật pháp không có khoảng cách, quỷ thần
cũng là chúng sanh, cũng là vật được biến
hiện trong tâm. Do vậy, họ là chính mình. Ở đây nói:
“Tức thị A Di Đà Phật,
tam thân tứ đức, hào vô sai biệt dã” (Chính là A Di
Đà Phật, ba thân, bốn đức, không sai biệt mảy
may nào), cũng có nghĩa là tam thân, tứ đức của
chính mình cũng chẳng có sai biệt mảy may nào! Nếu
nói đến Thượng Đế thì tam thân, tứ đức
của Thượng Đế cũng chẳng có mảy
mai sai biệt nào. Trong tâm không có chút giới hạn nào, tâm lượng
mở rộng đến tận cùng hư không, trọn khắp
pháp giới. Tâm lượng rộng lớn sẽ vui sướng,
khí lượng hẹp hòi thì đối với ý kiến trái
ngược sẽ khởi lên xung đột, khổ chẳng
thể nói nổi, đều do tự mình chuốc lấy,
Phật chẳng hoạch định giới hạn đối
với hết thảy chúng sanh, vạn vật; vì thế, “tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới” (tâm bao trùm trọn khắp thái hư, lượng
trọn khắp các cõi với số lượng nhiều
như cát).
(Kinh) Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ,
vi phong xuy động, chư bảo
hàng thụ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí
như bách thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác.
Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm.
(Giải)
Tình dữ vô tình, đồng tuyên diệu pháp, tứ giáo
đạo phẩm, vô lượng pháp môn, đồng thời
diễn thuyết, tùy loại các giải, năng linh văn
giả, niệm Tam Bảo dã. Niệm Tam Bảo, thị
tùng Tất Đàn hoạch ích. Phàm phu sáng văn, đại
dũng biến thân, thị hoan hỷ ích. Dữ Tam Bảo
khí phận giao tiếp, tất năng phát Bồ Đề
tâm, thị sanh thiện ích. Do thử phục diệt phiền não,
thị phá ác ích. Ngộ chứng Nhất
Thể Tam Bảo, thị nhập lý ích dã. Sơ biệt
minh cánh.
(經) 舍利弗。彼佛國土。微風吹動。諸寶行樹。及寶羅網。出微妙音。譬如百千種樂。同時俱作。聞是音者。自然皆生。念佛。念法。念僧之心。
(解) 情與無情。同宣妙法。四教道品。無量法門。同時演說。隨類各解。能令聞者。念三寶也。念三寶。是從悉檀獲益。凡夫創聞。大踴遍身。是歡喜益。與三寶氣分交接。必能發菩提心。是生善益。由此伏滅煩惱。是破惡益。悟證一體三寶。是入理益也。初別明竟。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật, gió nhẹ
thổi động các hàng cây báu và mành lưới báu, phát
ra âm thanh vi diệu, ví như trăm ngàn loại nhạc
cùng lúc tấu lên. Kẻ nghe âm thanh ấy tự nhiên đều
sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Giải: Hữu tình và vô tình cùng tuyên diệu pháp, [diệu
pháp ấy chính là ba mươi bảy] đạo phẩm của
tứ giáo [Tạng, Thông, Biệt, Viên], vô lượng pháp
môn, cùng lúc diễn nói, tùy theo từng loài, loài nào cũng hiểu,
khiến cho người nghe niệm Tam Bảo. Niệm Tam
Bảo là do [bốn môn] Tất Đàn mà được lợi
ích. Phàm phu vừa nghe những pháp ấy, khắp thân rúng động,
là lợi ích hoan hỷ. Được tiếp xúc với
khí phận[13]
Tam Bảo, ắt có thể phát Bồ Đề tâm, là lợi
ích “sanh ra điều lành”. Do vậy, chế phục, diệt
trừ phiền não, đấy là lợi ích “phá ác”. Ngộ
chứng Nhất Thể Tam Bảo là lợi ích “nhập Lý”.
Phần giảng riêng thứ nhất [tức phần giảng
về sự trang nghiêm nơi y báo] đã xong).
Nội dung của đoạn kinh
văn này nói về hàng cây diễn nói pháp [trong cõi Cực Lạc].
Những con chim nói trong phần trước là loài hữu
tình, trong đoạn này nói về loài vô tình. Trong Cực Lạc
thế giới, hiện tượng này hết sức rõ rệt.
Người nào cũng dễ dàng đạt được
lợi ích do nghe pháp. Thật ra, sáu trần thuyết pháp thì
thế giới Sa Bà cũng chẳng nằm ngoài lệ ấy,
nhưng do hết thảy đại chúng căn tánh bế
tắc, nhìn mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe. Nếu
là người căn tánh lanh lợi thì có thể cảm nhận
được. Như trong lịch sử, truyện ký đã
chép, ông Tô Đông Pha ở Lô Sơn nghe tiếng nước
chảy, làm thơ có câu rằng: “Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt,
sơn sắc vô phi thanh tịnh thân” (Sắc núi khác gì thân
thanh tịnh, tiếng suối chính là lưỡi rộng dài).
Nghe khá có thiền vị. Từ các thứ âm thanh, hình sắc
trong tự nhiên, người thông minh có thể khai ngộ;
trong nhà Thiền có những người khai ngộ như vậy.
Trong Tây Phương thế giới, những âm thanh phát ra từ
hữu tình hay vô tình chúng sanh đều là giảng kinh, thuyết
pháp, thậm chí trong tâm chúng ta có nghi hoặc thì loài vô tình chúng
sanh cũng có thể giải đáp cho chúng ta, lại còn đều
là thuyết pháp thuần chánh, không sai lạc.
“Tình
dữ vô tình, đồng tuyên diệu pháp” (Tình và vô tình cùng
tuyên pháp nhiệm mầu), Tình là động vật, Vô Tình là
khoáng vật và thực vật. Tất cả hết thảy
vạn vật đều có Tánh, hữu tình chúng sanh có Phật
Tánh, còn vô tình chúng sanh có Pháp Tánh. Phật Tánh và Pháp Tánh là một.
Vì là cùng một tánh nên hữu tình chúng sanh có thể thành Phật,
mà vô tình chúng sanh cũng có thể thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm dạy:
“Tình và vô tình, cùng viên thành Chủng
Trí”. Trừ Đại Thừa Phật pháp ra, [trong các giáo
pháp khác] chưa từng nghe nói điều này. Trong kinh, đức
Phật nói, hữu tình chúng sanh thành Phật, vô tình chúng sanh cũng
liên đới thành Phật. Nhà Thiền nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật”. Khi mê thì thấy là sắc tướng, khi
đã giác ngộ thì từ Tướng có thể thấy được
Tánh. “Tình và vô tình, cùng tuyên pháp
nhiệm mầu”. Pháp vốn là như vậy nên gọi
là “diệu”, khiến cho hết
thảy chúng sanh hễ tiếp xúc liền có thể minh tâm
kiến tánh thì mới gọi là “diệu”.
Nội dung của diệu pháp [được tuyên nói bởi
hữu tình và vô tình chúng sanh] là “tứ
giáo đạo phẩm”. Tứ Giáo là Tạng, Thông, Biệt,
Viên; “đạo phẩm” là
ba mươi bảy đạo phẩm, là tổng cương
lãnh của hết thảy Phật pháp. Đạo phẩm
là lý luận thuộc về Giải, còn pháp môn là
phương pháp, thuộc về Hạnh. Cổ nhân chia [nội
dung của Phật pháp] thành bốn loại lớn là Giáo, Lý,
Hạnh, Quả. Diễn và nói cùng một lúc thì cũng là biểu
diễn, nêu gương cho chúng ta thấy.
“Tùy loại các giải”, có người muốn
nghe Hoa Nghiêm, có người muốn nghe Pháp Hoa, mỗi người
đều được nghe pháp xứng với ý nguyện,
đây thật là mầu nhiệm chẳng thể nói được.
Tại Tây Phương thế giới, trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ, vô lượng kinh, luận,
pháp môn đều được loài hữu tình và vô tình tuyên
giảng cho hành giả, không chỉ tuyên giảng mà còn biểu
diễn. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham
học năm mươi ba lượt chính là biểu diễn.
Năm mươi ba vị thiện tri thức hằng ngày
xử thế, đãi người, tiếp vật, đem
những lý luận, cảnh giới trong kinh điển biến
thành hành vi sinh hoạt của chính mình. Đủ thấy
kinh chẳng ở trong sách vở mà nằm trong cuộc sống
của chúng ta. Phải biến lý luận, giáo huấn, cảnh
giới trong kinh thành hành vi sinh hoạt của chính mình. Do vậy,
Phật pháp coi trọng Hạnh và Quả, Quả là sự
hưởng thụ. Ngày nay nói đến sự tu học của
mỗi cá nhân, gia đình mỹ mãn, xã hội hài hòa, quốc
gia giàu mạnh, thế giới hòa bình đều thuộc về
Quả. Nếu tu học chẳng đạt kết quả
thì sẽ biến thành huyễn học (học tập hư
huyễn). Phật pháp giúp cho con người lý giải chánh
xác chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, đối
với hết thảy vạn pháp quyết định chẳng
mê, ban cho nhân loại sự hưởng thụ tối cao.
“Năng
linh văn giả, niệm Tam Bảo dã” (Có thể làm cho
người nghe niệm Tam Bảo): Chữ Niệm (念) này chính là “kim tâm” (今心: cái tâm hiện tại), ngụ ý cái tâm hiện tại
là “giác, chánh, tịnh”. Chân tâm
bổn tánh toàn thể hiển lộ thì gọi là Quả Đức.
Trong kinh thường nói người học Phật thì điều
thứ nhất là phải hiểu rõ nhân duyên, quả báo. Người
ta chỉ mong đạt được quả báo tốt mà
chẳng tu nhân, làm sao đạt được? Phú quý là quả
báo, nhân và duyên của nó đều là bố thí. Trong đời
quá khứ, hành bố thí là nhân, đời này có của cải,
tiếp tục hành bố thí là duyên. Vì thế, đời
sau ắt được phú quý. Đối với tình huống
của việc làm ác thì cứ theo đó mà suy. Trong cửa
nhà Phật, hễ cầu ắt ứng. A Di Đà Phật sáng
tạo Tây Phương Cực Lạc thế giới, phàm
ai sanh về Tây Phương thì hết thảy thụ dụng
tự nhiên đầy đủ, đấy là Tài Bố Thí.
Tây Phương là thế giới bình đẳng, sáu trần
thuyết pháp cũng là bình đẳng phổ biến, đấy
là Pháp Bố Thí. A Di Đà Phật tiếp dẫn hết thảy
chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế
giới vãng sanh, giúp họ phá mê khai ngộ, lìa khổ được
vui, đấy là Vô Úy Bố Thí. Do Tài, Pháp, Vô Úy ba thứ bố
thí đều viên mãn bày ra trước mặt chúng ta khiến
cho người ta phải khoa chân múa tay. Chưa đến Tây
Phương, chưa nghe nói qua, đến rồi ắt sẽ
đích thân tự thấy.
“Dữ Tam Bảo khí phận
giao tiếp” (tiếp xúc với khí phận của Tam Bảo),
[chữ Tam Bảo] ở đây chỉ cho Tự Tánh Tam Bảo,
tức “giác, chánh, tịnh”, trong tâm giác ngộ, chánh tri, chánh
kiến trong mỗi niệm. Nói theo cách bây giờ là tư tưởng,
kiến giải thuần chánh, hoàn toàn tương ứng với
sự thật, thân tâm thanh tịnh. Thời khắc ấy
chính là Bồ Đề tâm, mà cũng là giác chứ không mê.
Giác cũng có mức độ khác nhau, mức giác ngộ lớn
nhất là thật sự thấy rõ ràng thế giới này. Đức
Phật nói thế giới này khổ, không, vô thường.
Nếu chẳng giác ngộ, đời đời kiếp
kiếp nhất định chịu khổ, lại còn càng
lúc càng tệ hơn. Người giác ngộ khác hẳn người
chưa giác ngộ. Kẻ chưa giác ngộ mê nơi cảnh
giới, luân hồi trong sanh tử. Người giác ngộ
tu đạo, thoát lìa con đường “khổ, không, vô thường”. Các học thuyết,
khoa học, kỹ thuật, tôn giáo trên thế giới đều
nhằm tìm ra con đường này. Nếu họ đã có
thể giải quyết vấn đề thì Thích Ca Mâu Ni Phật
chẳng cần phải đa sự đến thế gian
này! Do người đời không tìm được con đường
thoát khổ nên Phật Thích Ca mới giáng thế. Chúng ta cần
phải tỉnh ngộ, nhận biết đời người
rốt cuộc rỗng tuếch, sanh tử luân hồi chẳng
ngừng nghỉ. Người giác ngộ lo toan cho cuộc đời
mai sau. Đức Phật nói rất nhiều kinh luận Đại
Thừa đều nhằm giúp chúng ta giải quyết vấn
đề này; nhưng lý luận và phương pháp trong các
kinh luận khó, dễ khác nhau. Từ vô thỉ kiếp đến
nay, tập khí, căn tánh, hoàn cảnh sống, bối cảnh
thời đại của chúng ta khác nhau. Vì thế, phương
pháp tu hành chẳng thích hợp cá tánh của chúng ta thì đời
này nhất định bị luống uổng, chỉ có một
biện pháp là niệm Phật. Từ xưa nay, rất nhiều
vị cao tăng, đại đức nghiên cứu, tu học
kinh giáo Đại Thừa trong một thời gian rất dài,
đến cuối cùng quay về pháp môn Niệm Phật này,
bỏ hết những pháp môn khác, gần như không có một
vị nào chẳng thành tựu.
“Do thử phục diệt
phiền não, thị phá ác ích” (do vậy, chế phục,
diệt trừ phiền não, là lợi ích “phá ác”). “Phục” (chế phục, khuất
phục) là công phu đầu tiên. Phiền não tuy có, nhưng
chẳng khởi tác dụng. “Sự nhất tâm” là chế
phục phiền não, “Lý nhất tâm” là diệt phiền não.
Sự nhất tâm bất loạn thì vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng
Cư và cõi Phương Tiện Hữu Dư. Lý nhất tâm
là sanh về cõi Thật Báo Trang Nghiêm và cõi Thường Tịch
Quang. Tuy chia ra giai đoạn như vậy, nhưng bốn
cõi của Tây Phương được xếp thành hàng
ngang, chẳng bị chướng ngại, hễ sanh về
một cõi sẽ sanh về hết thảy cõi. Đấy
chính là cảnh giới đặc biệt thù thắng nhất
của Tịnh Độ. Niệm Phật cố nhiên là công
phu trực tiếp, nhưng trong phương diện hành trì
thường ngày, trong mỗi niệm đều mong giúp đỡ
chúng sanh. Những gì thuộc vào khả năng của ta thì
hãy tận hết sức thực hiện. Thấy chúng sanh trong
thế giới này cần gì, chúng ta tận tâm tận lực
góp sức một tay.
Nước Anh có một nhà sử học kiêm triết
gia tên là Thang Ân Tỷ (Arnold Joseph
Toynbee)
có lần mở hội nghị quốc tế tại Âu Châu
vào hai mươi hay ba mươi năm trước, nhằm
diễn giảng học thuật. Ông ta nói thẳng thừng:
“Trong tương lai, nếu muốn
thế giới thật sự đạt đến hòa bình
thì chỉ có học thuyết Nho gia của Trung Quốc và
Đại Thừa Phật pháp mới có thể đảm
nhận trách nhiệm ấy”. Mấy câu nói này khiến lòng
người rúng động. Khi ấy, chủ giáo Vu Bân[14]
cũng tham dự hội nghị, ông ta trở về Đài
Loan đề xướng cúng tế tổ tiên là do chịu
ảnh hưởng từ bài diễn thuyết của Thang
Ân Tỷ. Vị Giáo Hoàng tiền nhiệm của Thiên Chúa Giáo
vào lúc tuổi già cũng thường đặc biệt ra
lệnh cho các giáo khu phải tăng cường quan hệ
với Phật giáo, nghiên cứu kinh điển Phật giáo.
Chủ Giáo Vu Bân sáng lập Sở Nghiên Cứu Đời Sống
Tinh Thần Châu Á tại Đài Loan, do Giám Mục Đoàn Á
Châu chủ trì, đặt tại tu viện Đa Mã Tư
(Thomas) ở phía sau đại học Phụ Nhân. Nhiều
năm trước, họ có mời tôi đến giảng
về đời sống tinh thần Phật giáo. Tôi cùng các linh mục, nữ tu (soeur, sister) rất
thuận thảo.
“Ngộ chứng Nhất Thể
Tam Bảo, thị nhập lý ích dã” (Ngộ chứng Nhất
Thể Tam Bảo là lợi ích “nhập Lý”). “Ngộ chứng Nhất Thể Tam Bảo” là thành
Phật. Đây chính là mục tiêu cuối cùng, điều này
cần phải thật sự ngộ nhập pháp giới là
một Thể, trong Phật môn gọi là “thành Phật”, tức
là thành tựu trí huệ viên mãn, không thiếu khuyết mảy
may nào!
(Kinh) Xá Lợi Phất! Kỳ Phật
quốc độ, thành tựu như thị công đức
trang nghiêm.
(Giải) Trùng trùng kết thị, linh thâm tín nhất
thiết trang nghiêm, giai đạo sư nguyện hạnh sở
thành, Chủng Trí sở hiện, giai ngô nhân tịnh nghiệp
sở cảm. Duy Thức sở biến, Phật tâm, sanh
tâm, hỗ vi ảnh chất. Như chúng đăng minh, các
biến tự nhất. Toàn Lý thành Sự, toàn Sự tức
Lý, toàn Tánh khởi Tu, toàn Tu tại Tánh, diệc khả thâm
trường tư hỹ.
(經) 舍利弗。其佛國土。成就如是功德莊嚴。
(解) 重重結示。令深信一切莊嚴。皆導師願行所成。種智所現。皆吾人淨業所感。唯識所變。佛心。生心。互為影質。如眾燈明。各遍似一。全理成事。全事即理。全性起修。全修在性。亦可深長思矣。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy
thành tựu công đức trang nghiêm như thế đó.
Giải: Nhiều phen kết lại lời dạy,
nhằm làm cho [người nghe kinh] tin tưởng sâu xa rằng
hết thảy các sự trang nghiêm đều là do nguyện
hạnh của đấng Đạo Sư tạo thành, do
Chủng Trí hiện ra, đều là do tịnh nghiệp của
chúng ta chiêu cảm. Chỉ do Thức biến, tâm Phật
và tâm chúng sanh làm bản chất và hình bóng cho nhau. Như ánh sáng của các ngọn đèn, ánh sáng của
mỗi ngọn đều trọn khắp giống như chỉ
có một ngọn đèn. Toàn thể Lý biến thành Sự,
toàn thể Sự tức là Lý, dùng toàn thể Tánh để
tu tập, hoàn toàn tu hành nơi Tánh, cũng nên suy nghĩ sâu
xa điều này vậy).
Trong nhà Phật, danh xưng “đạo sư” (bậc thầy chỉ đường)
nhằm tôn xưng đức Phật, còn gọi là Bổn
Sư; ở đây, [chữ “đạo
sư”] chỉ A Di Đà Phật. Hết thảy sự
trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc là do đại
nguyện đại hạnh của A Di Đà Phật thành
tựu. “Chủng Trí sở hiện”:
Nói rõ nguyên do có thành tựu vĩ đại như vậy
chính là do [Nhất Thiết] Chủng Trí hiện ra. Phật
pháp nói có ba loại trí: Thứ nhất là Nhất Thiết
Trí, thứ hai là Đạo Chủng Trí, thứ ba là Nhất
Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Trí là biết bản
thể của vạn pháp trong vũ trụ, Thể là không,
Tướng là có. Chữ Chủng trong Đạo Chủng
Trí có nghĩa là “các thứ” hiện tượng vô lượng
vô biên, Đạo là đạo lý. Vạn hữu trong vũ
trụ, sâm la vạn tượng, phát sanh theo đạo lý
nào, quá trình phát triển của chúng như thế nào, hoàn
toàn hiểu rõ chánh xác những sự ấy thì là Đạo
Chủng Trí. Đạo Chủng Trí là biết Hữu. Loại
thứ ba viên mãn nhất là Nhất Thiết Chủng Trí. Hai
loại trí trước đó mà đạt đến rốt
ráo viên mãn thì gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Như
vậy, hết thảy sự trang nghiêm ấy chính là do trí
huệ rốt ráo viên mãn nơi quả địa Như Lai
tạo thành, mà cũng là do Nhất Thiết Chủng Trí của
A Di Đà Phật hiện ra.
“Giai ngô nhân tịnh nghiệp sở cảm, duy thức sở
biến” (đều do tịnh nghiệp của chúng ta
chiêu cảm, chỉ là do thức biến): Thế giới Cực
Lạc do A Di Đà Phật tạo ra, sau khi chúng ta đến
đó cũng sẽ tăng thêm một phần rực rỡ
cho A Di Đà Phật, vì tâm tánh của chúng ta và tâm tánh của
A Di Đà Phật là một chứ không phải hai. Vì thế
gọi là “tự tánh Di Đà,
duy tâm Tịnh Độ”. A Di Đà Phật đã hết
phiền não, trí huệ trọn đủ; tuy chúng ta là phàm
phu, nhưng ngày nay tu bằng cái tâm thanh tịnh, hễ tâm tịnh
thì cõi nước tịnh. Do vậy, “giác, chánh, tịnh” là
ba cửa ngõ trong Phật giáo. Thiền Tông do cửa Giác mà vào,
ắt phải đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh thì mới được kể là có thành tựu.
Các tông phái ngoài Thiền Tông được gọi là Giáo Hạ,
từ chánh tri chánh kiến mà tu tập, nương theo lý luận
và phương pháp trong kinh luận để sửa đổi
cách nhìn và cách nghĩ sai lầm của chính mình đối với
vũ trụ, nhân sinh. Giáo Hạ do cửa Chánh mà vào. Tịnh
Tông và Mật Tông là dùng tâm thanh tịnh để tu tập,
do cửa Tịnh mà vào. Đấy chính là một nhưng mà
ba, tuy ba mà một. Hễ đạt được một
thứ thì hai thứ kia cũng đều đạt được.
Người tu Tịnh Độ chú trọng tâm thanh tịnh
nên sự tu tập của họ được gọi là
“tịnh nghiệp”. Tịnh Tông chỉ có một câu Phật
hiệu, ngoài câu ấy ra, không có gì cả. Kế đến
là Trợ Duyên, niệm niệm tuyệt đối chẳng
nghĩ đến chính mình. Trên thực tế, không có chính mình,
hết thảy vô thường. Không chỉ vật ngoài thân
chẳng có được thứ gì, mà ngay cả thân thể
của chính mình cũng chẳng thể được. Do vậy,
khởi tâm động niệm, hết thảy hành vi đều
vì đại chúng, dùng hết thảy năng lực giúp đỡ
đại chúng lìa khổ được vui. Nếu vì chính
mình, ắt sẽ có được, mất, thành, bại; hễ
có lòng mong muốn, ắt có phiền não. Làm như vậy, tuy
chẳng thể vĩ đại bằng A Di Đà Phật,
nhưng nguyện hạnh của chúng ta là vì hết thảy
chúng sanh, khí phận tương tự như A Di Đà Phật,
quả thật là do Tịnh nghiệp cảm thành. Đương
nhiên, Tây Phương thế giới được tạo
thành bởi các nguyện của A Di Đà Phật, do Chủng
Trí hiện, nhưng cũng có
quan hệ mật thiết với chúng ta. A Di Đà Phật
là do Chủng Trí hiện, còn chúng ta là do Thức biến. Khi
mê thì gọi là Thức, hễ ngộ thì Thức biến thành
Trí.
“Phật tâm, sanh tâm, hỗ
vi ảnh chất” (Tâm Phật và tâm chúng sanh làm bản chất và
hình bóng cho nhau): Điều này được gọi là “cảm
ứng đạo giao”. Phật tâm là Trí viên mãn. Tuy tâm chúng
ta là Thức, nhưng đã bắt đầu giác ngộ,
chứ không hoàn toàn là Thức.
Lại còn hoan hỷ tiếp nhận pháp môn Niệm Phật,
tuy chưa hoàn toàn biến thành Trí. Trí của Phật là bản
chất, còn Trí của chúng ta còn kèm theo Thức thì là “ảnh”
(bóng dáng), giống như bóng dáng của ngọn đèn. Ví
như nhiều ngọn đèn thắp trong cùng một căn
phòng, chiếu sáng lẫn nhau. Quang minh của A Di Đà Phật
chiếu khắp pháp giới, một tí ánh sáng như đom
đóm của chúng ta cũng chiếu khắp pháp giới.
“Toàn thể Lý biến thành Sự,
toàn thể Sự tức là Lý”: Y báo và chánh báo trang nghiêm trong
Tây Phương thế giới là Sự. Sự nhất
định phải có Lý, Lý là tâm tánh, chỉ do Tâm biến,
chỉ do Thức hiện. “Chủng
Trí sở hiện” (do Chủng Trí hiện): Chủng Trí là
chân tâm bổn tánh, chứng đắc viên mãn chân tâm bổn
tánh thì là Chủng Trí, đó là Lý. “Toàn thể Lý biến thành Sự”: Biến thành y báo,
chánh báo trang nghiêm, sáu trần thuyết pháp trong Tây
Phương thế giới. “Toàn
thể Sự tức là Lý”, thay đổi chữ thì Lý là
Tánh, Sự là Tướng. Toàn thể Tánh chính là Tướng,
toàn thể Tướng chính là Tánh, Tánh và Tướng không
hai, Lý và Sự giống hệt nhau. Đây chính là điều
được hiện bởi Nhất Thiết Chủng Trí.
“Toàn thể Tánh khởi Tu, hoàn toàn Tu nơi Tánh”: Hiện thời Chánh Trợ Song Tu chính
là dựa trên lý luận trong hai câu nói này, dùng phương pháp
Niệm Phật để tu “giác, chánh, tịnh”, lấy tịnh
làm chủ. Một nhưng ba, ba nhưng một. Dùng tâm thanh
tịnh, tâm chân thành giúp đỡ hết thảy chúng sanh,
xử thế, đãi người, tiếp vật chân thành,
cung kính là Trợ Tu. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến
tối niệm Phật, xử thế, đãi người,
tiếp vật đều là Tánh Đức lưu lộ ra
bên ngoài. Cuối cùng, Tổ bảo
chúng hãy suy nghĩ sâu xa, cặn kẽ [những điều
Ngài vừa giảng].
(Giải)
Nại hà, ly thử Tịnh Độ, biệt đàm duy
tâm Tịnh Độ, cam đọa thử tức điểu
không chi tiếu dã tai. Sơ y báo diệu cánh.
(解) 奈何。離此淨土。別譚唯心淨土。甘墮鼠即鳥空之誚也哉。初依報妙竟。
(Giải: Hiềm rằng,
lìa khỏi cõi Tịnh Độ này thì đừng bàn đến
“duy tâm Tịnh Độ” nữa, cam lòng bị chê cười
là “thử tức, điểu không”[15] vậy thay! Phần thứ nhất [trong Chánh Tông Phần]
giảng về sự mầu nhiệm nơi y báo đến
đây là hết).
Đây chính
là lời đại sư cảm thán. Trong nhà Phật có những
kẻ chẳng biết chân tướng sự thật. Đối
với “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” hoàn toàn
chẳng mười phần minh bạch, chỉ hiểu biết
nửa vời, ham cao chuộng xa, ném niệm Phật cầu
sanh Tây Phương qua một bên, chẳng chịu sốt sắng
tu học mà chỉ bàn xuông “duy tâm Tịnh Độ”, cam
lòng đọa lạc. Câu ví “giống như chuột rúc”, tỷ
dụ chẳng biết Diệu Hữu; chim kêu trên không, tỷ
dụ chẳng biết diệu lý Chân Không, đều là hạng
chẳng thấu hiểu sát sao thực tế. Chữ Tiếu
(誚) đọc giống như âm Khiếu (竅)[16], có nghĩa là chê cười.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật
hà cố, hiệu A Di Đà?
(Giải)
Thử kinh đích thị trì danh diệu hạnh, cố
đặc trưng thích danh hiệu, dục nhân thâm tín, vạn
đức hồng danh bất khả tư nghị, nhất
tâm chấp trì, vô phục nghi nhị dã. A Di Đà, chánh phiên “vô
lượng”, bổn bất khả thuyết. Bổn
Sư dĩ Quang, Thọ nhị nghĩa, thâu tận nhất
thiết vô lượng. Quang tắc hoành biến thập
phương, Thọ tắc thụ cùng tam tế. Hoành thụ
giao triệt, tức Pháp Giới Thể. Cử thử Thể
tác Di Đà thân độ, diệc tức cử thử Thể
tác Di Đà danh hiệu. Thị cố, Di Đà danh hiệu,
tức chúng sanh bổn giác lý tánh. Trì danh, tức Thỉ Giác
hợp Bổn. Thỉ Bổn bất nhị, sanh Phật bất
nhị. Cố nhất niệm tương ứng nhất
niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật dã.
(經) 舍利弗。於汝意云何。彼佛何故。號阿彌陀。
(解) 此
經的示持名妙行。故特徵釋名號。欲人深信。萬德洪名。不可思議。一心執持。無復疑貳也。阿彌陀。正翻無量。本不可說。本師以光壽二義。收盡一切無量。光則
橫遍十方。壽則豎窮三際。橫豎交徹。即法界體。舉此體作彌陀身土。亦即舉此體作彌陀名號。是故彌陀名號。即眾生本覺理性。持名。即始覺合本。始本不二。生
佛不二。故一念相應一念佛。念念相應念念佛也。
(Chánh
kinh: Này Xá Lợi Phất!
Ý ông nghĩ sao? Vì sao đức Phật ấy hiệu là A
Di Đà?
Giải:
Đây là kinh nêu bày đích xác diệu hạnh trì danh, nên
đặc biệt gạn hỏi và giải thích danh hiệu,
muốn cho người ta tin tưởng sâu xa vào vạn
đức hồng danh chẳng thể nghĩ bàn, một
lòng chấp trì không còn nghi ngờ. A Di Đà Phật, dịch
đúng nghĩa là “vô lượng”, vốn chẳng thể
nói được. Bổn Sư [Thích Ca Mâu Ni Phật] dùng
hai nghĩa Quang và Thọ để gồm thâu trọn hết thảy
những điều vô lượng. Quang theo chiều ngang
trọn khắp mười phương, Thọ theo chiều
dọc cùng tột ba đời. Ngang dọc đan xen vào
nhau thấu suốt cùng tận, đấy chính là Thể của
pháp giới. Nêu ra cái Thể này để làm thân và cõi nước
của A Di Đà Phật, mà cũng là nêu ra cái Thể nhằm
tạo nên danh hiệu A Di Đà. Vì vậy, danh hiệu Di
Đà chính là Bổn Giác lý tánh của chúng sanh. Trì danh chính là
Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác và Bổn
Giác chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế, một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật).
Trong kinh này, đức Phật đặc biệt
chỉ dạy diệu hạnh trì danh cho chúng sanh, nên nêu ra
[câu hỏi] danh hiệu A Di Đà Phật rốt ráo mầu
nhiệm ở chỗ nào?
1) Thứ nhất, chỉ cần niệm một
câu Phật hiệu, hết sức đơn
giản. Tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng có pháp nào
dễ dàng như vậy. Một câu Phật hiệu có thể
làm cho con người vượt thoát tam giới, liễu sanh
tử, ra khỏi luân hồi theo chiều ngang, giải quyết
xong chuyện sanh tử, thoát luân hồi.
2) Thứ hai, kinh này và kinh Vô Lượng Thọ
đều nói: Lâm chung mười niệm hay một niệm
đều được vãng sanh. Đấy chính là chỗ
kỳ diệu hết sức thù thắng.
3) Thứ ba, chỉ cần vãng sanh thì liền
viên chứng ba thứ Bất Thoái. Nếu chỉ nói đến
ba thứ Bất Thoái thì chính là bậc Bồ Tát Sơ Trụ
trong Viên Giáo hoặc bậc Sơ Địa Bồ Tát trong
Biệt Giáo. Chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái thì
nếu không là Đẳng Giác Bồ Tát thì cũng phải là
Pháp Vân Địa Bồ Tát (Thập Địa Bồ Tát trong
Viên Giáo). Người tu hành thông thường để đạt
đến địa vị này, nếu tính từ lúc chứng
được Sơ Quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa
thì phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới
có thể viên chứng ba thứ Bất Thoái. Điều này
(tức hành nhân đới nghiệp vãng sanh Tịnh Độ
liền viên chứng ba thứ Bất Thoái) thật khó tin. Nếu
hỏi vì sao chỉ niệm Phật mấy tiếng lại
có thể viên chứng ba thứ Bất Thoái? Câu trả lời
là: Do danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ
bàn! [Đức Phật gạn hỏi rồi giải thích ý
nghĩa danh hiệu A Di Đà Phật] là muốn làm cho con người
tin tưởng sâu vạn đức hồng danh chẳng
thể nghĩ bàn rồi nhất tâm chấp trì, không còn nghi
ngờ nữa. Trong một đời này, chúng ta may mắn
gặp được pháp môn này, nhưng có được
vãng sanh hay không, mấu chốt là có thể nghiêm túc tuân thủ
lời răn dạy “nhất tâm trì danh, không còn nghi ngờ”
hay không. Nếu làm được như vậy thì không một ai chẳng vãng sanh!
A Di Đà (Amitābha) là tiếng
Phạn, dịch nghĩa chánh yếu là Vô Lượng. A dịch
là Vô, Di Đà (Mitā) dịch là Lượng. Vô lượng vốn
chẳng thể nói được. Phật Thích Ca dùng hai
nghĩa Quang và Thọ để thâu tóm trọn hết thảy
vô lượng. Đức Phật chỉ nói hai thứ: “Quang
thì theo chiều ngang trọn khắp mười
phương, Thọ thì chiều dọc tột cùng ba đời”.
Điều này giống như hiện thời ta nói là “không
gian và thời gian”, nhưng hai chữ Quang và Thọ hay
hơn chữ thời gian và không gian, nhất là chữ Thọ.
Trong hết thảy vô lượng, Thọ là bậc nhất.
Nếu có vô lượng của cải, tài sản, nhưng
không có thọ mạng thì của cải, tài sản cũng
thành vô ích. Toàn thể vũ trụ chính là Pháp Giới Thể,
hai chữ Quang và Thọ đủ để đại diện
[cho toàn thể vũ trụ]. Từ đây, ta có thể thấu hiểu sự vĩ đại
của Tây Phương Cực Lạc thế giới: Thân và
cõi chẳng hai, Sắc và Tâm giống hệt như một.
A Di Đà nương vào toàn thể pháp giới mà khởi. Niệm một câu A Di Đà Phật
chính là niệm toàn thể pháp giới. Có những đồng
tu hỏi tôi: “Trước nay, con từng niệm chú Đại
Bi, Tâm Kinh, phẩm Phổ Môn, và mười chú nhỏ[17]. Nếu
bây giờ chuyên niệm thánh hiệu A Di Đà Phật, há các
vị Bồ Tát khác chẳng trách tội ư?” Thứ tâm
thái này chính là xem chư Bồ Tát như phàm phu, quả thật
đại bất kính! Hiện thời chúng ta hiểu rõ, một
câu Phật hiệu vốn không gì chẳng bao gồm. Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Tình và vô tình, cùng viên mãn Chủng Trí”. Chúng sanh
và Phật có cùng một Lý Tánh, Lý là Lý Thể, Tánh là Chân Như
bổn tánh. Lý Thể chính là toàn thể pháp giới mà cũng
là A Di Đà Phật, cũng là chư Phật Như Lai, cũng
là hết thảy chúng sanh, cũng là chính bản thân ta. Sự
thật đúng thực, niệm một câu Phật hiệu
cũng chính là niệm Chân Như bổn tánh của chính
mình. Bất luận kinh chú nào cũng đều nằm
trong một câu Phật hiệu.
“Trì danh, tức
Thỉ Giác hợp Bổn” (Trì danh chính là Thỉ Giác hợp
với Bổn Giác): Khởi lên một niệm, niệm A Di
Đà Phật chính là Thỉ Giác. Một câu danh hiệu A Di
Đà Phật chính là Bổn Giác. Bổn Giác chính là Chân Như
bổn tánh. Thỉ Giác hợp với Bổn Giác chính là chân
thật tu hành.
“Thỉ Bổn
bất nhị, sanh Phật bất nhị, cố nhất
niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm
niệm tương ứng niệm niệm Phật” (Thỉ
Giác và Bổn Giác chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng
hai, nên một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật).
“Tương ứng” là tương ứng với Lý, tương
ứng với sự thật, tương ứng với toàn
thể pháp giới. Đức hiệu của toàn thể pháp
giới là A Di Đà Phật, niệm niệm lay tỉnh chính
mình “hãy hợp làm một với pháp giới, hợp làm một
với hết thảy chư Phật Như Lai, hợp làm
một với hết thảy chúng sanh”. Đấy là tương
ứng.
Trong đoạn trước,
có nói tới “khí phận”, chẳng hạn như A Di
Đà Phật từ bi, tâm địa của chúng ta cũng
từ bi, liền tương ứng với khí phận từ
bi của A Di Đà Phật. Hôm nay, qua đoạn kinh
văn này, ta thật sự hiểu rõ, quý vị tương
ứng với khí phận của A Di Đà Phật. Do Thỉ
Giác và Bổn Giác chẳng hai, Tánh và Tướng như một,
chúng sanh và Phật chẳng hai, Lý và Sự như một, nên
khi niệm Phật, thấu hiểu, khế nhập cảnh
giới này thì gọi là “đã đạt được khí
phận của Phật”. Nếu hiểu rõ Lý thì nghi hoặc
sẽ đoạn, đấy là chân tín, so với chánh tín lại
cao hơn một tầng. Đấy là khế nhập khí
phận của Phật.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quang minh vô
lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở
chướng ngại. Thị cố
hiệu vi A Di Đà Phật.
(經) 舍利弗。彼佛光明無量。照十方國。無所障礙。是故號為阿彌陀。
(Chánh kinh: Này
Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô
lượng, chiếu mười phương cõi nước
không bị chướng ngại. Do vậy, Ngài có hiệu
là A Di Đà Phật).
Hai đoạn kinh
văn tiếp theo là từ trong hết thảy vô lượng,
nêu ra hai món cương lãnh, một là Quang, hai là Thọ.
Quang minh là trí huệ, mà cũng là vô lượng trí huệ
vốn có sẵn trong tự tánh. Đức Phật tiêu trừ
sạch sành sanh hết thảy nghiệp chướng, cho nên
tánh đức tỏ lộ viên mãn. Trên mặt Tướng,
chính là quang minh chiếu khắp tột hư không, trọn
pháp giới, không đâu chẳng chiếu tới. Quang minh ấy
có công năng gia trì nhiếp thọ, có thể giúp chúng ta trừ
sạch nghiệp chướng, khơi mở trí huệ; nhưng
chúng ta phải có Thỉ Giác thì mới được Phật
gia trì. Nếu chẳng tương ứng trọn vẹn,
dù Phật quang chiếu khắp, nhưng vì ta có chướng
ngại, cự tuyệt, chê trách, nên chúng ta chẳng thể
hưởng công năng gia trì của Phật. Nhất tâm xưng
niệm, nghiệp chướng nhất định ngày một
tiêu trừ, trí huệ ngày một tăng trưởng, tâm địa
thanh tịnh. Đấy là một dạng tương ứng
vậy.
(Giải) Tâm tánh tịch nhi thường chiếu, cố
vi quang minh. Kim triệt chứng tâm tánh vô lượng chi Thể,
cố quang minh vô lượng dã. Chư Phật giai triệt
tánh thể, giai chiếu thập phương, giai khả
danh Vô Lượng Quang, nhi nhân trung nguyện lực bất
đồng, tùy nhân duyên lập biệt danh. Di Đà vi Pháp Tạng
tỳ-kheo, phát tứ thập bát nguyện, hữu “quang minh
hằng chiếu thập phương” chi nguyện. Kim quả
thành như nguyện dã. Pháp Thân quang minh vô phân tế. Báo Thân
quang minh xứng chân tánh. Thử tắc Phật Phật
đạo đồng. Ứng Thân quang minh hữu chiếu
nhất do-tuần giả, thập, bách, thiên do-tuần giả,
nhất thế giới, thập, bách, thiên thế giới
giả. Duy A Di phổ chiếu, cố biệt danh Vô Lượng
Quang. Nhiên tam thân bất nhất bất dị, vị linh
chúng sanh đắc tứ ích, cố tác thử phân biệt
nhĩ. Đương tri vô chướng ngại, ước
nhân dân ngôn. Do chúng sanh dữ Phật duyên thâm, cố Phật
quang đáo xứ. Nhất thiết thế gian, vô bất
viên kiến dã.
(解) 心性寂而常照。故為光明。今徹證心性
無量之體。故光明無量也。諸佛皆徹性體。皆照十方。皆可名無量光。而因中願力不同。隨因緣立別名。彌陀為法藏比丘。發四十八願。有光明恆照十方之願。今果
成如願也。法身光明無分際。報身光明稱真性。此則佛佛道同。應身光明。有照一由旬者。十百千由旬者。一世界。十百千世界者。唯阿彌普照。故別名無量光。然
三身不一不異。為令眾生得四益。故作此分別耳。當知無障礙。約人民言。由眾生與佛緣深。故佛光到處。一切世間。無不圓見也。
(Giải: Tâm tánh tịch
mà thường chiếu nên gọi là quang minh. Nay chứng
thấu triệt cái Thể vô lượng của tâm tánh nên
quang minh vô lượng. Chư Phật đều chứng thấu
triệt tánh thể, [quang minh] đều chiếu mười
phương, đều có thể gọi là Vô Lượng
Quang. Nhưng trong lúc tu nhân nguyện lực khác nhau, tùy theo nhân duyên mà lập
danh hiệu sai khác. A Di Đà Phật khi còn là tỳ-kheo Pháp
Tạng phát ra bốn mươi tám nguyện, trong số ấy
có nguyện “quang minh luôn chiếu mười phương”.
Nay thật sự thành tựu đúng như lời nguyện.
Pháp Thân quang minh không ngằn mé. Báo Thân quang minh xứng hợp
chân tánh. Đây chính là điều chư Phật vị nào
cũng giống nhau. Quang minh nơi Ứng Thân thì có vị
chiếu một do-tuần, mười, trăm, ngàn do-tuần,
một thế giới, trăm, mười, ngàn thế giới,
chỉ có A Di Đà Phật quang minh chiếu trọn khắp,
nên đặc biệt có tên là Vô Lượng Quang. Nhưng
ba thân chẳng một, chẳng khác, nhằm làm cho chúng sanh
đạt được bốn thứ lợi ích nên phân
biệt như vậy mà thôi! Hãy nên biết rằng: “Không
chướng ngại” là dựa theo phía nhân dân mà nói. Do chúng
sanh có duyên sâu với Phật nên Phật quang chiếu khắp
mọi nơi, hết thảy thế gian không đâu chẳng
thấy trọn vẹn).
Tâm
tánh vốn tịch tĩnh, tịch là Định, “tĩnh” nghĩa là thanh tịnh,
tác dụng của nó là Chiếu. Luận
trên bổn tánh thì hết thảy chư Phật Như Lai
đều đạt đến tịch tĩnh viên mãn rốt
ráo. Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh
tướng vô minh chưa phá. Phá được một phẩm
vô minh này rồi thì sẽ gọi là “tịch tĩnh”. Tịch tĩnh là cảnh giới
trên quả địa của Như Lai, cũng chia thành ba
phẩm Thượng, Trung, Hạ. Thượng Phẩm là
chân thanh tịnh, là cảnh giới của Phật, chẳng
nhiễm mảy trần. Trung Phẩm là Đẳng Giác Bồ
Tát, còn có một phẩm vô minh. Hạ Phẩm là Pháp Vân Địa
Bồ Tát, còn có hai phẩm vô minh. Thượng Phẩm hoàn
toàn thanh tịnh, quang minh viên mãn chiếu trọn khắp,
chứng thấu triệt bản thể vô lượng của
tâm tánh. Nếu xét theo kinh Nhân Vương giảng về địa
vị Ngũ Nhẫn của Bồ Tát thì Thượng Phẩm
là Tịch Diệt Nhẫn, khởi ra đại dụng là
quang minh vô lượng chiếu trọn khắp mười
phương. Quang minh của đức Phật đã chiếu
khắp mười phương nhưng vì sao ta chẳng hề
cảm nhận thấy? Vấn đề này chẳng phải
do lỗi Phật, mà là do chính mình. Trong ấy, chẳng tin là
chướng ngại lớn nhất! Hoàn toàn mê hoặc chân
tướng sự thật, dẫu đại thánh đại
hiền đã giảng giải vẫn chẳng tiếp nhận.
Nếu tin sâu chẳng nghi, thật thà niệm Phật thì sẽ
có thể tương ứng, mà cũng có thể tiếp nhận
Phật lực gia trì.
Hết thảy chư Phật đều là vô lượng
quang, vô lượng thọ. Khi tu nhân, mỗi vị học
Phật có nguyện lực khác nhau, mục đích ở chỗ
nào, mong sẽ đạt được gì trong tương
lai, mỗi người cũng khác nhau. Trên quả địa,
tuy đức năng, trí huệ hoàn toàn giống nhau, nhưng
nhân duyên độ sanh khác nhau. Sự tu hành của hết
thảy chư Phật khi đang tu nhân, trong các kinh Đại
Tiểu Thừa, đức Phật đã nói quá nhiều. Nếu
so sánh thì quả thật khi tu nhân, A Di Đà Phật đã
phát nguyện khác biệt mọi người, chẳng những
to lớn mà còn cụ thể. Ngài chẳng những mong thành
Phật mà còn mong vượt trỗi chư Phật. Nói là “vượt trỗi” không phải
là trí huệ, đức năng mà là vượt trỗi
trong phương diện độ sanh.
“Tùy nhân duyên lập biệt danh”
(Tùy theo nhân duyên mà lập danh hiệu sai khác): Danh hiệu của
chư Phật cũng tùy theo nhân duyên mà có sai khác. Như
trong trường học, vị thầy dạy môn Quốc
Văn được gọi là thầy Quốc Văn. Thầy
dạy Toán được gọi là thầy Toán. Do vậy,
vô lượng, vô biên chư Phật, Bồ Tát có danh hiệu
giống nhau. Khi A Di Đà Phật phát nguyện trong lúc tu nhân,
Ngài từng nguyện “quang minh
chiếu khắp” và nguyện “thọ mạng vô lượng”, nay Ngài đã thành Phật,
nên bốn mươi tám nguyện đều viên mãn.
“Pháp Thân quang minh vô phân tế, Báo
Thân quang minh xứng chân tánh” (Pháp Thân quang minh không ngằn
mé, Báo Thân quang minh xứng hợp chân tánh): Hai điều này
chư Phật đều giống nhau. Pháp Thân chính là chân tâm
bổn tánh, là Lý Thể của hết thảy pháp, vốn
sẵn đầy đủ vô lượng vô biên trí huệ
quang minh, hoàn toàn không phân biệt và chẳng có ngằn mé. Báo
Thân là Tự Thọ Dụng Thân, vô lượng thọ, vô
lượng quang, Phật nào cũng giống nhau. Phật dạy
chúng ta tu hành chứng quả, không ngoài khôi phục tánh đức
chính mình vốn sẵn có để thọ dụng mà thôi,
hoàn toàn chẳng có gì khác, mà cũng chẳng thể có gì khác
để ban cho chúng ta. Ứng Hóa Thân là Tha Thọ Dụng
Thân, hết thảy chư Phật mỗi vị mỗi khác.
Sai biệt, lớn nhỏ rất khác nhau. Điều này hoàn
toàn là do duyên, chứ không phải là chư Phật có năng
lực lớn hay nhỏ. Chẳng hạn như một người
có học vị, có trí huệ viên mãn, dạy ở đại
học thì gọi là giáo sư đại học, nhưng nếu
vị ấy dạy tại trường tiểu học thì
gọi là giáo viên tiểu học. Phật độ chúng
sanh là do duyên, thế nào gọi là “duyên chín muồi”? Hễ
ai thấy thấu suốt đời người là khổ,
không, vô thường, mong chóng thoát lìa tam giới, có ý niệm
chân thật, thiết tha ấy thì chư Phật đều
thấy được, vị Phật nào có duyên với người
ấy ắt sẽ hóa thân đến trước người
ấy cứu độ. Nếu số người nhiều
quá, cần phải giáo hóa trong một thời gian dài, Phật
bèn dùng Ứng Thân để tới giáo hóa. Sau khi thành Phật,
một vị Phật có phạm vi giáo hóa, gọi là một
tam thiên đại thiên thế giới. Có nguyện lớn
thì [phạm vi giáo hóa] có thể mở rộng đến
nhiều đại thiên thế giới. Chỉ cần phát
nguyện thì đều có thể thực hiện được.
Riêng mình A Di Đà Phật phát nguyện khác hẳn. Trong lúc
tu nhân, Ngài đã nhiếp thọ hai trăm mười ức
các cõi nước Phật. Con số “hai mươi mốt”
này là danh xưng nhằm biểu thị pháp trong Mật Tông,
chẳng phải số đếm, mà có nghĩa là viên mãn.
Như kinh Di Đà dùng số Bảy, kinh Hoa Nghiêm dùng số
Mười, đều nhằm biểu thị pháp. Mật
Tông thường dùng số Mười Sáu
và Hai Mươi Mốt; đủ thấy trong lúc tu nhân, tỳ-kheo
Pháp Tạng đã kết duyên với chúng sanh tột hư
không, trọn pháp giới, sâu rộng như thế. Thầy
của Ngài là Thế Gian Tự Tại Vương Như
Lai giảng kinh thuyết pháp cho Ngài, giảng cho Ngài nghe y
báo, chánh báo trang nghiêm, nhân quả thiện ác của mười
phương các cõi Phật, lại còn dùng Phật thần lực,
biến hiện mười phương các cõi nước
cho tỳ-kheo Pháp Tạng đích thân trông thấy. Sau khi Ngài
thành Phật, tất cả hết thảy cõi nước
đều là khu vực giáo hóa của Ngài. Do vậy, hết
thảy chư Phật trong mười phương thế
giới đều khuyên chúng sanh cầu sanh Tịnh Độ.
Tam Thân Pháp, Báo, Ứng là một Thể, một nhưng ba,
ba nhưng một, Pháp Thân là Bản Thể, Báo Thân là Tự
Thụ Dụng, Ứng Hóa Thân là Tha Thụ Dụng, trong phần
trước đã nói cặn kẽ!
“Linh chúng sanh đắc tứ ích”
(khiến cho chúng sanh được bốn thứ lợi ích):
“Tứ ích” ở đây chính
là bốn món lợi ích Tất Đàn trong phần trước,
tức hoan hỷ, sanh thiện, phá ác và nhập Lý. Hiện
thời, khoa học kỹ thuật tiến bộ, giúp cho
chúng ta biết ánh sáng có nhiều loại, gọi là quang độ[18],
mắt [con người] có thể thấy được
những tia sáng với bước sóng (wavelength) hữu hạn,
không thể thấy được những tia sáng với
bước sóng dài, cũng không thể thấy được
tia sáng với bước sóng ngắn. Phật quang là viên mãn,
bất cứ bước sóng ánh sáng nào cũng đều có
thể thấy được. Vì thế gọi là “vô chướng ngại”. Chúng
sanh có duyên sâu với Phật, có thể đắc độ
trong một đời. Những kẻ duyên cạn, [được
Phật quang] giúp cho sâu thêm, kết duyên với kẻ vô duyên,
ngẫu nhiên nghe được một tiếng A Di Đà
Phật liền kết duyên. Chúng ta trong đời này may mắn
gặp được Phật pháp, có duyên với Phật,
lại dường như có duyên sâu đậm. Đã chín
muồi hay chưa thì vẫn không dám nói, nhưng nếu muốn
thành tựu trong đời này thì phải nỗ lực gắng
công tín nguyện trì danh. Sở dĩ mọi người chẳng
thể thấy được Phật quang mà cũng chẳng
thấu hiểu công đức chân thật của Phật
đều là do nghiệp chướng của chính mình sâu nặng
nên chẳng thể hiểu thấu.
Phương pháp tiêu trừ
nghiệp chướng rất nhiều, trong kinh điển
Đại Thừa đã nói các thứ pháp môn và cách tu trì, không
gì chẳng giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, phương
pháp hữu hiệu nhất không gì hơn Niệm Phật!
Trong niên hiệu Càn Long đời Thanh, pháp sư Từ Vân
Quán Đảnh trước tác hết sức nhiều;
trong bộ Quán Kinh Trực Chỉ, Sư đã nói người
đời nghiệp nặng, tất cả kinh sám chẳng
thể tiêu trừ thì đến cuối cùng dựa vào một
câu Phật hiệu vẫn có thể tiêu trừ được.
Chúng ta ngày nay nếu mong tiêu trừ nghiệp chướng,
đoạn phiền não, diệt tội nghiệp, chẳng
cần phải cầu nơi kinh chú khác, niệm A Di Đà
Phật là đủ rồi. Đại Thế Chí Bồ
Tát dạy chúng ta “nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, nương
theo đó để hành sẽ liền có thể đạt
được hiệu quả. Chỉ cần đạt được
“tịnh niệm tiếp nối”
thì tự nhiên sáu căn sẽ đều được
nhiếp thọ.
Phật Thuyết A Di
Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
HẾT Phần
6
[1] Kệ: Kệ là đơn vị đo
phân lượng của một văn bản theo truyền
thống Cổ Ấn Độ. Cứ bốn câu, không cần
biết dài ngắn như thế nào thì gọi là một Kệ.
Chữ Kệ ở đây không có nghĩa là kệ tụng
như ta thường hiểu.
[2] Mạt Chược, hoặc còn gọi
là Mà Chược (đây là chữ Ma Tước (麻雀) trong tiếng Hán đọc theo giọng
Quảng Đông, người Hoa hiện thời lại
thường gọi môn cờ này là Ma Tướng麻將 nên Âu Mỹ
thường gọi nó là Ma-jong)
là một loại cờ với lối chơi phức tạp,
khá tốn thời gian và khá tốn kém để sắm một
bộ bài và bàn chơi. Mạt Chược của người
Hoa thường từ 144 đến 152 quân, người Việt
sử dụng đến 160 quân. Mỗi quân cờ có hình khối
vuông thường làm bằng ngà hoặc nhựa đúc cứng,
khắc hoa lá và tên quân bài, thường phải chơi từ
bốn đến sáu người. Tuy vay mượn từ
Trung Hoa, lối chơi bài Mạt Chược của
người Việt phức tạp và trang trọng hơn
rất nhiều, phải có một cái bàn to phủ nỉ
xanh đóng riêng cho bài Mạt Chược để chơi
nên hầu như Mạt Chược chỉ thông dụng
trong một số ít những người có của ăn của
để. Theo lối chơi của người Việt,
một bộ bài Mạt Chược được chia
thành “bài nạc” (gồm quân Sách (có vẽ hình chim sẻ), Vạn
(từ nhất vạn tới cửu vạn), Văn (vẽ
những vòng tròn nhỏ, tượng trưng cho đồng
xu), Tài Phao (Đông, Nam, Tây, Bắc và Trung Phát Bạch) và bài
Khung (là những con bài đại diện cho những con bài
khác, gồm Khung Xanh (Tổng, Thùng, Soọc, Màn), và Khung
Đỏ (Hoa, Hỷ, Nguyên, Hợp), Tứ Hoa, Tứ Quý, Tứ
Hoàng và Tứ Hậu. Trong bài Mạt Chược của
người Hoa, quân bài được chia thành Vạn
(cũng gồm chín con Vạn), Bính (hoặc Đồng Tử,
tương ứng ứng con Văn của người Việt),
Điều (hoặc Sách Tử, tương ứng con Sách),
Phong Bài (Đông, Tây, Nam, Bắc, tương ứng ứng
với quân Tài Phao), Tứ Hoa, Tứ Quý và Tiễn Bài (Trung
Phát Bạch), không hề có bộ Khung. Cách chơi cũng đơn
giản hơn lối xoa Mạt Chược của người
Việt rất nhiều.
[3] Căn Bản Phiền Não (Mūla-klesā) gồm tham, sân, si, mạn,
kiến, nghi. Nếu nói chi tiết thì Kiến lại tách ra
thành năm thứ (Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến
Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến) và gọi
chung là Ngũ Lợi Sử, năm loại phiền não còn lại
được gọi chung là Ngũ Độn Sử.
Ngũ Độn Sử và Ngũ Lợi Sử lại
được gọi chung là Thập Tùy Miên.
Tùy Phiền Não
(Upaklesā), còn gọi là
Tùy Hoặc hay Chi Mạt Phiền Não gồm ba tiểu loại:
Đại Phiền Não Pháp Địa (phóng dật, giải
đãi, bất tín, hôn trầm, trạo cử, thất niệm,
tán loạn), Đại Bất Thiện Địa Pháp (Vô
Tàm, Vô Quý) và Tiểu Phiền Não Địa Pháp (Phẫn, Phú
(giấu diếm tội lỗi), Xan (keo kiệt), Tật
(ganh ghét), Não, Hại, Hận, Siểm, Cuống (dối
trá), Kiêu và Ác Tác). Ba tiểu loại này còn gọi là Đại
Tùy, Trung Tùy và Tiểu Tùy Phiền Não. Duy Thức Tông còn thêm
vào Tiểu Tùy một loại nữa là Thùy Miên (ngủ nghê)
trở thành hai mươi mốt món Tùy Phiền Não.
[4] Đây là một câu nói của Tăng Tử
trích từ thiên Học Nhi của sách Luận Ngữ. Câu này
thường được giải thích như sau: “Cha mẹ đã mất thì tang ma cẩn
thận. Tưởng nhớ, truy niệm tổ tiên thì phẩm
đức của dân chúng sẽ ngày càng sâu dầy, tốt
đẹp hơn”. Ý nói để khơi gợi những
đức tánh tốt đẹp của dân chúng phải khởi
sự từ hiếu đạo.
[5] Đây là hai phần của Thánh Kinh Thiên
Chúa Giáo:
1. Cựu Ước (Old Testatment) tức
những giao ước giữa Jehovah (Yahweh, Thượng
Đế của người Do Thái). Phần này gần
như hoàn toàn giống với Thánh Kinh của Do Thái Giáo, gồm
Pentateuch (gồm năm quyển giải thích nguồn gốc
vũ trụ, các điều răn, luật lệ và lịch
sử dân Do Thái), Nevi’im (các lời tiên tri về sự xuất
hiện của một đấng Cứu Thế), và Ketuvim
(gồm những sách như Psalm (Nhã Ca hay Thi Thiên), Proverbs
(Châm Ngôn) v.v...
2. Tân Ước (New Testament) chép hành trạng
của Jesus (thường được biết dưới
danh từ Phúc Âm – Gospel, gồm 4 quyển), Công Vụ Sứ
Đồ (Acts of the Apostles, ghi chép những sự kiện
trong công cuộc truyền đạo của các môn đệ
thân cận của Jesus), những thư từ nhằm giải
thích đạo Thiên Chúa của các tông đồ tiên khởi
đối với các tín đồ (phần này được
gọi chung là Epistle) và sách Khải Huyền (Revelation).
[6] “Thoát thai
hoán cốt” vốn là một thuật ngữ của
Đạo Giáo. Họ tin rằng có những loại tiên
đan đặc chế, uống vào sẽ chuyển thân
phàm thành thánh thai, thay đổi xương phàm thành
xương tiên. Về sau, từ ngữ này trở thành một
thành ngữ ngụ ý người học được một
nền giáo dục tốt đẹp bèn biến đổi
tư cách phẩm đức triệt để, trở
thành tốt đẹp, hoàn toàn khác hẳn trước khi học.
[7] Tước Sĩ là phiên âm của chữ
Sir trong tiếng Anh. Thông thường, tại Trung Hoa thời
ấy, người được phong tước Kỵ
Sĩ (Knight, ta thường dịch là Hiệp Sĩ) hoặc
Tùng Nam Tước (Baronet) của hoàng gia Anh, sẽ
được gọi là Tước Sĩ.
[8] Nói cách khác, khi tiếp xúc, khi cảm thụ
sự vật, cái tâm của người niệm phải vận
dụng Tam Quán. Quán các pháp bản thể
là Không, tướng biến hiện của các pháp là Giả,
nhưng không chấp vào Không hay chấp vào Có (đó là Trung).
Vì thế, Hòa Thượng mới nói “Trong các hiện tượng, hãy nên dùng Trung”.
[9] Biệt tướng ở đây chỉ
cho từng tướng riêng biệt của mỗi pháp. Các
pháp có tổng tướng (tướng chung cho vạn
pháp), tổng tướng ấy là Giả vì mỗi pháp
đều do duyên sanh. Do phân biệt, so lường nên thấy
mỗi pháp có tướng riêng biệt, đó gọi là Biệt
Tướng.
[10] Phàm tình: Tình thức, tình cảm của
phàm phu.
[11] Sáu tôn giáo lớn: Do Thái Giáo (Judaism), Thiên
Chúa Giáo (Cơ Đốc Giáo), Hồi Giáo, Bà La Môn Giáo (Ấn
Độ Giáo, Hinduism), Phật giáo và Đạo Giáo.
[12] “Sổ
điển vong tổ” (數典忘祖) là một thành ngữ ngụ ý chê trách
những kẻ chỉ biết chạy theo những học
thuyết hoặc cậy vào học thức, hoặc những
chuyện trước mắt, không nhớ đến nguồn
cội. Điển tích này xuất phát từ câu chuyện sau đây trong Sử Ký: Vợ vua
Châu Cảnh Vương thời Đông Châu tạ thế.
Theo lễ nghi, các chư hầu phái người
đem lễ vật tới điếu tang. Nước Tấn
sai Tịch Đàm sang trước. Tịch Đàm không mang
theo lễ vật gì, Châu Cảnh Vương bực mình, hỏi
vì sao không mang lễ vật, Tịch Đàm trả lời:
“Các nước đều chịu ân huệ nhà Châu, chứ
nước tôi từ trước đến giờ chẳng
nhận được gì, nên không dâng lễ vật”. Cảnh
Vương nói: “Tổ tiên nước Tấn là Đường
Thúc, là anh em của Châu Thành Vương, há đất Tấn
chẳng phải là đất được nhà Châu phong
thưởng đó ư?” Rồi vua lại nói: “Chẳng phải
là tổ tiên nhà ngươi chuyên chưởng quản sách vở
của nước Tấn đó ư? Sao nhà ngươi chẳng
biết lịch sử nước Tấn chút nào vậy?” Tịch
Đàm cứng họng, ngượng ngùng thoái lui. Châu Cảnh
Vương chê: “Tịch Đàm đúng là kẻ chỉ biết
đếm sổ sách, quên mất tổ tiên”.
[13] “Khí phận”:
Theo nghĩa gốc, khí phận là giới hạn giữa
người và vật. Đây là nghĩa được dùng
đầu tiên trong sách Khổng Tử Gia Ngữ. Về
sau, chữ này được dùng với nghĩa rộng
hơn, có nghĩa là “tiếp nhận khí chất, bẩm
tánh của một hạng người nào đó”, như
trong bài Pháp Vân Tự Lễ Bái Thạch Ký, Tô Thức đã
viết: “Văn ngã Phật tu
đạo thời, sô nê sào đỉnh, chiêm Phật khí phận,
hậu giai thọ báo” (Nghe nói khi đức Phật ta tu
đạo, chim chóc tha bùn cỏ làm tổ trên đỉnh
đầu Ngài, được tiêm nhiễm khí phận của
Phật, về sau chúng đều được hưởng
báo). Khí phận cũng thường được dùng
như một khái niệm bao gồm “tánh chất, phẩm
đức, thiên hướng”.
[14] Chủ giáo (Episkopos) là cách người
Hoa gọi chức vụ Giám Mục (Bishop) trong giáo hội
Công Giáo (Catholic), hoặc Anh Quốc Giáo (Anglicanism), hoặc
Mỹ Quốc Thánh Công Hội (Episcopal). Vu Bân (1901-1978), quê ở
huyện Lan Tây, tỉnh Hắc Long Giang, về sau trở
thành Hồng Y của Đài Loan, từng vâng lệnh giáo
hoàng John XXIII sáng lập đại học Phụ Nhân, đảm
nhiệm chức vụ hiệu trưởng, lập
trường đào tạo y tá hộ sản. Ông được
phong Hồng Y vào năm 1969 sau khi vị tiền nhiệm là
Điền Canh Tân qua đời, trở thành vị Hồng
Y người Hoa thứ hai được phong chức này.
Do người Hoa dịch danh từ Cardinal (Hồng Y) thành
Khu Cơ (樞機: then chốt), nên các sách vở viết về
ông thường ghi là Vu Bân Khu Cơ. Như vậy, hội
nghị của Thang Ân Tỷ phải được tiến
hành vài năm sau Thế Chiến thứ hai khi thế giới
đang rối ren về vấn đề ý thức hệ,
và lúc đó, Vu Bân vẫn còn là Giám Mục, chứ chưa phải
là Hồng Y.
[15] “Thử tức, điểu không” là thành ngữ chế giễu kẻ học
Phật không hiểu biết hoặc chỉ thích bàn xuông,
nghe nói: “Phật tức tâm, tâm tức Phật” thì
cũng cứ lập lại “tức tức” giống
như tiếng chuột kêu “tức
tức” (chữ Tức (即) có âm Quan
Thoại jí, khá giống với tiếng chuột kêu chít
chít), mà chẳng hiểu “tức
tức” là gì. Lại nghe nói: “Vạn
pháp là không” thì cũng nói: “Không,
không” giống như tiếng
chim kêu trên không trung, mà chẳng hiểu “không không” là gì.
[16] Hai chữ này đọc theo âm Quan Thoại
đều là Qiào.
[17] Thập Tiểu Chú là mười bài chú
sau chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi trong khóa tụng công
phu sáng trong Thiền Môn Nhật Tụng, gồm Như Ý Bảo
Luân Vương Đà La Ni, Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú,
Công Đức Bảo Sơn Thần Chú, Phật Mẫu Chuẩn
Đề Thần Chú, Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định
Quang Minh Vương Đà La Ni, Dược Sư Quán Đảnh
Chân Ngôn, Quán Âm Linh Cảm Chân Ngôn, Thất Phật Diệt Tội
Chân Ngôn, Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú, và Thiện Nữ
Thiên Chú.
[18] Thông thường, chữ “quang độ”
(luminosity) chỉ mức độ bức xạ của ánh
sáng, được đo bằng đơn vị Watt. Vật
Lý Học hiện thời quan niệm ánh sáng chính là sự bức
xạ điện từ (electromagnetic radiation),
gồm những hạt photon (quang tử) chuyển động
theo đồ thị hình sin (sinusoidal graph) nên để phân
loại ánh sáng, người ta dùng đơn vị đo
độ dài, gọi là wavelength (người Hoa dịch chữ
này thành “ba trường”, còn người Việt gọi là
bước sóng), tức là khoảng cách giữa hai cực
điểm (maximum) của đồ thị sóng. “Quang độ”
được Hòa Thượng Tịnh Không nói ở
đây chính là Ba Trường. Mắt con người chỉ
thấy được những sóng ánh sáng có bước
sóng từ 380 nanometres đến 760-780 nanometres (một
nanometre là 1/1.000.000.000 mét). Những loại ánh sáng có bước
sóng ngắn hơn 380 nanometres sẽ gọi là “ánh sáng có
bước sóng ngắn”, còn những loại ánh sáng có
bước sóng dài hơn 780 nanometres gọi là “ánh sáng có
bước sóng dài”.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment