"Việc làm của thánh nhân là cầu sanh thế
giới Cực Lạc, khuyên dạy hết thảy chúng
sanh vãng sanh. Phàm phu lo toan những chuyện thuộc về
tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, luân
chuyển trong lục đạo.."
Phần
7
佛說阿彌陀經要解講記
Diêu Tần Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập dịch kinh
姚秦三藏法師鳩摩羅什譯
Sa-môn Tây Hữu Ngẫu Ích Trí
Húc chú giải vào đời Thanh
清西有沙門蕅益智旭解
Pháp sư Tịnh Không giảng
thuật
淨空法師講述
Cư sĩ Lưu Thừa Phù
ghi chép
劉承符居士記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Phật Đà
Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2006)
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang, Vạn Từ và Đức Phong
(Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật thọ
mạng cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ kiếp, cố danh A Di Đà.
(Giải)
Tâm tánh chiếu nhi thường tịch, cố vi thọ mạng.
Kim triệt chứng tâm tánh vô lượng chi Thể, cố
thọ mạng vô lượng dã. Pháp Thân thọ mạng, vô
thỉ vô chung. Báo Thân thọ mạng, hữu thỉ vô
chung. Thử diệc Phật Phật đạo đồng,
giai khả danh Vô Lượng Thọ. Ứng Thân tùy nguyện,
tùy cơ, diên súc bất đẳng. Pháp Tạng nguyện
vương, hữu “Phật cập nhân, thọ mạng
giai vô lượng” chi nguyện. Kim quả thành như nguyện,
biệt danh Vô Lượng Thọ dã. A-tăng-kỳ, vô
biên, vô lượng, giai toán số danh, thật hữu
lượng chi vô lượng. Nhiên tam thân bất nhất,
bất dị, Ứng Thân diệc khả tức thị vô
lượng chi vô lượng hỹ. Cập giả, tịnh
dã. “Nhân dân” chỉ Đẳng Giác dĩ hoàn, vị Phật
thọ mạng, tịnh kỳ nhân dân thọ mạng, giai
vô lượng đẳng dã.
(經) 又舍利弗。彼佛壽命。及其人民
。無量無邊阿僧祇劫。故名阿彌陀。
(解) 心性照而常寂,故為壽命。今徹證心性無量之體。故壽命無量也。法身壽命。無始無終。報身壽命。有始無終。此亦佛佛道同。皆可名無量壽。應身隨願隨機。延促不等。法藏願王。有佛及人。壽命皆無量之願。今果成如願。別名無量壽也。阿僧祇。無邊。無量。皆算數名。實有量之無量。然三身不一不異。應身亦可即是無量之無量矣。及者。併也。人民指等覺以還。謂佛壽命。併其人民壽命。皆無量等也。
(Chánh kinh: Lại này
Xá Lợi Phất! Thọ mạng của đức Phật
ấy và nhân dân của Ngài là vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ kiếp, nên có tên là A Di Đà.
Giải:
Tâm tánh chiếu mà thường tịch nên [mệnh danh] là
thọ mạng. Nay chứng triệt để cái Thể
vô lượng của tâm tánh, cho nên thọ mạng vô lượng.
Thọ mạng của Pháp Thân không khởi đầu, không
kết thúc; thọ mạng của Báo Thân có khởi đầu,
không có kết thúc. Đây chính là điều giống nhau giữa
chư Phật nên vị nào cũng đều có thể gọi
là Vô Lượng Thọ. Ứng Thân tùy theo nguyện, tùy
theo căn cơ mà thọ mạng kéo dài hay rút ngắn khác
nhau. Trong nguyện vương của ngài Pháp Tạng có lời
nguyện “thọ mạng của Phật và nhân dân đều
vô lượng”, nay quả thật thành tựu đúng
như lời nguyện, nên riêng Ngài có tên là Vô Lượng
Thọ. A-tăng-kỳ, vô biên, vô lượng, đều
là những tên gọi trong toán số, quả thật là vô
lượng trong hữu lượng; nhưng tam thân chẳng
một, chẳng khác nên Ứng Thân cũng có thể là vô
lượng trong vô lượng. “Cập” là “và”. Chữ
“nhân dân” chỉ những người từ Đẳng Giác
trở xuống, ý nói: Thọ mạng của Phật và nhân
dân của Ngài đều bình đẳng vô lượng).
Đoạn kinh văn này cho biết trong Tây
Phương thế giới, thọ mạng của Phật
và nhân dân rất dài, đều là vô lượng; vì thế,
gọi là A Di Đà. Sách Yếu Giải viết: “Tâm tánh chiếu nhi thường tịch,
cố vi thọ mạng. Kim triệt chứng tâm tánh vô
lượng chi Thể, cố thọ mạng vô lượng
dã” (Tâm tánh chiếu mà thường tịch nên [mệnh
danh] là thọ mạng. Nay chứng triệt để cái Thể
vô lượng của tâm tánh, cho nên thọ mạng vô lượng).
Đây là nói theo lý luận, vì sao nhân dân tại Tây
Phương vô lượng thọ. Nhà Thiền nói “minh tâm kiến tánh”, thì “kiến” (見) có
nghĩa là “chứng”. Trong
kinh Đại Thừa, Phật nói Sơ Trụ Bồ Tát trong
Viên Giáo là kiến tánh, tức là đã chứng đắc tâm
tánh, nhưng chưa rốt ráo viên mãn. Dùng mặt trăng để
so sánh thì mặt trăng vừa mới mọc gọi là “trăng
lưỡi liềm” (trăng non). Bồ Tát kiến tánh là
thấy từng phần, chẳng phải là viên mãn ngay lập
tức; còn A Di Đà Phật là “triệt
chứng” (chứng triệt để, chứng thấu
triệt), chứng rốt ráo viên mãn. Nói thật ra, Phần
Chứng cũng là vô lượng thọ, huống chi viên
mãn! Phật chứng thấu triệt thì không có vấn đề
gì, chứ phàm phu và chúng sanh Thập Ác vãng sanh, nghiệp chưa
tiêu, làm sao chứng được cái Thể của tâm tánh?
Từ Tịnh Độ Tam Kinh, ta cũng có thể hiểu
rõ tình trạng này. Do hoàn cảnh của Tây Phương thế
giới thù thắng, hoàn toàn vô chướng ngại, hằng
ngày cùng với A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, các vị
Đẳng Giác Bồ Tát, chư thượng thiện nhân
tụ hội một chỗ, được các Ngài un đúc,
dẫu là Hạ Hạ Phẩm đới nghiệp vãng sanh
cũng liền chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái. Đấy là do vô lượng công đức của Phật
gia trì, nên đều là vô lượng thọ. Pháp Thân là bản
thể của tâm tánh; nói thật ra, Pháp Thân chẳng có thọ
mạng vì nó không khởi đầu, không kết thúc. Thọ
mạng của Báo Thân có khởi đầu, không có kết
thúc, có thể nói là mỗi vị Phật đều là vô lượng
thọ. Nay đức A Di Đà Phật đang được
nói đến [trong kinh này] chính là Ứng Thân Phật. Thọ
mạng của Ứng Thân là thuận theo nguyện, theo như
nguyện đã phát lúc Phật tu nhân, đồng thời cũng
là “tùy cơ”, tức là thuận theo cơ duyên của chúng
sanh sẽ được Phật hóa độ mà thọ mạng
của [Ứng Thân] Phật dài hay ngắn khác nhau. Trong lúc
tu nhân, A Di Đà Phật phát nguyện khác với chư Phật.
Ngài phát nguyện: Trong tương lai, sau khi thành Phật, nhân
dân trong cõi Ngài đều là vô lượng thọ. Nay Ngài đã
thành Phật, điều nguyện ấy cũng được
thực hiện trên phương diện quả báo. Đấy
chính là đại nguyện khôn sánh, mọi người không
thể suy tưởng được. Trong lúc tu nhân, Ngài
tham khảo, quán sát vô lượng vô biên các cõi nước Phật,
thấy thọ mạng có dài - ngắn, tu hành có khó - dễ,
Ngài mới phát ra đại nguyện ấy. Trong quá trình tu
hành thông thường, những ý niệm ấy rất khó có,
khi chứng quả, những nguyện ấy đều biến
thành hiện thực.
A-tăng-kỳ (Asamkhya), Vô Lượng (Apramāna), Vô
Biên (Ananta) đều là những danh từ trong Số Học
(Toán học). Trong phần năm mươi ba lần tham học
của Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện
Tài đã tham phỏng Tự Tại Chủ
đồng tử[1].
Vị này là một nhà đại khoa học mà cũng là một
nhà toán học, đã nói cho Thiện Tài biết những con
số, được tính từ những con số cơ bản
như mười, trăm, ngàn. Tổng cộng gồm một
trăm năm mươi sáu con số, không dùng cách tính gấp
mười lần (tức mỗi đơn vị sau bằng
mười lần đơn vị trước, thường
gọi là hệ thập phân), mà dùng phương pháp nhân
gấp bội. A-tăng-kỳ là một trong mười đơn
vị cuối cùng; A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ là
một Vô Lượng, Vô Lượng lần Vô Lượng
là một Vô Biên. Con số cuối cùng là Bất Khả Thuyết
Bất Khả Thuyết. Đã có phương pháp để
tính thì đương nhiên có thể tính ra con số, đã
có thể tính toán được thì vẫn là “hữu lượng” (có hạn
lượng). Đấy là nói về Ứng Thân, chứ không
là nói về Pháp Thân hay Báo Thân. Đến cuối cùng, khi duyên
giáo hóa đã hết, A Di Đà Phật cũng nhập Niết
Bàn, trong tương lai sẽ do Quán Thế Âm Bồ Tát kế
tục thành Phật để nối ngôi vị. Sau khi Quán Âm
nhập diệt, sẽ do Đại Thế Chí kế vị,
Phật Phật tiếp nối chẳng gián đoạn.
Trong thọ mạng dài dằng dặc như vậy, chẳng
có một ai không “viên mãn thành Phật, đạt được
vô lượng thọ thật sự”. Tây Phương thế
giới quả thật khác với các thế giới khác.
Những thế giới khác đều có một khoảng
thời gian trước Phật hay sau Phật, thời gian
rất dài. Chẳng hạn như Phật Thích Ca tại thế
chỉ tám mươi năm, trong tương lai, Phật Di
Lặc giáng sanh phải đợi tới năm mươi
sáu ức bảy ngàn vạn năm. Trong thời gian ấy,
không có Phật trụ thế. Do đây, có thể thấy Tây
Phương thế giới thù thắng. Trong Đại
Kinh, Phật đã nói muốn thành Phật phải mất
ba đại A-tăng-kỳ kiếp, là vì tu hành trong thế
giới này có thoái chuyển, tiến tiến, lùi lùi, tiến
ít, lùi nhiều, cho nên khó thành tựu. Người Tây
Phương thọ mạng lâu dài, lại không có duyên gây thoái
chuyển nên tiến triển hết sức nhanh chóng. Kinh dạy:
“Chư thượng thiện nhân, câu
hội nhất xứ” (Các
thượng thiện nhân cùng nhóm họp một chỗ). “Chư thượng thiện nhân”
đều là Đẳng Giác Bồ Tát, sau khi họ đã
sanh về Tây Phương, trong mười kiếp bèn tu hành
thành Phật. Trong các kinh điển khác, đức Phật
chẳng nói như vậy.
“Tam thân bất nhất, bất dị,
Ứng Thân diệc khả tức thị vô lượng chi
vô lượng hỹ” (Ba thân chẳng một, chẳng
khác, nên Ứng Thân cũng có thể là vô lượng trong vô
lượng vậy): Mấy câu này hết sức hay, đả
phá sự chấp trước trên phương diện cảm
tình của chúng ta. Ngài nói toàn là sự thật, cũng như
trong phần trước đã nói, chúng ta thấy những người
vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong vòng
mười kiếp đều có thể chứng được
địa vị Đẳng Giác, tức là thật sự vô
lượng, chứ không còn là “vô
lượng trong hữu lượng” nữa. Điều
này nói rõ, chúng ta sanh về Tây Phương [thì thọ mạng
tuy nói là “vô lượng”, nhưng thật ra, vô lượng
ấy] là vô lượng trong hữu lượng, nhưng
chẳng bao lâu sẽ thật sự chứng được
vô lượng trong vô lượng. Thế giới Tây
Phương quả thật là một thế giới bình
đẳng, từ Đẳng Giác trở xuống cho đến
kẻ Hạ Hạ Phẩm vãng sanh hết thảy thọ
dụng đều giống hệt như A Di Đà Phật.
(Giải)
Đương tri quang thọ danh hiệu, giai bổn chúng
sanh kiến lập. Dĩ sanh Phật bình đẳng,
năng linh trì danh giả, quang minh, thọ mạng, đồng
Phật vô dị dã. Phục thứ, do vô lượng quang
nghĩa cố, chúng sanh sanh Cực Lạc, tức sanh thập
phương. Kiến A Di Đà Phật, tức kiến thập
phương chư Phật. Năng tự độ, tức
phổ lợi nhất thiết. Do vô lượng thọ
nghĩa cố, Cực Lạc nhân dân tức thị Nhất
Sanh Bổ Xứ, giai định thử sanh thành Phật, bất
chí dị sanh. Đương tri ly khước hiện tiền
nhất niệm vô lượng quang thọ chi tâm, hà xứ
hữu A Di Đà Phật danh hiệu? Nhi ly khước A Di
Đà Phật danh hiệu, hà do triệt chứng hiện tiền
nhất niệm vô lượng quang thọ chi tâm? Nguyện
thâm tư chi, nguyện thâm tư chi.
(解)
當知光壽名號。皆本眾生建立。以生佛平等。能令持名者。光明壽命。同佛無異也。復次由無量光義故。眾
生生極樂。即生十方。見阿彌陀佛。即見十方諸佛。能自度。即普利一切。由無量壽義故。極樂人民。即是一生補處。皆定此生成佛。不至異生。當知離卻現前一念
無量光壽之心。何處有阿彌陀佛名號。而離卻阿彌陀佛名號。何由徹證現前一念無量光壽之心。願深思之。願深思之。
(Giải: Hãy nên biết danh hiệu quang thọ đều vốn
vì chúng sanh mà kiến lập. Do
chúng sanh và Phật bình đẳng nên có thể khiến cho quang
minh và thọ mạng của người trì danh giống như
Phật chẳng khác. Lại nữa, do ý nghĩa “vô lượng
quang” mà chúng sanh sanh về Cực Lạc tức là sanh về
mười phương, thấy A Di Đà Phật chính là
thấy mười phương chư Phật. Có thể tự
độ chính là lợi ích khắp hết thảy. Do ý nghĩa
“vô lượng thọ” nên nhân dân trong cõi Cực Lạc chính
là Nhất Sanh Bổ Xứ, đều nhất định
thành Phật ngay trong đời này, chẳng đợi đến
đời khác. Hãy nên biết: Lìa khỏi một niệm tâm
vô lượng quang thọ thì danh hiệu A Di Đà Phật
sẽ do đâu mà có? Nhưng lìa khỏi danh hiệu A Di
Đà Phật thì còn có cách nào để chứng thấu triệt
một niệm tâm vô lượng quang thọ? Xin hãy suy nghĩ
sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu xa).
Ba đoạn
khai thị tiếp theo chính là tri kiến chân thật rạng
ngời của đại sư. Nếu chẳng thật sự
có kiến địa đạt đến cảnh giới
ấy, sẽ chẳng thể nào nói ra mấy câu này được!
Tất cả danh tướng, thuật ngữ về quang
minh, thọ mạng, đều nhằm phương tiện
giáo hóa chúng sanh mà kiến lập những thứ giả
danh ấy. Tuy là giả danh, nhưng chúng (danh tướng,
thuật ngữ) phù hợp khít khao tình huống thực tế.
“Sanh Phật bình đẳng”
(Chúng sanh và Phật bình đẳng): Trong thế giới này,
về mặt Lý là bình đẳng, nhưng trên mặt Sự
thì bất bình đẳng; tại Tây Phương thế giới,
Sự lẫn Lý đều bình đẳng, nên có thể làm
cho quang minh lẫn thọ mạng của người trì
danh đều giống như Phật, chẳng khác! Hiện
thời, chúng ta hiện tại còn chưa về Tây
Phương, nhất tâm xưng danh liền tương ứng
với Phật. Niệm Phật là tạo cái nhân, sanh về
Tây Phương là quả báo. Trong một câu Phật hiệu,
người niệm Phật ắt phải dùng lòng tin chân
thật, nguyện thiết tha để trì danh thì mới có
thể tương ứng. Hễ tương ứng sẽ
có thể tiếp nhận sự cảm ứng quang minh và
thọ mạng của Phật. Lúc vãng sanh là ra đi ngay
trong khi đang còn sống, chứ không phải là chết rồi
mới vãng sanh. Thấy Phật đến tiếp dẫn,
theo Phật ra đi, đấy là pháp môn thành tựu ngay
trong đời này. Tôi thường nói “đây là pháp môn bất
tử”. Đã đến Tây Phương rồi sẽ thành
Phật trong một đời, đấy chính là “thành Phật
ngay trong một đời này!”
Sanh về Tây
Phương thế giới giống như sanh về hết
thảy các cõi nước Phật trong mười phương,
thấy A Di Đà Phật giống như thấy mười
phương hết thảy chư Phật. Trong các kinh điển
khác, đức Phật chưa hề nói đến sự
thật này.
“Năng tự độ,
tức phổ lợi nhất thiết” (Có thể tự
độ chính là lợi khắp hết thảy): “Tự độ” chính là niệm
Phật vãng sanh. Sau khi sanh về Tây Phương, trọn đủ
vô lượng trí huệ, đức năng, nhớ được
người nhà quyến thuộc trong đời đời
kiếp kiếp, siêu độ cha mẹ chính là đại
hiếu trong thế gian. Chính mình vãng sanh, cha mẹ trong đời
trước bất luận đang ở đường nào
đều có thể trông thấy, cũng là cơ duyên tốt
đẹp trọn hết lòng hiếu thảo đối với
cha mẹ vậy.
Quả vị tối cao của
Bồ Tát là Nhất Sanh Bổ Xứ. Pháp môn này là pháp môn thành
tựu ngay trong đời này, chẳng cần đến đời
thứ hai. Trong những pháp môn khác, để thành Phật phải
mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, chẳng biết
là phải trải qua bao nhiêu sanh tử luân hồi. Đức
Phật nói Tiểu Thừa Sơ Quả cần phải bảy
lần sanh trong cõi trời và nhân gian mới chứng được
quả A La Hán. Sau khi đến được Tây
Phương thì trong một đời chứng được
Đẳng Giác và Diệu Giác. Có nhiều vị cổ đức
tại gia và xuất gia, Tông Môn, Giáo Hạ, sau khi đã hiểu
rõ pháp môn này thì không vị nào chẳng chuyên tu, chuyên hoằng
truyền.
Lời khai thị cuối cùng
[trong đoạn này] lại dẫn về tâm tánh, khuyên chúng
ta hãy suy nghĩ cặn kẽ: A Di Đà Phật chứng thấu
triệt chân tâm bổn tánh của vô lượng quang thọ,
lập ra danh hiệu A Di Đà Phật. A Di Đà Phật chính là
danh xưng vô lượng quang thọ của Chân Như bổn
tánh. Do vậy, nói: “Rời
khỏi Chân Như bổn tánh thì danh hiệu chẳng còn tồn
tại”. Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng
Quang Phật, A Di Đà Phật đều là danh hiệu của
Chân Như bổn tánh. Danh ắt phải có Thực, [tức
là] có một thực thể tồn tại. Lìa khỏi tâm tánh
sẽ chẳng có danh hiệu; lìa khỏi danh hiệu thì làm
sao có thể chứng thấu triệt Chân Như bổn tánh
vô lượng quang thọ? Điều này nêu rõ Danh và Thực
là một Thể, Danh là tên gọi của tâm tánh, tâm tánh là tâm
tánh của cái Danh, là một, chẳng phải hai. Đấy
mới là thật sự hiểu rõ vì sao phải niệm Phật.
Tuy nó (tức Chân Như bổn tánh) có vô lượng quang thọ,
nhưng chúng ta chẳng thể thụ dụng được.
Niệm một tiếng thì vô lượng quang thọ trong
Chân Như bổn tánh giống như tia chớp nháng lên một
lần. Niệm một tiếng, nó liền lộ ra một
lần, niệm hai tiếng bèn chớp nháng hai lần. Không
niệm sẽ chẳng có ánh sáng gì! Do vậy, cổ đại
đức dạy chúng ta “tịnh
niệm tiếp nối” ắt sẽ cảm ứng đạo
giao với A Di Đà Phật. Ngẫu Ích đại sư lại
khuyên lơn, khích lệ chúng ta hãy suy nghĩ sâu xa.
(Kinh) Xá Lợi Phất! A Di Đà
Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp.
(Giải) Thử minh Cực Lạc
thế giới giáo chủ thành tựu dã. Nhiên Pháp Thân vô
thành, vô bất thành, bất ưng luận kiếp. Báo Thân
nhân viên quả mãn, danh Thành. Ứng Thân vị vật thị
sanh, danh Thành, giai khả luận kiếp. Hựu, Pháp Thân nhân
Tu Đức hiển, diệc khả luận thành, luận
kiếp. Báo Thân biệt vô tân đắc, Ứng Thân như
nguyệt ấn xuyên, diệc vô thành, bất thành, bất
ưng luận kiếp.
(經) 舍利弗。阿彌陀佛成佛已來。於今十劫。
(解) 此明極樂世界教主成就也。然法身無成無不成。不應論劫。報身因圓果滿名成。應身為物示生名成。皆可論劫。又。法身因修德顯。亦可論成論劫。報身別無新得。應身如月印川。亦無成不成。不應論劫。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật
đến nay đã mười kiếp.
Giải: Điều này nói về sự thành tựu
của bậc giáo chủ trong thế giới Cực Lạc;
nhưng Pháp Thân chẳng có thành hay không thành, chẳng nên luận
đến kiếp số. Báo Thân nhân tròn quả vẹn, nên
gọi là “thành”. Ứng Thân do chúng sanh mà thị hiện
giáng sanh nên gọi là “thành”, đều có thể luận
định kiếp số. Lại nữa, Pháp Thân do Tu Đức
mà hiển lộ nên cũng có thể luận định
“thành” và kiếp số. Báo Thân chẳng phải là mới đạt
được. Ứng Thân như mặt trăng in bóng trên
sông nên cũng chẳng có thành hay không thành, chẳng nên luận
định kiếp số).
Nói theo Tây Phương thế giới
thì mười kiếp rất ngắn, có vô lượng vô
biên thành tựu chẳng thể nghĩ bàn, y báo và chánh báo trang
nghiêm chẳng cần phải nói nữa! Người đới
nghiệp vãng sanh từ mười phương thế giới
đều chứng được quả vị Đẳng
Giác Bồ Tát, thật là chẳng thể nghĩ bàn! Pháp Thân
không có khởi đầu, không có kết thúc, không thêm gì vào được,
vì nó là bản thể của Chân Như bổn tánh nên không có
“thành” hay “chẳng thành”. “Báo
Thân nhân viên quả mãn, danh thành” (Báo Thân nhân tròn quả vẹn,
nên gọi là “thành”): Hai thứ chấp trước Nhân Ngã và
Pháp Ngã đều hết, ba thứ phiền não, Kiến Tư,
Trần Sa, Vô Minh, cũng đoạn sạch. Phật quả
trong Viên Giáo cũng viên mãn, nên gọi là “thành tựu”, thành tựu
ý nói “thành Phật”.
“Ứng Thân vị vật thị
sanh danh thành, giai khả luận kiếp” (Ứng Thân do
chúng sanh mà thị hiện giáng sanh nên gọi là “thành”, đều
có thể luận định kiếp số): Chữ “vật” (物) chỉ hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới,
vì hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới mà thị hiện
xuất sanh. Thọ mạng của Ứng Thân do duyên của
chúng sanh mà kiến lập, duyên hết, Phật bèn thị
hiện diệt độ, nên thọ mạng của Ứng
Thân có thể nói đến số lượng. “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất
viên” (Người viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng
viên). “Viên” có nghĩa là liễu
giải viên mãn chân tướng sự thật; cho nên bất
luận người ấy thuyết pháp như thế nào,
những lời người ấy nói đều là chân tướng
sự thật. Pháp Thân ai nấy đều có, nhưng chưa
có Tu Đức thì Pháp Thân chẳng thể hiện tiền.
Kinh Đại Thừa nói: “Phá
một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”,
cũng có thể nói là “thành”
hoặc luận định thời gian. Trong đoạn trước
[nói “Pháp Thân không có thành hay chẳng
thành”] là luận theo thể tánh, còn ở đây là nói theo
phương diện tu hành thành tựu. Báo Thân cũng là sẵn
có, Báo Thân là vô lượng trí huệ và đức năng sẵn
có trong bổn tánh, không thể nói là “thành” hay “chẳng thành”.
Ứng Thân giống như bóng trăng trong nước, như
là Phật sự nơi đạo tràng trong mộng, “như nguyệt ấn xuyên”
(như trăng in bóng trên sông), tức là bóng trăng trong nước,
chẳng có thật, hoàn toàn tương phản với những
điều vừa nói trong phần trước. Trong phần
trước là dựa trên Sự để luận định
tam thân, ở đây là dựa theo Lý để luận định
tam thân.
(Giải) Đản chư Phật
thành đạo, các hữu Bổn, Tích. Bổn địa tịnh
bất khả trắc. Thả ước Cực Lạc thị
thành chi Tích nhi ngôn, tức thị tam thân, nhất thành, nhất
thiết thành. Diệc thị phi thành, phi bất thành, nhi luận
thành dã. Hựu, Phật thọ vô lượng, kim cẩn thập
kiếp, tắc hiện tại thuyết pháp, thời chánh
vị ương, phổ khuyến tam thế chúng sanh, tốc
cầu vãng sanh, đồng Phật thọ mạng, nhất
sanh thành biện dã. Hựu, hạ văn vô số Thanh
Văn, Bồ Tát, cập dữ Bổ Xứ, giai thập
kiếp sở thành tựu, chánh hiển thập
phương tam thế, vãng sanh Bất Thoái giả, đa thả
dị dã.
(解) 但
諸佛成道。各有本跡。本地並不可測。且約極樂示成之跡而言。即是三身。一成一切成。亦是非成非不成而論成也。又。佛壽無量。今僅十劫。則現在說法。時正未
央。普勸三世眾生。速求往生。同佛壽命。一生成辦也。又。下文無數聲聞菩薩。及與補處。皆十劫所成就。正顯十方三世。往生不退者。多且易也。
(Giải: Nhưng chư Phật thành đạo,
mỗi vị đều có Bổn và Tích. Bổn địa trọn chẳng thể suy lường
được. Lại ước theo sự thị hiện
thành Phật nơi Tích môn trong cõi Cực Lạc mà nói thì đối
với tam thân, hễ thành được một thì hết
thảy đều thành. Cũng có nghĩa là “chẳng phải
thành, chẳng phải không thành”, nhưng lại luận
định về sự “thành Phật”. Hơn nữa, Phật
thọ vô lượng, nay [A Di Đà Phật] mới chỉ
[thành Phật] mười kiếp, tức là Ngài đang thuyết
pháp trong hiện tại, thời gian đức Phật còn
tại thế chưa hết, khuyên khắp các chúng sanh trong
ba đời hãy mau cầu vãng sanh để có thọ mạng
giống hệt như Phật, hoàn thành sự tu học chỉ
trong một đời. Hơn nữa, trong đoạn kinh
văn phía sau có nói vô số Thanh Văn, Bồ Tát và Bổ Xứ
đều thành tựu trong mười kiếp, chỉ rõ
những người vãng sanh [chứng đắc] Bất Thoái
trong mười phương ba đời đã nhiều lại
còn dễ dàng).
A Di Đà Phật thành Phật
đến nay đã là mười kiếp. Theo bản dịch
của ngài Huyền Trang là “mười đại kiếp”.
Mười phương chư Phật thành đạo
đều có Bổn và đều có Tích. Bổn (本) là chứng quả
đầu tiên, Tích (跡) là vì hóa độ
chúng sanh mà thị hiện xuất sanh, thì gọi là Tích. Chẳng
hạn như vào ba ngàn năm trước, Phật Thích Ca
giáng sanh, thị hiện thành Phật tại Ấn Độ
là Tích. Trong một đêm nọ, Ngài thấy sao Mai, ngộ đạo
thành Phật là biểu diễn, chẳng phải là “thật”
(chẳng phải là thật sự đến khi ấy Ngài
mới thành Phật). Kinh Pháp Hoa có nói đức Phật đã
thành Phật trong nhiều kiếp lâu xa trước kia. Kinh
Phạm Võng nói đây là lần thứ tám ngàn Ngài đến
thế giới này thị hiện thành Phật. Do vậy, Bổn
của Phật quả thật chẳng thể nghĩ bàn,
không cách nào suy lường được. A Di Đà Phật
cũng giống như thế, Ngài thành Phật tại Tây
Phương thế giới cũng là thị hiện xuất
sanh. Nếu luận về Bổn thì như trong kinh Pháp Hoa,
đức Phật đã nói: Trong vô lượng kiếp trước,
Phật Thích Ca và Phật Di Đà là đồng tham đạo
hữu, là anh em. A Di Đà Phật thị hiện thành Phật
tại Tây Phương thế giới mới mười
kiếp, đấy là Tích của A Di Đà Phật, chứ
không phải Bổn, Bổn chẳng có [thị hiện nhập]
Niết Bàn. [Thân Phật] trong Tây Phương thế giới
là Ứng Thân. Nguyện lực của Phật rộng sâu chẳng
thể nghĩ bàn, Ngài có thể trụ thế trong một
thời gian dài như thế cũng chẳng thể
nghĩ bàn. Chúng ta đến Tây Phương tu hành thành Phật
là Bổn, A Di Đà Phật thị hiện làm Bổn thay
cho chúng ta. Trong tương lai, chúng ta đến các thế giới
phương khác làm Phật, thị hiện xuất sanh là Tích.
A Di Đà Phật thị hiện thành Phật trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là Tích, chứ không
phải Bổn. Thành Phật, tuy thị hiện, là Tích, nhưng
cũng là một mà ba, tuy ba mà một. “Nhất thành, nhất thiết thành, diệc thị
phi thành, phi bất thành” (hễ thành được một
thì hết thảy đều thành, mà cũng chẳng phải
là thành hay chẳng thành). Đối với ý nghĩa của
hai câu này, chúng ta nghĩ đến những điều đã
nói trong phần trước thì sẽ thấu hiểu. Nói “ba thân hễ thành tựu một
thì hết thảy sẽ thành tựu” là nói theo mặt Sự,
lại nói “chẳng thành, chẳng
không thành” là nói theo mặt Lý.
“Kim
cẩn thập kiếp, tắc hiện tại thuyết
pháp, thời chánh vị ương” (Nay chỉ mới mười
kiếp tức là đang thuyết pháp trong hiện tại,
thời gian Phật tại thế còn chưa hết): “Vị ương” có nghĩa là
“chưa xong”. Chẳng những là chưa xong mà còn là rất
sớm. A Di Đà Phật có vô lượng thọ, đến
nay chỉ mới mười kiếp thì thời gian mai sau
còn rất dài; ngày nay chúng ta sanh về Tây Phương, trong
tương lai đều thuộc tầng lớp nguyên lão.
Do vậy, ở đây đại sư khuyên chúng sanh trong
ba đời hãy mau cầu vãng sanh, để có thọ mạng
giống hệt như Phật, thành tựu hoàn toàn ngay trong
một đời. Đồng thời, đại sư cũng
thay mặt mười phương hết thảy chư Phật
khác miệng cùng tiếng khuyên dạy chúng ta. Hiện thời,
chúng ta đã gieo hạt giống thành Phật, tương
lai nhất định sẽ tới được [Cực
Lạc], không còn nghi ngờ gì; nhưng phải đặc
biệt lưu tâm, chớ nên coi thường, vạn nhất
tu không tốt đẹp, hễ đánh mất thân người,
không biết đến đời nào trong tương lai mới
lại gặp Phật pháp, khó thể dự đoán được.
Dẫu có gặp gỡ, rất có thể là ta chẳng tin tưởng,
chẳng tiếp nhận thì cũng không thể nào nắm
chắc [sẽ vãng sanh]!
Đức Phật ba lượt
chuyển pháp luân là Thị Chuyển, Khuyến Chuyển và
Tác Chứng Chuyển[2].
Đoạn kinh văn tiếp theo là Tác Chứng (làm chứng),
trong mười kiếp mà đã có vô số Thanh Văn, Bồ
Tát và Bổ Xứ Bồ Tát, các vị thượng thiện
nhân vô lượng vô biên, chứng tỏ số người
vãng sanh trong mười phương ba đời chẳng
thể tính đếm được.
(Kinh) Hựu
Xá Lợi Phất! Bỉ Phật hữu vô lượng vô
biên Thanh Văn đệ tử giai A La Hán, phi thị toán số
chi sở năng tri. Chư Bồ Tát chúng diệc phục như thị.
(經) 又舍 利弗 。
彼佛有無量無邊聲聞弟子。皆阿羅漢。非是算數之所能知。諸菩薩衆。亦復如是。
(Chánh kinh: Lại này, Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy
có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, đều
là A La Hán, chẳng thể dùng toán số để biết
được. Các hàng Bồ Tát cũng giống như vậy).
Đoạn kinh văn này nói đến học
trò của A Di Đà Phật trong Tây Phương thế giới,
cũng như nói đến số người vãng sanh Tây
Phương và sự thành tựu của họ trong mười
kiếp. Tây Phương thuần thuộc Đại Thừa,
tuyệt đối không có Thanh Văn, Duyên Giác. Chẳng những
là Đại Thừa mà còn đều là Phổ Hiền Bồ
Tát. Trong kinh, đức Phật nói: Bồ Tát nếu chẳng
tuân tu hạnh Phổ Hiền sẽ chẳng thể viên thành
Phật đạo. Hết thảy những người
vãng sanh Tây Phương đều tu theo phẩm đức
của Phổ Hiền Đại Sĩ. Dựa theo hạnh
của hàng Bồ Tát trong Viên Giáo để nói thì từ địa
vị Sơ Tín cho đến Đẳng Giác gồm năm
mươi mốt địa vị, đều là Phổ
Hiền Bồ Tát[3].
Kinh này nói tới trời, người, A La Hán, Bồ Tát, đều
là thuận theo phương khác mà nói. Nếu người
đới nghiệp vãng sanh sanh về Tây Phương thế
giới mà giống như người trong thế giới
phương khác, chưa đoạn phiền não, chỉ có
thể coi giống như những người từ địa
vị Lục Tín trong Viên Giáo trở xuống thì dùng danh xưng
“nhân thiên” để hình dung
bọn họ. Những ai đã đoạn được
Kiến Tư phiền não, đạt đến địa
vị Thất Tín, Bát Tín, giống như các vị A La Hán
trong những thế giới ở phương khác [thì gọi
họ là A La Hán], chứ thật ra họ đều là Phổ
Hiền Bồ Tát.
Ba bậc
chín phẩm trong bốn cõi Tây Phương và sanh về Tây
Phương có mối quan hệ trước sau. Những người
đã sớm sanh về Tây Phương thì có thể là đã
chứng được địa vị A Bệ Bạt
Trí, tức là Bổ Xứ Bồ Tát. Những người sanh
sau là Pháp Thân đại sĩ. Những người sanh sau đó
nữa (tức những người vãng sanh sau những người
đã chứng vị Pháp Thân đại sĩ) cũng chứng
A La Hán, đã đoạn Kiến Tư phiền não. Đây
hoàn toàn là sự thành tựu trong vòng mười kiếp. Do
đây có thể đoán định: Tu hành tại Tây
Phương, do không có duyên thoái chuyển, chẳng cần
phải tốn một thời gian rất dài, tối đa
là mười kiếp có thể tu đến địa vị
Đẳng Giác Bồ Tát. Đẳng Giác cũng giống
như thành Phật.
(Giải)
Tha phương định tánh Nhị Thừa, bất
đắc sanh bỉ. Nhược tiên tập
tiểu hạnh, lâm chung hồi hướng Bồ Đề,
phát đại thệ nguyện giả, sanh bỉ quốc
dĩ, Phật thuận cơ thuyết pháp, linh đoạn
Kiến Tư. Cố danh La Hán. Như Biệt Giáo Thất
Trụ, đoạn Kiến Tư chi loại, phi thật
Thanh Văn dã. Cái Tạng Thông nhị giáo, bất văn tha
phương Phật danh, kim văn Di Đà danh hiệu,
tín nguyện vãng sanh, tổng thuộc Biệt Viên nhị
giáo sở nhiếp cơ hỹ.
(解) 他方定性二乘。不得生彼。若先習小行。臨終回向菩提。發大誓願者。生彼國已。佛順機說法。令斷見思。故名羅漢。如別教七住。斷見思之類。非實聲聞也。蓋藏通二教。不聞他方佛名。今聞彌陀名號。信願往生。總屬別圓二教所攝機矣。
(Giải: Hàng định
tánh Nhị Thừa trong phương khác chẳng được
sanh về cõi ấy. Nếu là người tu tập hạnh
Tiểu Thừa từ trước, khi lâm chung hướng
về Bồ Đề, phát ra thệ nguyện lớn, sẽ
sanh về cõi ấy. Phật liền thuận theo căn
cơ để thuyết pháp, khiến họ đoạn
Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nên gọi là La Hán, giống
như bậc Thất Trụ Bồ Tát trong Biệt Giáo
đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc,
chứ không phải là Thanh Văn thật sự. Bởi lẽ,
trong Tạng Giáo và Thông Giáo, không nghe đến danh hiệu
chư Phật ở phương khác. Nay [những người]
nghe danh hiệu Di Đà, tín nguyện vãng sanh, nói chung đều
thuộc về căn cơ được thâu nhiếp bởi
hai giáo là Biệt và Viên vậy).
Đệ
tử Thanh Văn trong thế giới Tây Phương đều
là giả nói. Nếu họ thật sự mang căn tánh Tiểu
Thừa (định tánh Tiểu Thừa) sẽ chẳng thể
vãng sanh thế giới Cực Lạc! Căn tánh Tiểu Thừa
mà nếu hồi Tiểu hướng Đại thì cũng
có thể thành tựu. Nói theo cách bây giờ, họ đều
là những người theo phái bảo thủ trong nhà Phật.
Họ chỉ thừa nhận một mình Thích Ca Mâu Ni Phật
thành Phật, trọn chẳng thừa nhận vô lượng
chư Phật trong mười phương thế giới,
địa vị tu hành cao nhất chỉ đạt đến
A La Hán. Ở Thái Lan, tượng Phật rất nhiều,
nhưng đều là tượng Thích Ca Mâu Ni Phật, không
có vị Phật thứ hai nào. Họ còn bài xích Đại
Thừa, cho rằng Đại Thừa chẳng phải do Phật
nói. Họ hoàn toàn chẳng tin Tây Phương có A Di Đà Phật.
Nếu họ có thể tin tưởng, phát thệ nguyện
lớn, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì cũng
có thể thỏa nguyện sanh Tây. Phật cũng thuận
theo sở học của họ trong quá khứ để ứng
theo căn cơ mà thuyết pháp, khiến họ đoạn
Kiến Tư phiền não, giống như bậc A La Hán
trong các thế giới phương khác.
Người Tiểu Thừa sanh về
Tây Phương đều là Bồ Tát, lại còn đều
là A Bệ Bạt Trí, là Bồ Tát chứng trọn vẹn
ba thứ Bất Thoái. Tạng Giáo và Thông Giáo chẳng nghe
danh hiệu Phật trong các phương khác; nay những ai
nghe danh hiệu Di Đà, tín nguyện vãng sanh, nói chung đều
thuộc về Biệt Giáo và Viên Giáo. Tiểu Thừa hễ
quay đầu, thật sự phát nguyện cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thì họ chẳng
thuộc căn tánh Tạng Giáo hay Thông Giáo. Nếu chẳng
phải là căn tánh Viên Giáo thì tối thiểu cũng là
căn tánh Biệt Giáo. Kinh Vô Lượng Thọ tán thán bậc
Bồ Tát trong Tây Phương thế giới có trọn
đủ vô lượng công đức, từng nêu ra hai
mươi ba tỷ dụ, như “trí huệ rộng sâu như biển cả, tam-muội
bất động như núi Tu Di” v.v.... Đấy đều
chẳng phải là những thứ mà Tạng Giáo hay Thông
Giáo Bồ Tát có được. Hễ ai đới nghiệp
vãng sanh Tây Phương thì cũng được bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì;
đồng thời lại được đại chúng
đồng tu bạn lữ gia trì. Mỗi một vị Bồ
Tát trong Tây Phương thế giới đều yêu mến,
bảo vệ mỗi vị Bồ Tát mới sanh về, gia
trì vị ấy.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Bỉ
Phật quốc độ, thành tựu như thị công
đức trang nghiêm.
(經) 舍利弗。彼佛國土。成就如是功德莊嚴。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Cõi nước
Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như
thế đó)
Đoạn kinh văn
tổng kết này giống như đoạn trước,
chỉ có ý nghĩa khác nhau. Đoạn trước nói về
sự trang nghiêm nơi y báo, còn đoạn này nói về sự
trang nghiêm nơi chánh báo. Vì sao chúng ta hạ đại quyết
tâm và nguyện vọng kiên cường như vậy? Chính
là vì thành tựu trang nghiêm nơi chủ và bạn được
nói ở đây. Thành quả thực tế được
phơi bày trước mắt chúng ta, thành tích chính là những
người từ mười phương thế giới
vãng sanh Cực Lạc trong vòng mười kiếp liền
có thể chứng được địa vị Bổ
Xứ Bồ Tát. Trong các thế giới khác chẳng có chuyện
này! Đức Phật nói: Tu hành trong thế giới Sa Bà bắt
đầu từ khi chứng được Sơ Quả
Tu Đà Hoàn, đoạn hết tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc trong tam giới của Kiến Tư phiền não, bắt
đầu từ ngày hôm ấy, tu hết một A-tăng-kỳ
kiếp mới chứng được quả vị Tam Hiền,
tu hết một A-tăng-kỳ kiếp thứ hai mới
có thể chứng đến quả vị Thất Địa,
tu hết một A-tăng-kỳ kiếp thứ ba mới
chứng được quả vị Pháp Vân Địa (Thập
Địa), lên cao hơn nữa là Đẳng Giác. Tu trọn
ba A-tăng-kỳ kiếp thì mới có thể đạt đến
địa vị ấy, còn Tây Phương thế giới
chỉ cần mười kiếp, trong một đời
liền đạt được, chẳng cần phải
đợi đến đời thứ hai. Đây chính là “thành tựu như thị công
đức trang nghiêm” (thành tựu công đức trang
nghiêm như thế đó).
(Giải) Phật cập Thanh Văn, Bồ Tát, tịnh
thị Di Đà nhân trung, nguyện hạnh sở thành, diệc
thị quả thượng “nhất thành, nhất thiết
thành”. Thị tắc Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, các các phi
tự, phi tha, tự tha bất nhị. Cố vân “thành tựu
như thị công đức trang nghiêm”, năng linh tín nguyện
trì danh giả, niệm niệm diệc như thị thành tựu
dã. Sơ quảng trần bỉ độ y chánh diệu quả
dĩ khải tín cánh.
(解) 佛及聲聞菩薩。並是彌陀因中。願行所成。亦是果上一成一切成。是則佛。菩薩。聲聞。各各非自非他。自他不二。故云成就如是功德莊嚴。能令信願持名者。念念亦如是成就也。初廣陳彼土依正妙果以啟信竟。
(Giải: Phật và Thanh Văn, Bồ
Tát, hoàn toàn là do nguyện hạnh của Phật Di Đà trong
lúc tu nhân tạo thành, mà cũng là “một thành thì hết thảy
thành” nơi quả vị. Tức là Phật, Bồ Tát,
Thanh Văn, mỗi mỗi đều chẳng phải Tự,
chẳng phải Tha, Tự và Tha chẳng hai. Vì thế nói
“thành tựu công đức trang nghiêm như thế đó”,
có thể khiến cho người tín nguyện trì danh niệm
niệm cũng thành tựu như vậy. Phần thứ
nhất [trong Chánh Tông Phần], nói rộng về diệu quả
y báo và chánh báo nhằm khơi gợi lòng
tin đã xong).
[Trong đoạn
văn chú giải trên đây], “Phật”
chính là A Di Đà Phật, “Thanh
Văn, Bồ Tát” là người vãng sanh từ mười
phương thế giới, họ đều được
thành tựu bởi bốn mươi tám nguyện do A Di
Đà Phật đã phát thệ trong khi Ngài tu nhân. Nhân dân
trong thế gian trên từ bậc Đẳng Giác, dưới
cho đến chúng sanh địa ngục, hễ có thể
tin, có thể nguyện, chịu niệm Phật thì Phật
đều tiếp dẫn họ về thế giới Cực
Lạc, đến Tây Phương đều được
bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia
trì, đạt được thành tựu chẳng thể
nghĩ bàn. Do vậy, nói theo mặt quả thì “một thành, hết thảy
đều thành”, “một thành” là Phật, “hết thảy thành” là đại
chúng.
“Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, các các phi tự phi
tha” (Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, mỗi mỗi đều
chẳng phải Tự, chẳng phải Tha), với trí huệ,
kiến thức thông thường của chúng ta trong hiện
thời sẽ khó thể thấu hiểu điều này, còn
bậc Bồ Tát minh tâm kiến tánh có thể hiểu được,
đợi đến khi chúng ta sanh về Tây Phương rồi,
sẽ nhận biết những lời này đều là sự
thật. Hết thảy chư Phật, hết thảy chúng
sanh, sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo đều là những
vật được biến hiện bởi tự tánh.
Luận theo tự tánh thì nói là “phi
Tha” (chẳng khác), luận theo Tướng mà nói thì là “phi Tự”. Quán sát theo hai mặt
Tánh và Tướng thì Tánh là nhất thể, ta và A Di Đà
Phật là một, nên “phi Tha”.
Nói theo mặt Tướng thì A Di Đà Phật chẳng phải
là ta, tức là “phi Tự”.
Phật thì tánh đức hoàn toàn lưu lộ, chúng ta thì tánh
đức bị phiền não che lấp. Tự và Tha không
hai, Tánh và Tướng như một. Nếu thật sự
thông đạt đạo lý và sự thật này, sẽ có
thể biến công đức đã tu trong vô lượng kiếp
của A Di Đà Phật thành công đức của chính chúng
ta vì Tự và Tha chẳng hai. Ta tu hành mấy ngày, liền có
công đức bằng với A Di Đà Phật tu hành trong vô
lượng kiếp. Phương pháp chính là dùng tín nguyện
trì danh, lòng tin phải chân thật, nguyện phải thiết
tha. Trong kinh, đức Thế Tôn thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Năng niệm (chủ thể niệm
Phật) là cái tâm của ta, sở niệm (đối tượng
được niệm) là A Di Đà Phật. Hiểu rõ lý
luận và sự thật thì cũng sẽ biết phương
pháp chuyển biến; nhân duyên đầy đủ, chịu
thực hiện [phương pháp tu tập ấy] thì chính là
phước đức bậc nhất và thiện căn bậc
nhất trong thế gian lẫn xuất thế gian.
4.2.2. Riêng khuyên chúng sanh hãy nên
phát nguyện cầu được vãng sanh
(Giải) Tịnh Độ
thù thắng vị đới nghiệp vãng sanh. Hoành xuất
tam giới, Đồng Cư hoành cụ Tứ Độ,
khai hiển Tứ Giáo pháp luân. Chúng sanh viên tịnh tứ
độ, viên kiến tam thân, viên chứng tam Bất Thoái.
Nhân dân giai nhất sanh thành Phật. Như thị đẳng
thắng dị siêu tuyệt, toàn tại thử nhị khoa
điểm thị. Tu đế nghiên chi.
(解) 淨土殊勝謂帶業往生。橫出三界。同居橫具四土。開顯四教法輪。眾生圓淨四土。圓見三身。圓證三不退。人民皆一生成佛。如是等勝異超絕。全在此二科點示。須諦研之。
(Giải: Tịnh Độ thù thắng là
do đới nghiệp vãng sanh, vượt khỏi tam giới
theo chiều ngang, cõi Đồng Cư theo chiều ngang trọn
đủ bốn cõi [Tịnh Độ], khai hiển pháp
luân tứ giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên), chúng sanh thanh tịnh
trọn vẹn bốn cõi Tịnh Độ, thấy trọn
vẹn ba thân, chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái. Nhân dân đều thành Phật trong một đời.
Những sự thù thắng, lạ lùng, siêu việt, tuyệt
diệu như thế, hoàn toàn được chỉ bày
trong hai khoa này, hãy nên nghiên cứu kỹ lưỡng).
Đoạn văn chú giải
này nhằm khuyên phát nguyện, khuyên hành trì. Đại
sư nói Tịnh Độ thù thắng là vì “đới nghiệp vãng sanh, hoành xuất tam giới”
(đới nghiệp vãng sanh, vượt tam giới theo chiều
ngang”. Nói thông thường, phải đoạn hết Kiến
Hoặc, Tư Hoặc, chứng quả A La Hán của Tiểu
Thừa, hoặc chứng địa vị Thất Tín Bồ
Tát trong Đại Thừa, hoặc Thất Trụ Bồ
Tát trong Biệt Giáo mới có thể vượt thoát luân hồi.
Trong đời này, chưa có một ai có thể làm
được. Lão pháp sư Đàm Hư đã nói suốt
cả đời Ngài đã thấy có người tham Thiền
đắc Thiền Định, nhưng chưa thấy một
ai khai ngộ. Tham Thiền chẳng khai ngộ sẽ chẳng
thể thoát khỏi tam giới. Đắc Thiền Định
bất quá là sanh lên Tứ Thiền Thiên mà thôi! Lão cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ nói: Tại Đại Lục, gần bốn
mươi năm qua, trong mười ức người học
Mật Tông, người học Mật đạt thành tựu
chỉ có sáu người, tỷ lệ chẳng cân xứng!
Lão cư sĩ Hạ Liên Cư đối với Thiền,
Mật, Giáo đều có nghiên cứu, tới tuổi già Ngài
buông hết thảy xuống, Phật hiệu chẳng rời
miệng, xâu chuỗi chẳng rời tay, người ta nói
Ngài mê man trong Phật hiệu, ai nói gì cũng chẳng nghe
tiếng, đúng là một tấm gương tốt đẹp.
Thế giới Tây Phương chẳng phải
chỉ [thù thắng ở chỗ] “đới nghiệp liền có thể vãng sanh, vượt
khỏi tam giới theo chiều ngang”, mà còn [thù thắng ở
chỗ]: Tuy sanh về cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng
ba cõi kia như Phương Tiện, Thật Báo và Tịch
Quang cũng đồng thời sanh về, vì bốn cõi được
xếp theo chiều ngang. Cõi Phương Tiện là chỗ ở
của bậc đã đoạn sạch phiền não. Cõi Thật
Báo là chỗ ở của bậc Pháp Thân đại sĩ,
cõi Tịch Quang thuộc quả địa Như Lai. Chúng
ta đới nghiệp vãng sanh, một phẩm phiền não chưa
đoạn, làm sao có thể trong một đời liền
thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi? Đây đều là
do bổn nguyện và công đức của A Di Đà Phật
gia trì mà thành.
“Khai hiển tứ giáo pháp luân”: Sanh về Tây Phương, hết thảy
pháp môn đều nghe được, học được.
[Hành nhân Tịnh Độ] biết sự thật này, hãy nên
buông xuống hết thảy kinh luận. Tây Phương có
A Di Đà Phật là thầy, chư đại Bồ Tát là đồng
tham đạo hữu, hoàn cảnh ưu việt, học ắt
sẽ thành, sao lại khổ sở truy cầu trong cõi này?
Dẫu có thời gian đọc những đại kinh, đại
luận ấy, có thật sự hiểu hay chăng? Bài kệ
Khai Kinh có câu: “Nguyện giải
Như Lai chân thật nghĩa”. Thầy Lý nói: “Các vị đều chẳng hiểu
ý nghĩa của chữ Ngã thì làm sao hiểu được
ý nghĩa của Phật?” Đây là lời thật. Tôi khuyên đại
chúng tụng kinh Vô Lượng Thọ, trước hết
tụng ba ngàn biến, mỗi ngày ba biến, tụng ba năm
tâm sẽ định. Khi tụng, tâm phải chuyên, phải
định, những kinh điển khác nhất loạt buông
xuống. Kinh Vô Lượng Thọ giảng tường tận
hơn kinh A Di Đà. Kinh Di Đà lời lẽ đơn giản,
ý nghĩa bao trùm, chẳng dễ gì hiểu được.
Kinh Vô Lượng Thọ có thể giúp chúng ta kiến lập
tín tâm. Gần ba năm nay, tôi hoàn toàn dốc sức nơi
kinh Vô Lượng Thọ. Chẳng phải chỉ miệng
niệm, mà còn phải thời thời khắc khắc ghi
nhớ những giáo huấn trong kinh, biến thành tư tưởng,
hành vi của chính mình. Tụng càng nhiều, lãnh hội càng
sâu càng rộng. Những nghĩa lý trong kinh chẳng có cùng tận,
quý vị dùng hết thời gian suốt một đời
để niệm bộ kinh này thì những nghĩa lý trong ấy
đều không cùng tận. Dùng kinh này để khơi gợi
và cũng dùng nó để đặt vững cơ sở
cho ba món tư lương. “Tứ
giáo pháp luân” chính là xiển dương rộng rãi kinh Vô Lượng
Thọ.
“Chúng sanh viên tịnh tứ độ”
(chúng sanh thanh tịnh trọn vẹn bốn cõi Tịnh
Độ): So với câu “hoành cụ
tứ độ” (trọn đủ bốn cõi theo chiều
ngang) trong phần trước, câu này càng cao sâu hơn. “Viên tịnh tứ độ”
tối thiểu cũng phải là cảnh giới của Đẳng
Giác Bồ Tát. Viên mãn không thiếu khuyết là Nhất Sanh Bổ
Xứ như trong kinh đã nói. Hai chữ “nhất sanh” này được dùng theo lối song
quan[4],
Nhất Sanh là chẳng đợi đến đời thứ
hai, Nhất Sanh lại có nghĩa là hễ sanh về Tây
Phương liền viên tịnh bốn cõi, thấy trọn
vẹn ba thân, chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái. Giảng giải theo cách này thì hợp lý, vì có kinh
văn để chứng minh, tức câu “chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí”
(Chúng sanh sanh trong cõi ấy đều là bậc A Bệ Bạt
Trí) và “đắc dữ như
thị chư thượng thiện nhân câu hội nhất
xứ” (được cùng với các vị thượng
thiện nhân như thế tụ hội một chỗ). Chữ
“thượng thiện” chỉ
hàng Đẳng Giác Bồ Tát, những người kém hơn
gọi là “thiện nhân”. Tây
Phương thế giới là chỗ các vị thượng
thiện nhân tụ hội. Đức Phật giới thiệu
pháp môn này tường tận và thấu triệt như thế,
nếu nghe xong mà vẫn chẳng tin, tức là thiện
căn, phước đức chẳng đủ, nghiệp
chướng sâu nặng, hãy nên suy sâu nghĩ chín. Hai đoạn
kinh văn tiếp theo đây nói rõ vãng sanh như thế nào,
được vãng sanh hay không hết sức quan trọng,
mong hãy đặc biệt chú ý.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Cực Lạc
quốc độ, chúng sanh
sanh giả, giai thị A Bệ
Bạt Trí. Kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ,
kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở
năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ thuyết.
(經) 又舍利弗。極樂國土。眾生生者。皆是阿鞞跋致。其中多有一生補處。其數甚多。非是算數所能知之。但可以無量無邊阿僧祇說。
(Giải: Này Xá Lợi
Phất! Chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc
đều là A Bệ Bạt Trí, trong ấy có nhiều vị
là Nhất Sanh Bổ Xứ, chẳng thể tính toán để
biết được số lượng, chỉ có thể
nói là vô lượng, vô biên, A-tăng-kỳ).
Nhân dân từ
mười phương thế giới hễ sanh về
Tây Phương liền chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái. Trong các kinh luận đã nói: Tu đến bậc Thập
Địa Pháp Vân Địa Bồ Tát thì mới có thể
chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Trong số ấy
lại có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, Nhất
Sanh Bổ Xứ chính là Đẳng Giác Bồ Tát. Trong thế
giới Sa Bà chỉ có mình Di Lặc Bồ Tát là Nhất Sanh
Bổ Xứ, đang ở trong nội viện của trời
Đâu Suất, đợi đến năm mươi sáu ức
bảy ngàn vạn năm sau sẽ giáng thế thành Phật.
Tại Tây Phương thế giới, hậu bổ Phật
(Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát) vô lượng vô biên,
trong mười phương thế giới nếu có vị
Phật nào nhập diệt, liền qua đó điền vào
chỗ khuyết. Tây Phương thế giới giống
như nơi huấn luyện Phật để chờ bổ
nhiệm.
(Giải)
A Bệ Bạt Trí, thử vân Bất Thoái, nhất Vị Bất
Thoái, nhập thánh lưu, bất đọa phàm địa.
Nhị Hạnh Bất Thoái, hằng độ sanh, bất
đọa Nhị Thừa địa. Tam Niệm Bất
Thoái, tâm tâm lưu nhập Tát Bà Nhã hải. Nhược
ước thử độ, Tạng Sơ Quả, Thông Kiến
Địa, Biệt Sơ Trụ, Viên Sơ Tín, danh Vị Bất
Thoái. Thông Bồ Tát, Biệt Thập Hướng, Viên Thập
Tín, danh Hạnh Bất Thoái. Biệt Sơ Địa, Viên
Sơ Trụ, danh Niệm Bất Thoái. Kim Tịnh Độ,
Ngũ Nghịch, Thập Ác, thập niệm thành tựu.
Đới nghiệp vãng sanh, cư Hạ Hạ Phẩm giả,
giai đắc tam Bất Thoái.
(解) 阿鞞跋致。此云不退。一位不退。入聖流
。不墮凡地。二行不退。恆度生。不墮二乘地。三念不退。心心流入薩婆若海。若約此土。藏初果。通見地。別初住。圓初信。名位不退。通菩薩。別十向。圓十信。名行不退。別初地。圓初住。名念不退。今淨土。五逆十惡。十念成就。帶業往生。居下下品者。皆得三不退。
(Giải: A Bệ Bạt Trí, cõi này dịch là Bất Thoái:
1. Vị Bất
Thoái: Nhập dòng thánh, chẳng đọa vào địa vị
phàm phu.
2. Hạnh Bất Thoái: Luôn độ
sanh, chẳng đọa vào địa vị Nhị Thừa.
3. Niệm Bất
Thoái: Tâm tâm lưu nhập biển Nhất Thiết Trí.
Nếu dựa theo cõi này [để
luận định] thì [các địa vị như] Sơ
Quả trong Tạng Giáo, Kiến Địa trong Thông Giáo,
Sơ Trụ trong Biệt Giáo và Sơ Tín trong Viên Giáo gọi
là Vị Bất Thoái. Bậc Bồ Tát trong Thông Giáo, bậc
Thập Hướng trong Biệt Giáo, bậc Thập Tín
trong Viên Giáo thì gọi là Hạnh Bất Thoái. Bậc Sơ
Địa trong Biệt Giáo, bậc Sơ Trụ trong Viên
Giáo thì gọi là Niệm Bất Thoái. Nay Tịnh Độ
thì kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, mười niệm
thành tựu vãng sanh trong Hạ Hạ Phẩm đều
đắc ba thứ Bất Thoái).
A Bệ Bạt Trí (Avaivartika) là tiếng Phạn, có
nghĩa là Bất Thoái (không lui sụt). Ba thứ Bất
Thoái là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất
Thoái, đã được giải thích cặn kẽ trong đoạn
Huyền Nghĩa ở phần trước. Nếu nói theo
thế giới Sa Bà thì bậc Sơ Quả trong Tạng Giáo,
bậc Kiến Địa trong Thông Giáo (bằng với quả
Dự Lưu (Tu Đà Hoàn) trong Thanh Văn Thừa), bậc
Sơ Trụ trong Biệt Giáo, bậc Sơ Tín trong Viên Giáo,
bốn giáo tu hành đạt đến địa vị này
thì gọi là Vị Bất Thoái, nhưng các địa vị
này chỉ ngang nhau trên phương diện đoạn Hoặc,
chứ trí huệ khác nhau. Sơ Quả của Tạng Giáo
chẳng thể sánh bằng Kiến Địa trong Thông Giáo,
Kiến Địa trong Thông Giáo chẳng bằng Sơ Trụ
trong Biệt Giáo, Sơ Trụ trong Biệt Giáo chẳng bằng
Sơ Tín trong Viên Giáo. Trí huệ, công đức khác nhau!
Bậc Bồ Tát trong Thông Giáo, bậc Thập Hồi
Hướng Bồ Tát trong Biệt Giáo, bậc Thập Tín Bồ
Tát trong Viên Giáo thì gọi là Hạnh Bất Thoái (trong Hạnh
Bất Thoái không có Tạng Giáo). Sơ Địa của Biệt
Giáo và Sơ Trụ của Viên Giáo, phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân, gọi là Niệm Bất
Thoái (trong Niệm Bất Thoái không có Tạng Giáo và Thông Giáo).
Đây cũng chỉ là dựa theo sự đoạn Hoặc
để nói thì hai địa vị này bình đẳng, nhưng
trí huệ, công đức hoàn toàn khác nhau. Bậc Sơ Trụ
của Viên Giáo vượt trỗi Sơ Địa của
Biệt Giáo rất nhiều.
“Ngũ Nghịch,
Thập Ác” tạo tội cực nặng. Trong hết thảy
kinh, đức Phật nói kẻ ấy ắt đọa địa
ngục ngay trong một đời. Ngũ Nghịch (Pañcānantarya)
là:
1) Làm
thân Phật chảy máu. Đề Bà Đạt Đa
(Devadatta) ôm lòng hại Phật. Từ trên đỉnh núi xô
một tảng đá to xuống đè Phật, thần hộ
pháp từ trên không trung đỡ lấy, nhưng mảnh đá
văng trúng chân Phật chảy máu. Nếu hại Phật sẽ
kết tội với hết thảy chúng sanh. Phật là bậc
đạo sư của ba cõi, [hại Phật] khiến cho
cơ duyên nghe pháp đắc độ hết thảy chúng
sanh bị đứt đoạn, tội lỗi ngập trời.
2) Giết
A La Hán: La Hán là bậc đắc đạo, giáo hóa một
phương. Nếu hại La Hán chính là đoạn huệ
mạng của rất nhiều người. Bậc thiện
tri thức thật sự sẽ có ảnh hưởng đến
ngàn năm vạn đời. Như Khổng lão phu tử lúc
tại thế chẳng nổi danh, chẳng làm quan lớn,
là một người tầm thường bất đắc
chí, bất đắc dĩ phải quay về nhà dốc lòng
dạy học, những người tuân theo giáo huấn của
Ngài nhất định được phước. Cái học
do Ngài truyền lại chính là phước báo trời người
mà công đức còn chẳng thể nghĩ bàn, huống chi
giáo hóa của Phật là công đức lợi ích khôn sánh
trong thế gian lẫn xuất thế gian.
3) Giết
cha.
4) Giết
mẹ. Cha mẹ có ân đức rất lớn đối
với chúng ta. Giết hại cha mẹ thuộc về Tánh
Tội, tự nhiên đọa trong địa ngục Vô
Gián (Avīci Nairaka). Kinh Địa
Tạng đã giảng [về địa ngục Vô Gián] rất
tường tận.
5) Phá hòa
hợp Tăng: Tăng đoàn là nơi bồi dưỡng
nhân tài hoằng pháp cho nhà Phật. Nếu phá hoại Tăng
đoàn thì cũng là tội lỗi đọa địa ngục
Vô Gián. Chư Phật xuất thế
cũng chẳng cứu được. Thời gian trong
địa ngục Vô Gián cũng là vô lượng kiếp.
Thập
Ác (Daśākuśala) là thân: Giết, trộm,
dâm; miệng: Nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói
thêu dệt; ý: Tham, sân, si. Người tạo Thập Ác tùy
theo dụng tâm như thế nào mà chia thành ba phẩm Thượng,
Trung, Hạ, cũng đều đủ tư cách vào địa
ngục! Nếu nay những người tội ác như vậy
đều có thể mười niệm thành tựu thì Hạ
Hạ Phẩm đới nghiệp vãng sanh cũng chứng ba thứ Bất Thoái, điều này
thật sự chẳng thể nghĩ bàn!
(Giải) Nhiên cứ giáo đạo,
nhược thị phàm phu, tắc phi Sơ Quả đẳng.
Nhược thị Nhị Thừa, tắc phi Bồ Tát
đẳng. Nhược thị Dị Sanh, tắc phi Đồng
Sanh Tánh đẳng. Hựu, Niệm Bất Thoái, phi phục
Dị Sanh. Hạnh Bất Thoái, phi cẩn kiến đạo.
Vị Bất Thoái, phi thị nhân dân. Lạp đẳng tắc
thành đại vọng, tấn bộ tắc xả cố
xưng. Duy Cực Lạc Đồng Cư, nhất thiết
câu phi, nhất thiết câu thị. Thập phương Phật
độ, vô thử danh tướng, vô thử giai vị,
vô thử pháp môn. Phi tâm tánh chi cực trí, trì danh chi kỳ
huân, Di Đà chi đại nguyện, hà dĩ hữu thử?
Nhất Sanh Bổ Xứ giả, chỉ nhất sanh bổ
Phật vị, như Di Lặc, Quán Âm đẳng. Cực
Lạc nhân dân, phổ giai nhất sanh thành Phật. Nhân nhân
tất thật chứng Bổ Xứ. Cố kỳ trung đa
hữu thử đẳng thượng thiện, bất khả
sổ tri dã. Phục thứ, Thích Ca nhất đại thời
giáo, duy Hoa Nghiêm minh nhất sanh viên mãn, nhi nhất sanh viên
mãn chi nhân, tắc mạt hậu Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm trung, thập đại nguyện
vương, đạo quy An Dưỡng. Thả dĩ
thử khuyến tấn Hoa Tạng hải chúng. Ta hồ!
Phàm phu lệ đăng Bổ Xứ, kỳ xướng cực
đàm, bất khả trắc độ. Hoa Nghiêm sở bẩm,
khước tại thử kinh, nhi thiên hạ cổ kim, tín
miểu, nghi đa, từ phồn, nghĩa thực, dư
duy hữu phẫu tâm lịch huyết nhi dĩ!
(解) 然
據教道。若是凡夫。則非初果等。若是二乘。則非菩薩等。若是異生。則非同生性等。又。念不退。非復異生。行不退。非僅見道。位不退。非是人民。臘等則成大
妄。進步則捨故稱。唯極樂同居。一切俱非。一切俱是。十方佛土。無此名相。無此階位。無此法門。非心性之極致。持名之奇勳。彌陀之大願。何以有此。一生補
處者。只一生補佛位。如彌勒觀音等。極樂人民。普皆一生成佛。人人必實證補處。故其中多有此等上善。不可數知也。復次。釋迦一代時教。唯華嚴明一生圓滿。
而一生圓滿之因。則末後普賢行願品中。十大願王。導歸安養。且以此勸進華藏海眾。嗟乎。凡夫例登補處。奇倡極談。不可測度。華嚴所稟。卻在此經。而天下古
今。信渺疑多。辭繁義蝕。余唯有剖心瀝血而已。
(Giải: Nhưng
căn cứ theo đạo lý [thông thường] trong hết
thảy kinh điển thì nếu là phàm phu, sẽ chẳng
giống với bậc Sơ Quả. Nếu là
Nhị Thừa, sẽ chẳng phải là bậc Bồ
Tát. Nếu là Dị Sanh Tánh (địa vị Tam Hiền
trong Biệt Giáo) sẽ chẳng giống với bậc
Đồng Sanh Tánh (Sơ Trụ trong Viên Giáo). Lại nữa,
Niệm Bất Thoái chẳng còn là Dị Sanh, Hạnh Bất
Thoái thì chẳng phải chỉ mới thấy đạo,
Vị Bất Thoái thì chẳng phải là nhân dân. [Trong giáo
pháp thông thường] nếu thuộc địa vị
dưới mà nói lấn lên bậc trên sẽ trở thành
đại vọng ngữ, phải vượt lên địa
vị mới thì mới bỏ danh xưng cũ. Chỉ có
trong cõi Đồng Cư của Cực Lạc, hết thảy
đều chẳng phải, mà hết thảy cũng đều
phải. Các cõi Phật trong mười phương đều
chẳng có danh tướng này, không có địa vị này,
không có pháp môn này. Nếu không phải là do tâm tánh đạt
đến tột bậc, công hun đúc kỳ diệu của
pháp trì danh, và Di Đà đại nguyện thì làm sao đạt
được như thế này? Nhất Sanh Bổ Xứ là
chỉ một đời sẽ được bổ
đi làm Phật, giống như Di Lặc, Quán Âm v.v... Trọn
khắp nhân dân trong cõi Cực Lạc đều là bậc
thành Phật trong một đời, ai nấy đều thật
sự chứng được địa vị Bổ Xứ.
Vì thế trong ấy có nhiều bậc thượng thiện
như thế, chẳng thể tính biết
được!
Hơn nữa, trong những giáo pháp của
cả đời Phật Thích Ca, chỉ mình kinh Hoa Nghiêm nói
đến sự viên mãn trong một đời, nhưng cái
nhân viên mãn trong một đời nằm trong phẩm cuối
cùng là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, mười
đại nguyện vương dẫn về An Dưỡng.
Lại còn dùng điều này để khuyên lơn, sách tấn
Hoa Tạng hải chúng.
Than ôi! Phàm phu mà được dự vào bậc Bổ
Xứ là một sự khởi xướng bàn luận lạ
lùng, cao tột, chẳng thể suy lường được.
Điểm đặc thù của kinh Hoa Nghiêm hoàn toàn nằm
trong kinh này, nhưng thiên hạ xưa nay, người tin
tưởng ít ỏi, kẻ nghi ngờ đông nhiều.
Càng nói lắm, nghĩa càng hao, tôi chỉ có cách mổ tim vẩy
máu mà [nêu bày cho rõ nghĩa này] mà thôi!)
“Giáo” là kinh điển,
hết thảy kinh điển do đức Phật đã
nói. “Đạo” là đạo
lý. [Nếu căn cứ theo đạo lý thông thường
trong hết thảy kinh điển do đức Phật
đã nói thì] nếu là phàm phu, sẽ trọn chẳng phải
là thánh nhân. Nếu là Thanh Văn, Duyên Giác, quyết định
chẳng phải là Bồ Tát. [Trong các giáo pháp thông thường],
tầng cấp phân định rất rõ rệt.
“Nhược thị Dị Sanh, tắc
phi Đồng Sanh Tánh đẳng” (Nếu là Dị Sanh
Tánh thì chẳng phải giống với bậc Đồng
Sanh Tánh): Dị Sanh chính là địa vị Tam Hiền trong
Biệt Giáo, còn Đồng Sanh chính là địa vị Sơ
Trụ trong Viên Giáo. Đồng và Biệt (Dị) là nói về
chân tâm bổn tánh. Người minh tâm kiến tánh dùng cùng một
cái tâm với Phật, tức là dùng chân tâm, thì gọi là “Đồng Sanh Tánh”. Chưa thấy
tánh thì dùng thức tâm, khác với Phật, nên gọi là “Dị Sanh Tánh”. Đây chính là
chỗ khác biệt giữa Đồng Sanh Tánh và Dị Sanh
Tánh. Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền trong Biệt
Giáo dùng thức tâm, còn Sơ Địa trong Biệt Giáo dùng
chân tâm. Người tạo tác Ngũ Nghịch, Thập Ác
sanh về Tây Phương liền chứng ba thứ Bất
Thoái, mà ba thứ Bất Thoái chính là Đồng Sanh Tánh, so với
Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát vượt trội
quá nhiều. Nếu nói theo đạo lý [thông thường]
thì chẳng thông, vì Niệm Bất Thoái chẳng còn là Dị
Sanh Tánh; Niệm Bất Thoái là Sơ Trụ trong Viên Giáo, là
Sơ Địa trong Biệt Giáo, là Đồng Sanh Tánh, trọn
chẳng phải là Dị Sanh Tánh.
“Hạnh Bất Thoái, phi cẩn kiến
đạo, Vị Bất Thoái, phi thị nhân dân” (Hạnh
Bất Thoái chẳng phải chỉ thấy đạo, Vị
Bất Thoái chẳng phải là nhân dân): Mấy câu này mọi
người đều hiểu được.
“Lạp đẳng tắc thành
đại vọng” (Hễ ở địa vị dưới
mà nói lấn lên địa bên trên sẽ trở thành đại
vọng ngữ): Nói lố hơn địa vị [thật
sự chứng đắc] thì trong nhà Phật gọi là “đại
vọng ngữ”. “Tấn bộ
tắc xả cố xưng” (Hễ đạt lên địa
vị cao hơn thì mới bỏ danh xưng cũ): Nếu
đoạn được một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân thì là Sơ Trụ Bồ Tát, chẳng
còn là Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín nữa.
Lại giống như học sinh trung học thi đậu
đại học, liền gọi là sinh viên đại học;
chứng được Sơ Quả tức là thánh nhân, chẳng
phải là phàm phu. Chứng được Hạnh Bất
Thoái thì chính là Bồ Tát, chẳng phải Nhị Thừa.
“Duy Cực Lạc Đồng
Cư, nhất thiết câu phi, nhất thiết câu thị”
(Chỉ có cõi Đồng Cư của Cực Lạc là hết
thảy đều chẳng phải, hết thảy đều
là): Những điều vừa nói trong đoạn trước
là những chuyện bình thường, nhưng áp dụng vào
thế giới Cực Lạc sẽ chẳng thể nói cho
xuông được. Phiền não chưa đoạn, vốn
là phàm phu, hễ sanh về Tây Phương liền là bậc
Pháp Thân đại sĩ đầy đủ ba thứ Bất
Thoái, như vậy rốt cuộc là phàm phu hay là Pháp Thân
đại sĩ? Nói người ấy là Pháp Thân đại
sĩ thì người ấy chưa đoạn phiền
não! Nói người ấy là phàm phu thì người ấy đã
chứng ba thứ Bất Thoái. Do vậy nói “câu phi” (đều chẳng phải) mà cũng “câu thị” (đều là).
Trong mười phương cõi nước không có hiện
tượng này, mà cũng không địa vị giống như
vậy. Nếu chẳng phải là do tâm tánh đến mức
cùng cực, do vận dụng chân tâm bổn tánh đã đạt
đến cực điểm, tức là thấu đạt
tâm tánh của cái tâm năng niệm đến mức cực
điểm, chẳng phải là chuyện tầm thường!
Do sự un đúc kỳ diệu của trì danh, lại thêm
oai thần và bổn nguyện của Phật Di Đà gia trì,
cho nên mới có hiện tượng đặc biệt thù
thắng này: Một phẩm tội nghiệp chưa tiêu mà
sau khi sanh về Tây Phương sẽ có địa vị bình
đẳng với hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo và
hàng Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo.
Mấy câu nói trên đây đã giảng thấu
triệt như vậy, chẳng lạ gì Ấn Quang đại
sư khen ngợi bộ Yếu Giải này như sau: “Nếu cổ Phật tái lai để
soạn chú giải cho kinh Di Đà thì cũng chẳng thể
nào viết hay hơn được”. Người ta coi
rẻ pháp môn Niệm Phật là vì những điều được
dạy [trong pháp môn này] quá huyền, quá diệu, khiến cho
người ta khó lòng tin tưởng được! Nhưng
khi đức Phật giảng kinh này, đã đặc biệt
hướng về vị đại diện cho những người
đương cơ là ngài Xá Lợi Phất để giảng
giải toàn bộ kinh. Trong mười vị đại đệ
tử, ngài Xá Lợi Phất trí huệ bậc nhất. Đủ
thấy cần phải có trí huệ rất cao thì mới có
thể tiếp nhận pháp môn này. Trong hội Hoa Nghiêm,
Văn Thù, Phổ Hiền phát nguyện vãng sanh. Trong các đại
Bồ Tát, Văn Thù là trí huệ bậc nhất, Phổ Hiền
là đức hạnh bậc nhất. Trong hội Vô Lượng
Thọ, các vị đại Bồ Tát đều cùng tuân tu
đức hạnh của Phổ Hiền đại sĩ,
cho thấy pháp môn này cần phải là người trí huệ
lẫn đức năng đều khá thì mới có tư
cách tiếp nhận, đủ chứng tỏ bất cứ
pháp môn nào cũng đều chẳng thể sánh bằng pháp
môn này được!
Ở đây, [Ngẫu Ích
đại sư] cũng giải đáp cho chúng ta một
câu hỏi trọng yếu. Trong bản dịch kinh Di Đà
của La Thập đại sư có một câu kinh văn
là “nhất tâm bất loạn”.
Bản dịch của ngài Huyền Trang là trực dịch (dịch sát theo nguyên văn, không dịch
ý), theo nguyên văn trong bản tiếng Phạn chẳng phải
là “nhất tâm bất loạn”.
Đối với nhất tâm bất loạn, người
đời sau nêu ra rất nhiều ý kiến. Sự nhất
tâm là đoạn Kiến Tư phiền não, là cảnh giới
của A La Hán. Lý nhất tâm là cảnh giới của
Sơ Trụ trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa trong Biệt
Giáo, là cảnh giới của Pháp Thân đại sĩ.
Đọc đến đoạn chú giải này, đối
với câu dịch “nhất tâm
bất loạn” của La Thập đại sư chẳng
còn nghi hoặc nữa. Kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác hễ
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới liền
chứng ba thứ Bất Thoái, ba thứ Bất Thoái là Lý nhất
tâm bất loạn. Vì sao vậy? Chẳng biết! Ngẫu
Ích đại sư bảo chúng ta: Đấy là vì “do tâm tánh thấu đạt đến
mức cùng cực, công huân kỳ diệu của sự trì
danh, và đại nguyện của Di Đà” gia trì nên mới thành
ra như vậy.
“Nhất Sanh Bổ
Xứ” tức là về sau sẽ được bổ
nhiệm làm Phật, thành tựu của vị ấy hoàn toàn
giống như Phật, chỉ là chưa ở địa
vị Phật. Ngài Di Lặc là Bổ Xứ Bồ Tát trong thế
giới này. Quán Thế Âm Bồ Tát là Bổ Xứ Bồ
Tát trong thế giới Tây Phương. Nhân dân cõi Cực Lạc
đều là một đời thành Phật, ai nấy đều
thật sự chứng địa vị Bổ Xứ. Sanh
về Tây Phương thế giới phải mất thời
gian bao lâu mới chứng được địa vị
Bổ Xứ Bồ Tát? A Di Đà Phật thành Phật đến
nay chỉ mới mười kiếp, trong kinh ghi “kỳ trung đa hữu Nhất
Sanh Bổ Xứ” (trong ấy có nhiều vị Nhất
Sanh Bổ Xứ). Do có chữ “nhiều”
chứng tỏ con số Bổ Xứ Bồ Tát trong mười
kiếp đã hơn một nửa. Dựa theo điều
này để suy luận, người vãng sanh từ một
đến sáu kiếp đều đã tiến đến địa
vị Bổ Xứ Bồ Tát. Tính ra thời hạn họ
tu hành chẳng hơn năm sáu kiếp mà thôi! Nếu so sánh
với thời gian ba đại A-tăng-kỳ kiếp
trong thế giới Sa Bà, dường như không có cách nào
so sánh được.
“Thích Ca nhất đại thời
giáo” (Giáo pháp trong suốt một đời Phật Thích
Ca), ở đây nói tới Phật Thích Ca nhằm tượng
trưng cho các cõi Phật ngoài thế giới Tây
Phương, tình trạng trong các cõi ấy đại khái
giống như thế giới Sa Bà. Ngoài ba kinh Tịnh
Độ ra, trong hết thảy các kinh thì chỉ có mình
kinh Hoa Nghiêm nói tới chuyện một người trong một
đời tu hành viên mãn thành Phật. Thiện Tài tham học
năm mươi ba lần, địa vị của Ngài là
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Mỗi lần tham phỏng
một vị, địa vị của Thiện Tài lại
nâng cao hơn một tầng. Trong năm mươi ba địa
vị thì có mười một vị là Đẳng Giác Bồ
Tát. Khi tham phỏng Phổ Hiền Bồ Tát thì Thiện Tài
đã viên mãn thành Phật. Trong hội Hoa Nghiêm, khi Thiện
Tài tham phỏng phu nhân Ma Da thì Ngài đã là Đẳng Giác Bồ
Tát, từ phu nhân Ma Da đến ngài Di Lặc là mười
vị thiện tri thức, Ngài đã dự vào địa vị
Đẳng Giác từ lâu. Di Lặc Bồ Tát giới thiệu
Thiện Tài đến tham học với Phổ Hiền Bồ
Tát, Phổ Hiền Bồ Tát dạy Thiện Tài niệm Phật
cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đến
thế giới Cực Lạc để viên thành Phật
đạo. Đối với chuyện này, chúng ta phải
chú tâm suy nghĩ, đức Phổ Hiền không chỉ khuyên
mình Thiện Tài mà còn khuyên khắp đại chúng trong hải
hội Hoa Tạng gồm bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ, toàn thể đều cầu
sanh về thế giới Cực Lạc. Đạo sư
của thế giới Hoa Tạng là Tỳ Lô Giá Na Như
Lai, Văn Thù và Phổ Hiền là trợ thủ chánh yếu
của Tỳ Lô Giá Na Phật. Nay ngài Văn Thù phát nguyện
cầu vãng sanh, ngài Phổ Hiền khuyên khắp đại
chúng trong hải hội; hai vị đại đệ tử
hoàn toàn chẳng phản bội thầy, mà thầy cũng
chẳng quở trách bọn họ. Chúng ta hãy suy nghĩ chuyện
này nhiều lượt thì mới thật sự tin tưởng
pháp môn Tịnh Độ, và cũng mới có thể thật
sự phát tâm đạt đến chỗ cùng cực của
tâm tánh. Đối với những thành quả của người
[vãng sanh] ấy, các vị Bồ Tát trong mười
phương thế giới chẳng thể thấu hiểu,
vì sao kẻ chưa đoạn phiền não, tội nghiệp
cực nặng, niệm mấy câu Phật hiệu lại
có thể sanh về Tây Phương, trí huệ, đức
năng liền giống hệt bậc Đẳng Giác Bồ
Tát? Họ thật sự chẳng biết đức năng
của người ấy đã được bổn nguyện
của A Di Đà Phật gia trì, làm tăng thượng duyên.
Tôi vừa
mới nói tới chuyện so sánh giữa kẻ Ngũ Nghịch
Thập Ác vãng sanh và bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên
Giáo. Ở chỗ này, đại sư nói kẻ Ngũ Nghịch
Thập Ác sau khi sanh về Tây Phương, hết thảy sự
thụ dụng giống như hàng Đẳng Giác Bồ
Tát. Đại sư nói chúng sanh trong chín pháp giới chẳng thể dùng trí huệ của chính
mình để hiểu rõ điều này. “Phàm phu lệ đăng Bổ Xứ, kỳ xướng
cực đàm, bất khả trắc độ” (Phàm phu
mà được xếp vào hàng Bổ Xứ, sự khởi
xướng, đàm luận lạ lùng, tột bậc ấy
chẳng thể nào suy lường được). Tông chỉ
“một đời thành Phật”
được nói trong kinh Hoa Nghiêm đã hoàn toàn nằm
trong kinh này. Do vậy, kinh này chính là quy túc và tổng kết
của kinh Hoa Nghiêm. Thiên hạ xưa nay kẻ tin tưởng
ít ỏi, người hoài nghi đông đảo, dùng ngôn ngữ,
văn từ thảo luận Tịnh Tông rất nhiều,
càng nhiều càng chẳng hiểu rõ! Trong những trước
thuật của bậc đại đức hữu tu hữu
chứng càng có nhiều lời hoài nghi Tịnh Tông. Chẳng
hạn như bộ Hoa Nghiêm Hợp Luận của Lý
Trưởng Giả là một thí dụ. Kinh Hoa Nghiêm từ
cổ đến nay chỉ có hai bản chú giải, một
là bản của Thanh Lương đại sư, hai là bản
của Lý Trưởng Giả. Lý Trưởng Giả sống
trước thời Thanh Lương đại sư[5].
Ngài muốn soạn chú giải cho kinh Hoa Nghiêm bèn tính kiếm
một nơi thanh tịnh. Khi
lên núi, Ngài gặp một con cọp, Ngài cầm gậy gõ vào
đầu cọp, bảo nó: “Ta muốn tìm một nơi
thanh tịnh để viết chú giải cho kinh Hoa Nghiêm,
ngươi có biết chỗ nào hay không?” Cọp vẫy đuôi
dẫn Ngài đi theo, đi đến một hang núi, vốn
là hang cọp. Cọp dọn nhà, nhường chỗ ấy
cho Ngài chú giải kinh. Một hôm, chợt có hai cô gái từ
bờ ao bước tới hầu hạ cơm nước
cho Ngài. Hai năm sau, chú giải sắp xong, Ngài nghĩ hai cô
gái này hầu hạ rất lâu mà cũng chẳng biết tên
họ, vừa dấy lên ý nghĩ ấy thì hai cô gái đã
không biết đi đâu mất. Đấy chính là chư
thiên cúng dường. Trong bộ Hợp Luận, Lý Trưởng
Giả nói cõi Tây Phương là quyền biến, còn Hoa Tạng
mới là thật, Hoa Tạng lớn, Tây Phương nhỏ.
Lý Trưởng Giả đạo đức tu trì như vậy
mà còn có thiên kiến như thế đối với Tây
Phương Tịnh Độ, huống gì những người
khác! Ngẫu Ích đại sư nói: “Lời nhiều, nghĩa hao” chính là nói về Lý Trưởng
Giả vậy!
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Chúng sanh văn giả, ưng
đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc.
Sở dĩ giả hà? Đắc dữ như thị chư
thượng thiện nhân, câu hội nhất xứ.
(經) 舍利弗。眾生聞者。應當發願。願生彼國。所以者何。得與如是諸上善人。俱會一處。
(Chánh kinh: Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh
nghe vậy, hãy nên phát nguyện, nguyện sanh vào cõi ấy.
Vì cớ sao thế? Được cùng các vị thượng
thiện nhân như thế cùng tụ hội một chỗ).
Đức
Thế Tôn kêu ngài Xá Lợi Phất, mà cũng là gọi chúng
ta, khuyên dạy chúng ta “hãy nên
phát nguyện, nguyện sanh vào cõi ấy”. Hoa Nghiêm là pháp
môn căn bản của các giáo pháp trong suốt một đời
đức Phật. Hết thảy các kinh đều là quyến
thuộc của Hoa Nghiêm, chỗ quy túc của pháp môn căn
bản là Tây Phương Cực Lạc thế giới nhưng
mọi người chẳng thể tin tưởng, nói
chung là vì thiện căn còn chưa chín muồi. Ngẫu Ích
đại sư rát miệng buốt lòng chỉ bày cho chúng
ta, giải đáp từng tầng nghi nan một. Sau khi đã
hiểu rõ, hãy nên phát nguyện vãng sanh thì mới chẳng cô
phụ nỗi khổ tâm của đại sư. Ở đây,
đức Phật lại khuyên lơn chúng ta cầu sanh Tịnh
Độ. Tịnh Độ thù thắng ở chỗ “các vị thượng thiện
nhân tụ hội một chỗ”. Trong thế gian, bạn
lành ít ỏi, bạn ác đông đúc; những ai cổ vũ,
khích lệ chúng ta buông xuống vạn duyên, chuyên tu pháp môn này
thì là bạn lành. Nếu khuyên chúng ta: “Kinh Hoa Nghiêm rất
hay, phải đọc cho nhiều. Kinh Pháp Hoa cũng chẳng
thể không đọc”, đấy chẳng phải là thiện
hữu. Nói như vậy khiến cho ta phân tâm và xen tạp.
Dẫu nỗ lực thì cũng là tạp tấn, chẳng
phải là tinh tấn. Một đời người đọc
một bộ kinh là đủ rồi. Không chỉ buông xuống
thế duyên (duyên trong cõi đời) mà Phật pháp cũng
phải buông xuống. Người có thể làm được
như vậy thì không một ai chẳng vãng sanh.
(Giải)
Tiền La Hán, Bồ Tát, đản khả vân “thiện
nhân”, duy Bổ Xứ cư nhân vị chi cực, cố vân
“thượng”. Kỳ số thậm đa, cố vân
“chư”. “Câu hội nhất xứ”, do ngôn Phàm Thánh Đồng
Cư, tầm thường do thật thánh quá khứ hữu
lậu nghiệp, quyền thánh đại từ bi nguyện,
cố phàm phu đắc dữ thánh nhân đồng cư.
Chí thật thánh hôi thân, quyền thánh cơ tận, tiện
thăng trầm thạc dị, khổ lạc huyền thù.
Nãi tạm đồng, phi cứu cánh đồng dã. Hựu,
thiên nhưỡng chi gian, kiến văn giả thiểu, hạnh
hoạch kiến văn, thân cận bộ xu giả thiểu.
Hựu, Phật thế thánh nhân túng đa, như trân,
như thụy, bất năng biến mãn quốc độ,
như chúng tinh, vi trần. Hựu, cư tuy đồng, nhi
sở tác, sở biện, tắc huýnh bất đồng.
Kim đồng dĩ vô lậu bất tư nghị nghiệp,
cảm sanh câu hội nhất xứ, vi sư hữu,
như huân, như trì, đồng tận vô minh, đồng
đăng Diệu Giác. Thị tắc hạ phàm chúng sanh
ư Niệm Bất Thoái trung, siêu tận tứ thập nhất
nhân vị. Nhược vị thị phàm phu, khước bất
lịch Dị Sanh, tất bổ Phật chức, dữ
Quán Âm, Thế Chí vô biệt. Nhược vị thị Nhất
Sanh Bổ Xứ, khước khả danh phàm phu, bất
khả danh Đẳng Giác Bồ Tát. Thử giai giáo võng sở
bất năng thâu, sát võng sở bất năng lệ.
(解) 前
羅漢菩薩。但可云善人。唯補處居因位之極。故云上。其數甚多。故云諸。俱會一處。猶言凡聖同居。尋常由實聖過去有漏業。權聖大慈悲願。故凡夫得與聖人同
居。至實聖灰身。權聖機盡。便升沉碩異。苦樂懸殊。乃暫同。非究竟同也。又。天壤之間。見聞者少。幸獲見聞。親近步趨者少。又。佛世聖人縱多。如珍如瑞。
不能遍滿國土。如眾星微塵。又。居雖同。而所作所辦。則迥不同。今同以無漏不思議業。感生俱會一處。為師友。如壎如篪。同盡無明。同登妙覺。是則下凡眾
生。於念不退中。超盡四十一因位。若謂是凡夫。卻不歷異生。必補佛職。與觀音勢至無別。若謂是一生補處。卻可名凡夫。不可名等覺菩薩。此皆教網所不能收。
剎網所不能例。
(Giải: La Hán, Bồ
Tát được nói trong đoạn trước chỉ
có thể gọi là “thiện nhân”, riêng hàng Bổ Xứ là tột
bậc trong địa vị tu nhân, nên gọi là “thượng”.
Số
lượng thật nhiều, nên gọi là “chư”. “Cùng tụ
hội một chỗ”: Nếu nói về Phàm Thánh Đồng
Cư thì thông thường, bậc thật thánh do có nghiệp
hữu lậu trong quá khứ, bậc quyền thánh (thánh
nhân thị hiện) do đại nguyện từ bi, nên phàm
phu được ở chung một cõi với thánh nhân.
Đến khi bậc thật thánh diệt thân và cơ duyên
thị hiện của bậc quyền thánh đã hết,
[thì phàm phu và thánh nhân] liền thăng trầm thật khác
biệt, khổ sướng rất khác, nên chỉ là “tạm
đồng” (ở chung với nhau tạm thời), chứ
không phải là rốt ráo “đồng”. Hơn nữa, trong
khoảng trời đất, ít ai thấy nghe [thánh nhân], những
người may mắn được thấy, nghe, thân cận,
theo học hỏi chỉ là số ít. Hơn nữa, khi Phật
tại thế, thánh nhân dẫu đông, nhưng [vẫn
là hiếm hoi] như đồ quý báu, như vật tốt
lành, chẳng thể trọn khắp cõi nước giống
như các ngôi sao hay vi trần. Hơn nữa, tuy cùng sống
[trong một quốc độ], nhưng việc làm, hành
động hết sức khác biệt. Nay [trong cõi Cực Lạc]
thì cùng do nghiệp vô lậu chẳng thể nghĩ bàn cảm
vời mà cùng tụ hội một chỗ, làm thầy bạn
cho nhau, giống như ống tiêu với ống sáo, cùng hết
sạch vô minh, cùng đạt lên Diệu Giác. Do vậy,
chúng sanh kém cỏi, phàm phu, ở trong Niệm Bất Thoái,
vượt trọn hết bốn mươi mốt địa
vị tu nhân. Nếu bảo họ là phàm phu thì họ chẳng
trải qua các địa vị Dị Sanh, mà dự ngay vào
địa vị Bổ Xứ, chẳng khác gì Quán Âm, Thế
Chí. Nếu bảo họ là Nhất Sanh Bổ Xứ thì chỉ
có thể gọi họ là phàm phu, chẳng thể gọi họ là Đẳng Giác Bồ
Tát. Điều này chẳng thể gồm thâu trong giáo pháp
nào, mà cũng chẳng thể có trong bất cứ cõi nước
nào).
La Hán và Bồ Tát đều có thể gọi là
“thiện nhân”, nhưng chỉ
có Bổ Xứ Bồ Tát có thể gọi là “thượng thiện”. Số
lượng Bổ Xứ Bồ Tát rất đông. Thế
giới Sa Bà của chúng ta cũng là cõi Phàm Thánh Đồng
Cư. “Thật thánh” là thánh
nhân thật sự, nhưng vẫn còn nghiệp hữu lậu
trong quá khứ chưa đoạn sạch, chẳng hạn
như các vị La Hán, Bích Chi Phật, sau khi chứng Sơ
Quả còn phải bảy lần sanh lên cõi trời hay trong
nhân gian vì còn nghiệp hữu lậu chưa đoạn hết.
Họ đã đoạn hết Kiến Hoặc, nhưng chưa
hết Tư Hoặc, do vậy, cần phải tái sanh. “Quyền thánh” chính là các bậc
quyền xảo phương tiện, đại quyền
thị hiện, như các vị Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí,
Địa Tạng, đã thành Phật từ trong nhiều
kiếp lâu xa về trước, thị hiện trong thế
gian, sống chung với chúng ta. Như ngài Pháp Chiếu thấy
đức Văn Thù, đức Văn Thù là đại quyền
thị hiện. Tôn giả Ca Nặc Ca được nhắc
tới trong Thủy Sám cũng là một vị A La Hán, đạo
tràng của Ngài ở Tứ Xuyên. Ngộ
Đạt quốc sư có duyên với Ngài nên gặp gỡ,
nhưng duyên chỉ có một lần, không có lần thứ
hai. Thánh nhân tuy nhiều, nhưng giống như của báu,
như điềm lành[6],
chẳng thể trọn khắp cõi nước. Tây
Phương khác hẳn, hằng ngày có thể gặp mặt
các vị Bồ Tát. Lúc Phật tại thế, Thường
Tùy Chúng có đến một ngàn hai trăm năm
mươi lăm vị, các vị Bồ Tát chẳng thể
đếm nổi. Lấy đại thành Xá Vệ làm thí dụ,
có mười vạn người, đức Phật giảng
kinh trong thành ấy nhiều năm, nhưng người
đích thân nghe đức Phật giảng kinh cũng được
một phần ba, những người biết có Phật,
nhưng chưa từng thấy Phật cũng chiếm một
phần ba, một phần ba còn lại chẳng biết Phật
là ai! Tuy cùng sống một chỗ, nhưng việc làm, hành
vi khác nhau. Việc làm của thánh nhân là cầu sanh thế
giới Cực Lạc, khuyên dạy hết thảy chúng
sanh vãng sanh. Phàm phu lo toan những chuyện thuộc về
tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, luân
chuyển trong lục đạo.
Cõi Phàm Thánh Đồng
Cư của thế giới Tây Phương rất khác cõi
Phàm Thánh Đồng Cư trong mười phương thế
giới. Đại sư nói: “Kim
đồng dĩ vô lậu bất tư nghị nghiệp,
cảm sanh câu hội nhất xứ, vi sư hữu” (Nay
do nghiệp vô lậu chẳng thể nghĩ bàn mà cảm vời
cùng tụ hội một chỗ, làm thầy bạn cho nhau).
Mấy chữ “vô lậu bất
tư nghị nghiệp” rất quan trọng. Nếu nói
về thánh nhân thì không có vấn đề gì, nếu nói về
kẻ phàm phu kém hèn vãng sanh thì sợ rằng
họ chẳng thể gánh vác được, dường
như đáng nghi, nhưng trong kinh lại dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện
căn, phước đức, nhân duyên” (Chẳng thể
dùng chút thiện căn, phước đức, nhân duyên)! Đủ
thấy phàm là người vãng sanh đều là người
trọn đủ thiện căn, phước đức,
nhân duyên. Trong [phần chú giải] chương Thượng
Phẩm Thượng Sanh của Quán Kinh, Thiện Đạo
đại sư đã khai thị rất minh bạch: Nếu
kẻ nào chẳng phải là lắm thiện căn, nhiều
phước đức thì có giảng cho hắn [nghe pháp môn
Tịnh Độ], hắn cũng chẳng thể tin
tưởng! Ai có thể tin tưởng là do thiện
căn trong nhiều đời nhiều kiếp đã chín
muồi; lại còn có thể phát nguyện cầu vãng sanh bèn
là lắm phước đức. Trong lời chú giải ở
đây, Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Tâm tánh chi cực trí, trì danh chi kỳ huân” (do tâm tánh thấu
đạt đến cùng cực và công huân kỳ diệu của
pháp trì danh), hai câu này hết sức có trọng lượng.
Tâm tánh vô lượng vô biên, niệm một tiếng Phật
hiệu liền có vô lượng vô biên phước đức.
Tin thật sự, nguyện thiết tha, nhất tâm trì danh,
chính là “tâm tánh chi cực trí” (thấu
đạt tâm tánh đến mức cùng cực). Danh hiệu
Di Đà cũng là đức hiệu của tự tánh, Tự
và Tha chẳng hai. Chúng ta vận dụng tâm tánh đến mức
cùng cực thì công đức của danh hiệu cũng biến
thành cùng cực, nghiệp vô lậu chẳng thể nghĩ
bàn, lại còn được bổn nguyện, công đức
của A Di Đà Phật làm tăng thượng duyên, nên mới
có thể cùng các vị thượng thiện nhân cùng tụ
hội một chỗ, làm thầy, làm bạn, cho nên công
đức thành tựu nhanh chóng.
“Như huân, như trì ”: Đây là chữ trong Kinh Thi, [Huân và Trì]
là hai thứ nhạc khí thời cổ. Huân (壎) đọc giống như Huyên (喧)[7],
Trì (篪) đọc
giống như chữ Trì (池). Hai thứ âm thanh hòa hợp, hình dung anh
em hòa thuận. Ý nói: Sanh về Tây Phương sẽ cùng với
Đẳng Giác Bồ Tát giống như anh em một niềm
thân ái, mọi người ở cùng một chỗ. Họ
còn có một phần sanh tướng vô minh chưa đoạn,
nhưng chúng ta cùng với họ sẽ đều hết vô
minh, Kiến Tư, Trần Sa khỏi cần phải nói đến
nữa! Không chỉ là chứng ba thứ Bất Thoái mà còn là
chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, ngang bằng
bậc Đẳng Giác Bồ Tát. “Đồng đăng Diệu Giác” (cùng lên địa
vị Diệu Giác): Diệu Giác là quả vị Phật trong
Viên Giáo.
Ngũ Nghịch, Thập Ác là hạng phàm phu kém
cỏi nhất, sanh về Tây Phương ở chung một
chỗ với các vị thượng thiện nhân, vượt
thoát Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt
phẩm vị, đủ thấy sau khi sanh về Tây
Phương, chẳng cần phải trải qua ba hay bốn
kiếp, rất nhanh chóng chứng ngay địa vị Bổ
Xứ làm Phật, ta lại có thể suy ra rằng: Trong thế
giới Tây Phương, Bổ Xứ Bồ Tát chiếm đại
đa số. Phàm phu đới nghiệp vãng sanh trong một
đời liền có đạt đến địa vị
Bổ Xứ, chẳng khác gì các vị Quán Âm, Thế Chí. Kẻ
mới vừa vãng sanh cõi Đồng Cư, Kiến Hoặc,
Tư Hoặc chưa đoạn, Vô Minh chưa phá, vẫn
còn mang thân phận phàm phu, chẳng phải là Đẳng Giác.
Do vậy, Tây Phương thế giới đúng là như
trong phần trước đã nói: Hết thảy đều
chẳng phải, hết thảy đều phải.
“Thử giai giáo võng sở bất
năng thâu, sát võng sở bất năng lệ” (Điều
này chẳng thể gồm thâu trong giáo pháp nào, mà cũng chẳng
thể có trong bất cứ cõi nước nào): “Giáo võng” chính là kinh giáo do Thích
Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong bốn mươi chín năm,
chưa hề nói đến chuyện này. Trong hết thảy
các cõi Phật cũng chẳng có tình huống này. Đây chính
là do tâm tánh đạt đến cùng cực, công đức
của danh hiệu chẳng thể nghĩ bàn, do bổn
nguyện, oai thần của Phật Di Đà gia trì. Cõi Cực
Lạc Đồng Cư trong pháp môn Tịnh Độ vượt
trội hết thảy các cõi nước Phật, ngày nay
may mắn gặp gỡ, chỉ cần chiếu theo phương
pháp và lý luận trong kinh điển để tu học thì
chẳng bao lâu sẽ là bậc đại thánh nhân trong cõi
Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc
thế giới.
(Giải)
Đương tri ngô nhân đại sự nhân duyên, Đồng
Cư nhất quan, tối nan thấu thoát. Duy Cực Lạc
Đồng Cư, siêu xuất thập phương Đồng
Cư chi ngoại. Liễu thử phương năng thâm
tín Di Đà nguyện lực. Tín Phật lực,
phương năng thâm tín danh hiệu công đức. Tín
trì danh, phương năng thâm tín ngô nhân tâm tánh, bổn bất
khả tư nghị dã. Cụ thử thâm tín, phương
năng phát ư đại nguyện. Văn trung “ưng
đương” nhị tự, tức chỉ thâm tín. Thâm
tín phát nguyện, tức Vô Thượng Bồ Đề. Hợp
thử tín nguyện, đích vi Tịnh Độ chỉ
nam. Do thử nhi chấp trì danh hiệu, nãi vi Chánh Hạnh.
Nhược tín nguyện kiên cố, lâm chung thập niệm,
nhất niệm, diệc quyết đắc sanh. Nhược
vô tín nguyện, túng tương danh hiệu trì chí phong xuy bất
nhập, vũ đả bất thấp, như ngân tường,
thiết bích tương tự, diệc vô đắc sanh
chi lý. Tu tịnh nghiệp giả, bất khả bất tri
dã. Đại Bổn A Di Đà Kinh, diệc dĩ “phát Bồ
Đề nguyện” vi yếu, chánh dữ thử đồng.
(解) 當
知吾人大事因緣。同居一關。最難透脫。唯極樂同居。超出十方同居之外。了此方能深信彌陀願力。信佛力。方能深信名號功德。信持名。方能深信吾人心性。本不
可思議也。具此深信。方能發於大願。文中應當二字。即指深信。深信發願。即無上菩提。合此信願。的為淨土指南。由此而執持名號。乃為正行。若信願堅固。臨
終十念一念。亦決得生。若無信願。縱將名號持至風吹不入。雨打不溼。如銀牆鐵壁相似。亦無得生之理。修淨業者。不可不知也。大本阿彌陀經。亦以發菩提願為
要。正與此同。
(Giải: Hãy nên biết
đối với nhân duyên đại sự của chúng ta,
một cửa ải Đồng Cư khó thể vượt
thoát nhất. Chỉ có cõi Đồng Cư trong Cực
Lạc vượt khỏi các cõi Đồng Cư trong
mười phương. Hiểu rõ điều này rồi
thì mới có thể tin sâu vào nguyện lực của Phật
Di Đà. Có tin vào Phật lực thì mới có thể tin tưởng sâu xa công đức của
danh hiệu. Tin vào trì danh thì mới có thể tin tưởng
sâu xa tâm tánh của chúng ta vốn chẳng thể nghĩ
bàn. Có lòng tin sâu xa như vậy rồi thì mới có thể
phát ra đại nguyện. Hai chữ “hãy nên” trong kinh
văn chính là nói đến lòng tin sâu xa. Tin sâu, phát nguyện
chính là Vô Thượng Bồ Đề. Gộp cả hai thứ
Tín và Nguyện này, đích xác là kim chỉ nam cho pháp môn Tịnh
Độ. Do hai điều này mà chấp trì danh hiệu thì
là Chánh Hạnh. Nếu tín nguyện kiên cố, lâm chung
mười niệm hoặc một niệm, cũng quyết
định được vãng sanh. Nếu không có tín nguyện,
dẫu trì danh hiệu đến mức gió thổi chẳng
lọt, mưa táp chẳng ướt giống như tường
bạc vách sắt thì cũng chẳng có lẽ nào được
vãng sanh! Người tu Tịnh nghiệp chẳng thể
không biết điều này. Đại Bổn A Di
Đà Kinh cũng coi “phát nguyện Bồ Đề” là trọng
yếu, hoàn toàn giống như kinh này).
Trong kinh này, đức Phật nói rõ ràng: Thế
giới Tây Phương thành tựu sự trang nghiêm thù thắng,
thời gian không dài. Đoạn thứ nhất giới thiệu
hoàn cảnh y báo, gần giống như xây trường học
trong một thời gian ngắn ngủi, xây dựng một
khu trường đẹp đẽ tuyệt vời, các
thiết bị hoàn chỉnh, không thiếu sót mảy may nào.
Đoạn thứ hai nói về sự trang nghiêm nơi chánh
báo, giới thiệu đạo sư A Di Đà Phật là vị
thầy ưu tú nhất, Thanh Văn, Bồ Tát, Nhất Sanh
Bổ Xứ là những học trò đạt thành tựu trong
tu học. Quán sát hai đoạn kinh văn này, ta thấy các
cõi Phật trong mười phương chẳng thể sánh
bằng. Đem những chỗ tốt đẹp của thế
giới Cực Lạc nói hết ra, chúng ta đã biết tình
hình thực tế ấy, lẽ nào chẳng hâm mộ, hướng
về. Trong đoạn này, kinh dạy cho chúng ta biết một
đại sự nhân duyên, tức là đại sự sanh tử.
Trong lục đạo, muốn liễu sanh tử, thoát tam
giới thì chẳng phải là chuyện dễ dàng, đoạn
phiền não khó lắm! Mê hoặc tạo nghiệp, chịu
khổ, tạo thành luân hồi. Khi gánh chịu quả báo chẳng
biết tự phản tỉnh, càng thêm mê hoặc, càng mê sâu
hơn, mỗi đời lại kém hơn đời trước.
Cõi Đồng Cư trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có lục đạo, khác hẳn cõi Đồng
Cư trong mười phương thế giới. Thế
giới Tây Phương là Nhất Chân pháp giới, cũng chẳng
có mười pháp giới. Bốn cõi xếp theo hàng ngang, hễ
sanh về một cõi sẽ sanh về hết thảy cõi, người
vãng sanh mang theo nghiệp cũ, nhiều hay ít chẳng giống
nhau. Người mang theo nghiệp ít sẽ ở trong cõi Thật
Báo Trang Nghiêm hoặc cõi Thường Tịch Quang. Mang theo
nghiệp nhiều sẽ ở trong cõi Phương Tiện
Hữu Dư hoặc cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Trên sự
thật là Nhất Chân pháp giới, bất luận chúng sanh
trong đường nào, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới đều bình đẳng với Đẳng
Giác Bồ Tát. Bốn mươi tám nguyện và kinh Vô Lượng
Thọ đều nói như thế. Nếu chẳng phải
là Nhất Chân pháp giới, sẽ hoàn toàn chẳng có tình hình
này! Quán Kinh nói bốn cách niệm Phật là Thật Tướng,
Quán Tưởng, Quán Tượng và Trì Danh. Mười phương
chúng sanh sanh về thế giới Cực Lạc, phần
nhiều nhờ cách Trì Danh Niệm Phật. Bởi nó là pháp
môn bậc nhất, dễ dàng nhất, đơn giản nhất,
nhanh chóng nhất, ổn thỏa thích đáng nhất, chí viên,
chí đốn. Kinh Vô Lượng Thọ nói điều kiện
để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
là “phát Bồ Đề tâm, một
bề chuyên niệm”. Lại xem phần ba bậc chín phẩm
vãng sanh [trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng
Thọ] và đọc các kinh điển Đại Thừa
khác, những người hồi hướng
vãng sanh đều là “phát Bồ
Đề tâm, một bề chuyên niệm”. Nguyện thứ
mười tám trong bốn mươi tám nguyện là “một bề chuyên niệm,
mười niệm thành tựu”, nguyện thứ mười
chín là “phát Bồ Đề
tâm”. Đủ thấy rằng [tông chỉ] “phát Bồ Đề tâm, một
bề chuyên niệm” dựa trên bổn nguyện của
Phật Di Đà. Trong Quán Kinh, đức Phật gọi Bồ
Đề tâm là “chí thành tâm, thâm tâm và hồi hướng
phát nguyện tâm”. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận,
Mã Minh Bồ Tát nói Bồ Đề tâm là “trực tâm, thâm tâm,
đại bi tâm”. Những danh tướng ấy rất
nhiều, nhưng đều nói chưa rõ ràng lắm. Ở
đây, Ngẫu Ích đại sư dạy cho chúng ta một
định nghĩa đơn giản, trọng yếu nhất:
“Tin
sâu phát nguyện chính là Vô Thượng Bồ Đề tâm”.
Tất cả những tâm như chí thành tâm, thâm tâm, trực
tâm, hồi hướng phát nguyện tâm, đại bi tâm đều
bao gồm trong một niệm, đại sư đã nói toạc
ra. Bà cụ già chẳng biết chữ, chẳng biết thế
nào là phát Bồ Đề tâm, nhưng bà cụ có lòng tin chân
thành, nguyện thiết tha, đến cuối cùng, thân không
bệnh khổ, ngồi vãng sanh. Do vậy, đại
sư nói: “Hợp thử tín
nguyện, đích vi Tịnh Độ chỉ nam. Do thử
nhi chấp trì danh hiệu, nãi vi Chánh Hạnh” (Gộp cả
hai thứ Tín và Nguyện này đích xác là kim chỉ nam cho
pháp môn Tịnh Độ. Do hai điều này mà chấp trì
danh hiệu thì là Chánh Hạnh), hết sức trọng yếu!
“Nhược tín
nguyện kiên cố, lâm chung thập niệm, nhất niệm,
diệc quyết vãng sanh” (Nếu tín nguyện kiên cố,
lâm chung mười niệm hoặc một niệm, cũng
quyết định được vãng sanh): Đại sư
nói hết sức khẳng định, chính là nói: “Đắc sanh dữ phủ, toàn
do tín nguyện chi hữu vô” (Được vãng sanh hay
không, hoàn toàn do có tín nguyện hay không).
Có tín và có
nguyện sẽ tương ứng với nguyện lực
của A Di Đà Phật, tương ứng với chân tâm
bổn tánh của chính mình. Dẫu có cảm ứng cũng
chớ nên hoan hỷ, chỉ dốc sức nơi tín nguyện
trì danh là được rồi. Nếu công phu trì danh đến
mức, mà tín nguyện hoàn toàn chẳng chân thật, thiết
tha thì cũng uổng phí công phu. Có người đối với
chuyện thế gian không buông xuống được, con cái,
thân quyến, của cải, sự nghiệp, chẳng bỏ
thứ gì được, chỉ cần có một tí vướng
mắc sẽ chẳng thể vãng sanh. Công phu chân chánh là thấy
thấu suốt, rõ ràng hết thảy pháp trong thế gian, đấy
gọi là Đoạn Đức, ý chí hướng về Tây
Phương hết sức mãnh liệt thì còn có gì mà chẳng
làm được!
4.2.3. Chỉ
thẳng pháp Trì Danh [nhằm khuyên hành giả] lập hạnh
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện
căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ
quốc. Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam
tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật,
chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật,
nhược nhị nhật, nhược tam nhật,
nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật,
nhược lục nhật, nhược thất nhật,
nhất tâm bất loạn, kỳ nhân lâm mạng chung thời,
A Di Đà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ
tiền. Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo,
tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc
quốc độ.
(經) 舍利弗。不可以少善根福德因緣。得生彼國。舍利弗。若有善男子。善女人。聞說阿彌陀佛。執持名號。若一日。若二日。若三日。若四日。若五日。若六日。若七日。一心不亂。其人臨命終時。阿彌陀佛。與諸聖眾。現在其前。是人終時。心不顛倒。即得往生。阿彌陀佛。極樂國土。
(Chánh
kinh: Này Xá Lợi Phất!
Chẳng thể dùng chút ít thiện căn, phước
đức, nhân duyên để sanh vào nước ấy. Này
Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân, nghe nói A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, hoặc
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn
ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày,
nhất tâm bất loạn, khi người ấy lâm chung, A
Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt.
Người ấy lúc lâm chung, tâm chẳng điên đảo
liền được sanh về cõi nước Cực Lạc
của A Di Đà Phật).
Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi
Phất: “Bất khả dĩ
thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên,
đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể dùng chút ít
thiện căn, phước đức, nhân duyên để
sanh vào nước ấy). “Thiện
căn” là tin tưởng sâu xa, “phước đức” là trì danh, phát tâm niệm Phật
là phước đức lớn nhất trong thế gian lẫn
xuất thế gian. Trời, người ít phước
đức, Nhị Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát ít thiện
căn, nửa tin nửa ngờ. Có ai đem pháp môn này giới
thiệu với người khác thì những kẻ ấy tự
nhận là bậc thượng căn lợi trí, đáng nên
học kinh giáo, tham Thiền, coi pháp Niệm Phật chẳng
xứng đáng [để họ quan tâm]. Trong cõi đời,
có kẻ tin Phật lâu năm, chịu tin tưởng, cũng
phát nguyện, nhưng chẳng thể vãng sanh là do chưa
thể buông xuống các duyên trong cõi đời, không bỏ
nổi cảm tình, bị chuyện thế gian vây bủa, tức
là chẳng đủ phước đức. Trước
hết, phải hiểu rõ lý luận và sự thật trong
pháp môn Tịnh Độ, phải giảng nhiều, nghe nhiều,
chứ chỉ một hai lượt thì hiệu quả chẳng
lớn. Tôi là một người thuộc vào trường
hợp này! Giảng Yếu Giải lần này khác với lần
giảng năm ngoái. Trong lần này có những điều
trong quá khứ tôi chưa hề nói đến. Quán sát, thấu
hiểu mỗi năm càng sâu đậm hơn năm trước,
mỗi năm một hiểu rõ hơn,
chứ không phải là năm ngoái tôi tiếc pháp không chịu
nói! Năm ngoái tôi cũng không biết những điều ấy.
Đến nay tôi mới thấu hiểu [vì sao] xưa kia
thiền sư Đạo Xước giảng ba kinh một
luận Tịnh Độ, giảng hơn hai trăm lần.
Đáng tiếc là những bản chú giải của lão
nhân gia không được truyền lại. Hiện thời,
chúng ta thấy bản chú giải của cổ đức được
lưu truyền phổ biến nhất là bộ Sớ Sao
của Liên Trì đại sư, Viên Trung Sao của U Khê đại
sư và Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư. Ngày nay có thể nghe nói tới bộ Yếu Giải
này, chính là thiện căn và phước đức cùng lúc đầy
đủ. Trong đời quá khứ, các vị đồng
tu đã kết duyên rất sâu với A Di Đà Phật, nhưng
sở dĩ chưa thể vãng sanh là do trong ba điều
kiện trên đây đã thiếu mất một. Nếu đầy
đủ thì đời này sẽ là thân sau cùng. Sanh nhằm
thời đại này, nghe kinh có băng thâu âm và băng thâu
hình, nghe mấy chục lượt thì từ trong mê tình chúng
ta sẽ được lay tỉnh. Đấy là tăng thượng
duyên, thiện căn, phước đức là thân nhân duyên.
“Nhược hữu
thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di
Đà Phật, chấp trì danh hiệu” (Nếu có thiện
nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói A Di Đà Phật, chấp
trì danh hiệu): Tiêu chuẩn “thiện
nam tử, thiện nữ nhân” được nói ở đây
khác với tiêu chuẩn của thiện nam tử, thiện
nữ nhân trong hết thảy các kinh điển khác. “Thiện nam tử, thiện nữ
nhân” như trong kinh Di Đà đã nói phải có nhiều thiện
căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên,
mà cũng là những nam tử, nữ nhân tin thật, nguyện
thiết, nhất tâm trì danh hiệu như trong phần trên đã
nói.
“Văn thuyết A Di Đà Phật” (nghe nói A Di
Đà Phật): “Văn” (聞)
là nghe xong liền có nguyện vọng [vãng sanh] mạnh mẽ.
“Chấp” (執) là nắm giữ, “trì”
(持) là giữ gìn chẳng để mất.
Trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, hễ vọng niệm
vừa dấy lên, ngay lập tức nghĩ đến tượng
A Di Đà Phật, miệng liền niệm Phật; nhất
tâm bất loạn là mục tiêu niệm Phật của chúng
ta. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta “tịnh niệm tiếp nối”,
tâm tưởng Phật, miệng niệm Phật đều
không gián đoạn. Nếu có tạp niệm thì chẳng tương
ứng. Tạp niệm, vọng tưởng dấy lên là
hiện tượng bình thường, chẳng cần phải
quan tâm đến nó, cứ chuyên chú nơi Phật hiệu,
vọng niệm sẽ dần dần ít đi. Thông thường,
công phu sẽ đắc lực sau hai ba năm, mỗi giờ
có đôi ba vọng niệm thì đã được coi là khá
lắm rồi! Chưa đoạn được vọng
niệm, nói chung là vì chưa buông xuống được các
duyên trong đời. Hiện tại, chúng ta đả Phật
thất, chính là căn cứ theo kinh Di Đà đã dạy,
bảy ngày có thể thành tựu; chỉ cần tu đến
mức nhất tâm bất loạn, muốn vãng sanh liền vãng
sanh. Sống chết tự tại, bảy ngày niệm đến
mức tương ứng là được. Nếu chẳng
tương ứng thì bảy mươi ngày cũng chẳng
có tác dụng gì hết.
(Giải)
Bồ Đề chánh đạo, danh “thiện căn”, tức
thân nhân. Chủng chủng trợ đạo, Thí, Giới,
Thiền đẳng, danh “phước đức”, tức
trợ duyên. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Đề thiện
căn thiểu, nhân thiên hữu lậu phước nghiệp,
phước đức thiểu, giai bất khả sanh Tịnh
Độ. Duy dĩ tín nguyện chấp trì danh hiệu,
tắc
nhất nhất thanh, tất cụ đa thiện căn,
phước đức, tán tâm xưng danh, phước thiện
diệc bất khả lượng, huống nhất tâm bất
loạn tai!
(解) 菩提正道。名善根。即親因。種種助道。施戒禪等。名福德。即助緣。聲聞緣覺。菩提善根少。人天有漏福業。福德少。皆不可生淨土。唯以信願執持名號。則一一聲。悉具多善根福德。散心稱名。福善亦不可量。況一心不亂哉。
(Giải: Chánh
đạo Bồ Đề gọi là “thiện căn”, tức
thân nhân (cái nhân chánh yếu). Các món trợ đạo như
Thí, Giới, Thiền v.v... gọi là “phước đức”,
tức là trợ duyên. Thiện căn Bồ Đề của
Thanh Văn, Duyên Giác ít ỏi, phước nghiệp của
trời người là hữu lậu, nên phước đức
ít ỏi, đều chẳng thể vãng sanh Tịnh Độ.
Chỉ có tín nguyện, chấp trì danh hiệu thì mỗi một
tiếng đều đầy đủ nhiều thiện
căn, phước đức. Tâm tán loạn xưng danh
thì phước thiện còn chẳng thể lường, huống
là nhất tâm bất loạn ư!)
Chú giải
đoạn này, đại sư giảng rõ tình huống có
thể vãng sanh hay
là không. Chữ “chánh đạo”
trong “Bồ Đề chánh
đạo” chỉ Chân Như bổn tánh trong Phật pháp
Đại Thừa. “Bồ
Đề chánh đạo” tức là minh tâm kiến tánh,
trong Tịnh Tông gọi là “thâm
tín”. Tin sâu xa quả thật có thế giới Cực Lạc,
có A Di Đà Phật, tin sâu xa lời giới thiệu của
Thích Ca Mâu Ni quả thật chẳng dối, tin sâu xa mười
phương hết thảy chư Phật Như Lai chứng
minh lời Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói là xác thực không
sai. Đấy chính là “thân nhân”
(cái nhân chánh yếu) khiến chúng ta vãng sanh Tịnh Độ,
thành Phật trong một đời. Các pháp thường được
nói đến như Tứ Nhiếp, Lục Độ, ba mươi
bảy đạo phẩm đều là trợ duyên. Chúng ta
thật sự phát nguyện sanh về Tịnh Độ,
thân cận A Di Đà Phật thì Tứ Nhiếp, Lục Độ,
ba mươi bảy đạo phẩm cũng đều
hoàn toàn trọn đủ. Một đời xử thế,
đãi người, tiếp vật, có tơ hào thiện tâm,
thiện hạnh nào cũng đều hồi hướng Tây
Phương cầu sanh về thế giới Cực Lạc,
chẳng cầu phước báo trời người trong đời
này hay trong đời kế, chỉ cầu vãng sanh Tây Phương,
trang nghiêm Tịnh Độ thì tâm ấy mới thuần, là
trợ duyên thù thắng. Cổ nhân nói: “Tín nguyện trì danh là điều lành nhất trong
các điều lành”. Đạo lý trong câu nói này rất sâu.
Bậc Bồ Tát minh tâm kiến tánh còn chưa hiểu thật
rõ loại sự lý này. Nếu đức Phật không dạy
chúng ta, ai có thể hiểu được? Phàm phu nghiệp
chướng tập khí nặng nề, tuy Phật giảng
rõ ràng, vẫn chẳng nhất định tin tưởng,
nhưng đại Bồ Tát có trí huệ cao, nghe rồi liền
tỉnh ngộ. Vì thế, so ra thì Phổ Hiền Bồ Tát
dùng mười đại nguyện vương tiếp dẫn
bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ trong thế giới Hoa Tạng dễ dàng, đức
Thế Tôn ở trong thế giới này khuyên chúng ta cầu
sanh Tịnh Độ thật khó khăn. Do vậy, pháp môn này
được gọi là “nan
tín chi pháp” (pháp khó tin). Nếu nghe xong mà có thể tin tưởng
và tiếp nhận, phụng hành, đấy chính là như
trong kinh Vô Lượng Thọ đã nói: Thiện căn, phước
đức đã tu hành trong vô lượng kiếp quá khứ
đến nay đã chín muồi. Nếu không, sẽ chẳng
thể tiếp nhận, nhưng người như vậy
rốt cuộc chẳng nhiều nhặn gì!
(Giải)
Cố sử cảm ứng đạo giao, văn thành ấn
hoại, Di Đà thánh chúng, bất lai nhi lai, thân thùy tiếp
dẫn, hành nhân tâm thức, bất vãng nhi vãng, thác chất bảo
liên dã.
(解) 故使感應道交。文成印壞。彌陀聖眾。不來而來。親垂接引。行人心識。不往而往。託質寶蓮也。
(Giải:
Do vậy, khiến cho [Phật và hành giả tu Tịnh
Độ] cảm ứng đạo giao, nét khắc trên ấn
đã hiện, ấn [sáp] liền hoại. Phật Di
Đà và thánh chúng, chẳng tới mà tới, đích thân rủ
lòng tiếp dẫn, tâm thức của hành nhân chẳng
đi mà đi, gởi thể chất trong hoa sen báu).
“Văn thành ấn hoại”[8]
là tỷ dụ công phu niệm Phật thành tựu. Công phu
trong một niệm, niệm đến mức thuần nhất
bèn cảm ứng đạo giao. Vì sao nói A Di Đà Phật
và Bồ Tát, thánh chúng “đến
mà chẳng đến”? Đến và đi là nói theo mặt
Sự, trên mặt Sự quả thật có chuyện ấy.
Nói theo mặt Lý thì chẳng có đến hay đi. Chư Phật,
Bồ Tát biến hiện trong tâm của chúng sanh, chúng sanh vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà thế
giới Cực Lạc cũng là do tự tánh của chúng
sanh biến hiện, duy tâm Tịnh Độ, hoàn toàn chẳng
rời ngoài cái tâm. A Di Đà Phật đến tiếp dẫn
là do tín nguyện hạnh của chính mình cảm ứng. Tín
- Nguyện - Hạnh là năng cảm, còn Phật, Bồ
Tát ứng hiện là sở cảm. Tâm thức của hành
nhân vãng sanh, chứ không phải thân thể vãng sanh. Thân thể
là Ngã Sở (cái thuộc về Ngã), tâm thức mới là Ngã.
(Giải) Thiện nam nữ giả,
bất luận xuất gia, tại gia, quý, tiện, lão, thiếu,
lục thú, tứ sanh, đản văn Phật danh, tức
đa kiếp thiện căn thành thục. Ngũ Nghịch,
Thập Ác giai danh “thiện” dã.
(解)
善男女者 。不論出家在家
。貴賤老少 。六趣四生。但聞佛名。即多劫善根成熟。五逆十惡。皆名善也。
(Giải: “Thiện nam nữ”: Bất luận tại gia hay xuất
gia, sang, hèn, già, trẻ, sáu nẻo, tứ sanh, chỉ nghe
được danh hiệu Phật thì đã là thiện
căn trong nhiều kiếp chín muồi. Kẻ
Ngũ Nghịch, Thập Ác cũng đều gọi là “thiện”
cả)
Đoạn
này ý nói hễ người nào vãng sanh thì đều là do thiện
căn trong nhiều kiếp đã chín muồi, chẳng cần
biết là tại gia hay xuất gia, sang, hèn, già, trẻ, sáu
nẻo, cho đến bốn loài Noãn, Thai, Thấp, Hóa, đều
gọi là “thiện”. Chẳng hạn
như trong cuốn Vật Do Như Thử (loài vật còn
như thế) có chép chuyện súc sanh vãng sanh rất nhiều.
Đàm Hư đại sư kể: Vào đầu thời
Dân Quốc, khi lão pháp sư Đế Nhàn trụ trì ngôi chùa
nhỏ mang tên Đầu Đà, có một con gà trống niệm
Phật vãng sanh, nó cũng đáng gọi là “thiện nam tử”. “Văn”
là Văn Huệ, nghe rồi tin lại còn phát nguyện cầu
sanh, dùng một chữ Văn để đại diện,
tức là do thiện căn trong nhiều kiếp chín muồi.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn đã
giảng rất thấu triệt: Vương tử A Xà Thế
và năm trăm vị trưởng giả, trong đời
quá khứ đã từng cúng dường bốn trăm ức
Phật, thiện căn, phước đức chẳng
nhỏ. Đời này lại gặp Phật Thích Ca, dùng thân
phận cư sĩ để nghe Phật giảng kinh, thuyết
pháp, mong mỏi trong tương lai chính mình sẽ thành Phật
giống hệt như A Di Đà Phật, nhưng chỉ khởi
lên ý niệm ấy, chứ hoàn toàn chẳng phát nguyện cầu
sanh Tịnh Độ. Cúng dường bốn trăm ức
Phật, nhưng thiện căn vẫn chưa chín muồi!
Nói cách khác, trong đời này nghe đến danh hiệu A
Di Đà Phật mà có thể tin, có thể nguyện, buông xuống
hết thảy, cầu sanh Tịnh Độ, thiện
căn của người đó chắc chắn vượt
trội vương tử A Xà Thế. Loại người
này không nhiều, hiện thời chúng ta khuyên người ta
niệm Phật, người ta không tin tưởng, đấy
là chuyện bình thường! Kẻ Ngũ Nghịch, Thập
Ác trong đời quá khứ có thiện căn, trong đời
này chưa gặp được Phật pháp, tạo tội
Ngũ Nghịch, Thập Ác, lúc lâm chung gặp thiện duyên,
được thiện tri thức chỉ dạy, khuyên lơn,
khích lệ, vừa nghe liền tin tưởng, lập tức
tiếp nhận, niệm Phật cầu sanh, như ông Trương
Thiện Hòa đời Đường chẳng hạn, đấy
chính là thiện căn trong nhiều kiếp nhiều đời
đã chín muồi. Tiêu chuẩn thiện - ác ấy chẳng
thể dùng quan niệm thông thường để so lường
được, mà phải dựa trên nhân duyên trong nhiều
đời trước đã tạo ra nhân lành.
(Giải)
A Di Đà Phật thị vạn đức hồng danh,
dĩ danh triệu đức, khánh vô bất tận. Cố
tức dĩ chấp trì danh hiệu vi Chánh Hạnh, bất
tất cánh thiệp quán tưởng, tham cứu đẳng
hạnh, chí giản dị, chí trực tiệp dã. Văn nhi
tín, tín nhi nguyện, nãi khẳng chấp trì. Bất tín, bất
nguyện, dữ bất văn đẳng, tuy vi viễn
nhân, bất danh Văn Huệ.
(解) 阿彌陀佛。是萬德洪名。以名召德。罄無不盡。故即以執持名號為正行。不必更涉觀想參究等行。至簡易。至直捷也。聞而信。信而願。乃肯執持。不信不願。與不聞等。雖為遠因。不名聞慧。
(Giải: A Di Đà Phật là danh hiệu rộng lớn có
đủ muôn đức. Dùng danh để vời đức,
trọn chẳng còn sót gì. Vì thế, liền lấy chấp
trì danh hiệu làm Chánh Hạnh, chẳng cần phải dính
dáng những hạnh như quán tưởng, tham cứu
v.v.. Đơn giản, dễ dàng nhất, thẳng chóng nhất.
Nghe rồi tin, tin rồi nguyện, bèn chịu chấp trì.
Chứ chẳng tin, chẳng nguyện thì cũng giống
như chẳng nghe; tuy tạo thành cái nhân xa, nhưng chẳng
thể gọi là Văn Huệ).
Vãng
sanh được kiến lập trên nền tảng ba thứ
chẳng thể nghĩ bàn: Một là tâm tánh chẳng thể
nghĩ bàn, hai là cái tâm niệm Phật chẳng thể nghĩ
bàn, ba là danh hiệu có công đức chẳng thể
nghĩ bàn. “A Di Đà Phật
thị vạn đức hồng danh, dĩ danh triệu
đức, khánh vô bất tận” (A Di Đà Phật là danh
hiệu rộng lớn có đủ muôn đức. Dùng danh
để vời đức trọn chẳng còn sót gì): Biến
công đức của A Di Đà Phật thành công đức
của chính mình, vì A Di Đà Phật là tự tánh Di Đà, Tây
Phương thế giới là duy tâm Tịnh Độ. Tâm
tánh của chính mình và tâm tánh của Phật là một, chẳng
hai. Do “hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng’ nên phải
chuyên tưởng Di Đà thì mới có thể biến Di Đà
thành chính mình, khí phận giao tiếp với nhau, thật sự
có thể cảm ứng đạo giao. Tu Tịnh Độ
lấy chấp trì danh hiệu làm Chánh Hạnh, đơn giản,
dễ dàng, thẳng chóng nhất,
chẳng cần phải quán tưởng, tham cứu. Tất
cả hết thảy kinh luận hãy nên buông xuống hết,
trọn chẳng cần đến pháp môn thứ hai, tâm lập
tức thanh tịnh. Nghe rồi tin, tin rồi nguyện, đầy
đủ ba món tư lương. Nếu chẳng tin, chẳng
nguyện thì giống như chẳng nghe. Hễ có một
pháp thế gian hay xuất thế gian nào không buông xuống
được thì điều đó cho thấy lòng tin chẳng
thật, nguyện chẳng thiết tha. Dầu niệm Phật
cho nhiều cũng chẳng thể vãng sanh. Trong tâm, niệm
niệm đều là A Di Đà Phật, trọn chẳng
để cho bất cứ một pháp nào khác xen tạp
trong tâm chính mình. Nếu chẳng được vậy thì
chỉ là gieo được cái nhân xa mà thôi. Cổ nhân nói “buông xuống thân, tâm, thế giới,
nhất tâm chuyên niệm” chính là nhằm bồi dưỡng
cho thiện căn chưa chín muồi của chúng ta được
chín muồi, đấy là chuyện chúng ta có thể làm được.
Đương nhiên, trong ấy vẫn có một nhân tố
trọng yếu tức là nhân duyên. Chúng ta gặp được
sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, giảng
thấu triệt, tường tận như thế này, dẫu
thiện căn, phước đức còn kém một chút thì
cũng có thể khiến cho thiện căn, phước
đức được chín muồi sớm hơn.
(Giải)
Chấp trì, tắc niệm niệm ức Phật danh hiệu.
Cố thị Tư Huệ. Nhiên hữu sự trì, lý trì. Sự
trì giả, tín hữu Tây Phương A Di Đà Phật, nhi
vị đạt “thị tâm tác Phật, thị tâm thị
Phật”, đản dĩ quyết chí nguyện cầu sanh
cố, như tử ức mẫu, vô thời tạm vong.
Lý trì giả, tín Tây Phương A Di Đà Phật thị
ngã tâm cụ, thị ngã tâm tạo, tức dĩ tự tâm sở
cụ sở tạo hồng danh, vi hệ tâm chi cảnh,
linh bất tạm vong dã.
(解) 執持。則念念憶佛名號。故是思慧。然有事持理持。事持者。信有西方阿彌陀佛。而未達是心作佛。是心是佛。但以決志願求生故。如子憶母。無時暫忘。理持者。信西方阿彌陀佛。是我心具。是我心造。即以自心所具所造洪名。為繫心之境。令不暫忘也。
(Giải: Chấp trì là niệm niệm nhớ tới danh hiệu
Phật, cho nên là Tư Huệ; nhưng có Sự Trì và Lý Trì.
Sự Trì là tin có A Di Đà Phật ở Tây Phương,
nhưng chưa thấu đạt “tâm này làm Phật, tâm này
là Phật”, nhưng do quyết chí nguyện cầu vãng sanh,
như con nhớ mẹ, không lúc nào tạm quên. Lý Trì là tin A
Di Đà Phật ở Tây Phương tâm ta sẵn đủ,
là do tâm ta tạo, liền dùng hồng danh tâm ta sẵn đủ,
tâm ta tạo ấy để làm cảnh hệ niệm khiến
cho chẳng tạm quên vậy).
Tách rời Văn - Tư
- Tu thì mới có thể giảng Sự và Lý rất rõ ràng,
chứ trên thực tế, Tam Huệ Văn - Tư - Tu và ba
món tư lương Tín - Nguyện - Hạnh đều ở
trong một niệm. Một câu Phật hiệu đầy đủ
ba món tư lương, mà cũng đầy đủ Tam Học
Giới - Định - Huệ và Tam Huệ Văn - Tư -
Tu. Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương mở rộng
ra chính là toàn bộ hết thảy pháp do đức Thích Ca
Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, các
pháp ấy đều nằm gọn trong một câu danh hiệu.
Chấp trì danh hiệu
có Sự Trì và Lý Trì khác biệt. Sự Trì là thật sự tin
tưởng có thế giới Cực Lạc, có A Di Đà
Phật, nhưng chưa thấu đạt “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, chỉ có cái tâm
cầu nguyện được vãng sanh hết sức khẩn
thiết, như con nhớ mẹ, không lúc nào quên mất. Đấy
là Sự Trì.
Lý Trì là tin tâm ta sẵn
có A Di Đà Phật, Phật do tâm ta tạo. Y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười phương vô lượng vô biên các cõi
Phật đều do tự tánh biến hiện. Hiểu rõ
Lý là giải ngộ, ngộ rồi bèn bắt đầu tu
thì có thể chứng ngộ.
Bất
luận Sự Trì hay Lý Trì, biểu
hiện bề ngoài đều giống nhau: Tinh tấn không
lười biếng, tín tâm kiên định. Những phần
tử lưng chừng giữa bậc thượng trí và kẻ
hạ ngu là những kẻ khó độ nhất! Cổ nhân
khuyên lơn chúng ta hãy học theo kẻ ngu; học theo người
trí chẳng dễ, học theo kẻ ngu thì còn có thể làm được.
Ai chịu học làm kẻ ngu thì người ấy chính là
“thiện nam tử, thiện nữ
nhân” như trong kinh này đã nói, hết thảy đều
bỏ được, một bộ kinh A Di Đà, một
câu A Di Đà Phật, những thứ khác hoàn toàn chẳng cần
đến. Đấy chính là ngu mà không ai có thể bằng
được!
(Giải)
Nhất nhật chí thất nhật giả, khắc kỳ
biện sự dã. Lợi căn nhất nhật tức bất
loạn. Độn căn thất nhật phương bất
loạn. Trung căn nhị, tam, tứ, ngũ, lục nhật
bất định. Hựu lợi căn năng thất nhật
bất loạn. Độn căn cẩn nhất nhật bất
loạn. Trung căn lục, ngũ, tứ, tam, nhị nhật
bất định.
(解) 一日至七日者。尅期辦事也。利根一日即不亂。鈍根七日方不亂。中根二三四五六日不定。又利根能七日不亂。鈍根僅一日不亂。中根六五四三二日不定。
(Giải: “Từ một ngày cho đến
bảy ngày” là định thời hạn hòng tu tập thành
tựu. Bậc lợi căn trong một ngày liền chẳng
loạn. Độn căn thì bảy ngày mới chẳng loạn.
Bậc trung căn thì hai, ba, bốn, năm, sáu ngày không chừng.
Lại nữa, bậc lợi căn có thể bất loạn
suốt bảy ngày. Bậc độn căn chỉ có thể
bất loạn trong một ngày. Bậc trung căn thì sáu,
năm, bốn, ba, hai ngày không chừng).
Pháp
môn Niệm Phật có thể định thời hạn
mong chứng đắc từ một ngày cho đến bảy
ngày. Quý vị nghĩ xem, pháp môn nào có thể thành công trong vòng bảy ngày? Do vậy, ngay cả vị tổ
sư khai sơn của Pháp Tướng Tông là Khuy Cơ
đại sư cũng khen ngợi pháp này là pháp Đại
Thừa đốn pháp đến cùng cực. Ngài viết một
bản chú giải cho kinh Di Đà có tựa đề là [A
Di Đà Kinh] Thông Tán Sớ nhằm tán dương Tịnh
Độ. Do niệm Phật bảy ngày có thể thành tựu,
hàng lợi căn trong một ngày liền đắc nhất
tâm bất loạn, còn kẻ độn căn phải mất
bảy ngày mới chẳng loạn. Trung căn thì hai, ba, bốn,
năm, sáu ngày không nhất định. Hễ có thể nhất
tâm bất loạn thì liền sanh tử tự tại. Tịnh
Tông đả Phật thất chính là căn cứ trên đoạn
kinh văn này. Thật sự đả Phật thất niệm
Phật thì như trong quá khứ thầy Lý đã từng bảo
chúng tôi: Đài Trung Liên Xã tuy thành lập bốn mươi
mấy năm, nhưng chỉ cử hành tinh tấn Phật
thất hai lượt. Thầy Lý đích thân chủ trì. Người
tham gia tinh tấn Phật thất không được quá mười
người. Vị thầy chủ trì phải chỉ dạy,
uốn nắn tình trạng tu tập của từng người
[tham dự]. Đông người sẽ chiếu cố không
xuể, hễ hơi sơ sểnh sẽ chuốc lấy
ma chướng. Trong hai lần ấy, cũng có mấy người
bị ma dựa, thế gian gọi là “bệnh thần
kinh”. Thầy Lý bỏ thời gian cả một năm để
kềm cặp mới khiến cho người ấy trở
lại bình thường. Từ đấy, không còn đả
tinh tấn Phật thất nữa, chỉ cử hành pháp hội
Phật thất. Ma chướng đưa đến là [do
chính người ấy] có mong cầu, cầu thần thông,
cầu cảm ứng, tâm chẳng thanh tịnh. Kinh Di Đà
nói bảy ngày, còn kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trai giới thanh tịnh, nhất tâm thường niệm, thập trú
dạ bất tuyệt giả” (trai
giới thanh tịnh, nhất tâm thường niệm,
mười ngày đêm chẳng dứt), tức là nói [định
kỳ hạn Niệm Phật cầu chứng trong] mười
ngày. Cổ Âm Vương Kinh cũng nói mười ngày. Kinh
Đại Tập nói bảy thất, tức bốn mươi
chín ngày. Kinh Ban Châu Tam Muội nói chín mươi ngày, tức
ba tháng. Kinh Văn Thù Bát Nhã cũng nói chín mươi ngày. Các
kinh nói số ngày hạn định để cầu chứng
đắc dài ngắn khác nhau, kinh A Di Đà nói thời gian
ngắn nhất, đơn giản, dễ dàng nhất, ai cũng
có thể làm được. Huống chi kinh Vô Lượng
Thọ còn nói: “Trú dạ thường
niệm, nguyện dục vãng sanh A Di Đà Phật thanh tịnh
Phật quốc, thập nhật, thập dạ, nãi chí nhất
nhật, nhất dạ, bất đoạn tuyệt giả,
thọ chung giai đắc vãng sanh kỳ quốc” (Ngày đêm
thường niệm, nguyện muốn vãng sanh cõi Phật thanh
tịnh của A Di Đà Phật, từ mười ngày mười
đêm cho đến một ngày một đêm chẳng đoạn
tuyệt, khi hết tuổi thọ đều được
sanh về nước ấy). Nói chung, chỉ cần nhất
tâm, bất luận thời gian dài hay ngắn, đều có
thể vãng sanh; còn phẩm vị cao hay thấp tùy thuộc
công phu Niệm Phật sâu hay cạn. Nói “sâu hay cạn” là nói
tới sự tương ứng, tương ứng với
hạnh và nguyện của A Di Đà Phật thì là sâu. Nói đơn
giản hơn nữa là tương ứng với Định
và Huệ. Công phu sâu là tâm định, huệ khai, đoạn
phiền não, phá vô minh, phẩm vị tự nhiên cao. Công phu
niệm Phật cạn là Định và Huệ yếu ớt,
có thể khuất phục phiền não, nhưng chưa thể
đoạn được phiền não, phẩm vị ắt
thấp, [chuyện này] chẳng khó hiểu gì!
(Giải)
Nhất tâm diệc nhị chủng, bất luận Sự
Trì, Lý Trì, trì chí phục trừ phiền não, nãi chí Kiến
Tư tiên tận, giai Sự nhất tâm. Bất luận Sự
Trì, Lý Trì, trì chí tâm khai, kiến bổn tánh Phật, giai Lý nhất
tâm. Sự nhất tâm bất vị Kiến Tư sở loạn,
Lý nhất tâm bất vị nhị biên sở loạn, tức
Tu Huệ dã.
(解) 一心亦二種。不論事持理持。持至伏除煩惱。乃至見思先盡。皆事一心。不論事持理持。持至心開。見本性佛。皆理一心。事一心不為見思所亂。理一心不為二邊所亂。即修慧也。
(Giải: Nhất tâm cũng có hai thứ. Bất luận Sự
Trì hay Lý Trì, trì đến mức khuất phục, trừ
diệt phiền não, cho đến trừ hết Kiến
Hoặc hay Tư Hoặc trước, đều là Sự
nhất tâm. Bất luận là Sự Trì hay Lý Trì, trì
đến mức tâm khai ngộ, thấy vị Phật
nơi bổn tánh, đều là Lý nhất tâm. Sự nhất
tâm chẳng bị Kiến Hoặc, Tư Hoặc nhiễu
loạn, Lý nhất tâm chẳng bị nhị biên nhiễu
loạn. Đấy chính là Tu Huệ vậy).
Nhất tâm cũng gồm
hai thứ. Bất luận Sự Trì hay Lý Trì, nhân giống
nhau, quả cũng giống nhau. Ví như chúng ta là phàm phu tuy
nghe nói “duy tâm Tịnh Độ,
tự tánh Di Đà”, nhưng chẳng hiểu rõ tâm tánh là
gì. Nếu hoàn toàn hiểu rõ thì là minh tâm kiến tánh, là bậc
Pháp Thân đại sĩ. Chữ “thượng
trí” chỉ Pháp Thân đại sĩ, bậc Bồ Tát từ
Sơ Trụ trở lên trong Viên Giáo bèn thuộc về Lý Trì,
còn những ai chưa chứng Pháp Thân thì đều gọi
là Sự Trì. Trong Bát Thức Quy Củ Tụng, Huyền
Trang đại sư đã viết: “Ngu giả nan phân Thức dữ Căn” (kẻ ngu
chẳng phân biệt được Thức và Căn). Chữ
“ngu giả” chỉ bậc A
La Hán. Bất luận Sự Trì hay Lý Trì đều tin chân thật,
nguyện thiết tha, nhất tâm trì danh, nhân giống hệt
nhau. Đẳng Giác và phàm phu bình đẳng. Nhân bình đẳng,
quả cũng bình đẳng: Sanh về Tây Phương
đều chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Văn
Thù, Phổ Hiền là Lý Trì, Oánh Kha là Sự Trì; sư Oánh Kha
giống hệt Văn Thù và Phổ Hiền. Luận trên công
phu thì chẳng cần biết là Sự Trì hay Lý Trì, chế
phục phiền não, chẳng cho nó khởi tác dụng, thường
gọi là “công phu thành phiến”, thuộc về công phu Sự
nhất tâm ở mức độ cạn. Nếu đoạn
được Kiến Hoặc và Tư Hoặc, thì chính là
công phu Sự nhất tâm ở mức độ sâu.
Nói theo Giáo Hạ, Kiến
Hoặc có tám mươi tám phẩm trong tam giới, Tư
Hoặc có tám mươi mốt phẩm. Người đoạn
được mấy phẩm là Sự nhất tâm ở mức
độ cạn. Nếu đoạn được hoàn toàn
thì là Sự nhất tâm viên mãn. Do vậy, trong Sự nhất
tâm cũng có ba bậc chín phẩm. Bất luận trì theo cách
nào, chỉ luận định theo công phu đoạn phiền
não sâu hay cạn, chẳng cần biết là Sự Trì hay Lý
Trì.
“Trì chí tâm khai, kiến bổn tánh Phật” (Trì đến
mức tâm khai ngộ, thấy vị Phật trong bổn tánh):
“Khai” là khai ngộ, niệm đến
mức đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh. “Kiến tánh” chính là “kiến bổn tánh Phật”
(thấy được vị Phật trong bổn tánh). Phá
một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, thấy
một phần bổn tánh, thì gọi là Lý nhất tâm. Vô
minh có bốn mươi mốt phẩm; bậc Sơ Trụ
trong Viên Giáo phá một phẩm vô minh, thấy một phần “bổn tánh Phật”; đủ thấy
[người đạt được] Lý nhất tâm
như trong Tịnh Tông đã nói chính là bậc Sơ Trụ
Bồ Tát trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa Bồ Tát trong
Biệt Giáo. Lý nhất tâm cũng có bốn mươi mốt
phẩm, từ Sơ Trụ đến Đẳng Giác, phẩm
vị được nâng cao dần dần.
Đắc Sự nhất
tâm sẽ chẳng bị Kiến Tư phiền não loạn
động, tâm định. Tam-muội là Định, Niệm
Phật tam-muội chính là an định, tâm định nơi
Tây Phương Cực Lạc thế giới, định
nơi A Di Đà Phật. Ngoài A Di Đà Phật và Tây
Phương Cực Lạc thế giới ra, buông hết mọi
thứ xuống, chẳng bị lay động bởi lục
trần, pháp thế gian thường gọi [người
đạt cảnh giới này] là “bát phong xuy bất động” (tám gió thổi chẳng
động)[9].
Tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần trong thế gian đều chẳng động tâm
mà pháp xuất thế gian cũng chẳng động tâm. Đắc
Sự nhất tâm thì tham, sân, si, mạn, nghi đều chẳng
còn.
Đắc Lý nhất
tâm thì “chẳng bị nhị
biên làm loạn”. Từ ngữ “nhị biên” ở đây ý nói hết thảy pháp đều
là tương đối. Người thế gian sống
trong không gian tương đối, hễ nói là lớn ắt
phải có nhỏ, nói là dài ắt phải có ngắn, nói là đúng
ắt phải có sai. Hết thảy pháp đều là hai bên
đối lập. Nếu chứng được Lý nhất tâm thì hai bên cũng không còn nữa.
Hai bên không lập thì trung đạo cũng chẳng còn. Tâm
thanh tịnh, một niệm chẳng sanh, đó gọi là “khai khẩu tiện thác, động
niệm tức quai” (mở miệng liền sai, dấy
niệm liền trái). Tất cả hết thảy vọng
tưởng, chấp trước đều chẳng có.
Đấy gọi là Tu Huệ. Nếu niệm Phật mà chẳng
thể thụ dụng thì chẳng được coi
là “chân tu”. Người khác khen ngợi ta, trong tâm rất vui
vẻ, tự cảm thấy đắc ý. Người khác
hủy báng ta, tâm sanh phẫn nộ, đều thuộc về
phiền não. Vì sao người ta có thể biết trước
lúc mất, tự tại vãng sanh? Nói toạc ra thì chẳng
có gì khác cả, đối với pháp thế gian lẫn xuất
thế gian người ấy chẳng động tâm. Chúng
ta hễ hơi gặp thử thách một chút, trong tâm liền
chán chường. Tuy hằng ngày niệm Phật, nhưng
chỉ có thể nói là kết duyên với Tây Phương thế
giới mà thôi, đời này chẳng mong chi vãng sanh
được! Người vãng sanh chẳng động tâm,
họ bỏ thế gian này xuống, nó đâu có liên can gì với
mình, tôi mượn cái thân thể này để niệm Phật
vãng sanh Cực Lạc thế giới. Không những hủy
báng hay khen ngợi chẳng dính dáng gì đến tôi, mà đánh
tôi hay chửi tôi cũng chẳng ăn nhằm gì hết.
Ngay cả thân thể cũng không màng đến, huống hồ
là vật ngoài thân? Đấy là công phu tối thiểu để
được vãng sanh Tây Phương. Do vậy, trông thấy
vinh hoa phú quý, tâm trọn chẳng có mảy may hâm mộ, đấy
mới là “chẳng bị Kiến
Tư làm loạn”.
Nói
theo đường lối tu tập thông thường thì đừng nói là đoạn Kiến Tư, chế ngự Kiến
Tư cũng hết sức khó khăn, phải nhờ vào Định.
Do vậy, gọi là Định Cộng Giới. Trong Định
có Giới, trong Giới không có Định.
Định có thể chế phục Kiến Tư, nhưng
chẳng thể đoạn Kiến Tư. Công phu chế phục
càng sâu thì tầng cấp sanh lên cõi trời càng cao. Trời
có hai mươi tám tầng. Sanh lên trời chẳng thể
thoát tam giới, muốn thoát tam giới thì phải đoạn
Kiến Tư phiền não. Tứ Thiền Bát Định được
gọi là Thiền Định thế gian. Pháp môn Tịnh
Độ nói đến chuyện mang theo nghiệp, vượt
khỏi tam giới theo chiều ngang, hễ có công phu chế
phục được phiền não bèn có thể vãng sanh. Chế
phục phiền não cần phải có Định; do vậy,
gọi là Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội
là Định, mà cũng thường được gọi
là “công phu thành phiến”, đấy chính là điều kiện
tối thiểu để vãng sanh. Người thật sự
cầu nguyện vãng sanh phải thật sự buông xuống
thế giới này, hết thảy những thứ tạp
nhạp dù là thế gian hay xuất thế gian đều là
chướng ngại, chẳng cần phải bận lòng!
Phật Thuyết A Di
Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký
Hết phần 7
[1] Đây là vị thiện tri thức thứ
12 trong 53 vị thiện tri thức mà Thiện Tài đồng
tử đến tham học. Vị này do tỳ-kheo Thiện
Kiến giới thiệu. Khi Thiện Tài đồng tử
đến tham học, Tự Tại Chủ đồng tử
đang cùng với mười ngàn đứa trẻ khác gom
cát chơi giỡn bên bờ sông. Tự Tại Chủ đồng
tử dạy Thiện Tài pháp môn Nhất Thiết Công Xảo
Đại Thần Thông Trí Quang Minh.
[2] Đây là cách phân định giáo pháp theo
cách thức hóa độ, thường gọi là Tam Chuyển
Pháp Luân. Thị Chuyển là hóa độ bằng cách chỉ
dạy pháp môn, phương pháp, lý luận, đường
lối tu hành. Khuyến Chuyển là hóa độ bằng
cách khuyên răn. Tác Chứng Chuyển là nêu những
gương đã chứng ngộ hay những vị đệ
tử, Bồ Tát đã chứng ngộ sẽ tự đến
làm chứng trong pháp hội; chẳng hạn trong hội Hoa
Nghiêm, đối với mỗi một địa vị Bồ
Tát sẽ có một vị Bồ Tát làm Thượng Thủ
diễn nói cảnh giới và công hạnh tu chứng trong địa
vị ấy.
[3] Theo Thanh Lương Sớ có ba loại
Phổ Hiền Bồ Tát: Một là
Vị Tiền (phát tâm Phổ Hiền), hai là Vị Trung (Ðẳng
Giác Bồ Tát), ba là Vị Hậu Phổ Hiền (đắc
quả nhưng chẳng xả nhân hạnh, tức là đã
thành Phật, nhưng chẳng bỏ hạnh khi còn tu nhân).
Do các vị Pháp Thân đại sĩ đều tuân tu phẩm
đức của Phổ Hiền Bồ Tát, đều cùng
thực hiện hạnh Phổ Hiền nên đều
được gọi bằng danh xưng chung là Phổ Hiền
Bồ Tát.
[4] “Song quan” ở đây có nghĩa là lối
nói bao hàm ý nghĩa kép.
[5] Lý Trưởng Giả chính là Lý Thông Huyền
(635-730), người xứ Thương Châu (tỉnh Hà Bắc),
là một nhà Nho tinh thông Phật học. Năm Khai Nguyên thứ
7 (719), ông ẩn cư tại Phương Sơn, huyện
Thọ Dương, phủ Thái Nguyên để nghiên cứu
kinh Hoa Nghiêm, chỉ ăn trái táo hoặc lá tùng để sống
qua ngày, nên được người đời gọi là
Táo Bá đại sĩ. Ông để lại khá nhiều tác
phẩm chú giải hoặc luận định kinh Hoa Nghiêm
như Hoa Nghiêm Kinh Luận, Hoa Nghiêm Kinh Hội Thích Luận,
Lược Thích Tân Hoa Nghiêm Kinh Tu Hành Thứ Đệ Quyết
Nghi Luận, Giải Mê Hiển Trí Thành Bi Thập Minh Luận,
Thập Môn Huyền Nghĩa Bài Khoa Thích Lược, Nhãn Mục
Luận v.v... Về sau, Tống Huy Tông truy tặng tôn hiệu
Hiển Giáo Diệu Nghiêm Trưởng Giả nên từ
đó, ông thường được gọi là Lý Trưởng
Giả.
Thanh Lương đại sư (737-838)
húy Trừng Quán, họ Hạ Hầu, tự Đại
Hưu, người xứ Sơn Âm, Việt Châu (nay thuộc
phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang), là tổ thứ
tư của tông Hoa Nghiêm. Sư xuất gia năm mười
một tuổi với ngài Bái Thiền Sư chùa Bảo Lâm
tại Việt Châu. Ngài khởi sự biên soạn bộ
Hoa Nghiêm Kinh Sớ từ tháng Giêng năm Hưng Nguyên nguyên
niên (784) đến tháng Chạp năm Trinh Nguyên thứ ba
(787) mới hoàn thành. Tác phẩm này về sau được
các môn đệ như Tăng Duệ v.v... viết thêm lời
sao, trở thành bộ Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao. Ngài là một trong
các vị cao đức đương thời tham gia dịch
bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm tại chùa Thảo Đường,
Chung Nam sơn, và được triều đình thỉnh giảng
kinh này nhiều lượt. Ngài cũng tham gia dịch
trường để phiên dịch bộ
Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni Kinh, làm quốc
sư suốt các đời Đường Đức
Tông, Thuận Tông, Hiến Tông, Mục Tông, Kính Tông,
Văn Tông. Đệ tử đắc ý của Ngài là các vị
Tông Mật, Tăng Duệ, Pháp Ấn, Tịch Quang.
[6] Nguyên văn là “thụy” (瑞). Theo nghĩa gốc, Thụy là một
loại ngọc dùng để làm tin, hoặc một loại
ngọc khắc thành vật trang trí để chư hầu
cầm trong tay nhằm biểu thị quyền uy, tượng
trưng cho những điều tốt lành.
[7] Huân (壎) có âm Quan Thoại là Xūn hay Xuan, còn chữ Huyên có âm là
Xuán, gần giống nhau. Huân là một thứ nhạc khí
thường làm bằng đất nung, hình hơi giống
quả trứng, một đầu nhọn, một đầu
bằng. Đầu nhọn khoét lỗ để thổi,
chung quanh khoét lỗ, thông thường là sáu lỗ,
được chia thành hai loại: Loại có hình như trứng
con phượng, gọi là Nhã Huân; loại giống hình trứng
gà thì gọi là Tụng Huân. Huân đôi khi còn được
gọi là Đào Địch (ống sáo bằng đất
nung) và Huân (Đào Địch) cũng thường
được dùng để dịch tên loại kèn Ocarina của
Tây Phương (tuy Ocarina dẹp và nhỏ hơn Huân).
Trì là loại sáo bằng trúc thổi
ngang, khoét tám lỗ hoặc bảy lỗ (trong khi Tiêu là sáo
thổi dọc). Hiện thời hầu như không ai sử
dụng Trì, trừ những dàn nhạc tấu loại Nhã
Nhạc thời Tùy - Đường mới dùng đến.
Trì gần giống như ống Địch (sáo ngang) hiện
thời, điểm khác biệt là hai đầu của Trì
bịt kín, trong khi Địch để trống, Trì
cũng ngắn hơn Địch. Sách Nhĩ Nhã chép: “Trì dài một thước bốn
tấc, to ba tấc, thổi ngang. Loại nhỏ chỉ
dài hai tấc”.
[8] “Văn”
là nét chữ khắc trên ấn. Trong thư gởi cho ông
Đinh Phước Bảo (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tam Biên, quyển 4), tổ Ấn Quang đã giảng: “Trong quyển bảy của bộ
[Phật Học] Đại Từ Điển, trang 1029,
phía dưới từ ngữ ‘ấn hoại thành văn’ (ấn
nát nhưng dấu khắc
trên ấn đã hiện) chú rằng: “Đúc sáp thành ấn,
in trên bùn đất”, chưa đích xác! Ở đây là nói về
kim nê, dùng ấn [đúc hay khắc bằng] sáp áp vào kim nê
đang nóng chảy. Do kim nê chưa nguội nên còn mềm mại
có thể đóng ấn vào được. Tuy đã bị ấn
sáp đóng xuống thành vết, nhưng vì sức nóng của
kim nê nên ấn sáp bị chảy tan. Tuy ấn sáp bị chảy
tan, nhưng mỗi một nét khắc trên mặt ấn sáp
đã đều hiện rõ trên kim nê. Như vậy thì ấn
bị hoại, nhưng nét khắc trên mặt ấn đã
hình thành, [hai chuyện này xảy ra] cùng một lúc. Nếu
hiểu là [đem ấn sáp] in trên bùn đất thì làm sao ấn
có thể bị hư hoại cho được?” Kim Nê
là một hợp chất do thủy ngân hòa lẫn với bột
vàng (hoặc kim loại khác) đem nung nóng thành chất bột
sền sệt. Do ấn vừa in xuống, nét khắc liền
hiện, có thể ví dụ sự việc xảy ra đồng
thời, giống như chúng sanh vừa cảm, Phật liền
ứng nên hòa thượng Tịnh Không mới nói: “Văn thành ấn hoại là tỷ
dụ công phu niệm Phật thành tựu. Công phu trong một
niệm, niệm đến mức thuần nhất bèn cảm
ứng đạo giao”.
[9] “Bát phong” chỉ cho tám thứ dễ khiến
cho tâm bị lay động nhất, tức Xưng (khen ngợi),
Cơ (chê bai), Khổ, Lạc, Lợi, Suy, Đắc, Thất.
“Bát phong xuy bất động”
chính là một câu trong bài thơ của Tô Đông Pha trong khi
tịnh tọa, cảm thấy cảnh giới chứng ngộ
của mình rất cao, liền cao hứng viết: “Khể thủ Thiên Trung Thiên, hào
quang chiếu đại thiên, bát phong xuy bất động,
đoan tọa tử kim liên” (Kính lạy Thiên Trung Thiên,
hào quang chiếu đại thiên, tám gió thổi chẳng
động, ngồi yên trên sen vàng). Làm xong bài thơ ấy,
Tô Đông Pha vô cùng đắc ý, sai tiểu đồng cấp
tốc vượt sông đưa cho thiền sư Phật
Ấn bình phẩm. Ngài Phật Ấn xem xong, cười
khan, chẳng nói gì. Tiểu đồng van nài xin Sư cho biết
ý kiến để thưa với chủ. Sư đề
ngay hai chữ “phóng thí” (thả
rắm), bảo đem về. Tiểu đồng về trình
lại, Tô Đông Pha nổi giận đùng đùng, liền
gọi người chèo thuyền ngay sang sông để cật
vấn Sư sao lại thô lỗ đến mức ấy,
chẳng biết thưởng thức thơ Thiền ra sao
cả! Đến chùa chỉ thấy cửa đã khóa chặt,
Sư đề trên cổng hai câu thơ: “Bát phong xuy bất động, nhất thí đả
quá giang” (Tám gió thổi chẳng động, một rắm
vượt sông ngay).
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment