Nếu tôi cũng đi cầu
người khai thị cho pháp giải thoát và có người chỉ cho rằng chẳng có ai trói buộc
mình thì tôi cũng sẽ được khai ngộ hay sao?”
Điều đó hoàn toàn
khác vì thời cơ của quý vị chưa đến. Năng lực tiềm tàng của quý vị chưa chín
mùi. Khi đã đến lúc, chỉ một lời nói, có thể khiến cho quý vị thức tỉnh, tâm
hoát nhiên thông suốt và khai ngộ liền.
TUYÊN HÓA THUỢNG NHÂN GIẢNG THUẬT
TÁM QUY LUẬT CỦA VIỆN PHIÊN DỊCH KINH ĐIỂN
1. Dịch giả phải thoát mình ra khỏi động cơ tự truy cầu
danh lợi.
2. Dịch giả phải tu thân dưỡng tánh, dứt bỏ thói cao
ngạo.
3. Dịch giả phải tự chế, không được tự khen ngợi nhưng
lại chê bai kẻ khác.
4. Dịch giả không được tự cho mình là tiêu chuẩn, là
thước đo, rồi hạ thấp kẻ khác bằng cách tìm lỗi lầm nơi tác phẩm của họ.
5. Dịch giả phải lấy tâm Phật làm tâm mình.
6. Dịch giả phải dùng trạch pháp nhãn để phán xét đâu
là chân lý.
7. Dịch giả phải cung kính cầu thỉnh Cao tăng, Đại đức
ở mười phương chứng minh cho bản dịch.
8. Dịch giả phải hoan hỷ truyền bá giáo nghĩa nhà Phật
bằng cách in Kinh, Luật, Luận một khi phần phiên dịch của mình được chứng minh
là đúng.
Trong
Phật giáo có rất nhiều bản kinh quan trọng, nhưng quan trọng nhất là kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Nếu nơi nào có kinh Thủ-lăng-nghiêm đang được lưu hành, có nghĩa là chánh pháp đang
còn ở thế gian. Nếu không còn kinh Thủ-lăng-nghiêm nữa, có nghĩa đã đến thời mạt
pháp. Do vậy, người Phật tử chúng ta, mỗi người cũng như tất cả, phải đem hết sức
lực, đem hết tâm huyết, đem hết mồ hôi nước mắt để giữ gìn kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Trong kinh Pháp Diệt Tận có nói rất rõ
ràng: “Vào thời mạt pháp kinh Thủ-lăng-nghiêm bị hoại diệt trước hết, sau đ,
các kinh khác dần dần biến mất.”
Nếu như kinh Thủ-lăng-nghiêm không bị biến mất
thì thời kỳ chánh pháp vẫn còn tồn tại. Do đóhàng
Phật tử chúng ta phải đem tất cả tính mạng để hộ trì kinh Thủ-lăng-nghiêm, phải
đem hết tâm huyết để thọ trì kinh Thủ-lăng-nghiêm, phải đem hết hạnh nguyện để
hộ trì kinh Thủ-lăng-nghiêm làm cho kinh Thủ-lăng-nghiêm mãi mãi tồn tại ở thế
gian, xiển dương sâu rộng khắp nơi, lưu truyền đến mọi ngóc ngách ở trên thế
gian, cho đến từng hạt vi trần, khắp tận hư không pháp giới. Nếu chúng ta làm được
như vậy thì nay vẫn còn thời chánh pháp đang tỏa chiếu ánh sáng đại quang minh.
Tại sao lại nói kinh Thủ-lăng-nghiêm bị tiêu hủy
trước tiên? Vì một điều quá chân thực, kinh Thủ-lăng-nghiêm là chân thân của Đức
Phật, kinh Thủ-lăng-nghiêm là xá-lợi của Đức Phật, kinh Thủ-lăng-nghiêm là tháp
miếu chân thực của Đức Phật. Do vì đạo lý trong kinh Thủ-lăng-nghiêm quá chân
thực, nên toàn thể ma vương đều dùng mọi cách để phá hủy kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Họ bắt đầu đưa ra những lời đồn đại, xuyên tạc, cho rằng kinh Thủ-lăng-nghiêm
là giả mạo. Vì sao thiên ma ngoại đạo cho rằng kinh Thủ-lăng-nghiêm là ngụy tạo?
Vì kinh Thủ-lăng-nghiêm nói quá chính xác, đặc biệt là phần nói về Bốn lời khai
thị về bản tánh thanh tịnh sáng suốt (Tứ chủng thanh tịnh minh hối), phần Hai
mươi lăm vị Thánh nói về pháp tu chứng viên thông, và phần Năm mươi tướng trạng
ấm ma. Ngoại đạo tà giáo, yêu ma quỷ quái không thể nào chịu nổi giáo lý này,
nên họ kéo theo rất nhiều người thiếu hiểu biết tuyên bố rằng kinh Thủ-lăng-nghiêm
là ngụy tạo.
Những đạo lý được đề xuất trong kinh Thủ-lăng-nghiêm,
một mặt đúng là chánh pháp, mặt khác lại phù hợp với đạo lý, nên bọn tà ma, quỷ
quái, bàng môn ngoại đạo không thể ẩn dấu tung tích được. Một số người thiếu ý
thức, cụ thể là những học giả kém thông thái, những giáo sư chuyên thu thập kiến
thức tạp nham[1] “chuyên đuổi mồi bắt bóng”,[2] với sự hiểu biết cực kỳ hẹp hòi và hạn chế,
họ hoàn toàn bị mê muội và nhầm lẫn, họ không có được sự uyên bác thực sự và
không có trí tuệ chân thực, thế nên họ phê phán một cách hồ đồ.
Chúng ta là những người
tu học Phật pháp, nên nhận thức sâu sắc về những trường hợp này, do đóbất kỳ đi đâu chúng ta cũng phải xiển dương kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Bất kỳ đi đâu chúng ta cũng nên truyền bá kinh Thủ-lăng-nghiêm. Bất kỳ đến đâu
chúng ta cũng giới thiệu kinh Thủ-lăng-nghiêm cho mọi người. Sao vậy? Vì chúng
ta muốn làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian. Nếu kinh Thủ-lăng-nghiêm
là ngụy tạo, tôi xin có cam đoan này với quý vị:
Nếu kinh Thủ-lăng-nghiêm
là chân thực thì dĩ nhiên chẳng có vấn đề gì, còn nếu kinh Thủ-lăng-nghiêm là
ngụy tạo, thì tôi nguyện rằng tôi là kẻ trước tiên đọa vào Vô gián địa ngục, vì
tôi không nhận thức được Phật pháp, nhận vọng làm chân. Còn nếu kinh Thủ-lăng-nghiêm
là chân thực, thì tôi nguyện đời đời kiếp kiếp truyền bá đại pháp Thủ-lăng-nghiêm,
nghĩa là mọi nơi mọi lúc tôi sẽ xiển dương đạo lý chân thật của kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Mọi người nên chú tâm vào điểm này. Nếu kinh Thủ-lăng-nghiêm
không do từ kim khẩu đức Phật nói ra, thì chẳng còn một ai có thể giảng nói được,
chẳng còn một người nào khác có thể nói được một giáo lý chính xác như kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Vì thế tôi hy vọng rằng
những người thiếu ý thức đã có các suy nghĩ sai lầm này, sớm thức tỉnh, dừng lại
việc tạo ra cái nhân sai lạc, sẽ chiêu cảm quả báo ở địa ngục Bạt thiệt[3] bất luận học giả đó
là ai, bất luận những nhà nghiên cứu Phật pháp ở bất cứ quốc gia nào, tất cả
nên nhanh chóng sửa đổi cách nhìn, nhận ra lỗi lầm của mình và tìm cách điều chỉnh.
Chẳng có việc thiện nào lớn lao hơn thế nữa. Tôi chắc rằng khi tất cả mọi người
đều đọc kinh Thủ-lăng-nghiêm, mọi người đều nghe giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, mọi
người đều tham cứu kinh Thủ-lăng-nghiêm, thì tất cả đều sẽ chóng thành Phật đạo.
PHÁP SƯ KIM
SƠN SA-MÔN TAM TẠNG
THÍCH TUYÊN HÓA
Bản dịch tiếng Anh: Tỷ-khưu ni HENG HSIEN
[1] Nguyên văn: garbage collecting professor
[2] Nguyên văn: tread upon the holy writ.
[3] The hell of
pulling out tongue: địa ngục rút lưỡi, địa ngục mà những kẻ tạo
khẩu nghiệp bị đọa vào.
*********************
[13] Lục quần tỷ-khưu: Có nhiều
thuyết. Theo Tỳ-nại-da Luật quyển 11; gọi là Lục chúng bật sô六眾苾芻, gồm:
1. Nan-đà (難陀Nanda); 2. Ô-ba-nan-đà (鄔波難陀Upananda);
3. A-thuyết-ca (阿說迦Aśvaka); 4. Bổ-nại-bà-tố-ca
(補捺婆素迦Punarvasu); 5. Xiển-đà (闡陀Chanda);
6. Ô-đà-di (鄔陀夷Udāyin). Theo Tát-bà-đa-luận.
quyển 4; ghi: 1. Nan-đà難陀; 2. Bạt-nan-đà跋難陀; 3.
Ca-lưu-đà-di (迦留因夷Kālodayin); 4. Xiển-đà 闡陀; 5. Mã
Túc馬宿; 6. Mãn Túc滿宿.
*********************
KINH
ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ-TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM
(QUYỂN MỘT)
Sa-môn Bát-thích-mật-đế
người Trung Thiên Trúc, dịch vào đời Đường.
Sa-môn Di-già Thích-ca,
người nước Ô Trành dịch ngữ.
Sa-môn Hoài Địch, chùa
Nam Lâu, núi La Phù, chứng minh bản dịch.
Đệ tử thọ Bồ-tát giới tên Phòng Dung, hiệu
Thanh Hà, chức Tiền Chánh Nghị Đại Phu đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự bút
thọ (nhuận bút).
TUYÊN HÓA Thượng
Nhân, Vạn Phật Thánh Thành, Bắc Mỹ Châu Hoa Kỳ lược giảng.
Đệ tử thọ Bồ-tát giới Phương Quả Ngộ ghi chép.
CHÍNH VĂN
KINH
ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ-TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM
Giảng:
Toàn bộ dòng này là
tên kinh, để phân biệt với những bộ kinh khác.
Chữ Kinh là
tên chung để gọi tất cả những lời Đức Phật đã giảng nay được ghi chép lại.
Các đề kinh trong Tam
tạng đều được chia thành bảy loại: ba loại đơn đề, ba loại song đề và một loại
toàn đề (nhân-pháp-dụ).
Ba loại đơn đề gồm:
Đề kinh chỉ nói đến
tên người (Nhân): như Kinh Phật
thuyết A-di-đà. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Đức Phật A-di-đà đều là tên người
được đề cập trong tên Kinh này.
Đề kinh chỉ nói đến pháp.
Như Kinh Đại Bát Niết-bàn. Niết-bàn là pháp bất sinh bất diệt.
Đề kinh chỉ liên quan
đến thí dụ như Kinh Phạm Võng. Liên quan đến những thí dụ được giảng
nói trong kinh là màn lưới rộng khắp của Đại Phạm Thiên vương.
Ba loại song đề gồm:
Đề kinh liên quan đến
người và pháp: như Kinh Văn-thù vấn Bát-nhã. Văn-thù-sư-lợi là người, hỏi về Bát-nhã là pháp.
Đề kinh liên quan đến
người và dụ, như Kinh Như Lai Sư Tử hống.
Như Lai là tên người (nhân), Sư tử hống là dụ.
Đề kinh liên quan đến
pháp và dụ, như Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Trong đó Diệu pháp là pháp, Liên hoa là dụ.
Kinh toàn đề là:
Đề
kinh liên quan đến cả nhân, pháp và dụ, như Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm. Trong đó Đại Phương Quảng là pháp,
Phật là nhân, Hoa Nghiêm là dụ.
Mỗi
kinh đều thuộc vào một trong bảy loại này. Người giảng kinh đều phải thấu hiểu
cả bảy loại đề mục này để giảng giải cho người khác nghe. Nếu quý vị không hiểu,
làm sao có thể giảng cho người khác hiểu được? Làm sao mà giáo hóa cho người
khác giác ngộ trong khi mình chưa giác ngộ?
Quý vị đừng nên như
những người tự gọi mình là Pháp sư sau khi chỉ đọc một vài cuốn sách, mà thực tế
là chẳng nói được một trong bảy loại đề kinh này hay Ngũ trùng huyền nghĩa,[1] hoặc chỉ nói rõ được một trong Thập môn phân biệt.[2]
Đây thực là trường hợp
vội vã thiếu chín chắn. Do người đọc kinh và giảng kinh không thông đạt được
chân nghĩa của kinh. Những người giảng kinh này sẽ dẫn đệ tử của mình xuống địa
ngục và người giảng cũng xuống theo.
Khi đã xuống địa ngục
rồi, người giảng kinh cũng như đệ tử không ai hiểu được lý do tại sao mình bị
rơi xuống đây. Thật đáng thương! Chỉ có sau khi đã đạt được một trí tuệ chân
chính thông qua nghiên cứu Phật pháp thì mới có thể giáo hóa chúng sinh mà
không bị nhầm lẫn.
Để giảng giải cho trọn
vẹn chân lý vô cùng vô tận trong bộ kinh Thủ-lăng-nghiêm này. Tôi sẽ dùng Thập môn phân biệt của tông Hiền Thủ hơn
là dùng Ngũ chủng huyền nghĩa của
tông Thiên Thai.
Hiền Thủ và Thiên
Thai là hai tông phái lớn của Phật giáo Trung Hoa. Các Pháp sư khi giảng kinh đều
chỉ nghiên cứu một trong hai tông phái này. Nên lời giảng của họ không đạt đến chỗ viên dung vô ngại được.
Thập môn phân biệt của tông Hiền Thủ là:
1-Giải thích tổng
quát đề kinh (Tổng thích danh đề).
2-Nhân duyên phát khởi
giáo lý (Giáo khởi nhân duyên).
3-Phân loại kinh thuộc
tạng nào và thừa nào (Tạng giáo sở nhiếp).
4-Khảo sát nghĩa lý
sâu mầu của kinh (Nghĩa lý phần tể).
5-Diễn bày thể tính của
giáo pháp (Năng thuyên
giáo thể).
6-Sự khế hợp của từng
căn cơ với giáo lý trong kinh (Sở bị cơ
nghi).
7-Sự thông dụng và cá
biệt về tông thú của kinh (Tông thú thông
biệt).
8-Xác định thời gian
giảng kinh (Thuyết thời tiền hậu).
9-Lịch sử truyền bá
phiên dịch kinh (Lịch minh truyền dịch).
10-Phần giải thích yếu
nghĩa của kinh (Biệt giải văn nghĩa).
I. GIẢI THÍCH TỔNG QUÁT ĐỀ KINH.
“Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm” là tên của bộ kinh này.
ĐẠI 大 nghĩa
là to lớn. Đề cập đến bốn khía cạnh lớn lao của kinh :
1 -Nguyên nhân (nhân因
)
2- Nghĩa lý ( lý理).
3- Tu tập hành trì (hạnh行).
4 - Kết quả (quả果 ).
Nguyên nhân lớn lao
chính là mật nhân. Nhân này hoàn toàn
khác với những nguyên nhân bình thường mà hàng phàm phu không thể nào hiểu được,
hàng ngoại đạo không thể nào hiểu được, và hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác
chưa giác ngộ được. Cho nên nguyên nhân ra đời của bộ kinh này rất lớn.
Nghĩa lý siêu việt của
kinh to lớn chính là liễu nghĩa. Đây
là chỗ rốt ráo của người tu đạo, dẫn đến sự chứng ngộ.
Hạnh tu tập to lớn vì
bao gồm vô số công hạnh của hàng bồ-tát.
Kết quả to lớn là đại
định Thủ-lăng-nghiêm, Do bốn phương diện này nên đề kinh được mở đầu bằng tiếng
Hán là Đại 大
; nghĩa là to lớn, siêu việt.
PHẬT: tiếng Phạn là Buddha. Phiên âm sang tiếng Trung Hoa là
Phật-đà-da 佛陀耶, gọi tắt là Phật. Nhiều người cứ nghĩ rằng chữ Phật là tiếng Hán chuyển ngữ, phát xuất từ chữ Buddha, nhưng thực ra đó chỉ là âm đầu của toàn bộ tiếng phiên âm từ
chữ Buddha mà thôi. Buddha nghĩa là giác ngộ, tỉnh thức.
Có ba hình thức giác
ngộ: tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn.
Đức Phật là người tự
mình giác ngộ. Trạng thái giác ngộ ấy khác xa với trạng thái hiện thời của người
phàm phu, là kẻ chưa được giác ngộ.
Tự mình giác ngộ chưa
đủ, mà còn phải giúp cho kẻ khác được giác ngộ. Việc giác ngộ người khác có
nghĩa là tìm một phương pháp để giúp cho họ được giác ngộ.
Giữa tự giác và giúp
cho người khác được giác ngộ phải trải qua rất nhiều giai đoạn và có nhiều
trình độ khác nhau. Giác ngộ có hai trường hợp: đại ngộ và tiểu ngộ. Tiểu
ngộ là giác ngộ chưa được hoàn toàn. Đại ngộ là giác ngộ hoàn toàn. Đức Phật đã
tự tu tập và giác ngộ hoàn toàn và Ngài còn giúp cho người khác được giác ngộ.
Đức Phật là người đã
có đầy đủ ba phương diện giác ngộ nên Ngài được gọi là người có vạn đức trang nghiêm.
“Tam
giác viên, vạn đức bị.”
(Khi ba phương diện giác ngộ đã được viên mãn
thì có đầy đủ muôn vạn công đức trang nghiêm, nên được gọi là Phật).
Có người tự hỏi tại
sao ta lại tin vào Đức Phật. Do vì chính chúng ta xưa nay vốn là phật rồi. Chẳng
qua hiện nay chúng ta bị mê mờ, không thể chứng được quả vị Phật. Do đâu mà nói
chúng sinh xưa nay vốn là phật? Chính là do Đức Phật đã từng nói:
“Tất cả
chúng sinh đều có Phật tánh… nhưng chỉ do vọng tưởng, chấp trước nên không thể
chứng đắc được”1
Vọng tưởng đã đưa con
người chúng ta từ Đông sang Tây, rồi đưa từ Nam sang Bắc; đưa ta từ dưới đất
lên trên trời; vọng tưởng ấy bỗng chốc đưa ta lên thiên đàng, bỗng chốc đưa ta
xuống địa ngục. Nó đưa ta đến những nơi bất khả tư nghì và không thể suy lường
được. Quý vị có biết mình có khởi lên bao nhiêu vọng tưởng trong một ngày
không? Nếu quý vị biết thì mình trở thành bồ-tát. Còn nếu không biết thì mình vẫn
là phàm phu.
Con người trở nên chấp
trước vào sự sở hữu, thường xuyên lập nên sự phân biệt về “tôi” và “cái của tôi.” Họ
không thể dẹp sang một bên sự sở hữu những của cải vật chất hay sự hưởng thụ
thú vui tinh thần. “Đó là máy bay của tôi”,
“Đây là chiếc xe của tôi, bạn biết không
nó thuộc về model mới nhất.” Bất luận khi người ta sở hữu một vật gì, thì đều
bị dính mắc vào vật ấy. Đàn ông có sự dính mắc của đàn ông, phụ nữ có sự chấp
trước của phụ nữ. Người lương thiện có sự chấp trước của người lương thiện. Kẻ
xấu ác có sự chìm đắm của kẻ xấu ác.
Bất
luận những chấp trước ấy thuộc loại gì người ta cũng khó lòng xả bỏ được nó. Họ
chiếm đoạt rồi níu giữ, kiên trì bám riết lấy nó. Càng lúc càng trở nên cố chấp
hơn. Tiến trình này vô tận vô biên. Những khoái lạc như thức ăn ngon, nhà cửa
tiện nghi, những món giải trí hấp dẫn và những thứ thường được xem như là lợi
nhuận. Những thứ này không bền vững trường cửu như nó đang hiện hữu. Mặc dù quý
vị chưa nhận ra điều ấy. Nhưng đó chỉ là sự tham đắm dục lạc làm chướng ngại việc
chứng đạt Phật tánh của quý vị mà thôi. Nên Đức Phật đã dạy: “Chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chúng sinh
không thể nhận ra được Phật tánh.
Trong
kinh Thủ-lăng-nghiêm, Đức Phật dạy: “Cuồng
tâm đốn yết, yết tức bồ-đề ”
Nghĩa là: “Khi tâm cuồng chợt dừng hẳn thì
ngay lúc ấy là giác ngộ”
Tâm cuồng được giải thích là tâm
ích kỷ giả dối, là tâm ưa thích địa vị trong xã hội, là tâm đầy dẫy những
hy vọng hảo huyền vô ích, là tâm khinh thường người khác nên không nhìn thấy được
những thành quả và sự thông minh của họ. Ngay cả như có người được xem tương tự
như loài bát quái cũng sẽ tự cho mình là đẹp lắm. Nên những loại cố chấp lớn
lao này sẽ không sinh khởi nữa khi tâm cuồng si kia dừng hẳn. Chỗ dừng đó chính
là bồ-đề. Bồ-đề là gì? Là giác ngộ được đạo, là khai ngộ. Từ đây, việc thành Phật
không còn xa nữa. Nếu quý vị có thể làm cho tâm cuồng của mình dừng bặt, nghĩa
là quý vị đã có công phu rất tốt rồi.
Trong ba hình thức
giác ngộ. Sự giác ngộ của hàng A-la-hán
và Bích-chi Phật[3] là để phân biệt họ với hàng phàm phu chưa
giác ngộ.
Bích-chi Phật ngộ đạo
thông qua tu tập mười hai nhân duyên. Hàng A-la-hán ngộ đạo nhờ tu tập Tứ diệu đế. Chư
vị Bồ-tát khác hẳn hàng Bích-chi
Phật và A-la-hán. Họ kiên quyết
giúp cho mọi chúng sinh được giác ngộ, và cũng được gọi là làm lợi lạc quần
sinh.
Nói tóm lại, A-la-hán, Bích-chi Phật, Bồ-tát là người đã tu tập giác ngộ. Ở đây, chúng ta có thể nói một người
tu tập lần lượt đạt được các quả vị A-la-hán,
rồi Bích-chi Phật, rồi đến quả
vị bồ-tát thông qua phương tiện Lục độ ba-la-mật và vô số công hạnh. Như một
người hiện thân ở cả ba trình độ tu tập khác nhau.
Có người dù tu tập đã
đạt đến quả vị A-la-hán rồi
nhưng không muốn tiến xa hơn nữa, tự nghĩ mình đã có được giác ngộ rồi, như có
người tự cho rằng: “Ta đã được khai ngộ. Ta chẳng cần quan tâm đến ai cả.” Anh ta
dừng lại ở sự thành tựu quả vị A-la-hán
chứ không muốn tiến đến quả vị Bích-chi
Phật nữa.
Một số người khác tiếp
tục tu tập để được đạt quả vị Bích-chi
Phật, nhưng chẳng quan tâm đến tiến trình xa hơn nữa. Thế nên ta có thể xem đó
chỉ là một người hay là cả ba người cũng được.
Còn Bồ-tát là người đã tự mình giác ngộ còn giúp cho mọi người khác được giác
ngộ. Tu tập lục độ ba-la-mật và
tự trang nghiêm mình bằng vô số công hạnh. Bồ-tát phải tiếp tục lộ
trình tu tập cho đến khi hoàn thành bồ-tát đạo. Đến đây mới được gọi là giác hạnh viên mãn, là thành Phật. Khi đạt
được giác hạnh viên mãn của một đức
Phật rồi thì hành giả hoàn toàn khác hẳn một vị bồ-tát.
Ba hình thức giác ngộ
có thể thảo luận rất dài. Còn nếu muốn thực hành thì có rất nhiều sự sai biệt.
Trong mỗi trình độ lại có nhiều cấp độ khác nhau. Trong sự phân biệt lại có
thêm nhiều phân biệt. Tiến trình của hình thức giác ngộ này rất nhiều giai đoạn.
Cho đến khi ba hình thức giác ngộ này được viên mãn mới gọi là hoàn thành.
ĐẢNH: là điểm cao nhất.
Điểm cao nhất trên đầu gọi là đảnh,
trên đảnh chỉ còn có trời. Nên người
ta thường nói: “Đầu đội trời, chân đạp đất.” Tóm lại, Đại Phật đảnh là nói về
điểm nổi lên cao nhất trên đỉnh đầu của Đức Phật.
Quý vị thắc mắc: “Đức
Phật lớn chừng nào? Có phải như một pho tượng cao sáu feet[4]chăng?” Không, pho tượng Đức Phật chỉ như một
giọt nước trong biển cả, hay chỉ như một hạt vi trần trong thế giới này. Nên chẳng
có gì lớn hơn Đức Phật, lớn nhưng chẳng
phải lớn, đó mới chân thực là lớn.
Quý vị liền hỏi :
–Thế thì Ngài là ai?
- Ngài là Đức Phật,
hiển hiện khắp mọi nơi. Chẳng có nơi nào là Phật mà không có nơi nào chẳng phải
là Phật. Bất luận quý vị nói nơi đâu là Phật, thì nơi đó chẳng phải là Phật. Bất
luận nơi đâu mà quý vị nói không phải là Phật, thì nơi đó chính là Phật. Quý vị
có biết kích thước của Phật như thế nào không? Chẳng có cách nào tính kể được đức
Phật to lớn bao nhiêu. Nên Đức Phật thật sự rất lớn, quá lớn đến nỗi Ngài vượt
qua tất cả.
-Làm thế nào mà vượt
qua mọi thứ được cho là lớn?
- Là không có cái vĩ
đại nào có thể đem ra so sánh với Đức Phật được. Sự lớn lao của Đức Phật là tuyệt
đối.
- Thế thì Đức Phật là
ai?
- Là Đại Phật.
- Thế Đại Phật này là
ai?
Là quý vị, mà Phật
cũng là tôi. Nhưng tôi chẳng lớn được như thế. Đến như tôi biết, quý vị cũng chẳng
lớn được như vậy. Tại sao quý vị lại nói Phật là quý vị mà Phật cũng là tôi?
Quý vị lại hỏi:
- Tại sao lại so sánh
Đức Phật như thế?
- Nếu Đức Phật chẳng
có liên quan gì đến quý vị và tôi, thì ta chẳng cần bàn luận gì đến Đức Phật
cho mất công.
Quý vị lại hỏi:
-Làm sao mà tôi lại lớn
như thế?
Phật tánh rất lớn, vốn
có sẵn trong tất cả mỗi chúng ta. cũng như cái không thể so sánh của Đại Phật
vậy.
Bây giờ chúng ta
không chỉ nói về Đại Phật nữa, mà chúng ta sẽ liên hệ đến đảnh tướng trên đầu của Đức Phật. Chỉ có một vật cao hơn vị Đại Phật,
đó chính là đảnh đầu của Ngài. Và Đại Phật
đảnh sẽ có liên quan đến sự xuất hiện của những vị Đại Phật khác sắp được
hiện ra.
Quý vị liền hỏi:
- Đức Phật ấy lớn cỡ
nào?
- Đức Phật ấy không
thể thấy được. Ngài được diễn tả trong bài kệ chúng ta thường đọc trước khi tụng
chú Lăng Nghiêm:
Điều gì không thể thấy
được có thể nói là nó không hiện hữu. Làm sao người ta có thể tin được sự hiện
hữu của một vị Đại Phật khi họ không thấy được Ngài?
Cái không thể thấy được
ấy mới là thật sự là lớn. Nếu nó chẳng
lớn đến nỗi không thể thấy đuợc. Tại sao quý vị lại thấy được những vật khác mà
chẳng thấy được Đại Phật?
– Không chỉ riêng những
vật lớn mà những vật rất nhỏ cũng không thể thấy được.
Thực chứ? Bầu trời rất
rộng lớn. Nhưng quý vị có thể thấy khắp hết chăng? Không. Trái đất thì mênh
mông bao la. Quý vị có thể thấy khắp giáp bề mặt của nó chăng? Cũng không. Đó
là những gì lớn thực sự mà không thể
thấy được.
Từ đảnh đầu (không thể
thấy được) của Đức Đại Phật Như Lai phóng ra hào quang.
– Hào quang ấy lớn đến
chừng nào?
Hãy nghĩ rằng: Chẳng
lẽ một vị Đại Phật lại phóng ra một đạo hào quang nhỏ nhoi. Tất nhiên hào quang
Ngài phóng ra phải vô cùng vĩ đại, chiếu khắp mọi nơi.
– Có chiếu đến tôi không?
Nó đã chiếu đến quý vị
từ rất lâu rồi!
– Thế tại sao tôi
không biết gì cả?
Bây giờ quý vị có muốn
biết không?
Tâm thanh thủy hiện nguyệt
Ý tịnh thiên vô vân.
(Khi tâm thanh tịnh
thì trăng phản chiếu trên mặt nước. Khi ý tĩnh lặng thì như bầu trời không gợn
tí mây.
Nếu tâm quý vị hết sức
thanh tịnh, hào quang của Đức Phật sẽ chiếu đến và sẽ tỏa sáng trong tâm quý vị
như ánh trăng soi chiếu trên mặt hồ tĩnh lặng.. Nếu tâm quý vị còn nhiễm ô,
cũng như một vũng nước bùn đục ngầu, chẳng có thứ ánh sáng nào chiếu dọi qua được.
Tâm định giống như bầu trời không mây, là trạng thái vi diệu không thể diễn tả
được. Nếu quý vị tự thanh tịnh tâm mình rồi, thì quý vị sẽ có được sức mạnh của
Thủ-lăng-nghiêm đại định.
NHƯ LAI
Xuất phát từ chữ tathāgata
trong tiếng Phạn, có nghĩa là đến như vậy
Như
nghĩa là không có gì mà chẳng như.
Lai là không có nơi nào mà chẳng đến.
Như là
bản thể của Phật pháp.
Lai là
dụng của Phật pháp.
Như là cảnh giới như như bất động
của Phật.
Lai là
đến rồi đi (đi mà chẳng đi).
Nên nói: Như như bất động, lai nhi diệc lai, lai nhi
bất lai (Như như bất động. đến rồi lại đến. Đến mà chẳng đến).
- Thế Ngài đi đâu?
- Chẳng đi đâu cả.
Thế Ngài đến nơi đâu?
Chẳng có nơi nào để đến cả.
Nên
Kinh Kim Cương nói :
Đức Phật chẳng đến với
quý vị, cũng chẳng đến với tôi. Mà Đức Phật ở ngay đó với quý vị, và Đức Phật
cũng ở ngay đây với tôi.
Như Lai[7] là một trong mười danh hiệu của Đức Phật.
Thông thường, mỗi Đức Phật đều có mười ngàn danh hiệu. Về sau rút lại chỉ còn một
trăm danh hiệu vì chúng sinh thường bị lẫn lộn khi cố gắng nhớ cho hết. Trong một
thời gian khá dài, Đức Phật có một nghìn danh hiệu, nhưng chúng sinh lại vẫn
không nhớ hết được. Nên lại giảm xuống mỗi Đức Phật chỉ còn một trăm danh hiệu.
Đến khi mỗi Đức Phật còn lại một trăm danh hiệu rồi mà chúng sinh vẫn khó khăn
khi nhớ hết các danh hiệu ấy. Nên lại giảm xuống chỉ còn mười danh hiệu. Đó là:
Ứng cúng: xứng đáng được hưởng sự cúng dường của loài người và trời.
Chánh biến tri: hiểu biết chân chính bao trùm khắp.
Minh hạnh túc: Sự giác ngộ cũng như công hạnh hoàn toàn trọn vẹn.
Vô thượng sĩ : Bậc không ai sánh bằng.
Điều ngự trượng phu: Bậc trượng phu khéo điều phục chính mình.
Thiên nhân sư: Thầy của trời và người
Phật
Thế Tôn
Tất cả các Đức Phật đều
có mười danh hiệu này.
MẬT NHÂN
Mật nhân là bản thể của định lực mà mọi người đều tự có sẵn. Gọi là mật chứ không gọi là hiển vì mặc dù vốn có đầy đủ bên trong mỗi
người, không ai thiếu sót cả, nhưng chẳng ai biết được điều ấy. Thế cho nên gọi
là mật.
Mật nhân này là định lực của Như Lai và cũng
là bản thể định lực của toàn thể chúng sinh. Khác nhau ở điểm là bản thể định lực
của chúng sinh chưa được hiển bày nên vẫn còn một điều ẩn mật.
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
Mật nhơn ấy phải được tu chứng qua tham thiền hay niệm Phật, cả hai đều là
phương tiện tu tập. Sự tu tập đề cập ở đây là tinh chuyên tham thiền. Qua tham
thiền miên mật, hành giả mới chứng quả và đạt được liễu nghĩa, đó cũng chính là không nghĩa.
Nói như thế thì mọi
chuyện là vô nghĩa hay chăng?
“Liễu nghĩa là thực chứng được một cách trọn vẹn không thiếu sót các
pháp thế gian và xuất thế gian.” Đến lúc ấy nó chẳng còn pháp nào để tu, chẳng
còn pháp nào để chứng nữa cả.
Vĩnh Gia Huyền Giác Đại
sư có viết trong Chứng Đạo ca:
Quân bất kiến
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân.
Bất trừ vọng niệm, bất cầu chân.
Người tu đạo từ nay không còn phải làm việc gì
nữa cả, chẳng cần liệng bỏ những vọng niệm vì đã trừ dẹp xong hết rồi. Chỉ còn
những ai chưa hoàn toàn trừ sạch vọng tưởng mới phải cần liệng bỏ nó.
Người
tu đạo không cần phải tìm cầu chân lý vì đã thể nhập và đã chứng nghiệm được
chân lý rồi. Chỉ có những người chưa đạt được mới tìm cầu chân lý.
Những dòng này diễn tả
về liễu nghĩa. Chứng được liễu nghĩa cũng
còn được gọi là liễu vì đạo lý Đức Phật
giảng dạy quá siêu việt, phải cần nghiên cứu toàn diện mới mong đạt được chỗ
cùng tận của nghĩa lý.
Khi một người đã dốc
hết sức để mong nghiên cứu cùng tận mọi giáo nghĩa Đức Phật đã dạy, đến khi họ
không còn nữa mà nghĩa lý hoàn toàn còn đó. Vấn đề bất
liễu nghĩa vẫn còn có một ý nghĩa chưa thông suốt còn lại ở đó.
Liễu nghĩa là chẳng còn nghĩa
gì trong đó cả. Hoàn toàn “thanh tịnh”
khi đạt đến chỗ liễu nghĩa nên gọi là mật
nhơn, là bản thể của định lực. Khi đạt được bản thể này, có nghĩa là quý vị
đã tu và chứng được liễu nghĩa. Nếu
quý vị không tu thì chẳng chứng được liễu
nghĩa, là nghĩa bao trùm tất cả các nghĩa khác.
Quý vị lại hỏi: “Nhưng
Thầy lại bảo rằng liễu nghĩa ấy không
hiện hữu?
Đúng vậy, nhưng cái
không hiện hữu ấy mới thực sự hiện hữu.
Sự tồn tại tương quan
không phải là hiện hữu thực sự. Khi quý vị đã chứng thực được liễu nghĩa, không còn thêm một ý nghĩa
nào để chứng đắc nữa, là quý vị đã đạt đến chỗ rốt ráo.
“Điểm thành tựu rốt
ráo ấy là gì?”
Đó là cảnh giới Phật,
là quả vị Phật. Nhưng nếu quý vị muốn đạt đến cảnh giới Phật, quý vị phải tiếp
tục tu tập Bồ-tát đạo, cho nên trong
tên kinh lại có đề cập đến.
CHƯ BỒ-TÁT VẠN HẠNH
Chư nghĩa là tất cả, là vô số. Công hạnh của
hàng bồ-tát nhiều không thể tính đếm được. Nói tóm lại, có tất cả 55 quả vị của
hàng bồ-tát. Sẽ được giải thích
chi tiết trong kinh văn. Gồm có: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng,
Tứ gia hạnh, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác. Năm mươi lăm quả vị này không phải
là chỉ đề cập đến 55 vị bồ-tát,
đúng hơn là nói đến 55 trình tự mà người phát tâm tu bồ-tát đạo phải trải
qua mới chứng đạt Phật quả.
Vạn hạnh là vô số phương
pháp mà các vị bồ-tát tu tập. Có tám mươi bốn
nghìn pháp môn. Nhưng trong đề mục kinh chỉ nói đến vạn hạnh. Để bổ sung cho vạn
hạnh, các vị bồ-tát còn
phải tu tập Lục độ ba-la-mật. Ba-la-mật (pāramitā) là phiên âm từ tiếng Sanskrit,
có nghĩa “đến bờ bên kia,” là hoàn thành viên mãn công hạnh của người tu hành.
Nếu quý vị quyết tâm tu tập thành Phật, chứng đạt Phật tánh thì đó là ba-la-mật.
Nếu quý vị muốn vào Đại học và lấy bằng Tiến sĩ, thì khi đạt được học vị ấy được
gọi là ba-la-mật. Nếu quý vị đang đói, muốn ăn, mà được ăn đó là ba-la-mật. Khi
quý vị buồn ngủ mà được nằm xuống ngủ một giấc thì đó gọi là ba-la-mật. Chữ ba
la (bwo lwo) trong tiếng Hán nghĩa là trái thơm (dứa); mật (mi) là mật ong. Nên ba-la-mật còn có nghĩa là
ngọt hơn cả vị ngọt của trái thơm.
Các vị bồ-tát đều tu tập sáu hạnh ba-la-mật. Đó là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
Bố thí:
có ba dạng:
1- Tài thí : bố thí tiền của, tài sản
2- Pháp
thí: bố thí pháp
3- Vô úy
thí: bố thí sự không sợ hãi.
-Bố thí tài sản: Mặc dù tiền bạc là thứ mọi người ưa thích nhất,
nhưng nó cũng là thứ dơ bẩn nhất trên đời. Chỉ cần nghĩ xem nó đã được chuyền
tay qua bao nhiêu người và nó chứa bao nhiêu thứ vi trùng thì
sẽ biết. Trong đạo Phật, tiền
bạc được xem là thứ bất tịnh. Trước hết, nguồn gốc của nó thường là bất tịnh hoặc
là do trộm cắp, hoặc là biển thủ, tham ô mà có
Có người không bằng
lòng, nói rằng: “Tiền này do tôi kiếm được từng đồng bằng nghề nghiệp hoàn toàn
trong sạch."
Nay dù quý vị kiếm được
tiền bằng cách hợp pháp đi nữa thì quý vị vẫn không thể từ chối được rằng đồng
tiền tự nó rất bẩn và chứa rất nhiều mầm vi trùng gây bệnh. Vậy mà rất nhiều
người thích nó. Khi tiền được chuyền tay nhau, nhiều người đã thấm nước miếng của
mình vào ngón tay để đếm, việc này tạo nên mối nghi ngờ cao độ, chính tiền đã
truyền mầm bệnh truyền nhiễm. Nhưng mặc dù sự bất tịnh của nó tác hại đến thế,
mà người ta vẫn không ngại kiếm cho được nhiều tiền. Nếu quý vị cho tôi toàn bộ
tiền bạc của nước Mỹ này, tôi sẽ không cho đó là quá nhiều. Và nếu đem tất cả
khoản tiền ấy cho quý vị, thì tôi tin là quý vị cũng chẳng phản đối. Nhưng khi
quý vị đã có nhiều tiền rồi thì sẽ có luôn một số vấn đề rắc rối. Ban đêm quý vị
không thể ngủ ngon giấc. Quý vị bận tâm phải tìm nơi an toàn để cất giữ. Vì tiền
bạc đã làm cho quý vị bận tâm, nên bản chất nó là bất thiện. Nhưng dù cho nó
không tốt mà nhiều người vẫn ưa thích, không thể từ bỏ nó được. Người có thể thực
hành việc bố thí ba-la-mật tài sản, tiền bạc là người đang tu tập bồ-tát đạo.
Người ta không dễ gì thực hành việc bố thí.
Tâm con người là nơi giao nhau của hai cực âm và dương, là đấu trường của lý
trí và tình cảm. Ví dụ như khi thấy có người gặp hoạn nạn, bị đói khát, theo đạo
lý làm người, quý vị quyết định cho người ấy một đô-la nhưng khi thò tay vào
túi lấy tiền, thì tâm tham lam đã níu giữ ta lại, khiến khởi dậy niệm thứ hai:
“Hãy đợi một chút, ta không thể cho nó đô-la này được. Đây là đồng tiền lẻ cuối
cùng ta vừa đổi được. Nếu ta cho nó, ta sẽ hết tiền đi xe buýt và ta phải đi bộ.
Ta không thể cho được.” Tâm niệm đầu tiên thúc dục mình phải có lòng bao dung với
người khác; nhưng lập tức nó lại bị dẫn dắt bởi tâm niệm tiếp theo, tính toán
cho sự lợi lạc riêng của chính mình. Nên anh ta bỏ tiền lại vào túi, không cho
nữa. Điều này xảy ra hoàn toàn giống nhau từ tầm mức nhỏ cho đến mức độ to lớn;
từ một đồng xu cho đến cả triệu đô la. Niệm đầu tiên là cho, niệm thứ hai là lo
lắng cho chính mình.
Bố thí tài vật không
phải dễ dàng gì. Ngay cả có người khi làm việc gì cũng nghĩ: “Thật ngu đần mới
đem tiền cho các người. Tại sao các người chẳng đem tiền của quý vị đến cho tôi.”
Rất dễ dàng khi nói đến bố thí nhưng đến khi thực hành thì khó.
Từ hồi còn trẻ tôi
không biết đếm. Bất kỳ khi nào tôi có tiền, tôi đều bố thí sạch. Nếu tôi có được
một đô-la, tôi cho một đô-la, nếu có hai đô-la, tôi cũng cho cả hai, tôi không
thích tiền. Nhiều người xem cách đối xử của tôi là ngu đần vì tôi chẳng nghĩ gì
đến việc lo cho mình cả. Tôi chỉ biết cách giúp đỡ người khác.
Bằng cách làm lợi ích
cho người khác thì mới có thể làm sinh khởi tâm bồ-tát trong mình. Những
người đã phát tâm bồ-tát thường thích làm lợi ích cho mọi người
hơn là làm lợi ích cho chính mình. Họ cho rằng: “Nếu tôi phải chịu khổ và chịu
mọi tai họa của mọi người thì tốt hơn. Tôi không muốn mọi người chịu khổ nạn.”
Các vị bồ-tát thường làm lợi ích cho chúng sinh bằng cách thực hành các việc thiện
mà chẳng bận tâm đến sự thiệt thòi của mình.
Có
một số người phí thời gian để chắc chắn mình mua sắm được giá rẻ. Khi họ dự định
mua một thứ gì họ so sánh giá cả ở các siêu thị cho đến khi họ mua được với giá
hời nhất. Những thứ họ mua hóa ra chỉ rẻ hơn với những thứ làm bằng nguyên liệu
tái sinh được chế biến từ sự thử nghiệm khoa học, trông bên ngoài rất hào
nhoáng nhưng hư hỏng ngay khi dùng lần đầu. Thế nên, mặc dù quý vị nghĩ rằng
mình đã có một ý tưởng tuyệt diệu, nhưng cuối cùng chính mình lại bị thiệt
thòi. Nên thay vì thói quen tính toán ích kỷ như vậy, quý vị nên làm việc tốt
lành cho người khác.
Bố thí pháp: Như việc tôi giảng kinh và thuyết pháp cho quý vị
nghe đây gọi là bố thí pháp. Kinh nói: “Trong
tất cả các việc bố thí. Bố thí pháp là cao cả nhất”
Tiền bạc quý vị đem
ra bố thí có thể tính đếm được, còn Pháp không thể tính toán được. Nếu có người
đến pháp hội nghe giảng kinh, rồi tu tập và được giác ngộ, được chánh tri kiến.
Quý vị thử tưởng tượng công đức phát xuất từ bố thí pháp lớn đến ngần nào? Vì bố
thí chỉ một lời pháp cũng có thể khiến cho người ta chứng được Phật quả, nên đó
là bố thí cao cả nhất.
Bố thí sự không sợ hãi (vô úy thí): khi quý vị đem sự bình thản, trầm tĩnh đến
cho những nạn nhân của những vụ cướp đoạt, hỏa hoạn hay những tai ương khác khiến
họ không còn hoảng hốt và kinh hãi, quý vị trấn an họ và khuyên giải bằng cách
nói: “Đừng sợ! bất luận khó khăn nào cuối cùng rồi cũng qua thôi”
Chẳng hạn, cách đây vài hôm, một nữ ca sĩ đánh
mất ví tiền. Tôi để ý đến khuôn mặt lo âu của cô ta nên hỏi cô ta gặp phải chuyện
gì.
Cô
ta trả lời: “Con mất ví tiền, không biết phải làm sao bây giờ.” Tôi nói với cô
ta một cách chắc chắn: “Cô sẽ tìm được lại thôi, đừng băn khoăn nữa.”
Hóa
ra lời tôi nói như có phép thần thông. Cô ta trở lại nơi đánh mất, thấy ví tiền
nằm ngay nơi cô ta vừa bỏ đi. Đó là một ví dụ về vô úy thí.
Tôi nói với cô ta:
“Đó chỉ là chuyện nhỏ, chắc chắn cô sẽ gặp những chuyện to tát hơn. Nếu cô hiểu
được chuyện nhỏ, thì cô sẽ giải quyết được việc lớn.”
- Trì giới: Ba-la-mật thứ hai mà bồ-tát phải thực hành là trì giới. Điều này liên quan đến giới luật, một
trong những phương diện quan trọng nhất của sự tu tập Phật pháp.
Giới là gì? Giới là
những phép tắc về sinh hoạt mà hàng đệ tử Phật phải tuân theo. Giới có tác dụng
ngăn ngừa không cho việc ác sinh khởi và đề phòng những điều lỗi lầm không cho
nó xảy ra.
Khi quý vị trì giới
thì quý vị không còn phóng tâm mình vào những việc ác; thay vào đó quý vị tự
hành xử một cách chân chính và cúng dường các hạnh lành ấy lên chư Phật.
Có bao nhiêu giới điều?
Những người cư sĩ đã
quy y Tam bảo: Phật, Pháp,Tăng; muốn hoàn thiện hơn nữa thì nên thọ năm giới, đó
là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng
các chất độc hại gây kích thích. Phải phát nguyện giữ những giới này đến suốt đời.
Sau khi thọ năm giới thì phát nguyện thọ Bát quan trai giới.
Ngoài ra còn có mười
giới của sa-di. Thọ giới sa-di mới chính thức làm người xuất gia. Từ đó mới có
thể tiến lên thọ giới Cụ túc, tức là hai trăm năm mươi giới dành cho tỷ-khưu tăng và ba trăm bốn mươi tám giới
cho tỷ-khưu ni. Còn có giới của hàng bồ-tát gồm mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Mười giới đầu tiên
được gọi là giới trọng, vì khi một người đã phạm một trong mười giới trọng này
thì không thể tự mình sám hối được, nếu phạm một trong những giới khinh thì có
thể tự sửa đổi lỗi lầm và bắt đầu lại.
Khi Đức Phật gần nhập
niết-bàn, Ngài A-nan thưa hỏi bốn câu hỏi, một trong số đó là: “Khi Thế tôn còn tại
thế, Như Lai là thầy của chúng con. Khi Thế tôn nhập diệt rồi, chúng con nhận
ai làm thầy?"
Thế tôn trả lời:
“Sau khi Như Lai nhập diệt, các ông nên lấy giới
luật làm thầy của mình.”
Đức Phật chỉ rõ cho hàng xuất gia: tỷ-khưu, tỷ-khưu ni phải nên nhận giới
luật làm thầy của mình.
Cư sĩ muốn thọ giới
pháp nên tìm đến một vị Sư trưởng – là người xuất gia đã thọ giới tỷ-khưu – để cầu giới pháp. Các giới căn
bản phải được một vị xuất gia đã thọ giới tỷ-khưu trao truyền. Theo giới luật của
Đức Phật, tỷ-khưu ni không được
truyền giới.
Đối với người tu
hành, việc thọ giới là tuyệt đối cần thiết. Người giữ gìn giới hạnh thanh tịnh
sẽ có vẻ đẹp sáng rỡ như viên minh châu. Vào đời Đường có Đạo Tuyên Luật sư ở
núi Chung Nam, Ngài giữ giới luật rất tinh nghiêm đến mức chư thiên đến cúng dường.
Phước đức của việc giữ giới rất lớn. Nếu quý vị học Phật pháp mà không giữ giới
thì cũng giống như cái bình bị lỗ rò. Giữ giới cũng như bít lỗ rò ấy lại. Thân
thể con người có nhiều lỗ thoát, nó rỉ chảy ra. Nếu quý vị giữ gìn giới luật
trong một thời gian dài, thì nó sẽ không chảy thoát ra nữa.
Trong pháp hội Thủ-lăng-nghiêm
này quý vị sẽ được nghe giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, được hướng dẫn trực tiếp, kết
hợp cả học hỏi, nghiên cứu và tu tập hành trì. Thời khóa tu học rất căng thẳng,
từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối mỗi ngày. Nghiêm ngặt hơn ở trường học bên
ngoài nhiều. Đây là trường học để giải quyết vấn đề sinh tử.
Khi nghe giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm
quý vị sẽ hiểu được ý kinh và thực hành tu tập thông qua tham thiền. Thông qua
sự kết hợp giữa nghiên cứu cho hiểu thấu ý kinh rồi thực hành, chúng ta có thể
bước đi vững chãi trên mặt đất và tiếp xúc với công việc không bằng sự bất cẩn
và thờ ơ như trước đây nữa, mà bằng sự nỗ lực tinh tấn trong tu học. Quý vị sẽ
giải quyết được vấn đề sinh tử, đạt được sự lợi ích vô cùng to lớn.
Một ví dụ sẽ minh họa
giúp cho chúng ta hiểu được giá trị khi kết hợp giữa hiểu biết và thực hành. Một
người bị mù và một người bị què chân sống chung với nhau trong một gia đình,
trong đó có vài người khác cùng chung sống để giúp đỡ cho họ. Song, một hôm những
người kia đều có việc phải đi ra ngoài, người đi câu cá, người đi mua sắm, người
đi chơi, người mù và người què là những người còn lại trong nhà. Trong cái ngày
đặc biệt ấy căn nhà bỗng xảy ra hỏa hoạn, người mù không thấy được đường nên
không thể thoát ra được. Người què thấy được, nhưng không có đôi chân lành lặn
để đi ra. Thật nan giải! Chắc chắn họ sẽ bị chết cháy thôi!
Lúc đó, có một vị thiện
tri thức cho họ lời khuyên: “Các anh đều có thể thoát được nạn cháy, có thể
thoát ra được ngôi nhà lửa này. Làm cách nào để thoát? Người mù hãy sử dụng đôi
mắt của người què và người què sử dụng đôi chân của người mù.” Họ liền theo lời
chỉ dẫn của thiện tri thức.
Có phải người què móc
mắt của mình ra rồi gắn vào hốc mắt của người mù chăng? Bất kỳ một cuộc giải
phẫu nào với phương pháp như thế đều thất bại cả. Nếu như người ta tìm cách gắn
đôi chân của người mù vào thân của người què cũng đều là vấn đề nan giải, vượt
qua ngoài quy luật tự nhiên. Thế họ làm như thế nào?
Họ tạo ra được một
tình huống tốt nhất bằng cách người mù cõng người què. Người què có mắt nên hướng
dẫn: “Quẹo phải, quẹo trái, đi thẳng,” người mù có đôi chân, tuy không thấy đường
nhưng có thể nghe được lời chỉ dẫn của người què. Nhờ nghe lời khuyên đúng lúc
và hợp lý, cả hai người đều tự xoay xở để tự cứu được mình.
Khi
quý vị nghe chuyện này, xin đừng hiểu lầm là tôi ví quý vị như người mù và què.
Chẳng phải quý vị là người mù và què đâu mà tôi mới là mù và què. Nhưng nhờ có
hiểu biết được đạo lý nên tôi mượn ví dụ để giảng, chẳng phải là nói về quý vị
và tôi.
Quý vị không nên quá
tự cao, đừng có dựa vào sự hiểu biết độc đáo của mình hoặc là trí thức rộng lớn
của mình. Thế tại sao quý vị không chứng được Phật quả? Chỉ vì quý vị quá ư ngạo
mạn.
Quý vị nghĩ: “Ta có
kiến thức rất uyên bác.” Nhưng bất kỳ những thứ gì mà quý vị học được đều làm
chướng ngại quý vị. Nếu quý vị có nhiều kiến thức, thì quý vị sẽ bị gánh nặng của
kiến thức ấy, nếu quý vị có nhiều năng lực thì năng lực ấy sẽ làm chướng ngại
khiến quý vị không thể chứng đạo được. Chúng ta nên loại trừ hết những ảo tưởng
về kiến thức thông minh ấy của quý vị, của tôi và của mọi người. Hãy để cho những
tư tưởng ấy an định, phóng xả và làm cho nó thanh tị̣nh. Hãy để cho lòng mình
trở nên trống rỗng.
Để làm gì? Để quý vị
có thể hưởng được trọn vẹn hương vị nhiệm mầu của đề hồ.[9] Đó là Phật pháp vi diệu tối thượng.
Một hôm có một phụ nữ
trẻ đang làm luận án Tiến sĩ thú nhận rằng trong đầu của cô ta chứa đầy rác.
Nay chúng ta sẽ dùng lời của cô ta để nói lại: “Hãy liệng sạch rác rến ấy ra khỏi
đầu, thì cô ta sẽ nghe được kinh. Lúc ấy, mỗi điều nghe sẽ được ngàn điều ngộ.
-Nhẫn nhục : có ba loại nhẫn nhục: sinh nhẫn, pháp nhẫn và vô sinh
pháp nhẫn.
-Tinh tấn
: nghĩa là thường xuyên tiến lên phía trước không lui sụt trong công phu tu
tập. Ví dụ về hạnh tinh tấn cao nhất đã được nói trong kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn sự̣. Bồ-tát Dược Vương quấn mình trong vải tẩm dầu hương rồi cung kính đến
trước Đức Phật đốt mình để cúng dường.
Quý vị thắc mắc:
“Ngài đốt mình như vậy để làm gì vậy?”
Vì Bồ-tát Dược Vương thấy rằng lòng từ của Đức Phật quá tối thượng, quá sâu
mầu, quá vĩ đại, không có cách nào có thể báo đáp được ân đức ấy. Nên Bồ-tát đã đem hết thân tâm và tánh mạng của mình cúng dường lên Đức Phật.
Quý
vị hỏi: “Ngài đốt thân trong bao lâu?”
-
Trong một thời gian rất dài, không có cách nào tính đếm được khoảng thời gian ấy.
Khi Đại sư Trí Giả, vị
tổ thứ ba của tông Thiên Thai được đọc phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự trong Kinh
Pháp Hoa đến đoạn “...Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng
dường Như Lai” (tâm chân chánh tinh tấn ấy, mới được gọi là pháp chân thật
cúng dường Như Lai), thì Ngài liền nhập vào định. Trong định, Ngài Trí Giả thấy
pháp hội do Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa trên núi Linh Thứu vẫn chưa tan.
Đại sư Trí Giả thấy Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn đang ngồi giảng pháp ở đó, chuyển bánh xe đại pháp
giáo hóa vô lượng chúng sinh. Ngay đó, Đại sư Trí Giả hoát nhiên nhập vào Pháp Hoa Tam-muội và đạt được Nhất triền đà-la-ni. Sau khi Ngài xuất định,
với trí tuệ lớn lao mà ngài đã tự khai mở được, Ngài lập tông Thiên Thai.
Đó là cảm ứng do niệm tưởng công đức của Bồ-tát Dược Vương khi đốt thân cúng dường Đức
Phật.
Một số người sẽ phản
đối: “Nếu có nhổ một sợi tóc trên đầu tôi mà làm lợi cho cả thế giới, tôi cũng
không làm.” Đó là họ chỉ biết riêng mình mà không cần biết làm lợi ích cho người
khác. Họ không thể được gọi là chân thực tinh tấn.
- Ba-la-mật thứ năm
là Thiền định: có bốn loại thiền và
tám thứ định. Còn Cửu thứ đệ định đã
có đề cập trong phần kinh văn của kinh Thủ-lăng-nghiêm nên tôi sẽ không giảng ở
đây. Nay chỉ giảng vắn tắt về Tứ thiền.
-Sơ thiền: gọi là Ly sanh hỷ lạc địa.
Trong trạng thái thiền đầu tiên, người đạt đến cảnh giới này có thể làm cho mạch
ngưng đập.
-Nhị thiền: gọi là Định sinh
hỷ lạc địa. Trạng thái định này vững chãi hơn ở Sơ thiền. Đạt đến cảnh giới
này có thể dừng được hơi thở. Nhưng không có nghĩa là chết. Thay vào đó là một
cảnh giới khác của ý thức. Hơi thở bên ngoài đình chỉ nhưng hơi thở bên trong vẫn
còn. Hàng phàm phu chỉ sử dụng được hơi thở bên ngoài. Nếu người có thể sử dụng
hơi thở bên trong thì họ được trường sinh bất tử, muốn sống bao lâu cũng được.
Tuy nhiên, dù có sống đến bao lâu cũng chỉ trở thành con quỷ giữ thây vô dụng,
chỉ lo giữ cái túi da hôi hám này mà thôi.
-Tam thiền: gọi là Ly hỷ diệu
lạc địa. Mọi người tu tập đều thích chứng được “diệu lạc” này. Tuy vậy, niềm vui (phước lạc) ở cõi thiền thứ ba này
tách biệt hẳn với niềm vui thông thường, vì nó cực kỳ vi diệu. Trong cảnh giới
này ý thức hoàn toàn đình chỉ.
-Tứ thiền: còn gọi là Xả niệm thanh tịnh địa.
Đến đây, tất cả mọi niệm tưởng đều được xả trừ. Hành giả chỉ còn biết những gì
xảy ra ở cõi trời và người nhưng hành giả không nên dính mắc, ngưng trệ ở cảnh
giới này. Đạt được cảnh giới thiền thứ tư chỉ là bước đầu tiên của lộ trình tu
đạo. Hành giả nên nhớ rằng đến cảnh giới thiền thứ tư mới chỉ là một bước tiến
đặc biệt thôi. Đó chỉ là bước đầu tiên trên đường hướng tới Phật quả, chẳng phải
là thành tựu quả vị đầu tiên của hàng a-la-hán.
-Ba-la-mật thứ sáu là
bát-nhã (prajñā), là phiên âm từ
tiếng Sanskrit, tạm dịch là trí tuệ.
Có nhiều người xem trí thông minh thế gian là trí tuệ. Không phải thế. Trí
thông minh là kiến thức thế gian xuất phát từ học hỏi các môn khoa học, triết
lý và những môn khác mà có. Còn trí tuệ
là hiểu biết xuất thế gian, do chứng được Phật quả mà được. Đây là bát-nhã. Từ bát-nhã (prajñā) không dịch được vì nó có quá nhiều
nghĩa, nằm trong năm loại thuật ngữ không nên phiên dịch (ngũ chủng bất phiên). Đó là:
1. Những thuật ngữ
liên quan đến tính chất huyền bí thâm mật (bí
mật chi).
2. Những thuật ngữ có
nhiều nghĩa (hàm đa nghĩa).
3. Những thuật ngữ
liên quan đến những vật mà ngôn ngữ địa phương không có (thử phương vô).
4. Những thuật ngữ
theo truyền thống đã không phiên dịch (thuận
cổ lệ).
5. Những thuật ngữ
khiến người đọc phát khởi thiên tâm (vi
sinh thiện).
Năm nguyên tắc này được
Ngài Huyền Trang đời Đường đề xướng ra trước tiên.
Bát-nhã có ba nghĩa:
1. Văn tự bát-nhã: là những điều ghi chép trong kinh tạng.
2. Quán chiếu bát-nhã: là trí tuệ có được qua sự hồi quang phản
chiếu, qua công phu “phản văn văn tự tánh”
- hướng tánh nghe vào tự tâm để nhận ra tự tánh của chính mình. Trí tuệ này
phát sinh khi mắt tâm không còn tìm kiếm bên ngoài nữa, mà quay trở lại quán
sát bên trong mình. Với ánh sáng trí tuệ quán chiếu, quý vị có thể chiếu soi và
quét sạch mọi tối tăm mê muội chung quanh mình. Khi trí tuệ lưu xuất từ tâm,
quý vị trở nên rất sáng suốt và thanh tịnh, không còn bị vây phủ bởi trần cấu ô
nhiễm nữa.
3. Thực tướng bát-nhã: là bát-nhã vi diệu nhất, bất khả tư nghì. Đồng nghĩa
với từ liễu nghĩa trong đề kinh này.
Thực tướng ấy không chứa đựng hình tướng nào trong đó cả mà chẳng có gì ở ngoài
thực tướng ấy. Khi quý vị cho là vô tướng
thì mọi pháp đều do đó mà biểu hiện, nên gọi là thực tướng. Nếu quý vị nhận ra được điều này thì quý vị rất gần với
Đức Phật, chỉ còn cách Ngài có một bước.
Kinh Kim Cương nói:
"Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhược
kiến chư tướng phi tướng, tức kiến
Như Lai.”
Mọi pháp nếu được biểu
hiện qua hình tướng đều là hư giả. Nếu như ngay trong sự biểu hiện của các
pháp, mà quý vị nhận ra được tính chất vô
tướng của nó thì lúc ấy quý vị thấy được Phật.
Thực tướng bát-nhã là nhận rõ được bản thể của các pháp và thâm nhập vào
căn nguyên của các pháp. Đạt đến cội nguồn của các pháp rồi tức là như thấy được
Phật.
Rất dễ khi bàn về những
kinh nghiệm như vậy, nhưng rất khó thể nhập. Quý vị không thể hiểu được bằng
cách chỉ nghe giảng kinh mà phải tự mình dấn bước vào con đường tu đạo, dù việc
ấy không dễ dàng gì, chúng ta cũng phải nghĩ cách đi trên con đường đó. Ví dụ
có người nói: “Tôi rất muốn đi Nữu-ước, nhưng đường quá xa và vé máy bay quá đắt
nên tôi do dự không muốn đi.” Song, nếu quý vị không bao giờ đi thì chẳng bao
giờ quý vị biết thành phố Nữu-ước như thế nào cả. Chứng ngộ quả vị Phật cũng
như vậy. Một mặt quý vị muốn thành Phật nhưng mặt khác có một lực trì trệ kéo
ngược lại, khiến quý vị không bao giờ đạt đến đích cả. Cũng như nhìn biển mênh
mông rồi buông tiếng thở dài: “Tu học Phật pháp thật là khó, ta sẽ tìm đạo gì
đó dễ tu hơn.” Nếu quý vị có thái độ đó quý vị sẽ không bao giờ chứng được quả
vị Phật. Nếu quý vị không muốn thành Phật thì không nói làm gì, nhưng nếu quý vị
muốn thành Phật thì phải dấn mình vào khó khăn, vì chỉ trong khó khăn thì mới
thấy được cái dễ.
Thiền ngữ Trung Hoa
có câu:
“Bất lịch nhất phiên hàn triệt
cốt
Tạm dịch:
Nếu chẳng một phen xương thấm lạnh
Hoa mai đâu dễ tỏa mùi hương.
Nhờ chịu đựng những cơn lạnh khắc nghiệt vào
giữa mùa Đông ở Trung Hoa mà có được mùi hương rất ngọt ngào thanh khiết như thế.
Mọi chúng sinh đều thừa
hưởng được Thực tướng bát-nhã trong
mình. Nhưng cũng như “mật nhơn” trong
kinh này. Thực tướng bát-nhã ấy chưa được
hiển bày. Thế nên họ không nhận ra tự tánh vốn có sẵn nơi mình. Chúng ta không
nhận ra tự tánh bát-nhã trong ta, là thực tướng bát-nhã vốn đầy đủ trong mình,
nên chúng ta như kẻ nghèo nàn trong Phật pháp. Bát-nhã là trí tuệ mà chúng ta
luôn luôn có sẵn, chúng ta phải nên mở cánh cửa kho tàng trí tuệ này ra thì khuôn mặt xưa nay sẽ hiển bày. Khi chúng
ta chưa nhận ra mình có sẵn Thực
tướng bát-nhã trong mình thì cũng như mang một kho tàng chưa khai quật ở
trong lòng. Tuy nhiên, khai quật kho vàng lên vẫn chưa đủ, còn phải ra sức luyện
vàng mới sử dụng được. Kinh nói rằng mỏ vàng bát-nhã có sẵn trong mỗi người
nhưng nếu ta không tinh luyện thì ta chẳng dùng được. Chúng ta phải phát tâm
luyện chất vàng ròng thực tướng bát-nhã,
khi ấy Phật tánh bản hữu sẽ tự xuất
hiện.
Đức Phật dạy:
Tất cả mọi chúng sinh đều có Phật tánh và đều có thể
tu tập thành Phật.
Nhưng quý vị không nên nghĩ rằng: “Đức Phật
nói rằng ai cũng có thể làm Phật. Vậy tôi là Phật rồi, chẳng cần tu hành gì nữa
cả.”
Điều
này cũng giống như biết mỏ vàng nằm đó nhưng không muốn đào lên để dùng.
Đây là những giải
thích sơ lược về lục độ ba-la-mật trong hạnh nguyện của hàng bồ-tát. Mọi người đều có thể quyết định
tu tập hạnh bồ-tát để trở thành
bồ-tát. Nếu quý vị có chủng tử bồ-tát thì quý vị đã là một vị bồ-tát sơ phát tâm. Một vị bồ-tát không thể nói một cách ích kỷ rằng:
“Chỉ có tôi mới có thể trở thành bồ-tát,
còn quý vị thì không bao giờ! Các ông không thể như tôi được.”
Không những mọi người
chỉ có thể trở thành bồ-tát mà
họ còn có thể trở thành Phật nữa. Tôi tin rằng mọi người trong pháp hội này, một
ngày nào đó sẽ thành Phật.
THỦ LĂNG NGHIÊM
Thủ-lăng-nghiêm (Śūraṃgama) là tiếng Sanskrit, có nghĩa là “Bền chắc nhất trong tất cả mọi thứ.” Tất
cả mọi hiện tượng, mọi vật thể, như núi, sông, đất đai, nhà cửa, người, vật,
các loài sinh từ bào thai, từ trứng, từ nơi ẩm thấp hoặc loài hóa sinh.[11] Tất cả những hiện tượng đều phải được thể
nghiệm qua chiều sâu và tính vững chãi mới có thể đạt được bản thể của định,
bản thể của “mật nhơn.” Khi hành giả
đạt được “đại định” của “mật nhơn”, người ấy là một bằng chứng của
“liễu nghĩa.” Khi một hành giả đã đạt
được liễu nghĩa, nghĩa là hành giả ấy
đã tu tập lục độ vạn hạnh của bồ-tát,
đã chứng được “đại hạnh.” Chứng được
“đại hạnh” rồi sau đó mới thành tựu
được loại định cứu cánh kiên cố nhất trong các hiện tượng, đó là “đại quả”– kết quả lớn nhất trong tất cả
các kết quả.
ĐẠI PHẬT ĐẢNH
Là đạt đến chỗ vi diệu
của bốn sự vĩ đại. Đó là nhân-nghĩa-hạnh-quả
vĩ đại. Bốn loại ấy còn có thể được gọi là Diệu
nhân, Diệu nghĩa, Diệu hạnh, Diệu quả. Tuy nhiên, chữ “Diệu” không diễn tả toàn vẹn được nghĩa
này, nên chữ “Đại” được dùng để diễn
tả sự to lớn của bốn thứ ấy.
Hiện tượng kiên cố rốt
ráo nhất là đại định, không có định thì thân và tâm bị phân tán
không phối hợp chặt chẽ với nhau được. Quý vị dự tính đi về hướng Nam nhưng
chân quý vị lại muốn đi về hướng Bắc. Hoặc là quý vị muốn làm việc thiện, nhưng
mình không tự chủ được và thay vì đó là dẫn đến sự phạm pháp. Sự thiếu sót một
tấm lòng thành khẩn, thường hằng để thành tựu đạo nghiệp cũng giống như không
có yếu tố định.
Nên trong khi nghiên
cứu Kinh Thủ-lăng-nghiêm mọi người nên hết sức “chân, thành, hằng.” Quý vị phải phát tâm nguyện: “Tôi quyết tâm học
cho đến khi hiểu được cốt tủy của kinh Thủ-lăng-nghiêm.” Quý vị không nên dừng
lại nửa đường và quay về hướng khác, không nên đánh trống giải tán buổi họp quá
sớm. Đừng nên nói: “À, ta đã học quá nhiều ngày mà chẳng hiểu gì cả. Đây là một
loại rất khó học. Tôi chẳng muốn học tí nào nữa cả.”
Với lòng thành khẩn,
quý vị sẽ học kinh trong tinh thần rất nghiêm túc và vẫn giữ gìn được tâm ý khi
đang làm bất kỳ việc gì khác. Hoàn toàn để hết tâm ý vào việc học tập nên mọi
vọng tưởng tiêu tan sạch. Phải học một cách siêng năng đến nỗi quên cả ăn, đến
tối khi nằm xuống ngủ, chẳng còn một vọng niệm nào sinh khởi lên nữa, chỉ còn
những giáo nghĩa.
Với
sự thường xuyên (hằng) quý vị không
nên học vài ba ngày rồi nghỉ. Đừng có thấy rằng học Phật pháp thì khó khăn và
chán nản. Đừng có trù tính đi dạo công viên hay đến những nơi giải trí hấp dẫn.
Đừng nên bịa ra để tự bào chữa cho mình: “Chẳng có giá trị thực tế khi học môn
này cả. Nó đã quá cổ xưa trong thời đại khoa học này”, rồi bỏ học, không có tâm
hằng viễn, quý vị sẽ không có được cứu cánh kiên cố.
Tu tập với tâm nguyện
“chân-thành-hằng,” quý vị sẽ đạt được
sự “kiên cố” và đạt được định lực,
quý vị sẽ không bị xoay chuyển bởi hoàn cảnh nữa. Không bị ảnh hưởng, tác động
bởi môi trường chung quanh. Đây là giải thích tổng quát về đề kinh này.
Kinh: là dịch chữ Sūtra trong tiếng Sanskrit. Người Trung Hoa dùng
chữ kinh có nghĩa là khế
kinh. Khế nghĩa là trên thì khế hợp
với đạo lý của chư Phật, dưới thì phù hợp với căn cơ của mọi chúng sinh, để
giáo hóa chúng sinh trong mọi lúc, mọi thời.
Kinh
nghĩa là “con đường”, có thể dẫn dắt người phàm phu tiến lên thành Phật. Kinh
còn có bốn nghĩa:
Quán: xuyên suốt. Nghĩa lý Đức Phật giảng trong
kinh ví như một sợi chỉ hồng xuyên suốt qua chuỗi hạt.
Nhiếp: Kinh có thể giáo hóa thích hợp bao gồm hết
mọi căn cơ. Tức là đối với mọi căn cơ chúng sinh đều có pháp riêng biệt để giáo
hóa. Nên nói “tùy căn cơ để bố thí pháp, tùy người bệnh mà cho thuốc.”
Kinh cũng như thỏi
nam châm, mọi chúng sinh được ví như sắt vụn, đều bị hút về thỏi nam châm. Kinh
Thủ-lăng-nghiêm được ví như thỏi nam châm, nên được gọi là kiên cố. Nhưng Kinh Thủ-lăng-nghiêm còn mạnh hơn cả thỏi nam châm.
Nó có thể giúp cho con người không bị trầm luân trở lại. Vì kinh nhiếp phục hết
tất cả chúng sinh, giúp cho họ không đọa lạc trở lại vào trong địa ngục ngạ quỷ,
súc sinh. Họ bị mê mờ đến nỗi dù muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy cũng không được.
Nên kinh Phật vi diệu biết bao! Phật tử đến đây nghe giảng kinh, một khi nghe
liền được thu hút vào niềm thích thú. Khi nghe được đoạn đầu rồi thì thích nghe
cho đến đoạn cuối. Họ tán thán: “Thật có ý nghĩa, thật là bổ ích.”
Thường: là từ xưa đến nay, ý
kinh vẫn không thay đổi không thể thêm hay bớt một chữ nào được cả. Kinh vẫn
thường hằng, không biến đổi.
Pháp: Kinh được gọi là pháp, được chúng sinh trong cả ba đời
quá khứ, hiện tại, vị lai tôn trọng là vì kinh chứa đựng phương pháp tu đạo chứng
quả vị Phật và giáo hóa chúng sinh.
Kinh điển Phật giáo
được trình bày qua mười hai thể loại.[12] Mười hai thể loại này đều được trình bày
trong mỗi một bộ kinh. Mỗi một bộ kinh đều có một trong mười hai thể loại này:
1. Trường hàng: Phần kinh văn, gồm nhiều hàng rất dài nên
gọi là trường hàng.
2. Trùng tụng: Phần thi kệ, tóm lại nghĩa lý đã diễn bày
trong phần trường hàng.
3. Thọ ký: Trong kinh văn, khi Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni nói với một vị bồ-tát:
“Trong chừng đó kiếp, các ông sẽ được thành Phật, huệ mạng của ông rất dài,
trong quốc độ đó ông sẽ giáo hóa vô số chúng sinh.”
Một ví dụ là Đức Phật
Nhiên Đăng đã thọ ký cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ được thành Phật. Trong đời
quá khứ, khi còn tu hành trong “nhân địa”,
Đức Phật Thích-ca đã tu tập bồ-tát đạo
rất tinh nghiêm. Trong khi Ngài khẩn cầu được học tập giáo pháp, Ngài đã “trải
tóc mình phủ kín mặt đường bùn lầy.” Để làm gì? Trong một kiếp vào thời quá khứ,
khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang đi trên đường, thấy phía trước mình cũng có một
vị tỷ-khưu đang đi về phía
mình. Ngài không biết đó chính là một vị Phật. Con đường dưới chân vị tỷ-khưu đầy bùn lầy: “Nếu vị tỷ-khưu già kia đi qua vũng bùn này ngài
sẽ bị ướt sũng.” Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tương lai nghĩ như vậy. Xuất phát từ
lòng kính trọng Tam bảo, nhà khổ hạnh đã trải mình nằm phủ trên đường lầy, dùng
thân như chiếc chiếu phủ trên vũng nước bùn rồi cầu thỉnh vị tỷ-khưu già hãy bước qua thân mình mà
đi. Thấy vẫn còn một khoảng đường bị sình lầy, sợ rằng vị tỷ-khưu già phải lội qua vũng lầy ấy,
Ngài xỏa tóc mình ra rồi trải qua vũng bùn cho vị tỷ-khưu già đi qua. Không biết người tỷ-khưu già ấy là một vị Phật.
Chứng kiến việc cúng
dường cung kính như vậy, Đức cổ Phật Nhiên Đăng hài lòng vô cùng. Ngài nói: “Như thị, Như thị.” Chữ “Như thị” thứ nhất có nghĩa là : “Ông đã
làm việc cúng dường bằng cách đem thân trải con đường bùn lầy để cho tôi bước
đi. Chữ “Như thị” thứ hai có nghĩa:
“Trong quá khứ, tôi cũng đã từng làm như thế, tôi cũng đã từng tu hạnh bồ-tát,
nay ông làm như vậy.”
Rồi Đức Phật Nhiên
Đăng[13] thọ ký cho Ngài: “Vào đời tương lai, ông sẽ
thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Tại sao Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký như vậy?
Vì Ngài xúc động với lòng chân thành của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tương lai. Dù
Đức Phật Nhiên Đăng thường ít để ý đến chuyện của người khác, nhưng Ngài đã đặc
biệt chú ý đến hành vi cung kính này và thọ ký cho Ngài sẽ thành Phật.
4. Nhân duyên: do có nhiều nhân duyên nên Đức Phật giảng giải bằng
nhiều loại pháp khác nhau.
5. Thí dụ: những thí dụ được dùng để minh họa cho tính chất vi diệu của Phật
pháp.
6. Bổn sự: Phần này nói đến những công hạnh trong kiếp trước của chư Phật và các
vị Bồ -tát.
7. Bổn sinh: ghi chép những công hạnh của Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni trong kiếp này hay công hạnh của những vị Bồ-tát.
8. Phương quảng: phương là bốn
phương, quảng là lớn rộng, biểu thị cho Phật pháp vô cùng rộng lớn và tinh thâm
vi diệu.
9. Vị tằng hữu: phần kinh văn đề cập đến những việc chưa từng được
nói đến từ trước tới nay.
10. Tự thuyết : không cần có sự cầu thỉnh, mà Đức Phật tự phóng
quang làm chấn động thế giới rồi giảng nói kinh pháp.
11. Cô khởi: còn gọi là phúng tụng. Đây là phần kệ mà ý nghĩa
không có sự liên tục với nhau giữa đoạn đầu và đoạn giữa cùng đoạn cuối.
12. Luận nghị: phần kinh đề cập đến việc nghiên cứu bàn luận về sự
sâu mầu của Phật pháp.
Có bài kệ tóm tắt mười
hai thể loại như sau:
Trường hàng, trùng tụng tinh thọ ký
Cô khởi, vô vấn nhi tự thuyết.
Nhân duyên thí dụ cập bổn sự.
Bổn sinh phương quảng vị tằng hữu.
Luận nghị cọng thành thập nhị bộ.
Mỗi bộ kinh đều có đủ
mười hai thể loại này. Điều này không phải có nghĩa là kinh tạng Phật giáo chỉ
có mười hai bộ, nhưng mỗi phần trong kinh văn đều có đủ, hoặc có ít nhất là một
trong mười hai thể loại này.
II. NHÂN DUYÊN PHÁT KHỞI KINH NÀY.
Giáo lý là những lời
dạy của bậc Thánh, của Đức Phật, hoặc của bồ-tát để giáo hóa chúng sinh. Giáo lý phát khởi từ nhân và duyên. Những nhân duyên này hình thành là do ở chúng sinh. Nếu
không có chúng sinh sẽ không có chư Phật. Nếu không có chư Phật sẽ không có
giáo lý. Nhân duyên và lý do khởi phát giáo lý là để giúp cho chúng sinh chấm dứt
sinh tử. Đây là lý do Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện ở thế gian. Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa nói rõ:
“Đức Phật chỉ
vì một đại sự nhân duyên, một việc lớn lao nhất mà thị hiện trên thế gian này.”
Việc lớn lao ấy là gì? Đó là vấn đề sinh tử của
con người. Vì con người không hiểu tại sao họ sinh ra, rồi tại sao họ lại chết
đi? Họ tiếp tục trôi qua cuộc sống chết. Một khi họ hiểu ra, thì họ đã cận kề với
sinh tử. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện ở thế gian là để chỉ cho chúng sinh
hiểu được tại sao họ lại sinh ra và tại sao họ lại chết đi?
Anh sẽ về đâu sau khi chết?
Anh sẽ đi đâu khi được sinh ra?
Một khi được sinh ra
trong đời, chúng sinh bị bận rộn suốt đời, phải tìm nơi để ở, kiếm áo quần để mặc,
kiếm thực phẩm để ăn... đến nỗi họ chẳng còn thì giờ để giải quyết việc sinh tử.
Đây là điều mà mọi người đều phải vướng bận. Họ nói: “Tôi phải làm việc khổ nhọc
và bận rộn để có được ngày hai bữa ăn, áo quần, nhà ở...”
Chẳng ai bận tâm tìm
cách làm sao để chấm dứt sinh tử. Họ chẳng biết thắc mắc: “Tại sao ta đến trần gian này. Tại sao tôi ở đây? Ta từ đâu đến đây?
Khi
quý vị gặp người nào đó, quý vị thường hỏi: “anh từ đâu tới? anh ở đây bao lâu
rồi?” Nhưng người ta không bao giờ tự đặt những vấn đề cho chính mình. Họ quên
mất mình từ đâu tới. Họ quên mất rồi mình sẽ về đâu? Họ quên mất không tự hỏi ở
chính mình: “Tôi sẽ đi đâu khi tôi chết?” Chỉ vì người ta quên mất việc phải tự
hỏi mình vấn đề trên. Cho nên Đức Phật mới đến thế giới này để nhắc nhở, thúc
giục chúng ta giải quyết được vấn đề sinh tử.
Kinh Pháp Hoa nói rằng:
“Đức Phật Thế Tôn, duy chỉ một đại sự nhân duyên mà thị hiện nơi thế
gian này là khiến cho chúng sinh khai mở được tri kiến phật, để chỉ bày cho chúng sinh tri kiến phật, để giúp cho chúng sinh giác ngộ được tri
kiến phật và khiến cho chúng sinh thể nhập
vào tri kiến phật...”[14]
Nói chung, tất cả mọi
chúng sinh xưa nay vốn đều có sẵn tri kiến phật. Trí tuệ sẵn có xưa
nay của chúng sinh vốn đồng một thể tánh với chư Phật. Nhưng trí tuệ ấy ở chúng
sinh được ví như vàng thô đang còn nằm trong mỏ như đã đề cập ở trên. Trước khi
được khai quật lên thì vàng vốn chưa được hiển bày. Một khi quý vị đã nhận thức
được Phật tánh vốn thường hằng, thường hiện hữu trong mình, ắt là quý vị mới
như pháp tu hành, mới có thể khai quật mỏ vàng, mới tinh luyện được chất vàng
ròng không còn dính tí quặng hoặc cấu bẩn trong đó.
“Bổn hữu Phật tánh của
bạn ở đâu?
Bổn hữu trí tuệ của chúng ta ở đâu?”
Phật tánh được hiện hữu
từ ngay trong phiền não của chúng ta. Một người ai cũng có phiền não và ai cũng
có Phật tánh. Trong hàng phàm phu, thì phần phiền não hiển lộ nhiều hơn là Phật
tánh. Phiền não ví như tảng băng, trí tuệ ví như nước, Phật tánh được ví như
hơi nước. Tánh ướt của hơi nước đều có sẵn trong cả hai thứ băng và nước. Cũng
thế, Phật tánh hiện hữu trong cả trí tuệ và phiền não. Nhưng khi tánh ướt của
nước còn có chung trong cả hai dạng băng và nước, thì tính chất vật lý của nó
có sự khác biệt. Một cục nước đá nhỏ thì cứng và có thể gây thương tích nếu người
ta va phải vào nó. Cũng thế, quý vị có thể làm tổn thương người khác bằng phiền
não của mình, nhưng một vài giọt nước thì vô hại nếu quý vị tưới nó lên mọi người.
Cũng như thế, người có trí tuệ dùng lời nói từ hòa của họ có thể làm cho mọi
người vui vẻ ngay cả khi quở trách người khác. Nếu quý vị dùng phiền não của
mình để làm phiền người khác, thì sự si mê của mình cũng như đống lửa cháy lan
tới người khác ngay khi vừa thốt ra lời nói. Thực vậy, quý vị có thể làm người
khác bực bội rất nhiều nếu một trong hai người nổi nóng và chắc chắn người ấy sẽ
bị tổn thương.
Người ta có thể trở về
với bản tâm của mình nếu tự chuyển hóa được phiền não thành trí tuệ. Sự chuyển
hóa đó được ví dụ như khi băng tan thành nước. Bạn không thể cho rằng băng chẳng
phải là nước vì băng tan rồi mới thành nước. Bạn cũng không thể nói rằng nước
chẳng phải là băng vì nước đông lại thì thành băng. Tính chất chung nhất của
hai thứ ấy là tánh ướt.
Tương tự như vậy,
không ai có thể phủ nhận rằng chúng sanh kia chẳng phải là Phật, hay Đức Phật
kia chẳng phải là chúng sinh. Đức Phật là
phật trong chúng sinh và chúng sanh là chúng sanh trong Phật.
Quý vị nên nhận thức
rõ nguyên lý này. Quý vị chỉ cần chuyển hóa, tức là làm cho băng tan. Việc này
rất có ích cho mọi người.
Tôi nói rằng nước
không thể làm hại người, nhưng có người sẽ không đồng ý, vì mọi người đều biết
sự nguy hiểm của sự chết đuối và nạn lũ lụt.
Thật sự là quá nhiều
nước cũng làm hại con người. Nhưng trong khi ví dụ, tôi chỉ đề cập đến một lượng
nước nhỏ. Nếu quý vị muốn đưa ra những điều vô lý để phản bác những chuyện vô
lý thì có thể kể đến vô cùng tận. Quý vị nên nắm bắt cho được ý chính chứ đừng
bị chướng ngại bởi những cá biệt. Nếu quý vị luôn luôn tìm ra những lý lẽ để phản
bác, thì dù tôi có nói gì quý vị vẫn không tin được. Nếu quý vị có niềm tin thì
khi tôi nói trứng mọc trên cây, quý vị cũng tin tôi. Với niềm tin như vậy, quý
vị mới phát sinh được trí tuệ. Nếu không có niềm tin như thế, trí tuệ chân
chính bao giờ mới được hiển lộ?
Trí tuệ chân chính
phát sinh từ sự si độn, chính là khi băng tan thành nước, đó là trí tuệ. Khi nước đông thành băng đó là
si độn. Phiền não chẳng là gì khác ngoài si độn. Nếu quý vị thông minh sáng suốt
hoàn toàn thì quý vị không còn phiền não nữa.
Khi
tôi giảng kinh là làm cho đạo lý được sáng tỏ. Đừng bận tâm tìm tòi những cá biệt
để phê phán, bình phẩm về đạo lý. Hai việc này hoàn toàn khác biệt nhau. Quý vị
nên tiếp tục lắng lòng nghe, khi nghe kỹ rồi quý vị sẽ hiểu được những gì tôi
nói là chính xác. Còn nếu chỉ nghe qua loa, quý vị không thể nắm bắt được. “Ông
ta nói gì vậy?", quý vị thắc mắc: “Tôi chẳng hiểu gì cả.” Trước đây, quý vị
chưa từng được nghe làm sao nay có thể hiểu được?” Nếu quý vị có khả năng hiểu
được Phật pháp khi trước đây chưa từng nghe giảng nói một lần nào cả, thì trí
tuệ của quý vị thật là kỳ đặc. Có lẽ quý vị đã từng nghe pháp từ trong đời trước.
Nhưng đây là lần đầu tiên trong đời này quý vị được nghe. Lần đầu tiên mới nghe
thấy có vẻ quen thuộc nhưng dần dần càng nghe càng thấy quen hơn. Cũng như vậy,
khi quý vị gặp một người nào đó lần đầu, thấy họ có vẻ quen quen, nhưng nếu trước
đó đã gặp nhau vài lần rồi thì quý vị liền nhận ra họ ngay.
Khi quý vị nhận ra được
tự tánh mình chính là Phật tánh, là quý vị chuyển hóa được phiền não thành bồ-đề.
Chứng bồ-đề có nghĩa là giác ngộ.
Giác ngộ chân chính là không chấp trước vào một pháp nào cả. Nếu quý vị còn chấp
trước là còn chưa giác ngộ. Mặc dù nay tôi chưa được giác ngộ nhưng tôi không
chấp trước.
Có người sẽ thắc mắc:
“Hòa thượng nói rằng Hòa thượng không có chấp trước, nhưng Hòa thượng cũng nói
rằng mình chưa được giác ngộ. Như thế phải chăng Hòa thượng cũng giống như
chúng con?”
Tôi không giống như
quý vị, nếu quý vị đã hết sạch chấp trước, quý vị sẽ trở thành người giác ngộ.
Tôi chưa giác ngộ là vì tôi chưa muốn giác ngộ. Tôi muốn được sống cùng với mọi
người. Nhưng tâm thức của quý vị không giống như của tôi, vì tôi không thể từ bỏ
mọi loài chúng sinh nên tôi nhìn mọi người đều hoàn thiện cả. Vì lý do này nên
tôi chưa muốn giác ngộ. Nói thật ra, tôi có trái tim của một bồ-tát ước nguyện cho mọi loài được lợi
lạc, chớ chẳng quan tâm gì đến chính mình. Tôi đã nói với quý vị rằng để đạt được
sự giác ngộ thì dù có xuống địa ngục hay phải chịu vô hạn khổ đau tôi cũng vui
lòng. Nếu có thức ăn ngon tôi cũng chỉ ăn tí chút rồi biếu cho người khác dùng.
Cũng như vậy, tôi đã nếm được chút hương vị giải thoát rồi, và bây giờ tôi muốn
để cho toàn thể quý vị nếm trải hương vị ấy. Để nếm được hương vị giải thoát,
quý vị phải nghiêm khắc với phiền não trong chính mình. Khi quý vị không còn
phiền não nữa và đã chuyển hóa được vô minh, trí tuệ sẽ phát sinh và quý vị trở
nên tự tại. Đây gọi là khai mở được tri kiến phật trong mình rồi, là quý
vị đã khai quật được mỏ vàng rồi, đến lúc quý vị cần phải hiển bày tri kiến phật
ấy ra. Quý vị cần siêng năng chăm chỉ, cũng như cần phải có sức người để đào đất
lấy vàng lên vậy. Trước tiên, quý vị phải gạn bỏ bùn đất, rồi dần dần đãi vàng
ra từ trong cát.
Hiển bày tri kiến
phật là hướng dẫn chúng sinh phương pháp chân thật tinh tấn tu hành. Để được
hiển bày tri kiến phật cần phải hành trì tĩnh tọa, tham thiền hằng ngày.
Cho đến một lúc nào đó, tâm bỗng nhiên thấu thoát, quán thông mọi sự. Đó là lúc
quý vị đã được khai ngộ. Quý vị hiểu ra: “Ồ!
xưa nay chỉ là cái đó ư? ” Khi ấy mọi vấn đề sinh tử của con người đều được
giải quyết một cách minh bạch. Đây được gọi là ngộ tri kiến phật.
Tri kiến phật hoàn toàn không giống như tri kiến chúng
sinh phàm phu của chúng ta. Chúng sinh dùng tri kiến của mình để khởi dậy không
ngừng vọng tưởng, phát sinh tâm chấp trước. Chỉ cần ai đối xử với mình không tốt
một chút, mình cũng sinh ra phiền não rồi. Thực ra, nếu mình đối xử với mọi người
tốt đẹp, thì làm sao mà người ta lại đối xử không đẹp đối với mình? Hiểu rõ quy
luật này rồi ta mới biết chẳng phải do người ta đối xử không tốt với mình mà
chính là do mình đối xử không tốt với người ta.
Đó là:
Một tay vỗ chẳng nên kêu
Hai tay gộp lại vang rền âm thanh.
Mọi người đều đảnh lễ
Đức Phật với lòng cung kính tột cùng vì Đức Phật là bậc toàn thiện. Đây là lý
do tại sao chẳng ai mà không phát khởi thiện tâm khi nghĩ đến Đức Phật.
Có người nói: “Tôi
không tin như vậy, vẫn có người phỉ báng Đức Phật thôi!”
Ai mà phỉ báng Đức Phật
thì người ấy không được kể là người, đơn giản là họ không hiểu vì sao mình được
làm thân người, vì thế nên họ phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Họ không hiểu được vấn
đề cốt tủy của cuộc đời mình là gì? Nếu họ biết tại sao họ được làm thân người,
họ sẽ không phỉ báng Tam bảo.
Chúng ta thể nhập vào
tri kiến phật ngay khi ta được giác ngộ. Điều này cần phải có công phu
hành trì. Quý vị cần phải tham cứu và phải thực hành nhiều hơn nữa, rồi hồi quang phản chiếu. Khi chơn tánh sáng
suốt chiếu sáng bản tâm mình rồi, quý vị sẽ trở thành người có trí tuệ đó là nhập tri kiến phật, không hai không
khác. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp chỉ là để giúp cho chúng sinh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến phật này.
Nói tóm lại, đây là
lý do mà Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng kinh, thuyết pháp trong hơn 300 hội,
suốt bốn mươi chín năm trong thế gian.
Nếu đem bộ kinh Thủ-lăng-nghiêm
xét kỹ, có sáu nhân duyên Đức Phật thuyết kinh nầy:
1. Ỷ vào đa văn, không tu tập định lực.
A-nan là đệ tử vừa là
em họ của Đức Phật, A-nan rất
thông minh, đọc rất nhiều và biết rất nhiều. A-nan theo Đức Phật xuất gia hàng chục năm rồi, nên nhớ được
toàn bộ lời Đức Phật đã thuyết trong các pháp hội. Trí nhớ của Ngài rất phong
phú, khi nghe qua một lần rồi thì không bao giờ quên được. A-nan không phải gắng sức để nhớ, vậy
mà thông thường các học giả phải tự mình học kỹ những nguyên lý mà họ đọc được
trong kinh sách, rồi mới vận dụng được những điều mình đã học. Thái độ của những
học giả này là: “Hãy xem sự hiểu biết của tôi đây nè! Tôi biết rõ hơn quý vị
nhiều. Tôi đã có bằng Tiến sĩ khoa học, triết học, văn chương...”
Mặc dù A-nan có được khả năng thông minh một
cách tự nhiên. Nhưng ỷ vào khả năng ấy quá nhiều mà thờ ơ với việc công phu tu
tập phát triển tuệ giác và định lực. A-nan
cho rằng định lực không quan trọng: “Tôi biết rất nhiều điều, và tôi có tri thức,
chừng đó là đủ rồi. Định lực chẳng có gì quan trọng, nói rằng nhờ có định nên
huệ được phát sinh, còn tôi đã có được trí huệ rồi.” Nên A-nan hoàn toàn bỏ quên công phu tu tập
định lực.
Kinh Thủ-lăng-nghiêm
được Đức Phật giảng do lời thỉnh cầu của A-nan.
Phát xuất từ việc A-nan không
tu tập định lực. Khi đại chúng tọa thiền, tham công án, thì A-nan đọc sách hoặc viết lách gì đó.
Sự thù thắng của pháp
hội giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm lần đầu này bao gồm cả việc thực hành tọa thiền,
chiêm nghiệm lại những hiểu biết đã thu nhận được khi nghe giảng kinh. Quý vị
thực tập thiền quán để có được sự tương ưng với tri kiến thu nhận từ chỉ thú của
kinh. Thông qua nỗ lực công phu thiền định và quán chiếu như vậy, quý vị có thể
được khai ngộ. Nhưng chủ yếu là quý vị phải phát huy song song cả hai mặt định
lực và chiêm nghiệm lại những điều đã được học.
Ngài A-nan thì khác, Ngài không tu tập thực tướng bát-nhã. Ngài nghĩ rằng mình
sẽ đạt được quả vị Phật thông qua văn tự
bát-nhã, Ngài nghĩ rằng mình là em họ của Đức Phật, người đã đạt được Phật
quả rồi thì thế nào cũng giúp cho mình được quả vị Phật thôi, nên chẳng phải bận
tâm tu tập làm gì. Nên A-nan đã
tiêu phí thời giờ vào việc học tập đa văn như vậy.
Theo
Kinh Thủ-lăng-nghiêm, một hôm A-nan
đang trên đường khất thực, mang bình bát đến từng nhà theo thứ tự. Trong khi một
mình trên đường đi thì gặp con gái của
Ma-đăng-già.
Đó là một phu nữ theo “mốt sống mới.” Đặc biệt A-nan rất đẹp trai. Khi con gái của Ma-đăng-già thấy A-nan, cô ta liền mê đắm, nhưng không
biết làm sao cám dỗ A-nan được.
Cô ta về nhà nói với mẹ rằng “Mẹ phải giúp con lấy A-nan làm chồng. Nếu không con chết mất.” Bấy giờ Ma-đăng-già là
một tín đồ ngoại đạo, thuộc phái Ta-tỳ-ca-la,[15] còn gọi là Kim đầu.
Bà ta có một loại chú thuật gọi là Tiên Phạm thiên. Bà ta tu luyện chú thuật
ngoại đạo này và sử dụng nó rât linh nghiệm. Do bà Ma-đăng-già rất thương con
gái mình, nên bà ta dùng chú Tiên Phạm thiên để mê hoặc A-nan. Do thiếu định lực, nên A-nan không thể tự chủ được, bị chú thuật dẫn dắt đến nhà cô con
gái của Ma-đăng-già, nơi A-nan
suýt bị phạm giới dâm.
Trong năm giới, quan
trọng nhất là giới giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu thì Ngài A-nan gần như sắp phạm vào giới tà
dâm. Đức Phật biết được toàn bộ những gì sắp xảy ra. Biết rằng người em của
mình đang gặp nạn. Ngài liền trì chú Thủ-lăng-nghiêm để giải trừ chú thuật Tiên
Phạm thiên của ngoại đạo Ta-tỳ-ca-la. A-nan mê muội đến mức như người say rượu hoặc say ma túy. Ngài
hoàn toàn quên bẵng mọi việc trước đây. Nhưng khi Đức Phật trì chú Thủ-lăng-nghiêm
thì năng lực của minh chú liền phát khởi trong A-nan và quét sạch mọi mê muội trong tâm, khiến A-nan liền thức tỉnh. A-nan mới nhận ra được tại sao mình bị
vướng vào tình huống như thế này.
A-nan trở về tinh xá,
quỳ trước chân Đức Phật, khóc lóc thảm thiết:
“Con từ trước đến
nay, con chỉ ỷ lại vào học rộng hiểu nhiều, mà không chịu tu tập để hoàn chỉnh
đạo lực. Kính mong Thế tôn chỉ bày cho con phương pháp tu tập định lực của chư
Phật trong mười phương để được thành tựu đạo lực.”
Nhân đó, Đức Phật mới
nói kinh Thủ-lăng-nghiêm. Đây là nguyên nhân thứ nhất mà kinh này được ra đời.
Nhân duyên thứ hai
là:
2. Cảnh giác đối với cuồng huệ - Bảo hộ cho chúng sinh khỏi rơi vào tà kiến.
Có nhiều người thông
minh trong đời, mặc dù họ có tri thức mà vẫn không vận hành theo chánh đạo được.
Thay vì vậy, họ sử dụng tri thức ấy để làm hại con người. Họ ngập sâu vào tà kiến
và không muốn sửa đổi để quay về với chính kiến. Họ cứ cho rằng họ đúng. Họ tự
cho mình là kẻ thông minh xuất chúng rồi xử sự theo cách rất hồ đồ, mê muội.
Nên Kinh Thủ-lăng-nghiêm là một lời cảnh cáo cho lớp người này.
Ngạn ngữ có câu:
Thông minh nãi
thị âm chất chủng
Âm chất dẫn nhập thông minh lộ
Thiện dục nhân
kiến, bất thị chân thiện
Á́c khủng nhân tri, cánh thị đại ác”
Nghĩa là:
Do đời trước có gieo
trồng chút ít nhân đức hạnh, có thể họ đã học hành siêng năng chăm chỉ, hoặc đã
tụng đọc Kinh Phật rất nhiều, nhưng tính thông minh này được tựu thành do các
việc thiện này. Đó gọi là âm chất,[16] người bình thường không thể thấy được.
Tính thông minh này không thể nào thành tựu ở trong những người không hề làm việc
thiện, hoặc những người đánh trống khua chiêng, quảng cáo trên truyền hình, trên
báo chí rằng: “Tôi đã từng làm những việc thiện như thế, như thế....” Những người
này có làm việc thiện thật, nhưng đây không phải là “chân thiện.”
Việc thiện chỉ được
công nhận khi người làm một cách âm thầm–đó là chân thiện. Nên nói:
“Làm việc thiện mà muốn người ta biết đến, thì chẳng
phải là chân thiện.
Làm việc ác mà sợ người khác biết được đó là việc đại
ác.”
Những người làm việc
thiện mà muốn mọi người đều biết việc thiện của mình thì đó không phải là việc
chân chính. Họ chỉ là những người ham thích sự nổi danh.
Việc ác lớn nhất là
người ta âm thầm làm nhưng lo sợ người khác phát hiện được nên tìm mọi cách để
che dấu.
Hạt nhân đức hạnh đã
âm thầm gieo trong những đời trước sẽ cho chúng ta hưởng quả báo thông minh
trong đời này. Nhưng nếu chúng ta không vận dụng sự thông minh đó vào việc
thăng hoa và lợi lạc, trong việc trau dồi đức hạnh và làm việc thiện, mà làm những
việc ác thì sự thông minh lanh lợi ấy là trí thông minh của thứ kiến giải nửa vời,
không phải là tri kiến chân chính.
Chẳng hạn, vào thời
Tam quốc ở Trung Hoa có viên tướng Tào Tháo được xem là cực kỳ thông minh,
nhưng lại đa nghi như quỷ. Và vua Nghiêu[17] được gọi là người thông minh nhưng ác độc.
Cũng thế, ở Mỹ, một người thông thái thường được gọi là người ác. Thực vậy, người
ta đồn đãi với nhau gọi tôi là thần là thánh. Mà thực ra tôi chẳng thích ai gọi
tôi là thần cả. Những người này nghĩ rằng khi gọi như vậy có nghĩa là khen ngợi
tôi, nhưng trong Phật pháp,tôi xem đó là lời phỉ báng. Quý vị không nên đánh
giá các vị thần quá cao, họ chưa đạt được một quả vị gì lớn lao cả. Họ chỉ là
những vị Hộ pháp, công việc chính của Hộ pháp là hộ trì Tam bảo: Phật, Pháp,
Tăng.
Những bậc đại thiện nếu
bị đọa lạc cũng sẽ đọa vào hàng quyến thuộc ma. Nếu có người làm những việc đại
ác mà thức tỉnh và sửa đổi thì người ấy được xem là bậc đại thiện vì họ đã có
can đảm tự sửa chính mình.
Tuy nhiên, có người
đã từng gieo trồng hạt giống tốt trong khi đó, họ không để ý đến những cảm ứng
đặc biệt từ hạnh nghiệp của mình, mà lại làm những việc ác và lừa lọc người
khác; do vậy nên họ trở thành những kẻ cực ác, vì họ là những người đã biết rõ
điều hay lẽ phải mà lại cố ý làm điều tà vạy.
Người
có càn huệ thường làm những việc điên
đảo, những việc kỳ quặc mà vẫn cảm thấy rằng mình đúng đắn. Đến mức có thể giết
người và tự cho rằng: “Nếu ta không giết người ấy, nó sẽ giết những người khác.
Nhưng vì ta đã giết nó rồi, nó sẽ không còn giết người khác được nữa.”
Thực ra, anh ta không
phải là một kẻ mang bản tính sát nhân chút nào cả, nhưng anh ta lại có thành kiến
với nạn nhân. Đây là một ác ý. Có nhiều kẻ vốn đã phạm sai lầm, lại thường tạo
ra một lý do chính đáng cho hành vi sai trái của mình, họ thường tạo ra câu
chuyện có tình tiết rất hay để tránh khỏi sự buộc tội của luật pháp. Mặc dù anh
ta sai trái, nhưng anh ta lại tin chắc rằng mình sẽ thắng. Đây là “cuồng huệ.” Kinh Thủ-lăng-nghiêm góp phần
thức tỉnh cho mọi người, giúp họ đối trị lại những bào chữa phát xuất từ ác ý.
Kinh cảnh báo cho những kẻ này hãy thay đổi lối suy nghĩ, đừng mang giữ các tà
ý đó nữa, đừng tin chắc rằng các tà ý ấy là đúng nữa, và sửa đổi lại những ý
nghĩ ấy để có thể trở về chính đạo, với tư tưởng chân thật.
3. Chỉ rõ chân tâm, hiển bày căn tánh.
Kinh Thủ-lăng-nghiêm
là bộ kinh chỉ thẳng vào tâm để cho chúng ta nhận ra được bản tâm, và chứng nhập
được Phật tánh.
Thế tâm ấy là gì? Đó là chân tâm, vốn không thể thấy được. Tâm nằm trong lồng ngực mà quý vị
có thể trông thấy được, đó chỉ là trái tim, nhiệm vụ nó là để giúp cho quý vị sống
còn. Đó không phải là chân tâm. Trái
tim ấy chắc chắn không thể nào dẫn quý vị đến sự hiểu biết chân chính. Nếu trái
tim trong lồng ngực quý vị là chân tâm,
thì lẽ ra nó phải cùng đồng hành với quý vị khi chết đi. Vậy mà sau khi chết
thân xác quý vị còn đó mà trái tim vẫn nằm yên trong thân.
Thế nên trái tim thịt
ấy không phải là chân tâm. Tâm chân thật của quý vị chính là Phật tánh.
“Thế Phật tánh ở nơi
đâu?”
Phật tánh chẳng ở
trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa. Kinh văn sẽ giải thích đạo lý này rất chi
tiết. Trong kinh cũng sẽ giải thích “Thập
phiên hiển kiến” (mười lần chỉ bày tánh thấy), đó là “chân tâm.”
Đây là nguyên nhân thứ
ba khiến Đức Phật tuyên thuyết bộ kinh này, là để chỉ bày rõ cho chúng sinh Thường Trụ Chân Tâm Tánh Tịnh Minh Thể (thể
tánh thanh tịnh sáng suốt thường trụ của chân tâm). Chơn tâm này vốn không đi,
không đến, không biến đổi, không dao động. Chơn tâm ấy là bản thể, không bị nhiễm
ô. Bản chất của chân tâm hoàn toàn thanh tịnh. Thể tánh của chân tâm hoàn toàn
sáng suốt.
4. Hiển thị chân tánh của định lực và khuyến khích việc tu chứng.
Có rất nhiều pháp môn
trong việc tu tập định lực. Ngoại đạo cũng có nhiều loại định. Vậy nên trong
khi tu tập định lực, chỉ cần:
“Sai chi hào ly,
Thất chi thiên lý”
(chỉ cần sai lầm bằng
một mảy tóc, thì sẽ uổng công đi xa cả ngàn dặm)
Do vậy nên quý vị nên
tu tập theo chánh định, tránh tu tập theo lối tà định. Các loại định do ngoại đạo
và Tiểu thừa tu tập đều là tà định, chẳng phải là chánh định. Vì các loại định ấy
không lưu xuất từ chân tánh, nên sẽ không bao giờ đạt được Thánh quả, bất luận
tu tập dụng công lâu hay mau. Nên nói:
Tánh định ma phục triêu triêu lạc
Vọng niệm bất khởi xứ xứ an”
(Chân tánh an định,
ma chướng bị hàng phục, nên ngày ngày đều sống trong an vui. Vọng niệm không
sinh, mọi nơi chốn đều an nhiên.)
Tại sao hành giả bị
ma chướng khi tu tập? Tại sao nghiệp chướng sinh khởi. Chỉ vì trong tự tánh của
họ chưa có được định lực. Nếu tự tánh thường an trú trong định, tất cả ma sự đều
bị hàng phục.
Có rất nhiều loại ma,
trong kinh Thủ-lăng-nghiêm giảng giải về Năm mươi loại ấm ma. Thực ra,
có rất nhiều, rất nhiều loại ma: thiên ma, địa ma, nhân ma, quỷ ma, yêu ma.
Thiên ma là ma ở các cõi trời, thường đến đây để nhiễu loạn những người tu tập
thiền định. Địa ma cùng với các loài nhân ma, quỷ ma, yêu ma thì ở trên đất và
các loài quái dị khác thường quấy phá thiền định của quý vị.
“Tại sao nó làm việc ấy?"
Vì trước khi quý vị chứng được Phật quả, quý vị
đã từng là quyến thuộc với ma. Khi quý vị quyết định xa lìa quyến thuộc nhà ma
để tu tập thiền định, chấm dứt sinh tử, phá vỡ vòng luân hồi, thì ma vương vẫn
còn yêu thích quý vị. Nó yêu thương quý vị, không muốn quý vị bỏ đi. Thế nên nó
đến não loạn tinh thần và nhiễu loạn công phu thiền định của quý vị.
Nếu không có đủ định
lực, quý vị có thể bị xoay chuyển bởi ma sự và kết cuộc là thành đồ chúng của
ma. Nếu quý vị có được định lực thì không bị nó sai sử, quý vị sẽ được “như như bất động, liễu liễu thường minh.”
Như
như bất động là có định lực,
liễu liễu thường minh là có năng lực
trí tuệ sáng suốt. Có được đầy đủ năng lực trí tuệ và có định lực thì chẳng có
loài ma nào có thể xoay chuyển được quý vị. Nhưng nếu không có được đầy đủ năng
lực định huệ, quý vị sẽ thành quyến thuộc với ma, thành con cháu của chúng. Điều
ấy cực kỳ nguy hiểm.
Lý
do ngoại đạo không có được tánh định
vì họ chỉ dụng công ở ngành ngọn chứ không dụng công ở phần gốc rễ, họ công phu
ngay nơi xác thân hư huyễn. Sai lầm của họ là đồng nhất thức thứ sáu, là tâm thức thường nghiệm với chân tâm. Kết quả của sự dụng công ấy là
đạt được một chút ít kinh nghiệm ở cảnh giới tịch diệt, nhưng những gì họ cảm
nhận được đều là không thực. Họ bắt ép mình không được sinh khởi vọng tưởng
nhưng họ không khai quật ra được căn nguyên của vọng tưởng ấy, nên không thể
nào chấm dứt sinh tử được. Điều ấy cũng giống như dùng đá đè cỏ vậy... khi dời
đá đi, cỏ mọc lại ngay. Khi những người tu theo ngoại đạo buông xả nỗ lực ngăn
ngừa vọng niệm, thì cũng như dời đá đi nơi khác. Phương pháp tu tập ấy không đạt
được cứu cánh rốt ráo.
Trong công phu thiền
định, hành giả nên tham thoại đầu “Ai là
người niệm Phật?” Do tham cứu miệt mài đề tài ấy nên hành giả quét sạch tất
cả các pháp và lìa tất cả các tướng.
Khi tham cứu “ai”, hành giả thâm nhập
vào cội nguồn của vọng tưởng và chuyển hóa chúng. Nếu quý vị công phu theo chiều
hướng này, sẽ có ngày quý vị hoát nhiên khai ngộ. Lúc ấy quý vị mới biết được mặt
mũi mình dọc hay ngang. Còn khi chưa khai ngộ, quý vị chẳng thể biết được mặt
mũi mình hướng về phía nào. Nhưng một khi đã khai ngộ rồi, quý vị sẽ biết được
hết thảy và đạt được tự tại.
Khi Đức Phật giảng
kinh Thủ-lăng-nghiêm này, có rất nhiều phái ngoại đạo ở Ấn Độ không quan tâm đến
ý nghĩa giác ngộ, họ thích bắt chước những thói quen của bò và chó, đây là một
pháp tu do một số người khi nhập định, thấy được một con bò được tái sinh trong
cõi trời, nên họ kết luận. “Ta phải tập theo thói quen của loài bò.” Anh ta bắt
đầu ăn cỏ, sống trong chuồng bò, học cả cách ngủ như bò. Khi không ngủ, anh ta
có được chút định lực, nhưng anh ta không đạt được kết quả chân thực, vì đó
hoàn toàn là tà định.
Thời ấy có́ ngoại đạo
làm như vậy là vì trong khi ngủ, họ mơ thấy một con chó được tái sinh trên cõi
trời. Người này quyết định rằng nếu mình bắt chước những hành vi của loài chó
thì mình cũng có thể được sinh ở cõi trời. anh ta tự rập khuôn mình theo loài
chó, canh chừng cổng nhà, dùng thức ăn và ngủ như loài chó. Nhưng cuối cùng
cũng không thành tựu rốt ráo.
Có những ngoại đạo
kỳ cựu khác tu tập Vô tưởng định, khi ấy hành giả không còn suy nghĩ về một điều
gì cả. Hành giả không còn vọng niệm nữa, cuối cùng hành giả được sinh vào Vô tưởng thiên. Nhưng tái sinh ở Vô tưởng thiên không phải là cứu cánh
tối hậu, cuối cùng cũng phải đọa lạc. Đây cũng được xem là một loại tà định. Tất
cả phương pháp tập định do ngoại đạo truyền dạy đều không rốt ráo, không có căn
bản, không như công phu tu tập chân chính là để nhận ra tự tánh vốn sẵn có nơi
mình.
Đem tâm phân biệt (thức) và vọng tưởng mà tu học Phật pháp
cũng giống như nấu cát mà mong thành cơm, không thể nào thành tựu được, dù quý
vị có tu hành như thế trải qua vô số kiếp, cũng không thể nào thoát khỏi vòng
luân hồi, chẳng thể nào thành Phật được. Điều cần yếu cho những người thiết tha
tu tập là phải thân cận một bậc minh sư có tri kiến chân chánh, để giúp cho
hành giả đạt được định lực chân chính.
Để đạt được năng lực
chánh định, có khi hành giả cũng phải trải qua sự khảo nghiệm của ma vương.
Như tôi đã đề cập trước
đây, có rất nhiều loại ma: nội ma và ngoại ma. Ngoại ma thì hàng phục không khó
mấy, nhưng loài ma phát sinh từ trong tâm mình thì rất khó hàng phục.
Có loại ma thường gây
bệnh tật cũng rất khó hàng phục. Khi tôi vào khoảng mười bảy, mười tám tuổi, đang
học Phật pháp nên rất tự cao. Tính tự cao đã sai sử tôi phát biểu những lời
ngông cuồng như sau: “Ai cũng sợ ma, nhưng tôi chẳng sợ. Đúng ra ma phải sợ
tôi.”
Quý
vị có bao giờ nói những lời ngông cuồng như thế không? “Bất luận là loại ma gì,
thiên ma, địa ma, nhân ma, yêu ma, quỷ ma, tinh ma... tôi đều chẳng sợ.”
Sau
khi tôi vừa tuyên bố như thế xong, quý vị đoán biết điều gì xảy đến không? Tôi
liền bị ma bệnh tấn công. Sau đó chính tôi là kẻ sợ ma, không phải ma sợ tôi.
Vì căn bệnh làm cho tôi không thể nào cử động được, giống như bị kẹp trong cái
ách, thân tôi không tuân theo sự điều khiển của tôi nữa. Tôi bảo nó đi nhưng nó
không thể đi, tôi bảo nó ngồi cũng không ngồi được. Từ sáng đến tối, tôi phải nằm
trên giường, không ăn uống gì được cả. Tôi đã bị mắc vào bẫy ma. Tôi nhận ra những
gì tôi đã tuyên bố đều là sai trái. Tôi đã huênh hoang rằng mình không sợ ma,
nhưng bây giờ khi gặp ma bệnh, tôi chẳng còn chút sức lực nào cả.
Tôi bệnh đến nỗi quên
hết mọi chuyện, như thể là sắp chết đến nơi. Nhưng ngay khi tiến dần đến hơi thở
cuối cùng–khi tôi hầu như chết rồi–thì một việc xảy ra, tôi thấy ba vị Vương hiếu
tử ở Mãn Châu gồm một tăng sĩ, một đạo sĩ và một cư sĩ, cả ba đến rủ tôi đi
chơi. Tôi theo họ ra ngoài. Ngay khi ra khỏi cửa, tôi liền bước đi, nhưng chân
tôi không hề chạm đất dù chẳng phải ở trên máy bay mà thấy như ở trong khoảng
không. Cũng chẳng phải như đằng vân giá vũ, mà giống như mình được bao bọc bởi
một lớp hư không. Tôi như bước đi trên những nóc nhà và chẳng bao lâu thấy mọi
vật ở phía dưới đều rất nhỏ.
Tôi đi qua rất nhiều
ngôi chùa danh tiếng, những rặng núi cao, những dòng sông rộng lớn. Tôi đến được
Tứ đại danh sơn của Trung Hoa: Ngũ đài sơn, Nga mi sơn, Cửu hoa sơn và Phổ-đà
sơn. Bất kỳ ở đâu, tôi cũng đến được rất nhiều chùa và gặp rất nhiều người.
Chúng tôi không dừng lại ở Trung Hoa, một lát sau chúng tôi đi qua nước khác,
nơi ấy người dân có tóc vàng và mắt xanh. Chúng tôi đi nơi này đến nơi khác rất
nhanh tựa như xem phim, từng cảnh từng cảnh chớp nhoáng trên màn hình, chuyển cảnh
thường xuyên, nhưng đây chẳng phải là màn ảnh hoặc máy chiếu phim, thực sự là
tôi thấy mình từ nơi này đến nơi khác rõ ràng.
Sau khi được thấy và
nghe nhiều nơi, nhiều việc, tôi trở về lại trước cửa phòng mình. Tôi mở cửa rồi
nhìn vào căn nhà của mình, trên giường là một người như tôi. Ngay đó, tôi nhận
ra mình mang hai thực thể hoàn toàn giống nhau. Hơi thở đã kéo tôi nhập lại làm
một. Cha mẹ tôi kêu lên “chưa chết.” Họ đang ngồi bên xác tôi mừng rỡ nói:
“Còn sống.” Rồi tôi nhận ra được, biết mình đang nằm bất động trên giường. Tôi
biết mình đang bị bệnh, tôi hỏi cha mẹ tôi chuyện gì đã xảy ra. Song thân tôi bảo
rằng tôi đã bất tỉnh nặng suốt bảy tám ngày nay, dường như đã chết. Thế nên tôi
là xác chết biết đi. Tôi nghĩ rằng
mình đã chết và cũng vừa như mới sinh ra. Sau đó tôi không còn dám ngông cuồng
nữa. Tôi không bao giờ nói rằng tôi chẳng sợ ma mà ma phải sợ tôi nữa. Hãy nhớ
lời khuyên nhủ này: “Bất luận làm việc gì cũng đừng tuyên bố những lời như tôi
nói. Nếu quý vị tuyên bố: “Tôi chẳng sợ gì cả.” thì trong tương lai quý vị sẽ gặp
ngay những sự kiện làm cho quý vị phải hốt hoảng. Còn nói: “Tôi thận trọng
trong tất cả mọi việc.” thì rất tốt. Nói chung đừng nuôi dưỡng ngay cả những
chuyện vô ích như thế."
Trước
khi tôi bị bệnh, tôi là giảng viên ở Hội Đạo Đức. Tôi thuyết giảng về sự lợi
ích của lòng khoan dung, hạnh đoan chính. Không những tôi chỉ khuyến khích mọi
người khác làm việc thiện, mà chính tôi cũng thực hành hạnh lợi tha. Tôi thực
hành đến mức độ cảm thấy mình có đạt được chút ít công phu.
Có lần tôi đọc bài viết
về mẫu mực trong đời sống của Chang-Yu-Husuan, tôi quyết định được
làm theo như ông ta. Tôi nguyện thề với trời rằng tôi sẽ thực hành giống như
Chang-Yu-Hsuan. Nhưng sau khi tôi phát lời thề rồi tôi lại tiếc.
Tôi
tự vấn mình một cách nghi ngờ rằng: “Có ích gì khi bắt chước như ông ta?” Và lạ
thay, ngay vào chiều đó ma liền đến để thử xem tôi có thực sự giữ vững lời thề
hay không? Nếu quý vị có lời phát nguyện, chư vị bồ-tát sẽ đến để thử nghiệm quý vị. Cốt yếu là quý vị đừng tuyên
bố một cách ngạo mạn. Cẩn trọng tránh xa những điều dễ dãi làm mình hài lòng
và cả những điều khiến mình bực bội, bằng cách giữ tâm mình thường hướng vào việc
tu đạo. Đừng sống với tâm phàm phu và đem tâm chân chính hướng vào công phu. Tu
có nghĩa là đi ngược chiều với hư vọng. Người tu tập với tâm mong cầu hư vọng
thường nghĩ rằng: “Ta phải chứng được quả vị Phật ngay.” Nên trong khi ngồi thiền,
anh ta thấy thân thể của mình như thân thể của Đức Phật đang phóng hào quang
làm chấn động quả đất. Thực ra, chẳng có điều gì xảy ra cả. Sự chứng nghiệm ấy
chỉ là hư vọng, chẳng phải là thành tựu đạo nghiệp.
Có
người nghĩ rằng: “Khi tôi ngồi thiền, tôi thấy Đức Phật thọ ký cho tôi rằng:
“Ông sẽ thành Phật, đừng bận tâm tu hành làm gì nữa. Ông đã là Phật rồi.” Đây
cũng là một sự chứng nghiệm hư vọng, không phải là chân thật thành tựu đạo quả.
Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni thành đạo khi ngồi thiền dưới cây bồ-đề. Ngài thiền định suốt bốn mươi
chín ngày, đến một sáng khi Ngài thấy sao mai vừa ló dạng, Ngài bừng ngộ. Ngài
nói: “Lạ thay! Lạ thay! Lạ thay! Tất cả mọi
chúng sinh đều có Phật tánh. Tất cả đều có thể thành Phật.”
Tuy
nhiên, trước khi Ngài thành Phật, thiên ma đã khảo nghiệm Ngài. Nó biến thành
gái đẹp đến trước Ngài, nói những lời quyến rũ, tìm cách làm cho Ngài từ bỏ con
đường tu đạo để kết hôn với cô ta. Nhưng Đức Phật thường ở trong chánh định,
không hề lay động bởi cái nhìn của loài yêu quái này. Ngài chỉ có tâm niệm: “Cô
tưởng mình đẹp lắm sao? Thực ra, cô chỉ là đàn bà xấu xa ác độc. Có vô số nếp
nhăn chạy trên khuôn mặt cô, từ mắt mũi cô đang chảy ra những nước mắt, ghèn, đầy
nước và đờm dãi trong mũi, và nước miếng trong cổ họng. Toàn thân cô thật dơ
bẩn, thế mà cô còn đến để lừa tôi.”
Đức Phật đã quán sát
được tâm niệm của Ma vương từ trong chánh định, và hóa giải ma lực ấy, bắt nó
hiện thành người đàn bà già nua xấu xí, tóc bạc, răng long, mũi chảy đầy dãi,
bà ta trông thật ác độc. “Bà hãy tự nhìn ngắm mình xem.”– Đức Phật bảo. Ma
vương nhìn lại mình, xấu hổ bỏ chạy. Có rất nhiều ma vương đến để thử thách Đức
Phật, nhưng Đức Phật không hề bị xoay chuyển. Do không bị ma vương xoay chuyển
nên Đức Phật thành tựu giác ngộ.
Khi hành giả tận lực
công phu tu đạo cũng giống như vậy. Giai đoạn quan trọng nhất là trải qua sự khảo
nghiệm của ma vương. Khi quý vị chưa có được công phu, ma vương chẳng cần thử
thách. Nhưng một khi đã có được chút ít công phu rồi, thì ma vương rất thích thử
thách. Nếu không nhận ra ma sự đến như một cuộc khảo nghiệm, thì quý vị liền bỏ
cuộc tu hành và theo làm đồ chúng của ma. Nếu quý vị muốn công phu đến mức
thành tựu thực sự, quý vị phải có được tánh định, thì chân tánh của quý vị
không hề lay động, tự nhiên quý vị sẽ có được định lực và sự thành tựu của quý
vị là rất chân thực, không phải là hư vọng. Còn nếu quý vị bị xoay chuyển bởi
ma, thì định lực của quý vị không phải chánh định mà là tà định, không bao giờ
đưa quý vị đến quả vị Phật được.
Trước đây, tôi đã đề
cập đến tà định do những người học theo hành vi của bò và chó. Làm sao loài bò
và chó mà họ bắt chước lại tái sinh được ở cõi trời? Vì trong một đời kiếp trước,
con bò ấy đã tu tập mười thiện nghiệp, nhưng trước đó nó hoàn toàn làm những việc
ác. Quả báo của ác nghiệp khiến nó phải thọ thân bò, còn quả báo của việc tu tập
mười thiện nghiệp khiến sau khi chết được tái sinh ở cõi trời. Con chó cũng như
thế. Họ không biết những nhân duyên trong quá khứ đã dẫn con bò và chó tái sinh
ở cõi trời, những người nầy tưởng rằng nó chỉ làm bò và chó trong kiếp hiện tại
rồi hưởng được phước báo sinh ở cõi trời thôi. Thế nên họ mù quáng bắt chước theo
bò và chó. Họ chẳng được gì khi tu tập như vậy, dĩ nhiên là chẳng thành tựu được
điều gì cả.
Thực
ra, thành tựu đạo nghiệp có nghĩa là chân thực nhận ra năng lực chánh định và
trí tuệ sáng suốt vốn tự có sẵn, đầy đủ, tròn đầy, trong mỗi người. Năng lực
chánh định và trí tuệ ấy hỗ tương dung nhiếp, hoàn chỉnh cho nhau, không ngăn
ngại nhau. Đó là nhận ra thể tánh chân thực vốn có của chính mình. Đó có nghĩa
là nhận ra được chân tâm của
mình.
5. Tiêu hủy vọng tưởng điên đảo, phá trừ mê lầm nhỏ nhiệm vi tế.
Vọng tưởng điên đảo
là những tâm niệm không chân chính. Thực ra, mọi người đều bị vướng trong vòng
điên đảo. Hãy xem suy nghĩ của họ thì rõ, khi A-nan và con gái của
Ma-đăng-già trở về đảnh lễ Đức Phật, A-nan
cầu thỉnh Đức Phật xin được chỉ dạy phương pháp tu tập định lực. Sau khi nghe Đức
Phật dạy bảo rồi, A-nan trình
bày bài kệ, mở đầu là:
Diệu trạm, tổng trì, bất động
tôn
Thủ-lăng-nghiêm vương thế hy
hữu
Bất động tôn là Thủ-lăng-nghiêm đại định, toàn câu này xưng tán Đức
Phật Thích-ca Mâu-ni là hy hữu, hiếm có. Như ý trong câu thứ ba của bài kệ:
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
(Làm
tiêu tan vọng tưởng điên đảo từ ức kiếp của con).
Từ
đời này sang đời khác, từ vô lượng vô biên kiếp, A-nan đã sống với vọng tưởng điên đảo, suy nghĩ về những việc
không chân chính. Vọng tưởng điên đảo này là vô số vọng tưởng mà hàng phàm phu
chúng ta thường khởi dậy. Yếu chỉ của kinh Thủ-lăng-nghiêm là phá hủy và làm
tiêu tan những vọng tưởng điên đảo này và phá trừ những mê lầm rất vi tế nhỏ
nhiệm từ tâm thức.
Những mê lầm vi tế
này rất nhỏ nhiệm vì không thể nhìn thấy được. Tai không thể nghe được, tâm ý
không thể hình dung được. Ngay khi ta vừa khởi dậy một niệm tưởng vô minh, thì
ba món vi tế hoặc liền phát sinh
theo, cho dù khoảnh khắc một niệm rất nhanh và ngắn ngủi. Vi tế hoặc được ví như bụi trần. Nếu trong một căn phòng có đặt một
tấm kính, ta sẽ thấy các hạt bụi nhỏ li ti bay khắp căn phòng, tấm kính tức thời
dính ngay các hạt bụi lăng xăng ấy. Những hạt bụi trần này sẽ bám vào kính một
cách vô tình cho đến khi dày như một đám mây. Những mê lầm vi tế của chúng ta
cũng giống như những hạt vi trần bám trên kính vậy.
Căn bản, tự tánh của
ta giống như một tấm kính vi diệu là Đại
viên cảnh trí. Vì tâm ta luôn khởi dậy những niệm mê mờ vi tế (vi tế hoặc), nên tấm gương trở nên bị
nhuốm bụi và càng ngày càng mờ đi. Đại sư Thần Tú có bài kệ:
Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh kính dài
Thời thời cần phất thức
Vật
sử nhạ trần ai.
Tạm dịch:
Thân như cây bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau phủi
Chớ để nhuốm bụi trần
Có người cho rằng bài
kệ này không đúng. Tôi cho rằng bài kệ này rất hay. Tại sao? Đại sư Thần Tú dạy
chúng ta phải thường siêng năng tu tập, thường lau chùi đài gương tâm cho thật
sáng, đừng để đài gương tâm bị bám bụi trần. Phải siêng lau chùi vào buổi sáng
rồi buổi tối. Vì khi quý vị lau chùi sạch những bụi trần vi tế nhỏ nhiệm thì đài gương sáng từ tự tánh sẽ chiếu diệu. Trước
khi được giác ngộ, quý vị phải tôn trọng và phải nên tu tập theo tinh thần này.
Lục Tổ Đại sư Huệ
Năng lại có bài kệ:
Bồ-đề bổn
vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai
Tạm dịch:
Tánh giác chẳng gốc ngọn
Gương sáng cần chi đài
Xưa
nay thể vắng lặng
Đâu có gì trần
ai .1
Lời kệ này lưu xuất từ
một bậc đã hoàn toàn chứng ngộ. Người khai ngộ bản tâm mới có thể nhận ra và tu
tập theo tinh thần của bài kệ này.
Nên nói:
“Nhất
niệm bất sinh toàn thể hiện
Lục căn hốt động
bị vân già”
(Khi một niệm không
sinh, thì định lực và Phật tánh liền hiển hiện.
Khi mắt tai, mũi, lưỡi, thân, ý bỗng dưng khởi
dậy đòi làm chủ, khi ấy cũng giống như bầu trời bỗng dưng bị mây che.)
Vậy nên quý vị phải nên chấm dứt sạch mọi điên
đảo vọng tưởng và tiêu trừ sạch mọi mê mờ vi tế thì quý vị mới mau chứng ngộ Phật
tánh. Vậy mà, bất hạnh thay, không mấy ai muốn chứng ngộ Phật tánh. Người ta
thích trôi nổi trong vòng ngũ trược,[18] trôi lăn trong sinh tử và quên mất đường về.
Họ lấy sự đau khổ làm niềm vui, quay lưng lại với giác ngộ, kết dính với trần
lao phiền não. Dù họ chưa chấm dứt được vòng luân hồi sinh tử, nhưng họ cứ nghĩ
một cách vô lý rằng họ tốt đẹp. Họ tự cho rằng: “Hãy xem, tôi rất thông minh và
đẹp trai, ai nhìn tôi cũng yêu thích và tôi biết rằng mọi người không được như
tôi”
Thực ra, những người
như vậy cũng giống như tấm gương bị bụi bám. Bụi bám càng nhiều, gương càng mờ
cho đến khi không còn sáng trong nữa. Họ có thể nghĩ rằng họ thông minh lanh lợi
trong đời này, nhưng hãy chờ mà xem, có khi mười đời sau, tính thông minh ấy sẽ
không còn nữa và họ sẽ ngu đần như loài heo.
Thế nên trong đời
này, chúng ta phải quyết định chúng ta sẽ hướng về đâu. Chúng ta phải nhận định
rõ ràng nơi đâu ta sẽ đến, đường nào ta phải đi. Đó là niềm tin tưởng, hy vọng.
6. Mở bày hai pháp môn
Vì
lợi ích cho chúng sinh đời này và đời vị lai. Đức Phật mở bày hai pháp môn: bình đẳng là pháp “thật” và pháp môn phương tiện
là pháp “quyền.” Pháp quyền thì không thực, chỉ dùng tạm thời
và không thường xuyên. Còn pháp thật
thì chân thực và không bao giờ biến đổi. Đó là hai pháp quyền và thật. Có thể
minh họa hai pháp đó bằng câu chuyện sau đây:
Một hôm Đức Phật thấy
một đứa bé đang chập chững đi về hướng một cái giếng, chỉ còn một chút xíu nữa
là rơi xuống nước, chắc chắn nó sẽ chết đuối trước khi người lớn đến cứu được.
Đức Phật biết nếu Ngài gọi đứa bé quay trở lui chưa chắc nó đã nghe lời, mà vẫn
cứ đi. Thay vì vậy nên Ngài nói: “Trong tay Như Lai có cây kẹo, hãy trở lui
nhanh, Như Lai sẽ cho con cây kẹo ấy.”
Khi đứa bé nghe nói
được cho kẹo để ăn, liền quay trở lại. Thực ra chẳng có gì trong tay Đức Phật cả.
Nhưng Đức Phật có nói dối không? Ngài có đánh lừa đứa bé không? Không. Đứa bé gần
như sắp rơi xuống giếng. Nếu Đức Phật không thuyết phục đứa bé bằng cách như thế
để khiến nó quay lui tức khắc thì nó sẽ bị chết đuối. Nên Đức Phật đã nắm bàn
tay lại và bảo rằng có kẹo ở trong ấy. Đứa bé đến với Ngài chỉ vì muốn ăn kẹo.
Pháp quyền được dùng để giáo hóa chúng sinh. Vốn
là chẳng có gì cả, nhưng Đức Phật lại khéo léo nói với mọi chúng sinh rằng:
“Như
Lai có một kho báu, hãy đến đây, Như Lai sẽ cho quý vị một viên ngọc minh châu
vô giá và các thứ trân quý khác...” Vốn chúng sanh còn nhiều tâm tham nên họ liền
đến với Như Lai để được giáo hóa, được món lợi. Nên chúng sinh được thuyết phục
bằng pháp môn phương tiện. Đó là pháp
quyền, là phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng hữu tình.
Pháp
bình đẳng – pháp thật, và pháp
phương tiện – pháp quyền đều được
dùng để giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm. Nhờ vào hai pháp môn này, chúng sinh đều được
thoát khỏi khổ đau và có được sự an lạc rốt ráo, đạt được kết quả chứng ngộ Phật
tánh.
Hai pháp này đều làm
lợi lạc cho mọi chúng sinh đời này và đời sau. Đời “hiện tại” ở đây có thể là thời Đức Phật giáo hóa, cũng có thể là thời
bây giờ. Chúng sinh trong đời hiện tại và vị lai đều có được sự lợi lạc và được
thăng hoa nhờ giáo pháp ấy. Khiến cho chúng sinh hiểu được ý nghĩa và sự lợi
ích của hai pháp quyền và thật cho chúng sinh đời nay và đời sau
là mục đích cuối cùng trong sáu duyên khởi của giáo lý Như Lai.
[1] Ngũ trùng huyền nghĩa, do Tông
Thiên Thai lập nên:
1. Thích danh: giải thích tên Kinh, nếu không có tên, tất
khó có thể hiển bày giáo pháp.
2. Biện thể: nói rõ ý chỉ của bộ Kinh. Các ý nghĩa của
tinh tuý của kinh đều nằm ở phần này. .
3. Minh tông: Hiển bày tông chỉ tu hành.
4. Luận dụng: Luận về dụng, tác dụng của lý Kinh khi
chúng sinh áp dụng trong công phu tu hành.
5. Phán giáo: Phân định giáo nghĩa của Kinh thuộc về
Quyền, Thật. Đại Tiểu thừa (Theo Phật học Đại Từ Điển Quyển 1–Đinh Phúc Bảo)
[2] Thập môn phân biệt: của Tông Hiền
Thủ: 1. Tổng thích danh đề. 2 Giáo khởi nhân duyên. 3- Tạng giáo sở nhiếp. 4-
Nghĩa lý phần tể. 5-Năng thuyên giáo thể. 6- Sở
bị cơ nghi. 7-Tông thú thông biệt. 8-Thuyết thời tiền hậu. 9-Lịch minh truyền dịch.
10-Biệt giải văn nghĩa.
1 Nguyên văn: Nhất thiết chúng sinh câu hữu Như Lai đức tướng trí huệ, đản dĩ vọng tưởng chấp trước bất năng chứng đắc; 一切 衆 生 俱有如來德 相 智慧, 但 以 妄 想 執 著不能證得 (蕐嚴經).
[5] s: Uṣṇīṣaṃ: phiên
âm là sắc-ni-sam 色 尼 釤. Hán dịch là nhục kế 肉髻,
vô kiến đảnh tướng 無見頂相, đảnh cổ 頂股.
Là đảnh cốt, tức phần xương trên đỉnh đầu Đức Phật nổi cao tròn khác thường (to
bằng vành chén trà). Trong những thời pháp
đặc biệt, Đức Phật thường phóng hào quang ở vị trí nầy để biểu hiện thần lực vi
diệu, đây là 1 trong 32 tướng tốt của các Đức Phật.
Trong
Tự điển Practical S.E.D của V.S.Apte đã dịch ra Anh ngữ:
- Anything wound round the head (một
vật thể tròn trên đầu).
- A distinguishing mark (dấu hiệu nổi
bật).
-A characteric mark of hair on the head of
a Buddha which indicates his future sanctity (dấu hiệu đặc biệt trên đầu
tóc Đức Phật, cho biết địa vị tôn quý của Ngài trong tương lai).
[8] Có nơi tách Thiện thệ thế gian giải thành 2, và ghép
Phật, Thế tôn làm 1 để có 10 danh hiệu. Có nơi ghép Vô thượng sĩ, Điều ngự
trượng phu làm 1 và tách Phật, Thế Tôn thành hai để có 10 danh hiệu.
[9] Đề hồ 醍醐: Một trong năm món chế từ sữa. Là món ăn, vị thuốc tốt
nhất. (Sữa, lạc, sinh tô, thục tô, đề hồ). Tông Thiên Thai gọi Kinh Pháp
Hoa và Kinh Niết-bàn quý báu như đề hồ.
[17] 堯 Yao: Ðế Nghiêu帝堯: Họ Y Kì伊耆
, tên Phóng Huân放勳, con của
Ðế Cốc, lên ngôi năm 2357 trước Công Nguyên (Giáp Thìn) tại vị 100 năm, nhường ngôi cho Ðế
Thuấn.
III. PHÂN TÍCH RÕ KINH NÀY THUỘC TẠNG VÀ THỪA NÀO
“Tạng” tức là Tam tạng, là ba kho tàng kinh điển Đức Phật đã giảng
thuyết. Gồm tạng Kinh, tạng Luận và tạng Luật. Ba tạng kinh này biểu thị cho ba
môn học vô lậu: Giới, Định, Huệ.
Tạng Kinh là môn học
về Định, tạng Luật là môn học về Giới, tạng Luận là môn học về Huệ. Quý vị thường
nhìn thấy tiêu đề ghi trên các cuốn kinh là Tam tạng Pháp sư, có nghĩa là nói đến
người thông thạo cả ba tạng này.
Mặc
dù kinh tạng có nhiều chương liên quan đến Giới học và Huệ học nhưng kinh cũng
đề cập nhiều đến Định học. Ví dụ như Kinh Thủ-lăng-nghiêm là dạy chúng ta tu tập
thiền định. điều này đã được giảng rõ ở lý do thứ tư, khi Đức Phật giảng thuyết
kinh này là để hiển bày tánh định của
chúng sinh và khuyến khích mọi người đạt được thực chứng.
Có một chương rất quan trọng trong kinh này là
chương đức Phật giảng nói về “Tứ chủng
thanh tịnh minh hối.” Đây là lời dạy về giới luật. Nhưng kinh này chủ yếu
giảng giải cho việc tu định, nên không được xếp vào tạng Luật, mà được xếp vào
tạng Kinh.
“Thừa” có nghĩa là hai thừa trong đạo Phật: Đại thừa và Tiểu thừa. Tiểu thừa giống như cỗ xe nhỏ chỉ
có thể chở được một vài người, đó là cỗ xe của hàng Thanh văn và Bích-chi Phật. Đại thừa là Bồ-tát thừa, ví như xe limousine có thể chở rất nhiều người.
Kinh này Đức Phật giảng nói pháp Đại thừa cho hàng bồ-tát, được Chư Phật hộ niệm. Vì là lời dạy cho hàng bồ-tát nên khiến cho hàng a-la-hán
bỏ pháp nhỏ hướng về pháp lớn, phát tâm bồ-đề và tu tập đạo bồ-tát.
Chẳng hạn, khi A-nan từ nhà con gái Ma-đăng-già trở về tịnh xá rồi thỉnh cầu Đức Phật
chỉ dạy con đường mà chư Phật Như Lai
trong quá khứ đã tu đạo giác ngộ.
Toàn Kinh Thủ-lăng-nghiêm
là Đức Phật giảng giải, đáp ứng cho sự thỉnh cầu của A-nan. Đó là pháp tu tập cho hàng bồ-tát. Do vậy, kinh này được xếp vào pháp Đại thừa hơn là pháp
Tiểu thừa.
IV. KHẢO SÁT SỰ SÂU MẦU CỦA GIÁO LÝ
Giáo lý trong kinh Thủ-lăng-nghiêm
này thuộc giáo lý nào? Tông Thiên Thai có phân loại bốn giáo lý:
1. Tạng giáo
2. Thông giáo
3. Biệt giáo
4. Viên giáo
Tạng giáo: hay Tam tạng giáo, là thuộc giáo lý Tiểu
thừa. Bao gồm Luận tạng A-tỳ-đạt-ma[1] và Tạng Kinh A-hàm.[2] A-hàm có nghĩa là không có pháp nào sánh bằng. Nhưng dù vậy, kinh A- hàm vẫn là giáo
lý Tiểu thừa.
Thông giáo: có nghĩa là gạch nối giữa giáo lý Tam tạng
(Tạng giáo) vừa nói trên và Biệt giáo ở
thời kỳ kế tiếp theo.
Biệt giáo: khác hẳn hoàn toàn với Thông giáo trước đó và Viên giáo kế theo sau.
Viên giáo: là giáo lý thứ tư được Thiên Thai tông
phân định.
Trong
bốn giáo lý này, Kinh Thủ-lăng-nghiêm thuộc về Biệt giáo.
Theo
Tông Hiền Thủ, phân thành năm loại giáo lý:
1.
Tiểu
giáo
2.
Thủy
giáo
3.
Chung
giáo
4.
Đốn
giáo
5.
Viên
giáo
Giáo lý Tiểu thừa (Tiểu
giáo) trùng hợp với Tạng giáo của tông Thiên Thai. Thủy giáo bao gồm cả Thông
giáo và Biệt giáo của tông Thiên Thai. Chung giáo, Đốn giáo và Viên
giáo tương đương với Viên giáo của tông Thiên Thai. Dù tên gọi không đồng, nhưng
đạo lý thì giống nhau. Tiểu giáo có nghĩa là giáo lý Tiểu thừa. Thủy giáo nghĩa
là giáo lý khởi đầu của Đại thừa, giáo lý này được giảng nói cho những căn cơ
chỉ có khả năng hiểu được nhân không,
mà chưa có khả năng tiếp nhận được pháp
không.
Chung giáo là pháp Đại
thừa. Pháp này dành cho những người đã nhận ra được nhân không và pháp không.
Đó là giáo lý Đại thừa.
Tôi nhớ câu chuyện trong một tắc công án:
Thời Đức Phật còn tại
thế, mọi người thường thỉnh Đức Phật đến để cúng dường trai phạn. Sau khi thọ
trai xong, trai chủ thường đến trước Đức Phật, đảnh lễ thỉnh cầu Đức Phật giảng
pháp. Nếu Đức Phật không tham dự thì trai chủ cung thỉnh các đệ tử lớn đến để
cúng dường và rồi các vị ấy sẽ giảng pháp cho gia đình trai chủ nghe.
Một hôm Đức Phật và
các trưởng lão tỷ-khưu rời Tinh
xá Kỳ- hoàn trong thành Xá-vệ để đến nơi thọ trai theo lời thỉnh cầu của trai
chủ. Chỉ còn lại một chú sa-di nhỏ tuổi ở lại trông tịnh xá. Sau khi Đức Phật
đi rồi, có một cư sĩ đến tinh xá thỉnh cầu chư Tăng đến nhà để gia đình được dịp
cúng dường trai tăng. Nhận thấy Đức Phật cùng chư tỷ-khưu đã rời tinh xá hết rồi, vị cư sĩ thỉnh cầu vị sa-di còn
lại: “Thế thì tôi xin mời chú, xin chú hãy đến cho gia đình tôi được cúng dường.”
Chú sa-di nhỏ bối rối nhận lời cùng đi với vị cư sĩ. Bối rối vì từ trước đến
nay chú chưa từng đi thọ trai cúng dường bên ngoài một mình cả mà thường đi với
những vị tỷ-khưu lớn. Nay chú
đi theo trai chủ, người rất thành tâm thỉnh chú đến nhà để cúng dường trai phạn.
Sau khi thọ trai xong, chuyện không may lại xảy ra. Trai chủ rất cung kính hướng
về vị sa-di nhỏ tuổi đảnh lễ thỉnh cầu giảng pháp. Khi nhận ra mình có nhiệm vụ
giảng pháp, chú thấy mình không biết nói điều gì cả, mặc dù điều này quan hệ rất
mật thiết với chú. Để thể hiện lòng cung kính của mình, trai chủ đã quỳ xuống,
cúi lạy dập đầu sát đất trước chân của sa-di, trông chờ chú giảng pháp. Chú sa-di
ngồi đó, nhìn chăm chăm vào vị trai chủ đang cung kính đảnh lễ mình. Quý vị
đoán thử việc gì sẽ xảy ra?
Không nói một lời,
chú sa-di lặng lẽ rời khỏi ghế, nhanh chân chạy về tịnh xá Kỳ-hoàn. Tự nhiên
chú ta thấy xấu hổ vì đã ăn một bụng no nê rồi bỏ về mà không nói được một lời
pháp nào.
Vị trai chủ quỳ một
hồi lâu, cúi đầu sát đất chờ đợi, nhưng vẫn không nghe thấy gì cả, ông ta bèn
ngẩng đầu lên liếc nhìn trộm, ông ta thấy chẳng còn ai ngồi trước mặt mình nữa.
Chú sa-di đã biến mất. Vừa khi ông ta nhận ra vị sa-di đã đi, cũng là lúc ông
ta bừng ngộ. Ông ta nhận ra nhân không
và pháp không, Ông ta la lên: “A! thì
ra là như vậy.”
Ngay tức khắc, ông ta
muốn kiếm người để ấn chứng cho ngộ giải này. Tự nhiên ông ta hướng về Tinh xá
Kỳ-hoàn để tìm vị sa-di trẻ.
Phút chốc, vị sa-di
trẻ lo sợ vị trai chủ sẽ đuổi theo mình để đòi nghe pháp, nên khi trở lại tinh
xá, vào ngay phòng mình khóa chặt cửa lại. Chú lại nghe tiếng gõ cửa. Chú đứng
trân người với sự sợ hãi, đứng im lìm sau cánh cửa, chú vô cùng sửng sốt. Dù
sao chú đã nạp thọ phẩm vật trai chủ cúng dường rồi, bây giờ họ đến để yêu cầu
chú ban bố pháp thí. Sự bối rối của chú đã lên đến cực điểm. Đột nhiên chú giải
ngộ, chú ta cũng nhận ra nhân không và
pháp không.
Chuyện này minh họa rằng
không phải chỉ với một trường hợp nhất định nào đó, người ta mới chứng ngộ được.
Có người được giải ngộ vào lúc đang căng thẳng, hoặc khi có niềm vui cũng sẽ tạo
nên sự giải ngộ. Bất kỳ sự thực chứng bất ngờ gặp phải đều có thể khiến cho
quý vị giải ngộ. Có người nghe gió mà ngộ. Có người nghe tiếng nước chảy và ngộ.
Có người nghe tiếng chuông ngân mà ngộ. Có người nghe tiếng gió rung mà ngộ.
Quý
vị sẽ hỏi: “Tôi đã từng nghe âm thanh này nhiều lần rồi, tại sao tôi không thấy
ngộ?.” Làm sao mà tôi có thể biết được tại sao quý vị chưa được khai ngộ. Quý vị
phải đợi thức ăn chín trước khi ăn vậy.
Quý
vị phải đợi giây phút chín muồi, khi giây phút chín muồi đó đã đến, mọi điều mà
quý vị vấp phải đều có thể khiến cho quý vị được khai ngộ. Các Tổ sư thiền
Trung Hoa hồi xưa đã chứng ngộ qua rất nhiều tình huống khác nhau.
Điều cần thiết là quý
vị phải công phu liên tục, tham cứu Phật pháp với tâm kiên định và nỗ lực tinh
cần. Nếu quý vị công phu như vậy, có ngày sẽ được khai ngộ. Nếu quý vị đã ngộ rồi,
thì quá tốt. Còn nếu chưa khai ngộ, quý vị phải công phu từng bước và kiên định,
đừng nóng vội, đừng quá căng thẳng đến nỗi không ăn không ngủ được.
Chung giáo là giáo lý dành cho những người đã ngộ lý nhân không, pháp không. Đó là cửa ngõ dẫn vào giáo lý Đại thừa.
Chung giáo là giáo lý dành cho hàng bồ-tát. Tuy vậy, vẫn chưa phải là giáo lý tối thượng. Còn phải
trải qua Đốn giáo và Viên giáo nữa mới đến nơi cứu cánh. Viên giáo giảng giải về sự viên dung vô
ngại của tất cả các pháp tương dung tương nhiếp lẫn nhau. Mọi vật đều có bản
tánh là Phật.
Kinh Pháp Hoa, một bộ kinh thuộc về
viên giáo nói rằng mọi chúng sinh
trong tương lai đều sẽ thành Phật. Kinh nói:
“Nếu có chúng sinh lúc tâm tán loạn
bối rối vào nơi tháp miếu và niệm dù chỉ một lần niệm Nam-mô Phật. Thì họ đều đã chứng thành Phật đạo.”[3]
Khi người ta vào tháp
miếu hoặc chùa lễ Phật, họ đều có sẵn lòng thành và dự tính những gì mình sẽ
làm. Nhưng trong kinh Pháp Hoa lại đề cập đến người khi vào chùa tháp mà không
có sẵn lòng thành, chỉ cần thốt nhiên niệm lên “Nam-mô Phật.” Do chỉ một lần tình cờ niệm “Nam-mô Phật” ấy họ đã được thành Phật trong đời sau rồi.
Tôi nhớ một câu chuyện
trong một tắc công án: Khi quý vị niệm Phật, quý vị không nên niệm Phật để chỉ
cầu cho mình, khi quý vị niệm Phật dù chỉ một niệm và hồi hướng công đức đã
tích lũy được cho toàn thể chúng sinh nhờ đó mà công đức của việc niệm Phật
càng tăng trưởng. Đó gọi là niệm Phật viên dung vô ngại.)
Có một lần Đức Phật
cùng chư tăng đi vào một quốc gia khác để khất thực, chỉ thiếu Ngài Mục-kiền-liên.
Ở đó, chẳng có người nào cúng dường cho Đức Phật và chư tăng cả. Quốc vương,
các quan đại thần, kể cả cư dân cũng không ai dâng cúng cho Đức Phật và chư
tăng. Thế mà sau đó, khi Ngài Mục-kiền-liên đến quốc gia ấy thì mọi thần dân đều
rất cung kính vây quanh để chào mừng và đảnh lễ Ngài. Họ thỉnh cầu Ngài cho biết
cần thứ gì để họ cúng dường các vị. Các vị đệ tử không hiểu tại sao một vị đức
hạnh tột vời như Đức Phật lại không được thần dân nước ấy cúng dường mà khi đệ
tử của Đức Phật đến lại được toàn dân trong nước chào mừng và dâng cúng. Họ hỏi
Đức Phật: “Việc ấy nguyên nhân ra sao?”
Đức Phật bảo các đệ tử:
“Các quan đại thần và
thần dân ở nước ấy không cúng dường Như Lai là vì trong quá khứ Như Lai đã
không gieo thiện duyên với họ, kết quả là không có sự lưu tâm mật thiết với
nhau. Nhiều kiếp lâu xa về trước, Mục-kiền-liên là một vị tiều phu, một hôm
đang lượm củi thì đụng nhầm một tổ ong và bị đàn ong tấn công. Mục-kiền-liên chỉ
biết niệm Phật và nguyện rằng: “Nam-mô Phật, xin đàn ong đừng đốt tôi, kiếp sau
khi tôi thành Phật, trước hết tôi sẽ độ thoát cho các bạn cho đến khi các bạn
tu tập thành Phật. Hãy chuyển đổi tâm niệm xấu ác trong mình, đừng nên hại người
nữa.”
Như kết quả của lời
nguyện, đàn ong không đốt Mục-kiền-liên nữa. Cuối cùng, ong chúa trở thành quốc
vương của nước này, những ong thợ, ong đực trở thành quan đại thần và thần dân
nước ấy. Khi Mục-kiền-liên, bây giờ là một tỷ-khưu, đến thành ấy, những con ong mà Ngài đã phát nguyện độ
thoát đã đến đảnh lễ chào mừng Ngài. Năng lực của lời nguyện trong kiếp trước mạnh
như vậy đó.
Nhớ nằm lòng chuyện
này, chúng ta nên thường xuyên gieo thiện duyên với toàn thể chúng sinh. Chúng
ta nên phát nguyện độ thoát hết thảy chúng sinh mọi loài, giúp họ thành tựu đạo
nghiệp. Lời nguyện vô hình nhưng chúng sinh mọi loài đều có đài tiếp sóng vô
tuyến tương ứng trong tâm họ, nên họ đều có thể nghe được. Lời nguyện tuy vô
hình và không thực thể, nhưng mọi loài chúng sinh đều tự nhiên cảm nhận nếu
mình phát khởi thiện tâm với họ. Quý vị nên phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh.
Người luôn luôn giữ vững sự phát tâm này sẽ thường có nhiều quyến thuộc bất kỳ
nơi đâu mà họ đến.
Có người hỏi:
“Con đến nơi nào cũng
chẳng có ai giúp đỡ cho con cả. Vì sao như vậy?”
Là vì trong quá khứ,
quý vị chưa từng gieo thiện duyên với những người đó. Gieo thiện duyên với
chúng sinh đặc biệt rất quan trọng cho những người tu đạo. Nên nói:
“Vị kết bồ-đề quả
Tiên
kết chúng sinh duyên”
(Để đạt được kết quả
giác ngộ, thì trước hết phải nên gieo duyên lành với chúng sinh.)
Cư xử tốt đẹp với mọi
người. Tại sao việc ấy lại cần thiết vậy? Vì chúng sinh là Phật. Gieo duyên
lành với họ là kết duyên lành với chư Phật. Nếu quý vị không gieo duyên lành với
chúng sinh, thì quý vị không có duyên lành với chư Phật
“Dục kết bồ-đề quả,
Quảng kết chúng sinh duyên”
Nghĩa là: muốn có được
quả giác ngộ thì nên gieo duyên rộng rãi với toàn thể chúng sinh. Mọi người nên
đem hết sức mình để gieo nhân lành, như phát tâm bồ-tát Đại thừa, đừng nên tu tập thành quả vị a-la-hán Tiểu thừa,
chỉ biết đến mình, không biết cứu độ người khác.
Nếu quý vị nhìn thấy
được chúng sinh là Phật, thì chúng sinh cũng sẽ nhận ra quý vị là Phật. Nếu quý
vị nhìn chúng sinh là ma vương, thì chúng sinh cũng nhìn quý vị là ma vương.
Cũng như mình mang kính khi nhìn, nếu quý vị mang kính màu xanh sẽ thấy mọi vật
màu xanh, nếu mang kính màu hồng, sẽ thấy vạn vật màu hồng. Không phải chỉ như
vậy thôi, mà cách quý vị nhìn người khác cũng chính là cách người khác nhìn quý
vị. Đó là lý do trước đây tôi có nói là mọi người đều có một đài đón nhận tín
hiệu vô tuyến ở trong tim mình, khiến họ có thể nhận ra được mọi điều đang diễn
biến trong tâm người khác.
Đừng
nghĩ người khác không biết được tâm niệm xấu ác của mình. Dù họ không biết
chính xác những gì quý vị đang suy nghĩ, những tự tánh của họ nhận biết rõ những
điều ấy. Khi mình có thiện tâm với người thì (thân thể và mặt) phát ra ánh sáng
– dương; khi khởi ác tâm với người
thì phát ra bóng tối – âm.
Nghĩa lý giáo thuyết
trong kinh Thủ-lăng-nghiêm sâu như biển. Đã có nhiều người tuyên bố đã thăm dò
được chiều sâu của biển, thực ra chiều sâu của biển thay đổi rất nhiều tùy theo
từng nơi, nên khó có thể nói chính xác độ sâu của biển. Giáo nghĩa Kinh Thủ-lăng-nghiêm
cũng như vậy. Không dễ dò chừng được. Mọi người đều đạt được những sự lợi ích
riêng biệt từ trong kinh, sự lợi lạc của riêng mỗi người đều khác biệt nhau,
nhưng tất cả sự lợi ích ấy đều xuất phát từ trí tuệ trong kinh. Vì nghĩa lý của
kinh rất sâu mầu, nên trí tuệ thâu nhận được từ trong kinh rất lớn và có thể đạt
được định lực rất kiên cố, nên kinh được gọi là Thủ-lăng-nghiêm: nhất thiết sự cứu cánh kiên cố .” (Bền vững,
cứng chắc nhất trong tất cả vạn vật).
Nếu mỗi chúng ta đều
gặt hái được những ích lợi từ kinh, liệu giáo nghĩa của kinh có phai mờ đi chút
nào chăng?
Không, giáo nghĩa của
kinh cũng như nước trong đại dương, khi có người đến bên bờ biển múc đầy một xô
nuớc, lượng nước còn lại trong đại dương vẫn lớn như thường. Nếu có người dùng
nước cho mục đích riêng của họ, lượng nước trong đại dương vẫn còn nhiều, không
bao giờ cạn kiệt. Giáo nghĩa của kinh Thủ-lăng-nghiêm cũng không bao giờ thăm
dò hết được. Ngay cả khi quý vị đã giác ngộ, giáo nghĩa của kinh cũng vẫn sung
mãn như trước khi quý vị chứng ngộ. Quý vị có thể đạt được chút ít trí tuệ
nhưng trí tuệ vốn hàm chứa tròn đầy trong kinh vẫn không tăng không giảm.
V. TUYÊN BÀY GIÁO THỂ
Tất cả các giáo pháp
Đức Phật diễn nói đều có giáo thể. Giáo
thể của kinh này là gì? Đó là âm thanh (thanh),
tên gọi (danh), câu (cú), văn tự, chữ nghĩa (văn).
Như trong bài kệ của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cung thỉnh Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni thị hiện ở thế gian.
Thử phương chân giáo thể
Thanh tịnh tại âm văn.[4]
Tạm dịch:
Giáo
thể chân thực ở nơi này, làm thanh tịnh (tâm ý) nhờ do âm thanh và văn cú.
Phương này chính là
cõi ta-bà, thế giới của đau khổ. Tuy vậy, chỉ âm thanh không thôi không được
xem là chân giáo thể. Gió và nước cũng tạo nên âm thanh, nhưng không được xem
là chân giáo thể.
Cụ thể hơn, giáo thể
bao gồm âm thanh, ngôn ngữ, câu và văn tự. Âm thanh là khi đầu tiên Đức Phật giảng
nói kinh này. Khi đã nói ra, âm thanh biến thành ngôn ngữ, ngôn ngữ biến thành
câu và lời, lúc đó còn phải được viết thành câu và chữ. Một khi đã được viết
thành văn tự, thì giáo lý đã được ứng dụng. Vậy nên giáo thể của kinh này bao gồm
âm thanh, ngôn ngữ câu lời và văn tự.
Điều này cũng có thể
chia làm bốn môn:
- Thứ nhất là tùy tướng môn: trong trường hợp này là
âm thanh, ngôn ngữ, câu cú và văn tự.
Giáo thể trong kinh Thủ-lăng-nghiêm
cũng căn cứ vào duy thức môn và khi
quy về Như Lai Tạng. Tánh quy về chân như, thì không liên quan đến hiện tượng nữa
mà nói thẳng đến bản thể nên gọi là quy
tánh môn. Còn có vô ngại môn mà
Kinh này cũng lấy làm giáo thể.
- Thứ hai,
duy thức môn cho rằng: tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni quán sát các nhân duyên để
chọn pháp môn có thể độ thoát chúng sinh. Nên từ tâm thanh tịnh Ngài thuyết
pháp để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chính tâm thức chúng sinh được chuyển
hoá và được lợi lạc. Đây là duy thức môn,
xem duy thức là giáo thể.
-Thứ
ba, quy tánh môn là hoàn toàn viên
dung không ngăn ngại, vì thức tâm có thể tánh nhất định, nên tất cả đều quy về
chơn tánh. Vậy nên quy tánh cũng là
giáo thể.
-Thứ
tư, vô ngại môn là gì? Là bao gồm cả
hiện tượng lẫn bản thể. Quy tánh môn
là quay về với thể tánh của chúng sinh. Khi bốn môn dung nhiếp với nhau không
ngăn ngại, sự lý vô ngại chính là
giáo thể của bộ kinh này.
VI. SỰ THÍCH NGHI CỦA TỪNG CĂN CƠ CHÚNG SINH VỚI GIÁO NGHĨA KINH NÀY
Điều này liên quan đến
những chúng sinh được giáo hóa. Kinh này nhắm đến giáo hóa những chúng sinh
nào? Kinh Thủ-lăng-nghiêm nhắm đến giúp các loài hữu tình lẫn vô tình đồng thời
hoàn mãn tuệ giác, cả loài hữu tình và vô tình đều chứng đạt Phật đạo. Hàng
Thanh văn, Duyên giác cũng được đặc biệt nhắm đến để giáo hóa như hàng hữu học.
Hàng Thanh văn (a-la-hán),
là nghe lời Đức Phật thuyết pháp mà ngộ đạo. Họ tu tập pháp Tứ diệu đế: khổ, tập,
diệt, đạo.
Những vị Duyên giác
là Bích-chi Phật, họ sinh ra nhằm
lúc Phật không xuất hiện ở thế gian. Họ tu tập pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo. Khi Đức Phật không thị hiện ở thế
gian, họ được gọi là Độc giác Phật. Những vị này sống nơi núi non, trong thung
lũng hẻo lánh, ẩn mình trong những nơi hang động. Nơi đó, họ quán sát sự sinh
diệt bất tận của vô số hiện tượng trong trời đất. Vào mùa xuân, trăm hoa đua nở,
vào mùa thu lá vàng rơi rụng. Nhờ quán sát tường tận sự biến chuyển này mà họ
ngộ đạo.
Ngoài giáo lý cho
hàng Thanh văn, Duyên giác ra, kinh này còn nhắm vào giáo hóa hàng hữu học, trong kinh này là nhắm đến hàng
bồ-tát. Chỉ có chư Phật mới được
gọi là vô học. Kinh này còn giáo hóa
hàng định tánh Thanh văn, là những
người không muốn từ bỏ quả vị nhỏ để hướng về Đại thừa. Bất định tánh Thanh văn là người có thể từ bỏ quả vị nhỏ hướng đến
Đại thừa, có thể vượt qua vị trí của hàng Thanh văn, Duyên giác để trở thành bồ-tát. Không chỉ Thanh văn được gọi
là đương cơ chủ yếu của kinh này, mà tất cả chúng sinh trong ba cõi: dục giới,
sắc giới và vô sắc giới đều là đương cơ chủ yếu của kinh. Kinh này khế hợp tất
cả mọi căn cơ và nhằm độ thoát cho hết thảy chúng sinh khắp mọi loài.
VII. PHÂN ĐỊNH RÕ TÔNG THÚ CỦA KINH
Tông
có nghĩa là tôn sùng, quý trọng.
Thú
là chỗ quy hướng sùng thượng.
Giáo lý của Đức Phật
dạy cho hàng Nhị thừa (Thanh văn, Duyên giác) liên quan chủ yếu đến nhân quả. Đây là giáo pháp quyền thừa. Đức Phật thuyết gồm cả hai
giáo pháp: quyền thừa và thật thừa.
Thật thừa có nghĩa là giáo lý bất biến, hằng
vĩnh. Trong giáo pháp quyền thừa, Nhân là
‘tông”, Quả là “thú.” Khi đạt đến
chân tướng, thật thừa, có nghĩa là đã có được chỗ̃ ngộ nhập. Do vậy, ngộ là “tông”, nhập là “thú.”
Trong kinh này, A-nan
đại diện cho đương cơ hỏi và nghe pháp. A-nan gặp nạn, Đức Phật giải cứu xong rồi dạy A-nan từ bỏ pháp tu Tiểu thừa hướng về
Đại thừa. Đó là tông.
Sự chứng ngộ quả vị tối thượng của A-nan là thú.
Tông và
thú đồng thời thông suốt đến
Phật đạo và là con đường dẫn đến Phật quả. Vậy nên khác biệt rõ ràng với các
kinh điển Tiểu thừa, chỉ nói về quả vị nhỏ nên không thể nào đạt được quả vị Phật.
VIII. XÁC ĐỊNH RÕ THỜI GIAN THUYẾT KINH
Điều này nói đến thời
gian Kinh này được thuyết. Đức Phật giảng pháp suốt bốn mươi chín năm. Khi Ngài
giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, vua Ba-tư-nặc được sáu mươi hai tuổi, Đức Phật và
vua Ba-tư-nặc sinh đồng một năm, nên Kinh này được xếp vào Phương Đẳng.[5] Nghĩa là “rộng khắp, bình đẳng,” là
thời kỳ thuyết giáo thứ ba của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đó là theo phán giáo
của tông Thiên Thai.
Còn theo phán giáo của tông Hiền Thủ, thì kinh này được xếp vào thời Chung giáo. Như vậy hợp lý hơn.
IX. LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ VÀ PHIÊN DỊCH KINH
Sau khi Đại sư Thiên
Thai Trí Giả đọc Kinh Pháp Hoa, Ngài phân chia các kinh ra làm ba phần. Phần tựa, phần chính văn, là phần chứa trọn tông thú của kinh và phần lưu thông, là phần cuối cùng trong kinh
văn, khuyến khích mọi người lưu hành kinh này khắp thế gian.
Sau đó có một vị Pháp
sư người Ấn Độ đến Trung Hoa, nghe rằng Đại sư Trí Giả đều đã chia các bộ kinh
thành ba phần. Pháp sư này rất ngạc nhiên nói rằng: “Ở Ấn Độ, Kinh Thủ-lăng-nghiêm
cũng như các bộ kinh khác đều được phân chia như vậy.”
Khi Đại Sư Trí Giả
nghe có Kinh Thủ-lăng-nghiêm đang lưu hành mà Ngài chưa từng được thấy, Ngài
xúc động hướng về phương Tây lễ bái với ước nguyện có ngày thấy được kinh này.
Hằng ngày, Ngài hướng
về phương Tây lễ bái suốt mười tám năm nhưng cuối cùng, Ngài chỉ mong có được
phước duyên thấy được bộ kinh này mà thôi; còn chúng ta có được nhân duyên thù
thắng biết bao, chưa từng lạy kinh mà nay được học, và được đọc tụng kinh này.
Cuối cùng, quốc vương
Ấn Độ thông báo cho thần dân biết kinh Thủ-lăng-nghiêm là quốc bảo vì đó là bổn
kinh do Bồ-tát Long Thọ mang từ long cung về. Sau khi
Vua tuyên bố như vậy, không ai được phép mang kinh từ Ấn Độ sang nước khác. Lúc
đó Pháp sư Bát-thích-mật-đế[6] dự tính đem kinh ra khỏi nước Ấn Độ truyền
vào một nước khác, đặc biệt là Trung Hoa. Ngài sắp đặt cho thương nhân Trung
Hoa mang đi bản sao của kinh, bị thuế quan ở biên giới giữ lại, không cho phép
mang ra khỏi nước. Ngài trở về cố gắng nghĩ cách đưa kinh đi. Cuối cùng tìm ra
được giải pháp, Ngài chép kinh bằng chữ rất nhỏ trên một tấm lụa cực mỏng, cuốn
lại rồi phủ bên ngoài tấm lụa một lớp sáp. Ngài tự xẻ thịt nơi cánh tay mình
nhét cuộn lụa vào trong đó, rồi dùng dược liệu đắp lên cho vết thương lành lặn.
Có người nói rằng
Ngài dấu kinh trong bắp đùi, nhưng tôi nghĩ rằng dấu kinh ở đó không thể hiện
lòng tôn quý kinh điển nên có lẽ Ngài đã chọn một nơi nhiều thịt ở phần trên cơ
thể để dấu kinh. Khi vết mổ đã lành, Ngài lại lên đường sang Trung Hoa. Khi đi,
lính gác biên giới không chút nghi ngờ vì kinh được dấu rất kỹ. Cuối cùng Ngài
đến được tỉnh Quảng Đông, nơi Ngài thường được Thừa tướng Phòng Dung tiếp kiến.
Ngài được mời về trú ở một ngôi chùa ở Quảng Đông phiên dịch kinh này.
Đây là những khó khăn
xảy ra vào thời kinh được truyền bá và phiên dịch. Thật phước đức cho chúng ta
khi Pháp sư Bát-thích-mật-đế quyết tâm mang kinh sang Trung Hoa. Quý vị có thể
hiểu được tầm quan trọng của kinh Thủ-lăng-nghiêm đến mức nào.
X. NGƯỜI DỊCH:
SA-MÔN BÁT-THÍCH MẬT-ĐẾ
NGƯỜI TRUNG
ẤN ĐỘ DỊCH VÀO ĐỜI ĐƯỜNG.
Đó là vào triều đại nhà Đường,[7] sau khi Võ Tắc Thiên thoái vị.[8] Vào năm đầu tiên của Hoàng đế Trung Tông,[9] niên hiệu Thần Long nguyên niên. Sa-môn Bát-thích-mật-đế đã dịch kinh
này từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa. Ngài hoàn tất bản dịch này rất nhanh để
trở về lại Ấn Độ trước khi viên quan giữ cửa ải có thể bị phạt vì để ngài lén
mang kinh ra nước ngoài, Pháp sư muốn trở về Ấn Độ tự thú, để cho những người
lính gác ở biên giới khỏi bị tội. Sau khi Ngài hoàn thành bản dịch, ngài trở về
Ấn Độ, đến thú tội với nhà vua, xin nhận bất kỳ mọi hình phạt nào.
Công đức của Pháp sư
đã lưu tâm đến kinh này cực kỳ to lớn, vì nhờ vào nỗ lực trong bước đầu của
Ngài mà nay chúng ta mới có được may mắn tham cứu kinh. Chúng ta trước hết nên
tri tạ công đức của Sa-môn
Bát-thích-mật-đế.
Sa-môn” là tiếng Phạn,
tiếng Hán nghĩa là “cần tức.” “Cần”
nghĩa là siêng năng tu tập Giới-Định-Huệ, “tức”
nghĩa là đình chỉ, dừng nghỉ, diệt trừ tham sân si. Hành xử như thế, được gọi
là sa-môn.
Đức Phật cũng được gọi
là sa-môn. Một lần ở Ấn Độ,
khi Đức Phật còn tại thế, tỷ-khưu
Mã Thắng (Āsvajit – A-thuyết-thị), đắp
y với dáng vẻ rất trang nghiêm, đi qua trên đường. Dáng vẻ oai nghiêm của tỷ-khưu rất khả kính nên khi mới gặp
Ngài, Tôn giả Xá-lợi-phất, liền xúc động nói: “Ngài quá nghiêm túc, oai nghi của
Ngài quá hoàn chỉnh, chắc chắn thầy của ngài là một bậc đại đạo sư. Vị ấy là ai
vậy?
Tỷ-khưu Mã Thắng đáp:
“Chư pháp tùng duyên sinh
Diệc tùng nhân
duyên diệt
Ngã Phật đại sa-môn
Thường tác như
thị thuyết”
Dịch nghĩa:
(Các pháp do
nhân duyên sinh
Cũng từ nhân duyên diệt
Đức Phật, vị đại sa-môn
Thường dạy lời như thế).
Khi Tôn giả Xá-lợi-phất
nghe những lời này, liền đi theo Tỷ-khưu
Mã Thắng trở về tinh xá Kỳ-hoàn trong vườn ông Cấp Cô Độc, đảnh lễ Đức Phật
xin xuất gia, nhận Đức Phật làm bổn sư.
Chúng ta nên học hạnh
tinh cần của sa-môn, tu tập giới,
định, huệ. Trước hết phải quy y Tam bảo và thọ trì năm giới. Năm giới là không
sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh dâm dục, không nói dối, không dùng rượu
hoặc chất kích thích. Sau khi thọ nhận năm giới, chúng ta nên thực sự thi hành,
có nghĩa là không bao giờ hủy phạm. Năm giới rất là quan trọng. Giữ gìn năm giới
một cách nghiêm túc, bảo đảm sẽ được tái sinh làm người. Nếu quý vị tu tập theo
năm giới, quý vị sẽ không bị mất cơ hội được tái sinh làm người. Vậy mà có người
nói: “Tôi biết tại sao người ta không nên giết hại. Dù sao, tất cả mọi chúng
sinh đều có phật tánh, mọi chúng sinh đều sẽ thành Phật, thế nên mọi sinh mạng
của chúng sinh đều phải được bảo trọng. Tôi cũng hiểu trộm cắp là không tốt.
Không buông thả trong tà hạnh dâm dục và không nên nói dối. Nhưng tại sao việc
dùng các chất kích thích lại bao gồm trong năm giới? Tôi thường uống rượu và
hút thuốc. Mọi người cũng uống rượu, cũng hút thuốc. Có gì sai trái? Thực vậy,
tôi đang xem lại có nên từ bỏ việc tu học Phật pháp chỉ vì việc cấm sử dụng các
chất kích thích hay không?”
Quý vị nên dừng lại
và suy nghĩ kỹ về điều ấy. Thay vì chạy theo đám đông, thấy nhiều người thích
hút thuốc nên quý vị hút theo họ, nhiều người thích uống rượu nên quý vị cũng uống
luôn. Quý vị bị dính mắc vào thói quen của mọi người và làm những việc họ thường
làm cho đến rốt cuộc mang lấy thói quen như họ. Đa số mọi người ít bị những căn
bệnh nghiêm trọng, chỉ bị chút ít bệnh nhẹ và một số vấn đề rắc rối nhỏ. Nhưng
chỉ y cứ vào một số vấn đề nhỏ nhặt mà dự tính bỏ việc học tập Phật pháp thì thật
là điên rồ! Quý vị có muốn biết tại sao có giới cấm uống rượu không? Tôi sẽ kể
cho quý vị nghe một câu chuyện chân thực để minh họa.
Có một người đã thọ
năm giới, anh ta lại rất thích uống rượu, thế nên sau đó, anh ta không còn giữ
được giới nào cả. Chuyện gì đã xảy ra? Một hôm anh ta nghĩ: “Có lẽ ta nên dùng
tí rượu.” Anh ta cầm chai rượu lên và uống vài ngụm. Thường khi uống rượu thì
phải ăn một thứ gì đó, thế nên anh ta đặt chai rượu xuống, bước ra ngoài trông
chừng kiếm thứ gì để ăn. Thấy có con gà nhà hàng xóm đi lạc qua vườn nhà mình.
anh ta nghĩ: “Tốt, nó sẽ là thức nhắm rất ngon.” Anh ta vồ lấy con gà. Lúc ấy
anh ta đã phạm giới trộm cắp. Khi đã bắt được gà rồi, anh ta phải giết gà mới
ăn được, thế là anh ta phạm thêm giới sát sanh. Khi thịt gà đã được nấu chín rồi,
anh ta nhấm thịt gà với rượu, chẳng bao lâu anh ta uống say mèm, như vậy anh ta
phạm phải giới dùng chất độc tố kích thích. Lúc ấy, có tiếng gõ cửa, đó là người
phụ nữ hàng xóm đi tìm gà. Anh ta liền buột miệng nói: “Tôi chẳng thấy!” thế
là, anh ta phạm luôn giới nói dối. Khi liếc nhìn người phụ nữ lần thứ hai, vẻ đẹp
của cô ta đã khơi dậy trong anh ta ham muốn tình dục mãnh liệt, anh ta liền hãm
hiếp cô ta. Sau đó anh ta bị kiện. Tất cả các việc xảy đến với anh đều do ham uống
rượu. Chỉ vì uống vài hớp rượu mà sau đó anh ta phạm hết tất cả bốn giới còn lại,
và vướng vào vòng lao lý. Chất kích thích làm cho con người mê mờ và tán loạn,
nên đó là một đối tượng mà đạo Phật lập nên giới cấm. Một người uống rượu thì
thiếu tự chủ; bất thần, anh ta bỗng dưng nhận ra mình đang ở thiên đàng, hốt
nhiên lại ở dưới đất, đằng vân giá vũ... anh ta chẳng ra tích sự gì cả. Vì nó
khiến cho người ta đánh mất tất cả mọi điều ngăn cấm, nên nó được xếp vào trong
số năm giới cấm.
Nếu
quý vị thọ nhận năm giới mà không hủy phạm, thì quý vị sẽ được hộ trì của các vị
Hộ pháp thiện thần, là những vị bảo hộ cho từng điều giới. Nếu quý vị hủy phạm
giới luật, các vị hộ pháp thiện thần sẽ tránh xa, không còn bảo hộ cho quý vị nữa.
Đây là lý do tại sao trong Phật pháp, việc thọ nhận giới luật là rất quan trọng.
Có người sẽ hỏi: “Như
thế nào mới được gọi là thọ trì giới?”
Nếu chỉ đọc trong
sách, biết rằng không nên sát hại, trộm cắp, tà hạnh dâm dục, nói dối và dùng
chất kích thích... đó chưa được là giữ giới. Cũng chẳng phải là đến trước tượng
Phật, đốt nhang hoặc đốt vài liều hương trên thân thể mình rồi tự nhận giới
theo cách ấy là được. Không! Thọ giới hoàn toàn chẳng phải theo cách ấy. Nếu một
cư sĩ muốn thọ trì năm giới, phải tìm một vị cao tăng có đức độ để chứng minh,
để trao truyền giới thể cho người cư sĩ. Vị cao tăng sẽ giảng rằng: “Từ nay con
đã thọ trì năm giới. Công đức do thọ trì năm giới lớn lao vi diệu bất khả tư
nghì.” Nên để cho đúng như pháp, mọi người đều phải đến trước chư Đại đức tăng
để cầu được truyền thọ giới pháp.
Bên cạnh việc tu tập
giới luật, các vị sa-môn còn tu
tập thiền định. có nhiều loại định, nhưng nói tổng quát, nếu quý vị không bị
xoay chuyển bởi bất kỳ ngoại cảnh, thì đó gọi là định.
“Làm thế nào một người
có thể đạt được chánh định?.” Trước tiên quý vị phải lắng tâm bằng cách tĩnh tọa
và tham cứu các công án thiền. Lý do khiến mọi người chạy ngược chạy xuôi, chạy
Đông chạy Tây là vì họ không đạt được định lực. Buổi sáng họ chạy đến cửa ông Ch’u, chiều họ đến lớp ông Ch’in; họ chạy đi khắp nơi, vì họ không có
được chút định nào. Để có được định lực, quý vị phải chịu khổ nhọc, khi quý vị
chịu khó tu tập như thế, quý vị sẽ đạt được một số kinh nghiệm khác nhau. Nhưng
ngay khi có được chút ít kinh nghiệm này, quý vị phải thận trọng đừng để cho nó
xoay chuyển mình. Đó được gọi là định lực. Nếu chỉ bị một tình huống xoay chuyển
tâm thức, thì quý vị chưa có định lực, chẳng hạn như khi quý vị nhận được một bức
thư báo tin xấu khiến cho quý vị bận lòng, như vậy là chưa đủ định lực, là chưa
qua được cuộc khảo nghiệm. Hoặc nếu quý vị gặp chuyện vui và quý vị truy đuổi
theo việc ấy, như thế cũng là chưa có được định lực. Nếu quý vị đối đầu với một
tình trạng bất như ý và quý vị nổi sân, cũng là do chưa có định lực. Quý vị nên
không vui cũng chẳng buồn; không phấn khích cũng chẳng buồn rầu. Có định lực là
ứng xử mọi việc mà tâm không dao động. Đó là quý vị ứng xử theo tâm đạo.
Khi tu tập định lực,
quý vị khai mở được trí huệ nếu không có định lực, thì không thể nào có được
trí huệ lực. Không có năng lực của trí tuệ, làm sao quý vị tu học Phật pháp được?
“Định lực và trí huệ
lực do đâu mà có?” Do giữ giới mà có. Hằng ngày quý vị phải thường hộ trì giới
luật, rốt cuộc quý vị sẽ có được sự hành xử tương ứng với Phật pháp một khi được
tưới tẩm dòng nước pháp.
Sa-môn phải tinh tấn tu tập giới định huệ, dừng hẳn
tham, sân, si. Ba món độc này là lý do khiến cho quý vị không chứng được Phật
quả. Nếu quý vị đình chỉ hẳn ba món độc này thì sẽ rất mau thành Phật.
Bất luận thứ gì, hễ
quý vị muốn được càng nhiều càng tốt, thì đó gọi là tham. Quý vị gặp một vài
tình huống không thích rồi nổi giận, đó gọi là sân hận. Si là những vọng
tưởng phát sinh từ tâm niệm vô minh và ̣ lang thang trong những tâm niệm này với
tinh thần bối rối. Nếu quý vị chuyển hóa sạch ba món độc này sẽ tương hợp với đạo,
là rất dễ dàng thành tựu đạo nghiệp.
Có bốn loại sa-môn:
1. Thắng đạo sa-môn: là những vị tu hành chứng được cả hai quả vị a-la-hán và bồ-tát.
2. Thuyết đạo sa-môn: là những vị thường hoằng pháp lợi sinh.
3. Hoạt đạo sa-môn: là những vị trì giữ giới luật, phạm hạnh thanh tịnh,
không bao giờ hủy phạm giới cấm.
4. Ô đạo sa-môn: là những kẻ phá giới phạm trai, sống trái nghịch với
luật Phật chế. Không những mình hủy phạm giới mà còn khiến cho mọi người sinh
khởi ấn tượng không đẹp khi thấy có người xuất gia mà không giữ gìn giới luật,
nên mất niềm tin vào Phật pháp. Do vì họ khiến cho người khác mất lòng tin, nên
được gọi là người xuất gia mà làm nhiễm ô Phật pháp.
Bát-thích-mật-đế (Pramiti) là tiếng Phạn, Hán dịch là “Cực Lượng” nghĩa là “rất nhiều.” Ý nói rằng tài năng và trí
tuệ của Ngài cực kỳ phong phú và rộng lớn. Pháp sư Bát-thích-mật-đế là người phiên dịch chính bộ kinh Thủ-lăng-nghiêm.
Ngài là người chủ trì, hướng dẫn cho hơn hai trăm pháp sư cùng nhau phiên dịch
bộ kinh này. Công việc phiên dịch được tiến hành tại chùa Chih Chih (Chế Chỉ), một ngôi chùa lớn thuộc tỉnh Quảng Châu do các
vị cao tăng hướng dẫn. Sự truyền thừa và phiên dịch bản kinh đã được giải thích
chi tiết qua chín đề mục trước khi giảng giải chính thức vào kinh văn.
SA-MÔN DI-GIÀ THÍCH-CA,
NGƯỜI NƯỚC
Ô-TRÀNH DỊCH NGỮ.
Pháp sư Bát-thích-mật-đế
được phụ tá bởi một vị sa-môn
người nước Ô-trành (Udyana), là một xứ
ở phía Bắc Ấn Độ. Trước khi vùng đất trở thành nơi dân cư, xưa vốn là vườn hoa
của vua A-dục (Aśoka). Nên khi dịch chữ
Udyana sang tiếng Hán, người Trung Hoa đã dùng chữ Carambola, Hán dịch Ưu đàm,
là tên một loài hoa.
Di-già Thích-ca,[10] Hán dịch Hàng phục, nghĩa là ngài đã điều phục được mọi phiền não, mọi ma chướng
và hết thảy mọi chướng ngại. Khi rời Udyana đến Trung Hoa, Ngài đọc lại bản dịch,
chú ý đặc biệt đến sự diễn đạt văn nghĩa, câu cú và cách dùng những thành ngữ
tiếng Hán. Ngài là một pháp sư lỗi lạc nhất tham gia việc phiên dịch bộ kinh
này.
SA-MÔN HOÀI ĐỊCH (Huai Ti 懷迪), CHÙA NAM LÂU, NÚI LA PHÙ, CHỨNG MINH BẢN DỊCH.
Thường các bản kinh đang
lưu hành không ghi tên vị Pháp sư này. Nhưng các bản in trước đây đều có ghi. Về
sau, trong tương lai nên nhớ ghi tên ngài vào ở đầu phần kinh văn khi ấn tống.
Nhớ đừng quên việc này.
- Núi La Phù là ngọn
núi nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông.
- Chùa Nam Lâu là nơi
Sa-môn Hoài Địch trú trì. Có lẽ
khi sư phụ của Pháp sư Hoài Địch đặt tên cho Ngài, đã mong mỏi Ngài siêng năng
tinh tấn tu tập. Chữ Địch 迪 là tiến tới, không dừng lại hoặc giãi đãi lười biếng.
Pháp sư học rất giỏi và chăm chú vào giáo nghĩa kinh tạng, nên Ngài rất thông
thạo giáo lý. Ngài cũng thông thạo tiếng Phạn, thế nên Ngài được mời chứng
nghĩa cho bản dịch. Vì sao hai Pháp sư Bát-thích-mật-đế và Di-già Thích-ca vốn
rất thông thạo tiếng Sanskrit, lại phải mời thêm một người Trung Hoa chứng
nghĩa bản dịch? Dù hai Pháp sư này thông thạo cả tiếng Phạn lẫn Hán nhưng họ chỉ
vừa mới đến Trung Hoa, các vị sợ rằng mình không hiểu được tiếng Trung Hoa hoàn
hảo cho lắm; nên phải mời một vị Pháp sư ở địa phương chứng nghĩa bản dịch. Vị ấy
là Pháp sư Hoài Địch.
Tôi chưa nghiên cứu
được lý do tại sao những ấn bản đương thời của kinh này không ghi tên Pháp sư
Hoài Địch, dù các ấn bản đời trước đều có ghi đầy đủ. Nay tôi muốn nhắc đến
Pháp sư để quý vị biết đến Ngài là một vị Pháp sư chứng nghĩa cho bản dịch kinh
này.
ĐỆ TỬ THỌ BỒ-TÁT GIỚI TÊN PHÒNG DUNG, HIỆU
THANH HÀ, CHỨC TIỀN CHÁNH NGHỊ ĐẠI PHU, ĐỒNG TRUNG THƯ MÔN HẠ BÌNH CHƯƠNG SỰ,
NHUẬN BÚT.
Giới bồ-tát có thể truyền cho cả hai hàng xuất gia và tại gia. Bộ
kinh trình bày rõ ràng về giới bồ-tát là
Kinh Phạm Võng. Kinh này nói rằng:
“Bất kỳ quốc vương hay quan đại thần khi bắt đầu nhận
chức vụ mới, nên phát nguyện thọ giới bồ-tát.”
Vì ngài Phòng Dung rất thông hiểu Phật pháp,
Ngài nhận Đức Phật làm cha, nhận bồ-tát
làm thầy, thọ trì mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh của giới bồ-tát.
Sau đó, ngài tự xem mình như một đệ tử của Phật.
Ngài thọ giới bồ-tát rồi
trở thành Quan chánh nghị Đại phu, là chức quan chuyên can gián Vua khi
ban hành chính sách sai trái nào đó.
Trong kinh văn dùng
chữ “Tiền” có nghĩa là chức vụ trước
đây của ông, khi nhuận sắc bản dịch Kinh Thủ-lăng-nghiêm, ông không còn giữ chức
đó nữa.
Chữ “Đồng” có nghĩa ông ta kiêm luôn hai chức:
Môn hạ là chức vụ phụ tá cho Hoàng đế,
trông coi và thực thi các sắc lệnh đã ban. Trung
thư là chức vụ như Bộ trưởng, có quyền ban hành một số chỉ thị.
Bình
chương sự là nhiệm vụ, ông ta có trách nhiệm điều hành cho công việc triều chính luôn
luôn đúng với pháp độ và thực sự bình đẳng.
Phòng Dung: là do gia đình có họ Phòng và tên Dung. Thanh Hà là phương danh, quê hương của
Phòng Dung.
Bút thọ có nghĩa Phòng Dung dùng tài năng văn
chương của mình để làm cho kinh văn thêm ý nghĩa. Chương cú, ngữ pháp được tao
nhã, sáng sủa, rõ ràng chính xác hơn. Tại sao phải làm như vậy? Vì Thừa tướng
Phòng Dung là một người có tài văn chương và kiến thức rất uyên bác. Chính việc
nhuận sắc của ông đã làm cho Kinh Thủ-lăng-nghiêm có giá trị rất đặc sắc. Nếu
quý vị muốn học tiếng Hán, thì nên học thuộc Kinh Thủ-lăng-nghiêm. Đây là một
tác phẩm hoàn hảo nhất bằng tiếng Hán. Ngay cả người Trung Hoa đọc cũng khó
lãnh hội hết ý kinh.
Nay chín tiết mục đầu
tiên đã được giảng rõ. Phần quan trọng nhất là giải thích kinh văn:
XI. GIẢNG GIẢI KINH VĂN
Kinh văn :
如是我聞
Như thị ngã văn
Việt dịch:
Như thật tôi nghe
Giảng : Như thật là nhấn mạnh đến
niềm tin
A-nan là em họ và là đệ
tử của Đức Phật, là người thông minh bậc nhất, là người kiết tập kinh tạng. Mở
đầu các bộ kinh, ngài đều nói: “Như thật
tôi...,” có nghĩa là mọi chữ mọi câu
trong kinh đều đúng như lời Phật đã dạy.
“Như” có nghĩa là “các pháp xưa nay vốn như vậy. Mười cuốn Kinh Thủ-lăng-nghiêm
chính là do tôi, A-nan, đã nghe như vậy.”
Chính tôi, đã nghe Đức
Phật dạy như vậy. Do đó, pháp là “như”. Phải tin như thế. Pháp mà chẳng “như” thì không thể tin được. Nên “như” chính là nghĩa của kinh văn.
“Như” đáp ứng trọn vẹn chứng tín.
Tất cả kinh tạng do Đức Phật thuyết đều bắt đầu bằng lục chủng thành tựu: tín
thành tựu, văn thành tựu, thời thành tựu, chủ thành tựu, xứ thành tựu,
chúng thành tựu.
1. Tín thành tựu
Có người sẽ tự hỏi:
“Tại sao trước tiên phải có niềm tin?”
“Tín vi đạo nguyên công đức hải
Trưởng dưỡng
nhất thiết chư thiện pháp.”
Nghĩa là:
Tín là nguồn gốc của đạo, là biển cả công đức, có thể
nuôi lớn tất cả thiện pháp.
Tín đặc biệt quan trọng như vậy.
Lại nữa, Luận Đại Trí Độ nói:
“Phật pháp đại hải,
duy tín năng nhập.”
Nghĩa là:
Biển Phật pháp mênh
mông, chỉ có lòng tín mới thấm nhuần được.
Chẳng có cách nào
khác để vào được biển Phật pháp ngoại trừ lòng tin. Chỉ với phương tiện là niềm
tin người ta mới có thể:
“Thâm nhập
kinh tạng, trí tuệ như biển” được.
Chẳng
hạn như bây giờ, tôi đang giảng kinh và quý vị nên tin vào những gì tôi nói. Đừng
móng khởi tâm nghi ngờ. Một khi quý vị có nghi ngờ, dù tôi có nói đúng đi nữa,
quý vị cũng cho rằng tôi nói sai. Tại sao vậy? Vì quý vị thiếu niềm tin, rồi dù
tôi có làm sai quý vị cũng tán thành với tôi. Làm sao mà quý vị tin tưởng được
những việc tôi nói sai mà có đạo lý? Bằng phương tiện là niềm tin. Khi chẳng có
niềm tin, quý vị sẽ nghĩ rằng những gì tôi nói là sai khi nó đúng. Khi có niềm
tin, quý vị sẽ chấp nhận là đúng ngay cả khi tôi giảng sai. Rốt cục tôi nói
đúng hay không? Hãy tin tưởng đừng sợ hãi. Tôi chắc chắn sẽ nói với quý vị những
điều đúng đắn. Tất cả những điều tôi đang làm là minh họa cho niềm tin mà quý vị
nên phát huy. Niềm tin của quý vị phải bền chắc, đừng có nghe theo bản ngã
mình. Hãy tin vào tôi, khi tôi nói rằng Kinh Thủ-lăng-nghiêm cực kỳ vi diệu,
thì quý vị nên tin thuận. Đó là có niềm tin. Đây là ý nghĩa của tín thành tựu.
2. Văn thành tựu
Những người đã có tín thành tựu còn phải cần đến nghe giảng.
Nếu quý vị chỉ cần có tín thành tựu,
mà đến khi giảng pháp thì quý vị dạo chơi ngoài công viên hay ngồi quán cà phê,
bỏ qua thời giảng pháp thì đó là trường hợp không có văn thành tựu. Nhưng thay vì quý vị không đi uống cà phê, lại đến
đây để nghe tôi giảng kinh. Còn gì hơn thế nữa, nếu quý vị không nghĩ đến chuyện
ăn – vì quý vị nhịn không ăn buổi tối và dù đang bận túi bụi vào việc nào đó,
mà vẫn nghe giảng kinh, thì đó là văn
thành tựu. Thế nên bất luận bận việc gì, quý vị vẫn chú tâm đến để nghe giảng
và làm phát khởi tín thành tựu với hết
lòng thành, thì tôi sẽ chứng nhận văn
thành tựu cho quý vị.
3. Thời thành tựu
Nếu quý vị đã có được
tín thành tựu và văn thành tựu, mà không có thời giờ, nên không có cách nào để nghe
kinh, thì cần phải có một thời gian hợp lý để nghe kinh. Thông thường, quý vị
phải đi học hoặc đi làm nên không có thời gian để nghe giảng kinh. Nhưng bây giờ
quý vị phải dành ra một thời gian để thâu thập và tham cứu kinh điển.
4. Chủ thành tựu
Cần phải có một vị chủ trì thuyết giảng Phật
pháp, chẳng hạn như khi muốn nghe giảng kinh, quý vị phải thỉnh một Pháp sư giảng
kinh cho quý vị nghe. Tuy vậy, nếu muốn mời một trong những vị “Pháp sư nước Mỹ” (một cư sĩ dùng danh
xưng này dù không xuất gia theo đúng chính pháp) đến giảng, thì quý vị nên tự
mình giảng cho mình nghe còn hay hơn. Quý vị đã biết được họ giảng những gì rồi.
Vậy nên quý vị phải tìm cho được một vị chủ trì có khả năng giảng pháp chân
chính. Chính vì lý do này mà quý vị kéo tôi ra khỏi hầm mộ. Người đời gọi tôi
là “Mộ trung tăng–Thầy tu ở trong mộ,”
quý vị đã mời tôi ra giảng kinh thuyết pháp cho quý vị nghe.
“Ai là chủ hội kinh
này?”
Đức Phật Thích-ca
Mâu-ni giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm, Ngài là chủ
thành tựu.
5. Xứ thành tựu
Quý vị hỏi:
“Một khi đã có chủ
thuyết pháp rồi, thì mọi việc đều đã sẵn sàng làm cho pháp được biểu hiện,
đúng như thế chăng?”
Không, quý vị vẫn phải
cần một nơi để giảng kinh. “Ở công viên được không? Đó rất rộng. Chúng ta có
thể đến đó để nghe pháp.”
Nơi ấy có thể được,
nhưng chỉ một hay hai ngày, đến ngày thứ ba-nhà chức trách sẽ ngăn cấm.
“Đây là nơi công cộng,
quý vị không thể tụ họp nơi đây để làm việc đó.”
Vậy nên quý vị phải
tìm một nơi nào đó hợp lý để nghe giảng kinh mới có được xứ thành tựu.
6.Chúng thành tựu
Cuối cùng, phải có
người đến nghe giảng pháp. Nếu không có người đến nghe giảng kinh, quý vị có thể
hướng về phía trước mà nói cho bàn ghế nghe, nó có nghe được không? Không! Có một
thính chúng là điều rất cần thiết.
Với hội Kinh Thủ-lăng-nghiêm,
nơi giảng là Tịnh xá Kỳ-hoàn, trong vườn Ông Cấp Cô Độc,[11] trong thành Xá-vệ (Śravāsti), nơi Đức Phật cùng các đệ tử tu tập.
Trong hội kinh này,
thính chúng là những Đại tỷ-khưu
và Đại bồ-tát.
Khi A-nan nói: “Như thật tôi nghe.” “Tôi”
có nghĩa là muốn đề cập đến “giả ngã”
của hàng bồ-tát.
Có bốn nghĩa khác nhau về Ngã:
Hàng phàm phu vọng kế
chấp trước thân mình cho đó là Ngã.
Hàng ngoại đạo do vọng
tưởng hư huyễn cho rằng có một thần ngã gọi
là ngã nên họ cho ngã chính là Thượng Đế.
Hàng bồ-tát tùy thuận thế gian mà thị hiện
nên gọi là “giả ngã.”
Đối với Đức Phật, đó là chân ngã pháp
thân.
Hàng phàm phu chấp
thân của mình là thật ngã, thực ra
thân này chỉ là nơi trú ngụ tạm thời, giống như ở khách sạn. Quý vị có thể ở
trong khách sạn một thời gian, nhưng rồi cũng phải ra đi, không thể ở đó mãi
mãi được. Hàng phàm phu không hiểu được đạo lý này. Họ cho rằng: “Thân xác này
là tôi”, nên họ cố gắng tẩm bổ và trang sức cho thân thể thật nhiều, tìm kiếm
sự hưởng thụ cho bản thân. Họ ham muốn có nhà sang vườn đẹp. Họ bận rộn trong
việc trang sức áo quần sang trọng, ăn uống chất bổ dưỡng và sống thật xa hoa,
cốt chỉ để bồi bổ thêm cho túi da hôi thối của họ.
Thân thể con người chỉ
là cái túi da hôi thối. Quý vị đừng có tin vào nó. Hãy thử nhìn xem: ghèn tiết
ra từ mắt, chất ráy tai đều là thứ bất tịnh. Mũi đầy chất nước nhờn và miệng đầy
nước miếng và đờm giãi bất tịnh. Nếu quý vị không đánh răng trong ba ngày, hơi
thở sẽ có mùi hôi thối nồng nặc. Nếu trong ba đến bốn ngày, không tắm rửa, thân
thể quý vị bắt đầu hôi thối và nếu thân thể tiết ra mồ hôi, thì thân ấy sẽ dơ
bẩn chỉ trong một đến hai ngày. Phân và nước tiểu rất là dơ bẩn. Những thứ bất
tịnh thường xuyên tiết ra từ cửu khiếu (chín bộ phận trên thân thể) là: mắt,
tai, mũi, miệng, hậu môn và bộ phận sinh dục, những thứ ấy đều là bất tịnh. Có
gì để yêu quý cái thân ấy? Quý vị có thể khoác vào cho nó những thứ đẹp đẽ, ướp
đầy nước hoa, làm nô lệ săn sóc cho nó suốt ngày với những thứ son phấn như một
cô phụ nữ có thói quen thường trang sức cho mình. Tất cả là để làm đẹp cho cái
vỏ sò hư huyễn gọi là thân thể này. Bất luận thức ăn dù ngon bổ đến mấy, nó
cũng biến thành phân. Trang điểm cho thân thể cũng như trang hoàng cho cái
phòng vệ sinh bằng những vật liệu quý báu. Bất luận nhà vệ sinh có sang trọng
chừng nào, nó cũng chỉ là nơi chứa đựng những chất dơ bẩn.
Quý vị còn nghĩ rằng
bên trong cơ thể con người là sạch sẽ nữa không?
Hãy cho tôi biết cái
gì tốt đẹp của thân xác? Khi gần đến lúc chết, nó chẳng còn lưu luyến tình cảm
gì với quý vị cả. Nó chẳng nói: “Vừa qua bạn đã quá tốt với tôi, nay tôi sẽ sống
thêm vài ngày nữa để giúp đỡ bạn.” Nó chẳng thể nào làm như thế. Vậy rốt cục,
cái thân có tốt đẹp gì đâu? Vậy mà kẻ phàm phu phải chấp trước vào cái thân ấy
và còn cho rằng thân ấy chính là ngã, là ta.
“Đây là thân thể của tôi.” Họ nói:
“Anh đánh tôi! Tôi
không cho phép anh làm vậy! Sao anh dám nhục mạ tôi?”
Rốt ráo thì ai là “anh”? Anh ta còn chưa biết được mình là
ai, còn nói rằng người khác nhục mạ hoặc đánh đập mình. Anh ta không nhận ra được
mặt mũi chân thật của mình mà chỉ biết cái cái thân thật chính là tôi. Tinh thần và chân ngã mới là cái ngã
chân thật, nhưng anh ta không nhận ra được điều đó. Ngay cả anh ta còn chưa biết
cách để nhận ra chúng, anh ta chỉ ra vẻ mình đang làm những việc chính đáng bằng
cách làm nô lệ cho thân xác mình.
Nếu sự quan tâm trước
tiên của quý vị là nên dành hơn một nửa cho mình, thì quý vị sẽ không có được
suy nghĩ chính xác về cuộc đời. Bất kỳ người nào sống như vậy đều sẽ không thể
nào làm được điều gì hợp lý. Anh ta bận tâm vì bản thân mình đến mức loại bỏ hết
những người khác. Thế nên tôi chẳng bao giờ bận tâm về mình. Tôi chỉ bận tâm vì
lợi ích cho mọi người. Nếu ai cần tôi giúp đỡ, tôi sẽ sẵn sàng giúp họ bất luận
trong tình huống nào.
• Ngoại đạo chủ trương Thần ngã.
Họ nói: “Ngã là cái
gì? Ngã là Thượng đế. Có rất nhiều dạng khác nhau của loại thần ngã này, nhưng ở đây không bàn luận nhiều”
• Giả ngã của hàng bồ-tát là gì? Khi A-nan
nói: “Như thật tôi nghe,” A-nan là người đã giác ngộ, lúc đó A-nan giúp cho chúng ta nhớ lại lời
Phật dạy, A-nan đã chứng quả a-la-hán rồi, thế nên a-nan không còn chút “tự ngã” nào nữa. Khi nói “Như thật tôi nghe,” A-nan chỉ tùy thuận thế gian, đưa ra
một giả ngã để cảnh tỉnh cho hàng
phàm phu được biết tường tận họ đang bị dính mắc vào tự ngã.
Bồ-tát thì
không có một tự ngã riêng biệt, các vị biết rõ hàng phàm phu vướng mắc vào ý niệm
sai lầm xem thân xác là ngã. Các vị tu tập để nhận ra chân ngã từ tự tánh. Đó
là từ cái ngã hư dối, mà đạt đến chân ngã.
Chỉ cần nhận biết ngã là hư vọng, thì quý vị liền nhận ra cái ngã chân thật.
Tại sao bây giờ chúng ta tham cứu Phật pháp?
Là vì chúng ta đang tìm cầu đạo lý chân thực này.
Tại sao chúng ta tìm cầu đạo lý chân thực?
Vì chúng ta nhận ra tất
cả mọi hiện tượng trên thế gian đều là hư giả và chúng ta muốn tìm cái chân thật
trong cái hư giả.
• Chân ngã từ trong tự tánh mà hàng bồ-tát nhắm tới là gì?
Đó là thành Phật. Thành Phật là chân ngã.
Trước khi quý vị
thành Phật, cái “tôi” của quý vị là
hư vọng. Bồ-tát biết cái “tôi” là hư dối, nhưng kẻ phàm phu lại cho rằng :
“Cái ông nói rằng cái
“tôi” là hư dối, nhưng như tôi thấy,
thân thể tôi rất tuyệt hảo. Nó rất mạnh khỏe, rất cao, rất cân đối và đẹp trai.
Các ông nói nó hư dối, nhưng tôi thấy nó rất thực.”
Anh ta không thể nhìn
xuyên suốt, nên không thể buông bỏ được chấp trước. Không xả bỏ được, nên anh
ta không thể tự tại được. Câu “Như thật
tôi nghe” biểu thị sự chứng ngộ của hàng Thanh văn.
Quý vị có thể nói :
“Bây giờ, về cơ bản, là tai nghe. Tại sao không nói “tai nghe như vậy” lại nói “Như thật tôi nghe.”
Dĩ nhiên là tai chẳng
thể nào nghe được. Tai chỉ là một bộ phận của bộ máy nghe. Cái thực sự nghe được
là tánh nghe, nó luôn luôn hiện hữu.
Đó là tâm của cái nghe, cái nghe được là “pháp
như thị.”
Quý vị sẽ hỏi: “Pháp nào là như?”
Đó là Kinh Thủ-lăng-nghiêm, bản kinh mà Pháp
sư Bát-thích-mật-đế chép lại trên tấm lụa mỏng rồi xẻ thịt trên cánh tay và dấu
vào trong đó. Ngài mang kinh đến Trung Hoa, được dịch sang tiếng Hán, và bây giờ
kinh đã được truyền sang Mỹ quốc và sẽ được dịch sang tiếng Anh. Đó là những gì
chính A-nan đã nghe Đức Phật giảng.
Đó là tất cả những gì đạo Phật đã truyền sang Trung Hoa, đó chẳng phải là chuyện
A-nan dựng nên với tư cách cá
nhân. Đó là pháp mà Đức Phật đã giảng nói.
Tất cả kinh do Đức Phật
thuyết đều bắt đầu bằng bốn chữ Như thật
tôi nghe. Việc này có bốn nguyên nhân:
1. Dứt trừ nghi ngờ của chúng sinh
Sau khi Đức Phật nhập
niết-bàn, đến khi kiết tập kinh tạng,
A-nan bước lên pháp tòa để
tuyên lại giáo pháp. Tức thì A-nan
hiện tướng thể nhập vào chánh định. Ngồi lâu giây lát không nói, khi đã vào sâu
trong định, thân tướng của A-nan
đồng như thân Phật. A-nan cũng
có được 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp như Đức Phật. A-nan phóng quang và lòng đất chấn động. Đại chúng tức thì khởi
ba mối nghi:
Có người nghĩ rằng Đức
Phật thị hiện lại thế gian vì họ thấy A-nan
có thân tướng hoàn hảo như Đức Phật. Các vị đệ tử có lẽ đã nhớ Đức Phật quá nhiều
đến nỗi óc não quá căng thẳng, nên rơi vào suy luận như vậy.
Có người tưởng rằng
bây giờ A-nan có được thân tướng
hoàn hảo như thế do A-nan đã
thành Phật.
Một
số người tưởng rằng Đức Phật đã trở về cõi giới tịch diệt và A-nan thì chưa được
thành Phật. Họ nghĩ rằng: “Có lẽ đó là Đức Phật từ phương Bắc, phương Nam,
phương Đông, phương Tây hoặc từ một nơi nào đó trong mười phương thị hiện đến
đây.
Nhưng ngay khi A-nan nói lên: “Như thị ngã văn - Như thật tôi nghe” thì ba mối nghi của đại chúng
liền được giải trừ. Lý do thứ hai khi Kinh được bắt đầu bởi câu Như thị ngã văn là:
2. Tôn trọng lời phó chúc của Đức
Phật
Khi Đức Phật sắp nhập
niết-bàn, Ngài thông báo ý định
đó cho các vị đệ tử và họ bắt đầu khóc. A-nan
là em họ của Đức Phật, khóc nhiều nhất. A-nan
khóc lóc thảm thiết đến nỗi nước mắt rửa mặt được. Cuối cùng, Trưởng lão A-nậu-lâu-đà[12] đến bảo: “Thầy đừng khóc nữa, không thể
khóc mãi khi Đức Phật sắp nhập niết-bàn,
Thầy nên thưa thỉnh Thế tôn những việc phải làm sau khi Thế tôn nhập niết-bàn.”
A-nan thưa: “Thưa Trưởng lão, con nên hỏi điều gì?”
Trưởng lão A-nậu-lâu-đà đáp:
- Thứ nhất, trong
tương lai kinh điển sẽ được kiết tập, Thầy nên hỏi phải ghi lời mở đầu mỗi bộ
kinh như thế nào?
Thứ hai, Trưởng lão A-nậu-lâu-đà tiếp tục nói: Khi Đức Phật còn tại thế, chúng ta
nương nơi Thế tôn mà an trụ. Khi Đức Phật nhập diệt rồi, tăng đoàn nương vào
đâu mà an trụ? Hãy hỏi Đức Phật điều ấy.
Thứ ba, nay chúng ta hoàn toàn nương tựa vào Thế
tôn là bậc Đạo sư. Sau khi Thế tôn nhập diệt, giáo đoàn sẽ nhận ai làm thầy?
“Thứ tư, khi Đức Phật
còn tại thế, người thường quở trách và hàng phục các vị tỷ-khưu tánh ác. Sau khi Thế tôn nhập diệt, giáo đoàn nên xử sự
như thế nào với các vị tỷ-khưu
này? Việc chính của thầy là đến thỉnh Thế tôn chỉ dạy bốn sự việc như vậy”
A-nan vâng lời, đến
bên Đức Phật và thưa:
- Khi Thế tôn còn tại
thế, chúng con nhận Thế tôn làm đạo sư. Sau khi Thế tôn nhập niết-bàn, giáo đoàn nên nhận ai làm
thầy?
Đức Phật trả lời: “Nhận
giới luật làm thầy, tỷ-khưu và tỷ-khưu ni phải nhận giới luật làm bậc đạo sư của mình."
- Khi Thế tôn còn tại
thế, chúng con nương nơi Đức Phật mà an trụ. Sau khi Thế tôn vào niết-bàn, chúng con nương nơi đâu mà an
trụ?
Đức Phật trả lời:
“Khi Như Lai nhập diệt, các tỷ-khưu
nên nương vào Tứ niệm xứ mà an trụ”
Tứ niệm xứ là:
Quán thân bất tịnh: để khỏi yêu mến thân xác mình.
Quán thọ thị khổ: để khỏi tham luyến sự hưởng thọ dục lạc.
Quán tâm vô thường: để khỏi chấp trước vào những vọng tưởng sinh khởi từ
tâm thức.
Quán pháp vô ngã: tất cả các Pháp là sắc, thọ, tưởng, hành, thức tức
ngũ uẩn của các pháp, tự nó đều không chân thực tồn tại.
- Thứ ba, A-nan hỏi Đức Phật: “Trong tương lai,
khi kiết tập kinh điển, chúng con nên bắt đầu ra sao?”
Đức Phật trả lời:
“Dùng những lời này: Như thị ngã văn – Như
thật tôi nghe.”
Những lời này là lục
chủng thành tựu, biểu tượng cho sự hoàn hảo của ý nghĩa trong kinh tạng và chứng
minh rõ ràng kinh tạng là do Đức Phật giảng nói:
A-nan thưa: “Con còn một
câu hỏi nữa. Khi Thế tôn còn tại thế, người thường điều phục các vị tỷ-khưu tánh ác, Đức Thế tôn nhập diệt
rồi, chúng con nên xử sự với các vị đó ra sao?
Đức Phật đáp: “Với
các vị ấy, hãy lờ họ đi, họ sẽ tự tránh xa. Đừng để ý tới họ. Đừng nói chuyện với
họ, đừng ngồi với họ. Nói chung, hãy đối xử với họ như một người bình thường. Nếu
không ai để ý đến họ nữa thì họ không thể làm được gì cả, dù họ có xấu ác đến mức
độ nào đi nữa.”
Tỷ-khưu tánh ác là những
người đã xuất gia mà còn nói và làm những điều không hợp đạo lý. Khi Đức Phật
còn tại thế, có sáu vị tỷ-khưu
tính rất xấu.[13] Quý vị nên nghĩ rằng người xuất gia nào
cũng tốt. Cũng có những người không sống đúng luật nghi trong tăng đoàn. Đức Phật
dạy chúng ta “lơ họ đi và họ sẽ tránh xa.” Hãy im lặng và không để ý đến họ. Bằng
cách ấy quý vị sẽ hàng phục được họ.
Lý do thứ ba khi kinh
này được bắt đầu bởi “Như thị ngã văn – Như
thật tôi nghe” là:
3. Hóa giải những tranh luận trong
đại chúng
Đức Phật có nhiều đệ
tử đều là những bậc lão tham, là những bậc thượng tọa trong đại chúng. Có nhiều
vị đạo hạnh cao hơn A-nan rất
nhiều, A-nan chỉ vừa mới chứng
được quả vị thứ tư của hàng a-la-hán,
trong khi trong đại chúng, có nhiều người đã chứng quả vị này lâu rồi. Nếu A-nan trùng tuyên lại kinh tạng, có
nhiều vị sẽ không tôn trọng. Bằng cách đưa ra: “Như thị ngã văn–Như thật tôi nghe.” Đức Phật đã làm cho kinh có một
ý nghĩa rõ ràng, những gì đại chúng sắp nghe không phải là kinh do chính A-nan giảng, mà là kinh do A-nan nghe Đức Phật giảng. Do đó
không còn ai tranh luận. Mọi người đều biết rằng A-nan là người có trí nhớ rất tốt và mạch lạc, không bao giờ nhầm
lẫn, tất cả các kinh mà Đức Phật đã giảng trong suốt bốn mươi chín năm. Nhờ vậy
các cuộc tranh luận trong đại chúng sẽ chấm dứt.
4. Để phân biệt kinh Phật với các
sách của ngoại đạo
Sách học của ngoại đạo
thường bắt đầu bằng chữ O nghĩa là “hữu - có”, hoặc là chữ E: “vô–không.” Họ cho rằng tất cả hiện tượng đều là có hoặc là không. Nhưng kinh Phật nói đến pháp chân không diệu hữu, và giáo lý trung
đạo. Kinh Phật không nói đến các giáo lý cực đoan “có” và “không”, nên kinh
được bắt đầu bởi “Như thị ngã văn” để
phân biệt với sách của ngoại đạo.
Kinh văn:
一時佛在室羅筏城,祇桓精舍。
Nhất thời Phật tại Thất-la-phiệt-thành, Kì-hoàn tinh
xá.
Việt dịch:
Lúc ấ́y Đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ-hoàn, trong
thành Thất-la-phiệt.
Giảng :
Lúc ấy là khi Kinh
Thủ-lăng-nghiêm được Đức Phật giảng nói. Đó là lúc người thuyết pháp, thú hướng
của người nghe và đạo đã hòa thành một. Là lúc hoàn toàn hợp thời để giảng
kinh.
Quý vị sẽ hỏi: “Tại
sao không ghi rõ thời gian, tháng năm?”
Vì lịch của Ấn Độ và
Trung Hoa không đồng nhau, nên không có cách nào để khẳng định chính xác thời
gian Đức Phật giảng kinh Thủ-lăng-nghiêm. Thế nên mới chọn cụm từ Lúc ấy.
Trong lục chủng thành tựu, lúc ấy là biểu thị cho thời
thành tựu. Đức Phật là chủ thành tựu, là người chủ trì của thời
giảng pháp.
Nói rốt ráo, chữ Phật
nên giải thích như thế nào?
Hầu hết người Trung
Hoa đều quá hiểu rõ chữ Phật (佛). Gốc tiếng Phạn là
Buddhaya hoặc Buddha, phiên âm sang tiếng Hán là Phật-đà-da hoặc là Bố-đại-da.
Người Trung Hoa thích nói giản lược, nên gọi là Phật. Cũng giống như người Mỹ thích gọi phone thay vì nói đầy đủ là telephone
vậy.
Có thể quý vị thấy buồn
cười về lối phân tích thường tình như thế, nhưng nếu quý vị hiểu được đạo lý
thông qua ví dụ trên, thì có thể nói rằng quý vị đã có chút ít giác ngộ.
Giác ngộ điều
gì?
Là đã hiểu ra chữ Phật. Quý vị nhận ra: Ồ! Phật là như thế!
Ngài như thế nào?. Ngài là Phật. Đó là tất cả. Nếu quý vị muốn thành như Phật, thì
nên học theo như Đức Phật.
Thế Đức Phật giống
như điều gì?
Đức Phật thì an lạc,
không ưu sầu suốt từ sáng đến tối. Ngài không còn phiền não, Ngài nhìn thấy tất
cả chúng sinh đều là Phật, quý vị cũng là Phật.
Nghĩa của chữ Phật là gì?
Chữ Phật có nghĩa là giác ngộ. Đức Phật có đủ ba tính giác: tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Điều này đã được giải thích rõ ở trên.
Ở trong kinh này thuật
ngữ “ba tính giác” chính là bản giác, thủy giác và cứu cánh giác. Nhưng
đây cũng là những tên gọi khác của tự giác,
giác tha và giác hạnh viên mãn. Trong kinh Phật, có nhiều nơi tên gọi khác nhau
nhưng nghĩa lý thì giống nhau. Quý vị không nên lúng túng khi không nhận ra ý
nghĩa chỉ vì tên gọi không đồng. Nếu như có người nào đó đổi tên, quý vị sẽ
không rõ được ông ta là ai khi có người nhắc đến ông ta với một tên mới, nhưng
khi quý vị gặp mặt ông ta rồi quý vị mới nhận ra :“Ồ! thì ra là anh.”
Ba tính giác của Đức Phật cũng giống như vậy. Nếu quý vị
không nghiên cứu sâu Phật pháp, thì quý vị không thể nào biết được bản giác, thủy giác, cứu cánh giác là
gì, nhưng nếu quý vị tham cứu Phật pháp kỹ lưỡng, quý vị biết ngay nó có cùng
ý nghĩa với ba đặc tính giác ngộ. Đó là giải thích tổng quát về chữ Phật. Nếu
giảng giải chữ Phật chi tiết, dù hết
ba năm cũng không thể nói trọn vẹn được chứ đừng nói ba tháng. Bây giờ tôi chẳng
có cách nào hơn là giảng về chữ Phật
trong vòng ba phút rồi cho qua đi, vì người Mỹ thích tốc độ, họ thích mọi việc
phải nhanh. Thế nên nay giảng kinh tôi phải trình bày nhanh, như hỏa tiễn phóng
lên mặt trăng. Ở trong hỏa tiễn nghe “vút” một tiếng là quý vị đã ở cung trăng
rồi. Cơ bản là tôi vẫn giữ truyền thống xưa nay, nhưng không thể dùng những
phương pháp đã lỗi thời.
Đức Phật trú tại Tinh xá Kỳ-hoàn, trong thành Thất-la-phiệt. Thất-la-phiệt phiên âm từ tiếng Phạn, là
tên của kinh đô nơi vua Ba-tư-nặc[14] đang trị vì, còn gọi là thành Xá-vệ. Đức
Phật đã giáo hóa rất nhiều hạng chúng sinh trong thời gian trú tại Tinh xá Kỳ-hoàn,
rất gần nơi kinh đô. Thành Thất-la-phiệt khác hẳn rất nhiều so với các thành phố
khác, nơi đó thường có rất nhiều thú vui ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Tất
cả những thứ ấy rất là phong phú. Như về sắc; ở đây có rất nhiều phụ nữ đẹp và
kinh đô có nhiều màu sắc sặc sỡ. Về âm thanh, âm nhạc ở đó có lẽ rất tuyệt vời.
Về hương, ở đó có mùi cà ri Ấn Độ, chẳng hạn như ngày nay ở nước Mỹ này cũng
có, và có thể ngửi được từ mọi phía khi người ta nấu nướng.
Về mùi vị, ở Ấn Độ có
loại bơ lỏng, nhưng do tôi chưa bao giờ nếm được loại bơ ấy nên không biết rõ
mùi vị nó ra sao. Cứ cho là nó như một loại sữa vậy. Dù tôi có muốn nếm thử nó,
tôi cũng không rõ nó có thích hợp ở đất nước này hay không.
Về sự xúc chạm, có lẽ
ở thành Thất-la-phiệt có loại lụa mịn nhất, biểu tượng cho sự quý phái.
Kinh đô ấy có rất nhiều
của cải và rất giàu có. Dân chúng ở đó sống có đạo đức, có giáo dục và rất tự
do, nên chữ Thất-la-phiệt dịch sang tiếng Hán là Phong Đức. Người dân ở đó có rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm. Họ
thừa hưởng được tri thức và thông đạt mọi thứ học thuật và hiểu biết. Họ cũng
là người rất tự do, không bị lệ thuộc bởi thế lực nào khác.
Có
lần một vị pháp sư tìm đến một pháp sư Trưởng lão xin có lời khai thị. Khi đến,
ông ta vạch vai áo quỳ xuống trước vị Trưởng lão thỉnh cầu.
Trưởng lão pháp sư hỏi:
“Ông đến đây cầu thỉnh
điều gì?”
Vị pháp sư trẻ đáp:
“Con đến để cầu pháp
giải thoát”
Pháp sư Trưởng lão hỏi:
“Ai trói buộc ông?”
Ngay khi vừa nghe câu
hỏi ấy, vị pháp sư trẻ nhận ra chẳng có ai trói buộc mình cả, lúc ấy thoát
nhiên khai ngộ
“Con
có tự do rồi, khỏi cần tìm kiếm tự do ở đâu nữa.”
Tri giác đó lưu xuất
từ sự khai ngộ của ông ta.
Có người sẽ đặt vấn đề:
“Nếu tôi cũng đi cầu
người khai thị cho pháp giải thoát và có người chỉ cho rằng chẳng có ai trói buộc
mình thì tôi cũng sẽ được khai ngộ hay sao?”
Điều đó hoàn toàn
khác vì thời cơ của quý vị chưa đến. Năng lực tiềm tàng của quý vị chưa chín
mùi. Khi đã đến lúc, chỉ một lời nói, có thể khiến cho quý vị thức tỉnh, tâm
hoát nhiên thông suốt và khai ngộ liền.
Người dân ở thành Thất-la-phiệt
rất tự do, siêng năng công phu nên rất dễ ngộ đạo vì kinh đô ấy được thừa hưởng
rất nhiều của cải và đức hạnh. Đức Phật thường trụ ở đó khi Ngài còn tại thế.
Tinh xá Kỳ hoàn tức
là “Rừng cây của Thái tử Kỳ-đà trong vườn
của ông Cấp Cô Độc.” Câu này có ghi trong kinh Kim Cương, ở đoạn mở đầu.
Ở trong thành Thất-la-phiệt,
có một vị trưởng giả tên là Tu-đạt-đa, thừa hưởng được rất nhiều phước báo.
Không ai có thể biết được ông giàu có đến mức nào. Một hôm có người bạn nói với
Tu-đạt-đa: “Đức Phật đang thuyết pháp ở nơi đó.” Khi nghe đến tên Đức Phật, tóc
của vị trưởng giả dựng đứng và ông ta mất khả năng tự chủ.
Ông ta nói: “Tôi muốn
đi gặp Đức Phật liền ngay bây giờ.” Vì ông ta muốn gặp Đức Phật, nên Đức Phật
liền phóng hào quang chiếu đến nơi Tu-đạt-đa, mặc dù ông ta ở nơi rất xa. Lúc ấy
là nửa đêm, nhưng nhờ Đức Phật phóng quang nên Tu-đạt-đa tưởng như trời rạng
sáng, nên ông ta liền trở dậy và chuẩn bị lên đường đi gặp Đức Phật. Vì lúc ấy
đúng vào giữa đêm, cổng thành còn đóng kín, nhưng nhờ vào thần lực của Phật mà
cổng thành tự mở ra khi Tu-đạt-đa đến và tự đóng lại khi ông đi qua. Ông ta đến
nơi, gặp được Đức Phật, rồi được nghe Đức Phật thuyết pháp. Ông ta vui thích
không thể nào nói được. Ông hỏi Đức Phật:
“Thế tôn có quá nhiều
đệ tử, thế họ trú ở đâu?” Lúc ấy chưa có Tinh xá trong vườn Kỳ-đà. Đức Phật
đáp: “Như Lai và tăng đoàn không ở một nơi thường xuyên.”
Vị trưởng giả đáp:
“Con sẽ xây dựng một Tinh xá để cúng dường cho Thế tôn và tăng đoàn.”
Do ông quá giàu, nên
lời nói của ông rất có thẩm quyền. Ông nói:
“Khi con trở về con sẽ
tìm một địa điểm và sẽ xây dựng tinh xá.
Khi Tu-đạt-đa trở về thành Thất-la-phiệt, ông
ta dò tìm khắp nơi, cuối cùng tìm được vườn cây của Thái tử Kỳ-đà, cách kinh
thành chừng một dặm rưỡi. Ông ta thấy khu vườn là nơi rất thích hợp để dâng
cúng cho Đức Phật. Nhưng nó là sở hữu của Thái tử Kỳ-đà, nên ông ta tìm gặp
Thái tử Kỳ-đà để thương lượng:
Thái tử hỏi:
“Tại sao ông lại muốn
mua vườn của tôi?”
Trưởng giả đáp:
“Để tôi xây dựng Tinh
xá rồi thỉnh Đức Phật và chư tăng đến ở.”
Thái tử nói đùa: “Được
rồi. Tôi sẽ bán cho ông, nếu ông lấy tiền vàng phủ đầy khắp khoảnh đất mà ông
muốn mua."
Thái tử Kỳ-đà không
ngờ là Trưởng giả Tu-đạt-đa thực sự làm được việc đó. Không thể ngờ rằng Tu-đạt-đa
trở về và cho chở toàn bộ tiền vàng có trong kho nhà mình đến trải đầy mặt đất
khu vườn.
-Tôi chỉ nói giỡn với
ông thôi! Thái tử la lên khi thấy khu vườn mình đã được lát đầy tiền vàng. -Sao
mà tôi lại bán khu vườn của mình đi? Ông không nên đối xử với tôi thiếu nghiêm
túc như vậy.
Trưởng giả đáp lại:
-Nay ông là một Thái
tử, trong tương lai ông sẽ lên ngôi vua. Một vị vua không bao giờ nói đùa. Ông
không thể đùa giỡn với tôi như vậy. Bất luận ông có nói gì đi nữa, ông cũng
không thể từ chối việc bán khu vườn cho tôi.”
Khi Thái tử nghe được
những lời này, biết mình không thể làm gì hơn được nữa, nên phải nhượng bộ: “Được
rồi! Ông đã phủ đầy mặt đất bằng tiền vàng, nhưng tiền vàng không phủ được các
gốc cây. Đây là những gì chúng ta sẽ thỏa thuận. Chúng ta sẽ chia ra. Đất đã phủ
bằng tiền vàng sẽ thuộc về ông nhưng cây cối sẽ thuộc về tôi. Tôi sẽ cúng dường
hết và ông có thể cúng dường nơi này cho Đức Phật.
Trưởng giả Tu-đạt-đa
không có cách nào chọn lựa nữa, chỉ còn biết chấp nhận điều kiện của Thái tử
Kỳ-đà. Thế nên địa điểm đó được gọi là “Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên – Rừng cây của
Thái tử Kỳ-đà, vườn của ông Cấp Cô Độc." Trưởng giả Tu-đạt-đa còn được gọi
là Cấp Cô Độc, là người luôn luôn cấp dưỡng cho những trẻ mồ côi, kẻ góa bụa
và những người không nơi nương tựa và những người già cả không có con cái. Đức
hạnh lớn lao đã tạo nên một danh xưng xứng đáng với ông ta.
Còn tên gọi Thái tử
Kỳ-đà nghĩa là sao? Thái tử Kỳ-đà sinh nhằm ngày vua cha Ba-tư-nặc chiến thắng
sau trận đánh với quân của nước láng giềng trở về, nên hoàng tử vừa mới sinh ra
được vua cha đặt tên là Jeta–Kỳ-đà, nghĩa là chiến thắng.
Đây là sự tích của “Tinh xá Kỳ-hoàn.” Sau khi mua được vườn
của Thái tử Kỳ-đà, Trưởng giả Tu-đạt-đa chi thêm số tiền rất lớn kiến trúc tinh
xá.
Kinh văn:
與大比丘眾千二百五十人俱。
Dữ đại tỉ-khưu
chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu.
Việt dịch:
Với chúng đại
tỷ-khưu, gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến dự.
Giảng:
Sự tham dự của các vị
đại tỷ-khưu với các đại a-la-hán,
các vị đại bồ-tát ở khắp mười
phương được đề cập sau đây là biểu hiện của chúng
thành tựu.
Kinh do Đức Phật giảng
nói rất rõ ràng và mạch lạc. Đức Phật không giảng kinh một cách ngẫu nhiên. Chỉ
khi nào có đủ sáu điều thành tựu này thì một pháp hội mới được hình thành và
giáo pháp mới được Đức Phật tuyên thuyết.
Đại tỷ-khưu khác với các vị tiểu tỷ-khưu. Đại tỷ-khưu là các vị đã có công phu tu tập lâu năm, sắp sửa chứng
ngộ.
Tỷ-khưu là phiên âm từ
chữ bhikṣu trong tiếng Phạn. Có ba nghĩa: khất sĩ, bố ma và
phá ác. Tỷ-khưu là người sống bằng
hạnh khất thực, hằng ngày ôm bình bát đi vào trong thành để xin thực phẩm. Họ
không chỉ xin những nhà giàu mà còn xin ở những nhà nghèo, hoặc ngược lại. Một
vị tỷ-khưu phải thực hành hạnh
bình đẳng trong khi khất thực, có nghĩa là phải nghiêm túc đi từ nhà này đến
nhà khác, và không được đến hơn một nhà. Nên có lời dạy rằng: Vị tỷ-khưu không được tránh nhà nghèo đến
khất thực ở nhà giàu, không được vờ đi chậm để tìm kiếm người sang trọng (mà khất
thực).
Khi một người đăng
đàn thọ giới tỷ-khưu, họ hướng
về Tam sư và bảy vị Tôn chứng (để thỉnh cầu). Tam sư là Hòa thượng Đường đầu truyền
giới, Hòa thượng yết-ma và Hòa thượng Giáo thọ. Bảy vị Tôn chứng là những vị bảo
chứng cho giới hạnh thanh tịnh của một vị tăng. Một người thọ giới tỷ-khưu rồi sẽ đời đời không phá hoại
luật nghi, phá trai, phạm giới.
Khi truyền giới, Hòa
thượng yết-ma hỏi:
- Quý vị đã phát tâm
bồ-đề chưa?
Giới tử trả lời:
- Bạch Hòa thượng,
con đã phát tâm bồ-đề.
Hòa thượng yết-ma hỏi
tiếp:
-Quý vị có phải là kẻ
đại trượng phu không?
Giới tử đáp:
-Bạch Hòa thượng, con
là kẻ đại trượng phu.
Khi những câu hỏi được
trả lời theo tinh thần như vậy, thì loài quỷ địa hành la-sát–một loại chúng
sinh chuyên ghi chép các việc xấu tốt trên thế gian liền nói: “Bây giờ đệ tử của
Phật tăng thêm một người và đệ tử của ma vương giảm đi một người.” Quỷ địa hành
la-sát truyền tin này cho quỷ không hành dạ-xoa, loài quỷ này lại truyền tin
này lên cõi trời Lục dục. Thiên ma, là vua của các ma cõi trời, nghe tin này liền
hoảng sợ. Đó là lý do thứ hai tỷ-khưu
có nghĩa là bố ma, là làm cho ma hoảng sợ.
Tỷ-khưu cũng là người
phá trừ các việc ác, dẹp trừ vô minh và phiền não.
Do chữ tỷ-khưu có ba nghĩa như vậy, nên nó
rơi vào phạm trù của những thuật ngữ “không phiên dịch vì có nhiều nghĩa” (đa
sinh nghĩa). Căn cứ theo nguyên tắc phiên dịch do Pháp sư Huyền
Trang đời Đường lập ra, chữ ấy được giữ nguyên âm Phạn ngữ, không dịch sang tiếng
Trung Hoa.
Đúng
ra, có một nghìn hai trăm năm mươi lăm (1255) vị đại tỷ-khưu trong pháp hội ở Tịnh xá Kỳ-hoàn. Những vị đệ tử này
bao gồm những đệ tử “thường tùy chúng.”
Trước đây, hầu hết họ là những người tu theo ngoại đạo, nhưng sau nhờ Đức Phật
giáo hóa nên thành đạo nghiệp, họ cảm ân đức của Phật nên theo Phật xuất gia,
thường thân cận bên Phật.
Trong số một nghìn
hai trăm năm mươi lăm đệ tử, trước hết Đức Phật thâu nhận Ngài A-nhã Kiều-trần-như[15] và bốn huynh đệ của Ngài ở vườn Lộc Uyển.
Kế tiếp, Đức Phật độ ba anh em ông Ca-diếp,[16] là những người thờ lửa. Khi họ quy y với Đức
Phật, họ đem theo một nghìn đệ tử của mình cùng quy y với Đức Phật thành ra một
nghìn không trăm linh năm (1005) đồ chúng. Mục-kiền-liên[17] và Xá-lợi-phất[18] mỗi người có một trăm đệ tử, nâng tổng số
lên một nghìn hai trăm linh năm người. Rồi Da-xá[19] con của một vị trưởng giả cùng năm mươi
người đến xin xuất gia, nâng tổng số các đệ tử của Phật là một nghìn hai trăm
năm mươi lăm vị tất cả.
Thế nào gọi là chúng? Một người không được gọi là
chúng. Hai, ba người cũng không được gọi là chúng. Phải có bốn người hoặc hơn mới
thành một chúng. Ở đây hội chúng bao gồm không những chỉ có hơn bốn người mà
còn có hơn một nghìn hai trăm năm mươi người.
Nguyên nhân A-nhã Kiều-trần-như
trở thành đệ tử đầu tiên của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni như sau: Trong một đời
trước, Đức Phật là một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục. Một hôm vua Ca-lợi[20] lên núi tổ chức một cuộc săn bắn, mang
theo cả đoàn thê thiếp, thể nữ, các quan văn võ đại thần. Trong khi vua mãi mê
săn bắn, các cô tỳ thiếp dạo chơi trong núi và gặp vị tỷ-khưu già, là vị tiên đang tu hạnh nhẫn nhục. Cô hầu thiếp vốn
ít khi ra khỏi hoàng cung chưa bao giờ thấy một vị tỷ-khưu già với râu
tóc dài và lởm chởm như vậy. Đây vốn là một vị đạo sĩ nhưng các cô hầu thiếp tưởng
là một người kỳ dị nên bò sát đến bên cạnh rồi hỏi:
- Ông đang làm gì vậy?
Vị tỷ-khưu già đáp:
- Tôi đang công phu
tu tập theo Phật pháp.
Các cô tỳ thiếp chưa
từng bao giờ nghe nói đến Phật pháp cũng như về Đức Phật nên hoàn toàn ngơ ngác
trước câu trả lời này. Sự tò mò khiến các cô đến gần sát hơn để lén nhìn vị tỷ-khưu già. Họ vây quanh ngài thành
một vòng tròn.
Khi vua Ca-lợi đi săn
về, thấy các cô mỹ nữ của mình biến mất cả, ông ta đi tìm và thấy các cô đang
vây quanh một người đàn ông râu tóc rậm rạp, cảnh đó khiến nhà vua phát ghen tức.
Ông ta nghĩ: “Vị này đã quyến rũ các hầu thiếp của ta. Họ chẳng còn để ý gì đến
ta nữa, thế là ông ta quyến rũ được họ rồi.” Vua lớn tiếng hỏi:
-Ông đang làm gì vậy?
Người đàn ông đáp:
- Tôi đang tu tập hạnh
nhẫn nhục.
- Tu hạnh nhẫn nhục
nghĩa là sao?
- Tu hạnh nhẫn nhục
có nghĩa là bất luận ông đối xử như thế nào với tôi, dù ông vô lễ với tôi, dù
ông đối xử ác độc với tôi, tôi vẫn chịu đựng được.
Vua Ca-lợi hỏi: “Thật
chứ? Có thật đó là cách ông đang tu không? Tôi không tin là ông làm được việc
đó. Nếu ông thực sự tu hạnh nhẫn nhục, cớ sao ông lại quyến rũ các thể nữ của
tôi? Bây giờ họ đã quá gắn bó với ông và họ quá yêu ông rồi, trong tương lai chắc
chắn họ sẽ rời bỏ hoàng cung để theo ông.”
- Không, tôi không hề
quyến rũ họ, tôi vừa giảng pháp cho họ, dạy họ biết nhẫn nhục.
- Nhẫn nhục, Vua Ca-lợi
bực dọc đáp lại: Thế ông có thể nhẫn nhục. À được rồi, Ta sẽ thử xem sao, Hãy
xem thử ông nhẫn nhục được không...
Vua cắt đứt vành tai
của vị tỷ-khưu già rồi hỏi:
“Ông chịu đựng được không? Ông có giận không? Phiền não có khởi dậy không? Ông
có ghét tôi không?”
Tỷ-khưu đáp lại: “Tôi
chẳng hề phiền não, tôi cũng chẳng có gì giận ông cả.”
Vua Ca-lợi la lên:
“Thật vậy chăng? Thật
là ông không giận dữ sao? Thế thì tốt, ta sẽ chặt tay ông.” Nói xong vua Ca-lợi
liền cắt đứt một tay rồi hỏi:
- Ông vẫn không giận
tôi chứ?
Vị
tỷ-khưu già ấy là tiền thân của
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nói với vua Ca-lợi:
-
Tôi không hề ghét ông.
- Thế thì ta sẽ cắt
luôn tay kia.
Vua vung kiếm lần nữa xuống cánh tay còn lại của
vị tỷ-khưu rồi hỏi:
-Ông có giận không?
- Tôi vẫn không giận
ông.
Vị tỷ-khưu
đáp lại.
- À! ông vẫn không nhận
ra sự thực từ sai lầm, vậy ta sẽ chặt chân ông luôn. Bây giờ ông có giận không?
- Tôi không giận.
Vua Ca-lợi chặt đứt
chân kia, đến lúc này tứ chi của vị tỷ-khưu
đã bị chặt đứt hết. Vua hỏi: “Ông vẫn không giận tôi chứ?”
Vị tỷ-khưu già đáp: “Tôi vẫn không giận
ông.”
“Ông nói dối.” Vua
Ca-lợi hét lên “Chẳng có người nào trên thế gian này bị chặt đứt cả tứ chi mà
không giận dữ. Tôi chẳng tin, tôi không tin ông thực sự tu tập được như vậy.”
Lúc đó, vị tỷ-khưu già phát lời nguyện:
- Nếu tôi không khởi
tâm sân hận, thì tứ chi của tôi sẽ liền lại và thân thể tôi sẽ lành lặn như trước.
Còn nếu như tôi có tâm sân hận thì tay chân tôi chẳng thể nối liền và mũi, tai
không mọc lại được nữa.
Ngay sau khi vị tỷ-khưu vừa phát lời nguyện, tay chân
mắt mũi liền có đủ và lành lặn như xưa.
Vua Ca-lợi la lên:
“Ông là loại yêu quái gì vậy? Loại yêu quái nào có thể làm cho tay chân ông
dính liền lại? Ông là ma quái !.”
Vua Ca-lợi kết luận,
tuyên bố với quần thần và các tỳ nữ của mình như vậy. Nhưng ngay khi tâm niệm
này vừa móng khởi trong tâm vua thì các vị Hộ pháp thiện thần liền giáng một trận
mưa đá dữ dội xuống đoàn tùy tùng của vua.
Lúc ấy vị tỷ-khưu già phát lời nguyện khác:
“Xin quý vị Hộ pháp
thiện thần thôi trừng phạt nhà vua, tôi đã tha thứ cho ông ta rồi.”
Vị tỷ-khưu nói với Vua Ca-lợi:
“Trong đời sau, khi
tôi tu thành Phật, tôi sẽ độ thoát cho ông trước hết.”
Kết quả của lời nguyện
này là khi Đức Phật Thích-ca thành chánh giác, người đầu tiên được Đức Phật độ
là A-nhã Kiều-trần-như, người đó chẳng ai khác hơn là vua Ca-lợi trong kiếp tái
sinh.
Nhờ
Ngài đã thành Phật, năng lực của lời phát nguyện đã đưa Đức Phật tức khắc trở về
vườn Lộc Dã để độ năm vị tỷ-khưu
mà người đầu tiên là A-nhã Kiều-trần-như. Khi một người phát lên lời nguyện, liền
tạo nên sự cảm thông. Thế nên quý vị nên lập hạnh nguyện thân thiện và cứu độ hết
tất cả mọi loài chúng sinh và thận trọng đừng sát hại sinh mạng chúng sinh cho
đến khi họ tựu thành Phật đạo, chúng ta sẽ cùng nhau tựu thành chánh giác và sẽ
cùng nhau hưởng được niềm an lạc ở cõi Thường tịch quang Tịnh Độ. Còn nếu quý vị
phát lời nguyện sẽ giết hại chúng sinh thì trong đời sau, người ta sẽ giết quý
vị trở lại, thế là sẽ không thể nào chấm dứt vòng luân hồi vì nghiệp sát cả.
Hãy đối xử tốt với mọi
người, dù họ không tốt với mình. Chúng ta nên có một tinh thần bền bỉ như vị
tiên nhẫn nhục đã có. Khi thoát khỏi tâm sân hận ngài còn phát nguyện cứu người
đã xúc não mình, dù người ấy đã chặt đứt tứ chi của mình. Những người đang tu học
Phật pháp nên học theo tinh thần cao thượng này.
Kinh văn:
Giai thị vô lậu đại
a-la-hán, phật tử trú trì, thiện siêu chư hữu. Năng ư quốc độ thành tựu oai
nghi.
Việt dịch:
Tất cả các vị đều
là bậc đại a-la-hán đã chứng quả vô lậu, phật tử trú trì, khéo vượt qua các
cõi, thường ở nơi các cõi nước thành tựu các uy nghi.
Giảng:
Những vị đại tỷ-khưu này không chỉ đơn thuần là đại
tỷ-khưu, họ là những vị bồ-tát hiện thân tỷ-khưu nên nói rằng:
Nội
bí bồ-tát hạnh
Ngoại hiện Thanh văn thân.
( Bên trong tâm nguyện Bồ-tát
Bên ngoài hiện
tướng Thanh văn).
Các ngài đúng là bồ-tát, tự bản tâm đã sẵn có căn
tánh Đại thừa. Bên ngoài các ngài thực hành pháp của hàng Tiểu thừa và hiện
thân Đại a-la-hán đã chứng
quả vô lậu.
Một người chứng được
quả vị đầu tiên được gọi là tiểu a-la-hán,
người chứng được quả vị thứ tư được gọi là đại a-la-hán. Tuy vậy, nếu một vị a-la-hán đã chứng được quả vị thứ tư mà không chịu tiếp tục tiến
lên trong việc tham cứu và công phu tu tập thì họ được gọi là hàng định tánh Thanh văn, họ dừng lại ở vị trí
cố định ấy. Họ đạt được chút ít thành quả và tự hài lòng. Mặc dù những gì họ đạt
được chẳng có gì lớn lắm, nhưng họ cho như thế đã đầy đủ và không quan tâm đến
việc tiến bộ hơn nữa. Nếu họ tiếp tục tham cứu và công phu tu tập, họ có thể đạt
được quả vị bồ-tát. Đây là ý
nghĩa của chữ đại a-la-hán trong
pháp hội Thủ-lăng-nghiêm.
Như đã giải thích ở
trên, a-la-hán[21] là tiếng Phạn. Có ba nghĩa: sát tặc, vô sinh và ứng cúng.
Trong khi các vị tỷ-khưu chỉ có
thể nhận được đồ cúng dường từ cõi của loài người, thì một vị sơ quả a-la-hán có thể nhận vật phẩm cúng dường
của người và trời, chẳng hạn như của quốc vương hay thiên chủ.
Các vị đại a-la-hán có thể nhận vật phẩm cúng
dường không những chỉ của người và trời ở cõi thế gian mà còn nhận vật phẩm
cúng dường từ cõi xuất thế gian tức là từ chư Thiên đã vượt qua cõi trời Lục dục.
Đại a-la-hán có thể nhận của
cúng dường của hàng bồ-tát, vì
họ đã cắt đứt tất cả phiền não ngoài tam giới, trong khi các vị sơ quả a-la-hán chỉ mới cắt đứt được các phiền
não trong tam giới. Thế nên các vị đại a-la-hán
có thể nói là có thể được các vị bồ-tát
cúng dường. Mặc dù họ hiện thân tỷ-khưu
và không thực hành đạo bồ-tát,
nhưng trong tâm họ đã có lòng cao thượng của bồ-tát, và họ có thể dần dần đạt đến quả vị bồ-tát. Trong kiếp trước, họ đã thành
Phật rồi, nhưng do họ phát tâm hộ trì cho Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hoằng truyền
Phật pháp, nên họ hiện thân tỷ-khưu lập
hạnh a-la-hán. Về cơ bản, những
vị a-la-hán này là những đại bồ-tát.
A-la-hán còn được gọi
là vô sinh, có nghĩa là đã chứng được
vô sinh pháp nhẫn.
A-la-hán còn được gọi là
sát tặc vì họ hoàn toàn dẹp sạch được
kẻ cướp là vô minh.
Người đã chứng được đạo
quả rồi thì không còn những lậu hoặc nữa: không còn dục lậu, hữu lậu và vô
minh lậu nữa. Khi đạt được vô lậu
nghĩa là không còn rơi vào ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới nữa. Chúng
ta đang sống trong cõi Dục, mặc dù chúng ta đang sống trên trái đất, nhưng thực
ra chúng ta là một phần của cõi trời ở Dục giới. Gọi là cõi Dục là vì con người
ở đó luôn luôn có tâm niệm ham muốn mà không lúc nào biết dừng lại. Họ tham muốn
hai thứ: vật chất của cải và tình dục. Tham muốn của cải vật chất là thích sử dụng
và có được mọi thứ. Chẳng hạn như khi quý vị chưa có nhà, thì thích mua một cái
nhà. Còn khi quý vị đã có một cái nhà rồi, thì thích mua một cái khác đẹp hơn.
Đó là tham muốn nhà cửa. Trong quá khứ, người ta thường thích mua nhiều ngựa
quý để cỡi, ngày nay họ thích mua xe hơi sang trọng. Đầu tiên, họ mua một chiếc
xe cũ nát, nhưng khi họ lái chiếc xe ấy đi khắp nơi, mọi người đều nhìn với vẻ
khinh khi, nên họ quyết định mua một chiếc đẹp hơn, nhưng họ vẫn chưa mua được
một chiếc xe đời mới nhất. Một khi họ so sánh xe của họ với những chiếc xe đời
mới nhất, họ lại thấy xe của mình chưa được tốt cho lắm, thế nên họ mua ngay một
chiếc mới. Đó là ham muốn xe hơi. Cuối cùng, tham vọng của họ lên đến mức khi
đã có xe hơi rồi, họ lại quyết định mua máy bay. Khi đã có máy bay rồi, họ lại
muốn mua tàu thủy. Họ ham muốn vật chất không bao giờ chán. Họ không bao giờ
nói: “Ta đã thỏa mãn rồi, ta đã có đầy đủ rồi, ta không muốn thêm thứ gì nữa cả.
Ta không ham muốn điều gì nữa cả.”
“Những ham muốn ấy do
đâu mà có?”
Nó đến từ vô minh.
Tham muốn sắc dục là
điều mà có lẽ quý vị đều đã hiểu rõ, khỏi cần tôi phải nói. Có nghĩa là tham muốn
sắc đẹp. Điều ấy cũng vậy, không thể nào thỏa mãn được. Một vợ chưa đủ, muốn có
hai, rồi hai vợ chưa đủ muốn có ba. Có kẻ cần đến mười hoặc hai mươi người vợ.
Các vị vua chúa thường có vài trăm vài ngàn phụ nữ sống trong cung. Quý vị có
cho rằng như thế là không công bằng chăng? Nay trong chế độ dân chủ, người dân
chỉ được phép có một vợ. Tục lệ đa thê bị cấm đoán, nhưng vẫn có nhiều người
lén lút quan hệ bất chính. Bị sai sử bởi ham muốn sắc dục, nhiều nam nữ lén lút
quan hệ với nhau một cách phóng đãng, chẳng theo luật pháp, đạo đức gì cả. Bên
cạnh dục lậu còn có hữu lậu.
Lậu
này xảy ra ở cõi trời của sắc giới,
cõi này ở trên Dục giới. Hữu có nghĩa là có tất cả mọi thứ, bất
kỳ món gì. Nếu quý vị tham lạm sự hiện hữu ấy mà không tự làm chủ lấy mình được
thì quý vị sẽ bị lậu hoặc bất kỳ lúc
nào mình có quá nhiều thứ.
Lớn nhất trong ba món
lậu này là vô minh lậu. Vô minh lậu là gốc rễ của phiền não.
Trong ba thứ lậu đó, nếu vô minh lậu được tiêu trừ thì hai lậu kia cũng dứt
sạch.
Phật tử, nghĩa là con của Phật, đây không phải là La-hầu-la, con trai của Đức
Phật. Thuật ngữ này đề cập đến các vị đại tỷ-khưu, đại a-la-hán đã
nói ở trước. Kinh Phạm Võng có nói:
Chúng
sinh thọ Phật giới
Tức
nhập chư Phật vị
Vị
đồng đại giác dĩ
Chân
thị chư Phật tử.
Nghĩa là:
Khi chúng sinh đã thọ
nhận giới luật Phật chế rồi, tức là có được những phẩm chất cần thiết để bước
lên quả vị Phật. Khi đã đồng một quả vị với các bậc đại giác rồi, thì đó mới
chân thực là Phật tử.
Kinh Pháp Hoa nói:
Tùng Phật khẩu xuất, tùng pháp hóa sinh
Đắc Phật pháp phần, giai kham tác Phật.
Nghĩa là:
Từ giáo pháp của Phật
mà ra đời; từ pháp mà hóa sinh, đạt được sự giác ngộ từ Phật pháp, nên đều có
thể thành Phật.
Quý vị sẽ hỏi: “Thế
nào là hóa sinh từ miệng của Đức Phật?”
Đó là kết quả nhờ Đức
Phật giáo hóa, nên được giác ngộ nên như được gọi là sinh ra từ Phật pháp. Chẳng
hạn ngày quý vị quy y Tam bảo là ngày sinh thứ hai của quý vị, là ngày khởi đầu
của một cuộc sống mới. Những người đã quy y Tam bảo đều là đệ tử của Phật, đều
được gọi là Phật tử.
Trú trì là an trú trong Phật pháp.
Trì là
gìn giữ, là y cứ vào Phật pháp mà tu hành. Đặc biệt trong kinh Thủ-lăng-nghiêm,
trú trì có nghĩa là an trụ trong Như Lai
tạng tánh và giữ được Đại định cứu cánh
kiên cố. Chúng ta phải nên hộ trì cho đại định được kiên cố, không để tán
thất.
Trong chùa, vị phương
trượng còn được gọi là Trú trì. Trú trì là một chức vụ đứng đầu một ngôi chùa,
nghĩa đơn giản là người đang an trú và giữ
gìn giáo pháp của Phật, vì nhiệm vụ của vị trú trì là làm cho Phật pháp được
lưu truyền rộng rãi từ nơi này đến nơi khác không dứt đoạn, làm cho huệ mạng của
Đức Phật được diên trường, giống như các vị đại a-la-hán trong pháp hội Thủ-lăng-nghiêm vậy.
Thường ở nơi các cõi nước. Họ có thể ở khắp mọi nơi, trong cả mười
phương, không chỉ ở cõi Ta-bà, vì họ là những vị a la-hán, có năng lực thần
thông biến hóa, nên họ có thể bay trên không hay đi đứng tự tại như ý muốn.
Có người hỏi: “Nếu họ
có thể đi khắp mọi nơi tại sao tôi không bao giờ thấy họ ở nước Mỹ?”
Dù họ có đến nước Mỹ,
quý vị cũng không thể nào thấy hay biết được, vì lúc Đức Phật còn tại thế, quý
vị chưa được sinh ra đời.
Họ thường được thành tựu các uy nghi.
Dáng vẻ tôn nghiêm
đáng kính sợ gọi là oai. Phong cách mẫu
mực, mọi người đều quý trọng, muốn noi theo gọi là nghi. Họ là những người đáng tôn kính vì họ hoàn toàn khác biệt với
kẻ phàm phu về mọi mặt, mọi người khi gặp họ đều kính trọng.
“Ồ! Vị này là bậc
chí thiện, xứng đáng được kính trọng và tán thán.”
Các vị đại tỷ-khưu ấy dù có đi đâu, họ đều không
nhìn một cách tò mò vào mọi sự việc, không liếc nhìn chung quanh như dự tính ăn
cắp một vật gì. Mắt họ thường nhìn ngay sống mũi, nhìn thẳng xuống miệng rồi
khéo quan sát tâm mình, khi đi, họ nhìn không quá ba feet[23] về phía trước. Với phong thái ấy, họ có thể
tự hồi quang phản chiếu. Do họ giữ oai nghi như thế, họ không bao giờ phóng
túng, đùa cợt, cười giỡn. Họ đạt được vẹn phần trang nghiêm, nên gọi là thành
tựu các oai nghi.
[1] S: Abhidharma: tên gọi
chung cho luận tạng, còn gọi là A-tỳ-đàm. Dịch là Vô tỉ pháp, Đối pháp,
Đại pháp.
[3] Phẩm Thí dụ thứ 3. Nguyên văn若人散亂心, 入
於塔廟中, 一
稱 南
無佛, 皆已成佛道
(Nhược nhân tán loạn
tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo).
[6] S: Pramiti.
Sa-môn Bát-thích Mật-đế 般刺蜜帝, có
nơi phiên âm
Bát-lạt-mật-đế 般剌蜜帝. Hán dịch là Cực
Lượng, người Trung Ấn. Trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh có ghi rõ: Thời đại
nhà Đường, có Sa-môn Bát-thích Mật-đế, người Trung Thiên Trúc, dịch Kinh Thủ-lăng-nghiêm
từ chữ Phạn sang chữ Hán theo văn nói (khẩu dịch), tại chùa Chế Chỉ tỉnh Quảng
Châu vào ngày Tân sửu, tháng Kỷ mão năm Ất Tỵ, niên hiệu Thần Long thứ nhất
(23-5 Ât tỵ).
[11] Cấp Cô Độc (s: Anāthapiṇḍada; p: Anāthapiṇḍika). Tên thật là Sudatta. Phiên
âm là Tu-đạt-đa 須達多, còn gọi
là Thiện Thọ 善授, Thiện Dữ 善與, Thiện Thí善施.
Là vị trưởng giả thành Xá-vệ thuộc Trung Ấn Độ, có tâm từ bi thường cứu giúp
người khó khăn không nơi nương tựa, siêng thực hành hạnh bố thí. Nên người đời
gọi ông là Cấp Cô Độc. Sau khi quy y Phật, ông xây Tinh xá Kỳ viên (s: Jetavana)
để cúng dường.
[14]
S: Prasenajit; p: Pāsenādi. Phiên âm Bát-la-tê-na-thời-đa 鉢邏犀那時多Hán dịch Hoà Duyệt和悅,
Nguyệt Quang, ngài Huyền Trang dịch là Thắng Quân勝軍;
ngài Nghĩa Tịnh dịch là Thắng Quang.
[21] Arahat 阿 羅 漢; S: arhat; P: arahat, arahant; T: dgra com pa; dịch
nghĩa là Sát Tặc (殺 賊), là diệt hết bọn giặc phiền não, ô nhiễm; Ứng cúng (應 供), là người đáng được cúng dường; bất sinh (不 生) hoặc vô sinh (無 生), là người đã đạt niết-bàn, đoạn diệt sinh tử.
A-la-hán là danh từ chỉ một Thánh nhân, người đã đạt
giai vị vô học của Thánh đạo (s: āryamārga; p: ariyamagga), không bị ô nhiễm
(s: āśrava; p: āsava) và phiền não (s: kleśa; p: kilesa) chi phối. Thánh quả
A-la-hán có khi được gọi là Hữu dư niết-bàn (s: sopadhiśeṣanirvāṇa; p: savupadisesanibbāna).
A-la-hán là hiện thân của giác ngộ trong thời Phật
giáo nguyên thuỷ. Khác với hình ảnh của Bồ-tát, hiện thân của Phật giáo Ðại thừa
của thời hậu thế với mục đích giải thoát mọi chúng sinh, A-la-hán tu tập nhằm
giải thoát riêng mình. A-la-hán là các vị đã giải thoát 10 Trói buộc thế gian
như: ngã kiến, nghi ngờ, chấp đắm giới luật, tham, sân hận, sắc tham, vô sắc
tham, kiêu mạn, hồi hộp không yên (trạo), vô minh. A-la-hán được xem là người
đã từ bỏ ô nhiễm, bỏ các gánh nặng, đã đạt mục đích và tâm thức đã được giải
thoát.
[22] Nhị thập ngũ hữu: Cõi Dục có 14; gồm Địa ngục, Ngạ
quỷ, Súc sanh, A-tu-la, Phất-bà-đề, Cù-đà-di, Uất-đơn-việt, Diêm-phù-đề, Tứ
thiên, Tam thập tam thiên, Diệm ma thiên, Đâu-suất thiên, Hoá lạc thiên, Tha
hoá tự tại thiên. Cõi Sắc có 7; gồm Sơ thiền, Đại phạm thiên, Nhị thiền, Tam
thiền, Tứ thiền, Vô tưởng thiên, Tịnh cư A-na-hàm thiên. Cõi Vô sắc có 4; gồm
Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Kinh văn:
從佛轉輪,妙堪遺囑。嚴淨毘尼弘範三界。應身無量,度脫眾生。拔濟未來,越諸塵累。
Tòng Phật chuyển
luân, diệu kham di chúc. Nghiêm tịnh tì-ni,[1] hoằng phạm tam giới. Ứng thân vô lượng độ
thoát chúng sanh. Bạt tế vị lai, việt chư trần lụy.
Việt dịch:
Theo Đức Phật chuyển pháp luân, khéo kham
nhận lời di chúc của Đức Phật. Giữ giới luật tinh nghiêm, làm bậc mô phạm
trong ba cõi. Ứng thân vô số lượng để độ thoát chúng sinh trong đời vị lai,
cứu giúp họ vượt khỏi các ràng buộc nơi cõi trần.
Giảng:
Các câu này tán thán
các vị đại a-la-hán có được đầy
đủ bốn đức tánh tốt đẹp. Câu đầu tiên là tán thán đức tánh trí tuệ của các a-la-hán, câu thứ hai là khen ngợi đức
hành trì giới luật, câu thứ ba tán thán đức Từ và các câu cuối cùng khen ngợi đức
bi (karuṇā) của các a-la-hán.
Theo Đức Phật chuyển pháp luân. Các vị a-la-hán thường thân cận với Đức Phật, không phải là họ chỉ làm
thị giả cho Đức Phật, lấy khăn hoặc mang trà để báo đáp ân của Đức Phật mà họ
còn giúp Đức Phật hoằng dương Phật pháp, gọi là chuyển pháp luân. Đây không có nghĩa là chuyển pháp luân trong lục
đạo mà là chuyển bánh xe đại pháp.
Quý vị sẽ hỏi: “Sao gọi
là pháp luân?”
Vì bánh xe ấy có thể
nghiền nát các vật. Cối xay có thể nghiền nát gạo và ngũ cốc. Pháp luân có thể
nghiền nát cả bàng môn tả đạo và đập tan, phá hủy mọi tà kiến.
Bánh xe cũng có công
năng vận chuyển, như tàu thuyền chuyên chở hàng hóa từ Úc châu sang Mỹ châu.
Cũng vậy, pháp luân có thể chuyển hóa con người từ biển sinh tử đến bờ giải
thoát, niết-bàn. Thuyết pháp
cũng giống như con thuyền đưa con người từ nơi này đến nơi khác vậy.
Khéo kham nhận lời di chúc của Đức Phật. Họ đều chứng được cảnh giới bất khả tư
nghì nên đều có thể khéo léo nhận lãnh lời phó chúc của chư Phật. Kham nhận là nhờ cảnh giới bất khả tư
nghì đã chứng được mà quý vị có khả năng và trách nhiệm nhận lãnh lời di chúc của
Đức Phật. Đó là lời chỉ dạy cho các đệ tử những việc phải làm sau khi Đức Phật
nhập niết-bàn. Cũng giống như
trong một gia đình thường dân, khi người cha sắp chết, họ dặn lại các con trai,
con gái những việc phải làm trong tương lai, những việc gì phải nên canh tác và
buôn bán.
Đức Phật cũng dặn dò
các đệ tử rằng: “Các con nên làm như thế, nên đi đến nơi đó để chuyển pháp luân
và giáo hóa toàn thể chúng sinh.” Đó được gọi là di chúc.
Các vị đại tỷ-khưu xứng đáng nhận lãnh những lời
di chúc ấy vì tất cả các vị đều có một trí tuệ bất khả tư nghì để có thể chuyển
pháp luân làm lợi lạc cho chính họ và cho mọi người. Câu kinh này tán thán trí
tuệ đã giúp cho họ giáo hóa được chúng sinh và đồng thời cũng giúp cho mình đạt
được trí tuệ. Câu kinh này khen ngợi đức tánh trí tuệ của hàng a-la-hán.
Giữ gìn giới luật tinh nghiêm để làm mô phạm trong ba
cõi.
Nghiêm nghĩa là phong cách rất nghiêm túc, chính xác, chân thực và không có một
chút nào bừa bãi. Có nghĩa là các vị ấy rất đáng kính trọng và mến phục. Họ rất
nghiêm trang, nên khi quý vị gặp các vị ấy, quý vị không dám làm điều thất thố
hoặc không vâng phục. Quý vị cũng không dám liếc nhìn chung quanh, vì các vị đại
a-la-hán rất nghiêm trang.
Vì sao quý vị luôn
luôn cười đùa? Vì tôi là sư phụ quý vị mà tôi không nghiêm. Do vậy nên khi sư
phụ nói thì quý vị cười giỡn, khi gặp một vị sư phụ nghiêm khắc thì quý vị chẳng
dám cười giỡn.
Các vị đại a-la-hán đều rất sáng suốt và thanh tịnh,
vì họ đã dứt trừ ác nghiệp và các tập khí xấu.
Tịnh
có nghĩa là các vị đã chuyển hóa sạch sẽ các kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc. Có nghĩa là các vị không
còn vô minh nữa. Thanh tịnh trong sáng, không còn bợn dơ, các vị đã lìa hoàn
toàn các tập khí xấu ác.
Quý vị sẽ hỏi: “Làm
sao có thể xa lìa các tập khí xấu ác, đoạn trừ hết thảy các việc ác?"
Tuy vậy, sự tinh nghiêm đề cập ở kinh này là thoát
khỏi ngay cả ý niệm đoạn trừ tất cả việc
ác. Nếu quý vị còn nghĩ đến việc đoạn
trừ việc ác thì quý vị vẫn chưa được gọi là thanh tịnh. Nếu quý vị còn phải
nhớ vào lúc đó, lúc kia, mình phải đoạn trừ chừng đó việc ác này; rồi vào lúc đó,
lúc kia mình phải đoạn trừ việc ác kia. Vì sao? vì trong tâm của quý vị vẫn còn
những tạp niệm. Nếu tâm quý vị thanh tịnh, thì những tạp niệm ấy phải vắng bặt.
Khi những tạp niệm ấy không còn hiện hữu. Đó được gọi là thanh tịnh.
Giới luật, tiếng Phạn là vinaya - phiên âm là
tỳ-nại-da hoặc là tỳ-ni, có nghĩa là thiện
điều phục. Giới luật có năng lực uốn dẹp các lỗi lầm của quý vị. Nghiêm tinh giới luật có nghĩa là các vị
đại a-la-hán, thông qua sự hành
trì thực sự, đã thành tựu được giới pháp
cao tột, có công năng điều phục các lỗi lầm.
Làm bậc mô phạm trong ba cõi là tiêu chuẩn không có gì sánh bằng trong
tam giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Họ là bậc đạo sư của trời và người.
Thế nên câu kinh này là tán thán công đức trì giới của hàng a-la-hán.
Ứng thân vô số lượng để độ thoát chúng sinh. Ứng
thân còn được gọi là hóa thân.
Thông thường, các đại a-la-hán không
có ứng thân, nhưng họ tạo ra bằng
cách biến hóa thành vô số lượng thân. Họ có thể hóa thành cả ngàn thân, lần
khác có thể biến thành năm ngàn thân, mười ngàn thân một trăm ngàn thân, một
triệu, một tỷ thân. Các ngài tạo ra ứng thân để làm gì? Phải chăng làm như thế
là để các vị đại a-la-hán có thể
đi khắp nơi thi triển thần thông khiến cho mọi người đều biết các vị có thần
thông hay sao? Không, các vị đại a-la-hán
tạo ra ứng thân là để giáo hóa chúng sinh, để giúp những người cần được
độ thoát đến nơi giác ngộ. Khi có những chúng sinh cần được Đức Phật độ thoát,
các vị a-la-hán liền hiện thân
Phật để cứu giúp cho họ. Khi chúng sinh muốn được các vị Bích-chi Phật độ thoát, thì các vị đại
a-la-hán liền hiện thân Bích-chi Phật để cứu độ họ. Hoặc cần
hiện thân Phạm vương, Đế thích, tỷ-khưu,
tỷ-khưu ni, các vị liền có các ứng thân tùy nguyện để độ thoát chúng
sinh. Như Quán Thế Âm Bồ-tát[2] là vị bồ-tát có lòng từ rất lớn
đối với các chúng sinh cùng có nghiệp cảm với bồ-tát và lòng đại bi với
những chúng sinh có đồng thể đại bi với Ngài. Các vị đại a-la-hán hiện vô số ứng thân để giúp
cho chúng sinh xa lìa các khổ đau và đạt được an lạc. Các vị khuyến khích chúng
sinh an trụ trong phước lạc mà họ đã chứng nghiệm được. Lòng từ có khả năng
mang đến niềm vui cho muôn loài. Các vị đại a-la-hán là những người có lòng đại từ đại bi rất lớn.
Trong đời vị lai, cứu giúp họ vượt thoát mọi ràng buộc
ở cõi trần. Ví như có người
đang bị lún cả hai chân dưới bùn, khi ấy, họ kéo một chân lên thì chân kia bị
lún sâu hơn cho đến cuối cùng, họ không thể nào nhấc được một bước chân nào. Hoặc
như có người bị vây hãm trong vùng nước ngập lụt, không thể nào ra khỏi cho đến
khi quý vị đến và giải cứu họ. Do vì những vị a-la-hán này kéo họ ra và cứu thoát “những chúng sinh trong đời vị lai.” Chúng ta bây giờ đều có hy vọng
được cứu thoát, vì chúng ta là những chúng sinh trong đời vị lai. Nếu quý vị chỉ
cần tin vào giáo pháp do các vị a-la-hán
giảng dạy, thì quý vị sẽ được độ thoát.
Tại sao bây giờ quý vị
không biết bay? Tại sao quý vị không đi được trong không trung? Do vì bụi trần
còn bám vào quý vị. Nó đeo bám vào quý vị vào cõi này, làm cho thân quý vị nặng
nề. Đó là nói về lực hấp dẫn vạn vật của trái đất. Nếu quý vị không bị bụi trần
bám vào, thì lực hút của quả đất không còn tác dụng đến quý vị, và quý vị có thể
đạt được sự tự tại. Vì có quá nhiều khách
trần lôi kéo và bám vào áo quần khiến quý vị khó có thể bay được. Tuy vậy,
các vị đại a-la-hán còn nghĩ
cách khuyến khích chúng sinh vượt thoát mọi thứ bụi trần, để bụi trần không còn
bám vào họ được nữa, thế nên lực hút của quả đất không còn trì giữ họ được nữa.
Khi đã được tự do, họ sẽ nhấc bổng lên trời như quả bóng bay, quý vị có thể đi
đâu tùy ý – lên cung trăng, đến các vì sao, và du hành khắp các lục địa, chẳng
cần phải mua vé máy bay. Nếu quý vị đạt được trình độ như thế, được gọi là “vượt thoát mọi ràng buộc ở cõi trần.”
Câu kinh trước xưng
tán đức từ mang lại niềm vui cho chúng sinh của các vị đại a-la-hán. Câu sau tán thán đức đại bi
của hàng đại a-la-hán, thường cứu
thoát chúng sinh khỏi mọi khổ đau.
Kinh văn:
Kì danh viết Đại trí Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên,
Ma-ha Câu-hi-la, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, Ưu-bà-ni-sa-đà đẳng nhi vi
thượng thủ.
Việt dịch:
Các vị ấy là Đại trí Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên,
Ma-ha Câu-hi-la, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, Ưu-bà-ni-sa-đà làm thượng
thủ.
Giảng:
Tên của Xá-lợi-phất, Śāriputra có thể được dịch thành ba nghĩa:
Thân tử: vì mẹ của ngài rất đẹp.
Thu tử: mẹ của ngài có đôi mắt đẹp như mắt của
loài chim diệc.
Con của châu ngọc: vì mắt của mẹ ngài sáng long lanh như ngọc.
Xá-lợi-phất có trí tuệ
lớn nhất trong số các vị Thanh văn. Thực ra, trí tuệ tuyệt luân của Xá-lợi-phất
đã hiển lộ rõ trước khi sinh ra.
Ma-ha Câu-hi-la[3] là cậu của Xá-lợi-phất, thường tranh luận
với chị là Sa-ri-ca (Śārika) – mẹ của
Xá-lợi-phất. Ma-ha Câu-hi-la thường không bao giờ gặp khó khăn để thu phục chị
mình cho đến khi bà ta mang thai Xá-lợi-phất. Lúc đó, bà ta thường thắng em
mình vào mọi lúc tranh luận. Nhận ra chị mình mới có khả năng kỳ diệu trong
khi tranh luận chắc hẳn phải nhờ đứa bé đang nằm trong bào thai của chị ấy.
Ma-ha Câu-hi-la liền tự mình đến các trường để học các pháp của tất cả các vị
luận sư ngoại đạo, chuẩn bị cho ngày ông ta sẽ gặp người cháu được sinh ra để
tranh luận. Ông ta đã bỏ ra nhiều thời gian ở Nam Ấn Độ để theo đuổi việc học
và khi ông ta trở lại để tìm kiếm người cháu, mới biết cháu mình là Đại trí
Xá-lợi-phất, đã xuất gia theo học với Đức Phật, đã hàng phục nhiều luận sư khắp
năm miền ấn Độ. Khi tranh luận, Xá-lợi-phất chỉ vừa mới 8 tuổi.
Ma-ha Câu-hi-la bất
bình khi biết cháu mình là đệ tử của Đức Phật, bởi vì ông ta đã thường hy vọng
rằng sau những năm học tập và với tài năng tranh luận vô địch của mình thì ông
ta sẽ giành được sự kính trọng và trung thành của Xá-lợi-phất. Ông ta quyết định
sẽ đến thách thức tranh luận cùng với Đức Phật. Nghĩ rằng nếu mình thắng thì Đức
Phật sẽ giao Xá-lợi-phất lại cho mình. Để biểu hiện sự tự tin của mình, ông ta
chẳng ngượng ngùng tuyên bố thêm rằng ông ta sẽ cắt đứt đầu mình dâng lên Đức
Phật nếu ông ta thua trong cuộc tranh luận.
Vậy mà khi đến trước
Đức Phật, sự tự tin của ông ta bị lay động và ông ta lo lắng đến cực điểm. Ông
lo âu tìm kiếm nguyên lý trong giáo pháp của mình những luận thuyết để lập nên
căn cứ cho cuộc tranh luận rất quan trọng này. Cuối cùng, Đức Phật bảo: “Ông
hãy nói đi, hãy lập luận thuyết của ông rồi tôi sẽ xem xét lời thỉnh cầu của
ông.”
“Cơ bản là tôi không
chấp nhận một đạo lý nào cả.”
Cuối cùng, Câu-hi-la
nói với một chút lòng háo thắng, nghĩ rằng lời nói này sẽ làm cho Đức Phật
không có lời nào đáp trả lại.
“Ồ !” – Đức Phật đáp
lại không chút do dự “Thế ông có chấp nhận lời ông nói hay không?”
Cậu của Xá-lợi-phất bối
rối, suy nghĩ: “Nếu ta trả lời ta không chấp nhận là ta sẽ phá hủy căn cứ luận
thuyết của mình, thế là ta sẽ bị thua cuộc. Còn nếu ta chấp nhận thì sự chấp nhận
ấy sẽ phản lại trực tiếp với cơ bản luận thuyết của mình.”
Bị đứng trước sự lựa
chọn hai đầu đều kẹt, Câu-hi-la do dự trong một phần giây rồi chẳng nói một lời,
ông ta quay gót chân rồi chạy rất nhanh ra khỏi phòng, rời khỏi đạo tràng của Đức
Phật, ra khỏi khu vườn, chạy ra đường, xa đến vài dặm vẫn không dừng lại. Cuối
cùng, ông ta lấy lại được chút tự chủ, nhớ lại mình là người biết tôn trọng lời
hứa, thấy rằng mình phải trở lại nơi Đức Phật để dâng đầu. Khi ông ta đến trước
Đức Phật, hỏi mượn con dao. Lúc ấy Đức Phật mới giải thích rằng trong Phật
pháp, không ai xử sự như vậy cả. Rồi Đức Phật giảng pháp cho Câu-hi-la nghe và
giúp cho ông ta mở được con mắt pháp. Một khi huệ nhãn đã được khai mở, ông ta
mới thấy rõ sự ngụy biện trong luận thuyết của ngoại đạo mà ông ta đã học rất
nghiêm túc. Ông ta xin được theo Phật xuất gia. Ma-ha Câu-hi-la Hán dịch là đại
tất, có nghĩa là đầu gối lớn (tức là Trường
trảo Phạm chí). Có nơi nói rằng tổ tiên của Câu-hi-la có xương bánh chè lớn,
có nơi cho rằng chỉ riêng Câu-hi-la là có đầu gối lớn.
Nói chung, xương bánh
chè lớn là một đặc điểm di truyền. Ma-ha Câu-hi-la là người luận nghị giỏi nhất
trong số đệ tử của Đức Phật.
Ma-ha Mục-kiền-liên (Mahā
Maudgalyayana) nghĩa là:
Ma-ha là đại,
có nghĩa là lớn.
Mục-kiền-liên, Hán dịch là Thái thúc thị, đó là họ. Xưa tổ tiên của Ngài vào trong núi tu đạo,
chuyên hái rau để ăn nên có họ như vậy. Còn tên ông vốn có nghĩa là Câu-luật-đà,
nghĩa là cây không có đốt. Do vì cha
mẹ ngài tuổi đã lớn mà chưa có con, mới đến cầu đảo ở thần cây, sau mới sinh hạ
được ông. Nên đặt tên là Câu-luật-đà. Mục-kiền-liên là người có thần thông đệ
nhất trong số các đệ tử của Đức Phật.
Phú-lâu-na[4] là tiếng Phạn, Hán dịch là Mãn từ tử, có nghĩa là: “con của người có lòng từ rộng khắp.” “Purna” - Hán dịch là “Mãn” nghĩa là rộng khắp. Do tên của
thân phụ ngài có nghĩa là “lời nguyện rộng
lớn.” Tên mẹ của ngài là Maitreyani,
dịch là “Từ” nghĩa là “Người phụ nữ có lòng từ.”
Putra, có nghĩa là người con. Hán dịch là tử.
Phú-lâu-na là người
thuyết pháp bậc nhất. Không ai có thể giảng kinh một cách vi tế và sâu sắc như
Phú-lâu-na. Khi Phú-lâu-na giảng kinh, các thiên nữ rải hoa và hoa sen vàng trồi
lên khỏi mặt đất. Bất kỳ ai muốn có được khả năng giảng pháp thông thạo nên niệm
danh hiệu: Nam mô Trưởng lão Phú-lâu-na nhiều lần, Ngài
Phú-lâu-na sẽ dùng trí tuệ và biện tài giúp cho quý vị giảng pháp lưu loát đến
mức quý vị có thể chuyển hóa được chúng sinh. Lời giảng tác động đến họ như thế
nào? Họ không bị buồn ngủ khi nghe pháp. Khi Phú-lâu-na giảng kinh không ai muốn
ngủ cả. Ngài diễn tả chi tiết tính chất của các Pháp rất sinh động nên Ngài được
gọi là vô ngại biện tài.
Tu-bồ-đề là tên của một
vị đại đệ tử khác, là người thông hiểu tánh không sâu sắc nhất. Tên ngài
có ba nghĩa: Không sinh, Thiện hiện và Thiện kiết.
Khi Tu-bồ-đề sinh ra
thì tất cả tài sản trong nhà cũng như vàng bạc ngọc quý đều biến mất, kho tàng
trống trơn. Không ai biết được những thứ ấy đi đâu. Nhưng do sự biến mất của cải
trùng hợp với sự ra đời của ông, nên được đặt tên là Không sinh.
Bảy ngày sau khi sinh
ra, tất cả kho tàng tài sản châu báu xuất hiện trở lại, nên đứa bé được đặt tên
lại là Thiện hiện.
Cha mẹ ngài muốn biết
sự ra đời của con mình là tốt hay xấu, mới tìm đến một vị chiêm tinh để đoán
xem. Bất kỳ lúc nào người ta gặp phải vấn đề gì, họ đều tìm đến tham khảo ở
kinh Dịch. Nhưng ở Ấn Độ thì tìm đến một cuốn sách gọi là Cố Sự̣ – Ancient Matters.
Khi cha mẹ Tu-bồ-đề xin các vị chiêm tinh đoán giúp cho sư ra đời của con mình
là tốt hay xấu, các quẻ hiện ra cho biết vừa tốt lành vừa may mắn, nên Ngài được
đặt tên là Thiện kiết.
Tu-bồ-đề là người hiểu
sâu sắc nhất về không.[5] Nên trong kinh Kim Cương (Vajra Sutra), Ngài Tu-bồ-đề là đại diện
cho đương cơ trong pháp hội, có nghĩa Ngài là người thay mặt cho đại chúng đứng
ra thưa thỉnh Đức Phật giảng giải về giáo lý Bát-nhã.
Ưu-ba-ni-sa-đà (Upanishad) là tiếng Phạn, nghĩa là Trần tánh. Do Ưu-ba-ni-sa-đà ngộ đạo khi nhận ra bản chất của các
trần cảnh, bổn lai vốn là không, xưa nay vốn là vô thường.
Cùng
các vị khác có nghĩa là không chỉ có sáu vị tỷ-khưu này trong chúng hội. Có ít nhất là một ngàn hai trăm năm
mươi vị đệ tử trong chúng hội. Nhưng sáu vị này là các vị thượng thủ, ngồi ở vị
trí cao nhất, nên các vị được nêu lên để đại biểu cho các vị đại a-la-hán và hàng đại tỷ-khưu.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment