Cách niệm như thế nào? Mỗi tế bào trên
thân thể ta đều là A Di Đà Phật, mỗi sợi
lông đều là A Di Đà Phật. Ta lại mở banh mắt
nhìn ra thế giới bên ngoài, nghe âm thanh bên ngoài, những
điều mà sáu căn tiếp xúc, chẳng có điều
nào không phải là A Di Đà Phật.
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần
3
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
TẬP 05
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin mời ngồi xuống. Hàng thứ nhất,
trang thứ ba của sách Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Kinh Giải, xem từ hàng thứ nhất.
“Thử nhất cú Phật hiệu,
chánh như Yếu Giải sở thị, tức thị
chúng sanh Bổn Giác Lý tánh, cố tri: Thử giới nhĩ năng
niệm chi tâm tức thị Như Lai quả giác” (một
câu Phật hiệu này, đúng như sách Yếu Giải
đã dạy, chính là Lý tánh trong Bổn Giác của chúng sanh.
Cho nên biết: Cái tâm niệm Phật nhỏ nhoi này chính là
quả giác của Như Lai). Trong lần trước, chúng
ta đã đọc tới chỗ này. Câu này vẫn phải
nói rõ cặn kẽ hơn một chút, nó có quan hệ rất
lớn đối với sự niệm Phật của
chúng ta. Cái “giới nhĩ năng
niệm chi tâm” này là chân tâm, mà cũng là vọng tâm; trong
các thứ vọng tâm, nó gần với chân tâm nhất. Vì
sao? Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm nó là
chân tâm. Hễ khởi tâm động niệm, nó là vọng
tâm, chỉ là cái tâm bé nhỏ này vừa mới dấy lên [ý
niệm]. Nhìn từ phía chân và vọng, cái tâm này khó có; dùng
cái tâm này để niệm Phật thì cái tâm ấy chính là “Như Lai quả giác”
được nói đến ở đây. Người ấy
chẳng mê, chẳng có Hoặc (phiền não), [tức là] chẳng
mê hoặc. Khi một niệm tâm khởi lên, bèn A Di Đà Phật;
niệm Phật phải niệm theo cách như vậy. Nay chúng
ta là phàm phu, là lục đạo phàm phu chính cống; nếu
trong kinh Đại Thừa, đức Phật không nói ra,
chúng ta sẽ vĩnh viễn không nhận biết một niệm
tâm này. Nó quá vi tế, “giới
nhĩ” có nghĩa là “vi tế”
(nhỏ nhiệm), cực kỳ vi tế, chúng ta không có cách
nào nghĩ tưởng được!
Chúng ta vừa
mới dấy lên một niệm suy tưởng, Di Lặc
Bồ Tát đã bảo: Trong một niệm tưởng, có
“ba mươi hai ức trăm
ngàn niệm”, đấy là “giới
nhĩ năng niệm chi tâm” (cái tâm có thể niệm nhỏ
nhoi này). Chúng ta vừa mới tưởng, trong cái ý niệm
vừa dấy động ấy, bèn có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm. Di Lặc Bồ Tát đã cho chúng ta biết:
[Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm chỉ là] trong
khoảng khảy ngón tay, cho nên không có cách nào thấu hiểu
điều này được! Trong kinh, đức Phật
cũng nói rất rõ khi nào quý vị mới có thể quan
sát, nhận biết những niệm vi tế này tồn tại:
[Phải là khi đã đạt đến] Bát Địa Bồ
Tát, tức Bát Địa Bồ Tát [trong Viên Giáo] như kinh Hoa
Nghiêm [đã nói]. Từ Thất Địa trở về
trước, đều không có cách nào cảm nhận
được! Bát Địa Bồ Tát có công phu định
lực như vậy, chúng ta gọi [công phu ấy] là “thanh tịnh tâm”. Cái tâm thanh tịnh
ấy đạt đến mức độ tinh thuần
như vậy, nên Ngài mới cảm nhận được.
Cao hơn nữa là Cửu Địa, Thập Địa,
Thập Nhất Địa (Đẳng Giác), trên nữa là
Diệu Giác, đó chính là viên mãn, tức quả Phật rốt
ráo viên mãn! Nay chúng ta nên học như thế nào? Phải rèn
luyện trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta có thể
học theo bí quyết về phương pháp huấn luyện
trong cuộc sống thường ngày của Ấn Quang
đại sư, bí quyết gì vậy? [Chính là] chữ Tử
trong “sanh tử”, thường nghĩ đến lúc phải
đối diện cái chết. Đừng sợ chết!
Quý vị phải biết: Chết là thân có sanh tử, chứ
linh hồn (thần thức) không có sanh tử! Nếu sau
khi chết, cái gì cũng đều không có, linh hồn
cũng chẳng có; nói chung, chúng ta cũng chẳng cần
phải học Phật, cũng chẳng cần phải tu
hành, giống như phàm nhân thường nói “người chết như ngọn đèn đã tắt”.
Chết rồi, cái gì cũng đều chẳng có! Không phải
vậy! Thân chết, linh hồn không chết; linh hồn lại
đi đầu thai, tức là nói “luân hồi trong lục
đạo”, chuyện này phiền phức lắm! Chúng ta phải
thật sự hiểu rõ, minh bạch chân tướng sự
thật này: [Thần thức] chẳng thể chết
được! Trong quá khứ, khi giảng kinh, tôi đã
nói rất nhiều lần, chết là phiền lắm! Phiền
phức quá lớn! Nhất định phải vãng sanh Tịnh
Độ trong một đời này, vãng sanh Tịnh Độ
là thành Phật!
Có thể
làm được hay không? Ai cũng có thể làm được!
Chỉ cần quý vị hiểu lời khải thị này
của pháp sư Ấn Quang, thường nghĩ thọ mạng
của mình chỉ là một ngày hôm nay, đừng nghĩ sẽ
có ngày mai, [chỉ có ngày] hôm nay thôi, quý vị còn có gì mà không buông
xuống được? Chỉ có một ngày hôm nay, ngày hôm
nay là ngày cuối cùng, ta phải nên làm chuyện gì? Thật
thà niệm Phật, chẳng phải là đã thành công rồi
hay sao? Cách niệm như thế nào? Mỗi tế bào trên
thân thể ta đều là A Di Đà Phật, mỗi sợi
lông đều là A Di Đà Phật. Ta lại mở banh mắt
nhìn ra thế giới bên ngoài, nghe âm thanh bên ngoài, những
điều mà sáu căn tiếp xúc, chẳng có điều
nào không phải là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật trọn
khắp pháp giới; đấy là niệm Phật. Trong kinh
Đại Thừa, đức Phật đã giảng rất
hay: Hết thảy chúng sanh, “chúng
sanh” ở đây hiểu theo nghĩa rộng, không theo nghĩa
hẹp, do các duyên hòa hợp sanh ra hiện tượng [thì
gọi] là chúng sanh, có hiện tượng nào chẳng phải
do các duyên hòa hợp? Cái thân động vật của chúng
ta do các duyên hòa hợp, [gọi theo] danh từ Phật học
là Tứ Đại, Ngũ Uẩn. Tứ Đại là vật
chất, Ngũ Uẩn là tinh thần, tức Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Tứ Đại và Ngũ Uẩn hợp thành
thân thể này. Hoa, cỏ, cây cối thì sao? Hoa, cỏ, cây cối
cũng vậy, cũng do các duyên hòa hợp mà sanh. Chúng ta thấy
thân tướng của chúng là hiện tượng vật
chất; chúng có Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay không? Có
chứ! Không rõ ràng như động vật, trì độn
hơn động vật nhiều lắm, nhưng chúng có
[Thọ, Tưởng, Hành, Thức]. Nếu không có, làm sao chúng
ta có thể khởi cảm ứng đạo giao với
chúng?
Mười
năm gần đây nhất, tôi di dân sang Úc, lập một
đạo tràng tại Úc. Đất ở Úc rẻ, tiền
xây cất đạo tràng rất thấp, đất
đai đặc biệt rẻ. Hoàn cảnh sống của
tôi ở Úc là ở vùng nông thôn, cách thành phố mười
hai cây số, lái xe [vào thành phố mất] mười
lăm phút. Phía ngoài căn nhà tôi ở là sân, sân to chừng
nào? Cỡ một trăm bảy mươi mẫu Trung Quốc[1], sân to như vậy đó! Phía ngoài dùng dây
kẽm rào lại, đi vòng quanh hàng rào ấy phải mất
một giờ. Vì thế, tôi trồng rất nhiều rau, rất
nhiều cây cối, hoa cỏ. Cây cối, hoa, cỏ có linh
khí, rau có linh khí, thực vật có linh tánh, chúng có [khả năng]
thấy nghe, hay, biết. Chúng ta dùng thiện tâm chăm sóc,
đối đãi chúng, chúng sẽ báo đáp tốt đẹp:
Hoa nở đặc biệt thơm, kết quả đặc
biệt ngọt, chúng đền đáp đấy! Chúng tôi
không dùng thuốc trừ sâu và phân hóa học. Thuốc trừ
sâu và phân hóa học sẽ tổn hại chúng, chúng chẳng
muốn tiếp nhận. Chúng giống như chúng ta, có một
phần tinh thần. Phật pháp nói đến tâm, thực
vật có tâm pháp. Chăm sóc vườn rau, vườn rau rất
lớn, chúng tôi tổ chức các hoạt động, rau
trong vườn có thể đủ cung cấp cho một
ngàn người ăn. Tổ chức các hoạt động
suốt bảy ngày có thể chẳng cần phải mua rau
ở bên ngoài. Vườn rau của chúng tôi có thể đủ
cho một ngàn người ăn mỗi ngày. Vườn rau
to ngần ấy, trồng rất nhiều loại. Pháp
sư Ngộ Khiêm cho tôi biết: Cô ta trông nom vườn
rau, một hôm nằm mộng, thấy có một trái dưa
leo báo mộng: “Tôi đã già khằng rồi mà các cô không hái”.
Quý vị thấy nó báo mộng cho cô ta vì cô trông nom vườn
rau. Hôm sau, [thức dậy], cô ta cảm thấy lạ lắm,
băn khoăn: “Mỗi ngày mình đều vào vườn, cớ
sao chẳng thấy?” Tìm đúng vị trí [trái dưa] đã
chỉ [trong giấc mộng], quả nhiên có một trái
dưa; nó khuất sau mớ dây leo nên chẳng thấy. Cô ta
thấy nó đúng là quá già, chẳng thể nào ăn
được. Thôi! Để dành làm giống vậy! Quý vị
thấy đó: Dưa có thể báo mộng cho quý vị; cho
nên nó có linh tánh, quý vị đừng coi rẻ, xem thường
nó! Quý vị phải tôn trọng nó. Không chỉ cây cối,
hoa, cỏ có linh tánh, mà núi, sông, đại địa cũng
có linh tánh, cũng tức là nói “khoáng
vật có linh tánh”. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của
Nhật Bổn làm thí nghiệm với nước, nhà khoa học
này thừa nhận, ông ta chẳng bịa chuyện. Ông ta
làm thí nghiệm mười hai năm, nước là khoáng vật,
nó có thể thấy và nghe, hiểu ý nghĩ của con
người. Sau khi tin tức này được công bố,
nói theo Phật pháp, [sở dĩ nước có thể thấy,
nghe, hiểu ý là vì] tất cả hết thảy khoáng vật,
núi, sông, đại địa đều có linh tánh, cũng
có thể nói là chúng đều có Thọ, Tưởng, Hành,
Thức. Thân thể của động vật là Ngũ Uẩn,
nhưng thực vật và khoáng vật cũng chẳng ra
ngoài lệ ấy, chẳng lìa Ngũ Uẩn, chỉ là mức
độ mẫn cảm khác nhau. Động vật mẫn
cảm nhất, rõ ràng nhất, thực vật kém hơn, khoáng
vật kém hơn nữa, nhưng vẫn có linh tánh. Do điều
này, chúng ta mới thật sự hiểu một hạt vi
trần có là A Di Đà Phật hay không? Đúng vậy! Một
sợi lông có phải là A Di Đà Phật hay không? Phải! A
Di Đà Phật ở đâu? Khắp pháp giới hư không
giới, không chỗ nào chẳng phải là A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật là tự tánh, là Tánh Đức của
chúng ta. Một niệm của chúng ta vừa dấy lên, bèn
tương ứng viên mãn với Tánh Đức, đó gọi
là niệm Phật. “Giới
nhĩ năng niệm chi tâm” chính là quả giác của Như
Lai, chẳng giả tí nào!
“Thị cố, Quán Kinh vân” (Do
vậy, Quán Kinh nói). Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
là một trong ba kinh Tịnh Độ, bộ kinh này giảng
về lý luận và phương pháp tu hành; còn kinh Vô Lượng
Thọ là Tịnh Tông khái luận, giới thiệu toàn thể
y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Quán Kinh chuyên giảng về hai bộ phận
lý luận và phương pháp. Kinh A Di Đà là lược bổn
(bản rút gọn) của kinh Vô Lượng Thọ, tức
là một phiên bản (version) tinh giản, thuận tiện
cho quý vị học tập trong khóa sáng và khóa tối. Trong
kinh ấy, có bốn lần khuyên dạy, chẳng dễ
có, rát miệng, buốt lòng khuyên bảo chúng ta hãy tin tưởng,
hãy phát nguyện, phải cầu sanh Tịnh Độ, [làm
như thế] là đúng. Đây là chư Phật Như Lai bi
tâm vô tận, mong cho chúng ta thành tựu trong một đời.
Trong các kinh điển khác, đức Phật chẳng
khuyên chúng ta nhiều như thế, nhưng trong kinh Di
Đà khuyên tới bốn lần; cũng có nghĩa là pháp
môn này đảm bảo quý vị sẽ thành tựu trong một
đời. Chỉ cần thật sự làm được,
chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn,
sẽ thành công. Đại Thế Chí Bồ Tát đã làm
gương cho chúng ta thấy. Trong Quán Vô Lượng Thọ
Phật Kinh, có hai câu như sau: “Thị
tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (Tâm này là Phật,
tâm này làm Phật); đây là nguyên văn hai câu trong kinh ấy.
“Tâm này là Phật”, tôi vừa
mới nói lắm lời như vậy chỉ nhằm giải
thích bốn chữ này! Tôi nói tới các tế bào trên toàn
thân chúng ta thì tế bào vẫn còn lớn. Nếu chia chẻ
tế bào, sẽ biến thành phân tử. Lại chia chẻ
phân tử, sẽ biến thành nguyên tử. Chia đến
cuối cùng là hạt cơ bản. Mỗi hạt cơ bản
đều là A Di Đà Phật, do tâm biến ra. Hạt
cơ bản là tâm, tâm này là Phật, lẽ nào các hạt
cơ bản ấy chẳng phải là Phật! Tất cả
tế bào trên thân tôi đều là Phật, các tế bào trên
thân quý vị có là Phật hay không? Là! Ngay cả cây cối,
hoa cỏ, núi, sông, đại địa đều là! Từ
chỗ này, quý vị sẽ giác ngộ: Chẳng có một
pháp nào chẳng phải [là A Di Đà Phật]! Hễ giác ngộ,
pháp nào cũng đều như thế. Do vậy, kinh Phật
được mở đầu bằng câu “như thị ngã văn”, “như thị” là gì vậy?
Như là Chân Như. “Tướng
giống như Tánh, Tánh giống như Tướng, Tánh và
Tướng bất nhị”. Tánh là Phật, lẽ nào
Tướng chẳng phải là Phật! Đâu có lẽ ấy!
Tâm này là Phật, có chuyện gì chẳng phải là Phật!
Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, Phật là gì? Phật
là tâm, là chân tâm, chẳng phải là vọng tâm, là gì? Cái tâm có
thể sanh, có thể hiện. Cái tâm có thể biến chính
là thức tâm, tức A Lại Da Thức, chuyển các tướng
“có thể hiện, có thể sanh” thành y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới, chuyển biến thành lục
đạo luân hồi. Đó là chuyện thực hiện bởi
thức tâm. Thức là gì? Là phân biệt, chấp trước.
Thức thức sáu, tức Ý Thức, phân biệt; thức
thứ bảy chấp trước, Mạt Na chấp
trước. Thức thứ sáu phân biệt, thiên biến vạn
hóa. Sách Hoàn Nguyên Quán nói có ba thứ “châu biến” (trọn khắp), “xuất sanh vô tận” (sanh ra vô tận) chính là nói
về ý nghĩa này. Tâm này là Phật, không gì chẳng phải
Phật, dùng tâm này để trì danh, niệm Phật.
“Tâm này làm Phật”, làm Phật
như thế nào? Niệm Phật là làm Phật, niệm Bồ
Tát là làm Bồ Tát, niệm A La Hán là làm A La Hán. Người
trong thế gian hiện nay niệm gì? Đầu óc nghĩ
tới tiền, nghĩ nhớ tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghỉ, nghĩ tới những thứ
này. Niệm những điều này sẽ biến thành những
điều này, niệm gì sẽ biến ra đó, giống
như ống kính vạn hoa vậy, niệm cái gì sẽ biến
ra cái đó. [Niệm ngũ dục] sẽ không phải là Phật.
Tài sắc là gì? Thưa quý vị, tài sắc là ngạ quỷ,
địa ngục. Vì sao? Quý vị nổi tâm tham. Tâm tham là
ngạ quỷ, sân khuể là địa ngục, ngu si là súc
sanh. Ngu si là chẳng liễu giải chân tướng sự
thật, nên gọi là ngu si. Trong thế gian hiện thời,
mấy ai hiểu rõ chân tướng sự thật? Nếu
chúng ta không học kinh giáo Đại Thừa, sẽ chẳng
có cách nào thoát khỏi ngu si; chỉ có những kinh điển
Phật pháp Đại Thừa mới giúp chúng ta phá mê khai
ngộ. “Ngộ” ở đây chẳng phải là chứng
ngộ, mà là giải ngộ, chúng ta đã hiểu rõ. Vì sao chưa
chứng đắc? Chưa buông xuống! Thật sự
buông xuống là cảnh giới nào? Tôi vừa mới nói đấy
thôi! Khi thật sự buông xuống, niệm niệm đều
là A Di Đà Phật, chẳng phải là thô niệm, mà là tế
niệm, niệm niệm thật sự giác ngộ. Trong cảnh
giới ấy chẳng có lục đạo, chẳng có
mười pháp giới, cảnh giới ấy là cõi Thật
Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Chúng ta gọi
cảnh giới ấy là Nhất Chân pháp giới, “nhất”
là thật, “nhị” là giả. Quý vị đọc đoạn
thứ nhất trong Hoàn Nguyên Quán, tức bài văn của Hiền
Thủ đại sư, [Ngài đã giảng về] Nhất
Chân, [cảnh giới] đó là thật: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Tự tánh
thanh tịnh viên minh thể là tâm, là Phật, chẳng hai;
tâm và Phật là một, chẳng hai. Khởi lên nhị dụng
thì sao? Khởi lên nhị dụng sẽ biến đổi!
Nhị dụng là gì? Vũ trụ xuất hiện, vạn
vật xuất hiện, ta xuất hiện! Ta là chánh báo; trừ
chánh báo ra, tất cả hết thảy hoàn cảnh đều
là y báo. Trong y báo, có y báo nhân sự, tức là quan hệ giữa
con người với nhau, và y báo hoàn cảnh vật chất.
Hễ ý niệm vừa dấy lên, y báo và chánh báo trang nghiêm đều
xuất hiện. Khi nó xuất hiện, nó chưa biến, đều
do tự tánh hiện; do vậy, có thể hiện, có thể
sanh, nhưng chẳng biến hóa. Đấy gọi là Nhất
Chân pháp giới.
Nhưng
nếu khởi phân biệt, [cảnh giới] sẽ biến
đổi. Chư vị phải
hiểu: Tâm phân biệt dấy lên, sẽ chẳng thấy
cõi Thật Báo nữa, xuất hiện cảnh giới gì? Tứ
thánh pháp giới, tức là bốn tầng trên trong mười
pháp giới, có phân biệt, nhưng không chấp trước.
Nếu hơi có một chút chấp trước, chấp
trước gì vậy? Ta mong khống chế nó, toan chiếm
hữu nó; hễ có ý niệm như thế, tứ thánh pháp
giới chẳng còn nữa, không thấy nữa, lại xuất
hiện gì? Lục đạo luân hồi xuất hiện. Lục
đạo do đâu mà có? Do chấp trước! Do vậy,
trong lục đạo, toàn bộ vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước đều có. Trong tứ thánh
pháp giới, có vọng tưởng, có phân biệt, nhưng
chẳng có chấp trước. Trong Nhất Chân pháp giới
của các cõi Phật, có vọng tưởng, nhưng không
có phân biệt và chấp trước. Chấp trước
hại chết người! Vì sao quý vị sống trong thế
gian khổ sở như thế? Do chấp trước. Chấp
trước chẳng còn nữa, trong thế gian này, quý vị
sẽ sung sướng, chẳng khổ sở, lìa khổ,
được sướng. Câu tiếp theo là “tâm này làm Phật” quá quan trọng!
Vì sao quý vị chẳng niệm Phật? Niệm Phật được
tự tại, niệm Phật được tương ứng,
càng niệm càng hoan hỷ, càng niệm càng sung sướng,
biết vạn sự vạn pháp trong khắp pháp giới
hư không giới và chính mình là nhất thể; quý vị
bèn chứng đắc hai câu “tâm
này là Phật, tâm này làm Phật”, đó chính là cảnh giới
của quý vị. Người ấy vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đối với
bốn cõi, sẽ sanh trong cõi nào? Sanh vào cõi Thật Báo Trang
Nghiêm. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
hoa nở, thấy Phật, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn,
đó là gì? Là một vị A Duy Việt Trí Bồ Tát thật
sự, chẳng giả tí nào! Nếu chưa nhập cảnh
giới này, vẫn có thể vãng sanh, thường gọi
là “đới nghiệp vãng sanh”, pháp môn này thù thắng khôn sánh!
Tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng có đới nghiệp,
chỉ có pháp môn này cho phép quý vị đới nghiệp
vãng sanh, sanh về cõi Phương Tiện hay cõi Đồng
Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Trong thế giới của chúng ta, cõi Đồng Cư là lục
đạo, cõi Phương Tiện là tứ thánh pháp giới.
Nhưng cõi
Đồng Cư và Phương Tiện trong thế giới
Tây Phương không giống với thế giới của
chúng ta. Ở nơi đây (thế giới Sa Bà), chúng ta có
chướng ngại; thứ bậc khác nhau sẽ chẳng
thấy được [cảnh giới của các cõi Tịnh
Độ khác]. Tây Phương Cực Lạc thế giới
là thế giới bình đẳng, không có chướng ngại.
Điều này giống như gì? Chúng ta học tập trong
nhà trường, Tiểu Học và Trung Học chẳng ở
chung trong một trường, học trò Tiểu Học chẳng
thể đến trường Trung Học; mà học trò
Trung Học cũng chẳng thể đến [học
trong] trường Tiểu Học. Trong Tiểu Học, còn
có các lớp khác nhau; những trò cùng một lớp sẽ học
chung với nhau. Nếu khác lớp, tuy là bạn đồng
học, chẳng thường gặp mặt, chẳng cùng
lên lớp với nhau. Thế giới Cực Lạc rất
đặc biệt, Tiểu Học, Trung Học, Đại
Học cùng nghe giảng trong một phòng học; cho nên gặp
mặt mỗi ngày, thật sự là đồng học. Học
trò lớp Một, lớp Hai Tiểu Học cùng học với
các đàn anh sinh viên Đại Học năm thứ nhất,
năm thứ hai thuộc hệ nghiên cứu sinh, gọi
nhau là huynh đệ hay đồng học,
gặp mặt mỗi ngày. Đấy là chỗ chẳng thể
nghĩ bàn của thế giới Cực Lạc.
Mười phương thế giới không có trạng huống
và tình hình này, thù thắng lắm! Do vậy, thế giới
Cực Lạc là “sanh vào một, là sanh hết thảy”. Quý vị sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng
Cư, gần như cũng đồng thời sanh vào cõi
Phương Tiện và cõi Thật Báo. Đây là lý do vì sao Thích
Ca, Di Đà khuyên chúng ta vãng sanh, chư Phật trong mười
phương thế giới cũng khuyên chúng ta vãng sanh,
đạo lý ở chỗ này. Nếu trong một đời
này, chúng ta chẳng thể vãng sanh, làm sao xứng với Phật
Thích Ca? Làm sao xứng với Phật Di Đà? Làm sao xứng
với mười phương chư Phật? Những câu
này, câu nào cũng đều là lời chân thật. Vì thế,
hai câu nói “tâm này là Phật, tâm
này làm Phật” đã nói trọn hết [những
nghĩa lý tinh vi của pháp môn Tịnh Độ].
Tiếp đó,
cụ Hoàng Niệm Tổ viết: “Bổn lai thị Phật, hiện hựu tác Phật.
Thị cố, đương hạ tức Phật” (Vốn
sẵn là Phật, nay lại làm Phật; cho nên, ngay lập
tức là Phật). Câu này chẳng phải nhằm khuyến
khích, cổ vũ chúng ta, mà là sự thật, vấn đề
ở chỗ nào? Vấn đề là bản thân chúng ta không
dám gánh vác, bản thân chúng ta chẳng dám thừa nhận!
Không dám gánh vác, không dám thừa nhận là đúng, như thế
nào là đúng? Vốn là Phật! Chẳng cần nói năng
chi nữa, lời này là đúng! Nay lại làm Phật, quý vị
hữu danh vô thực! Niệm A Di Đà Phật để
mong thành Phật, nhưng có rất nhiều nghi vấn đối
với câu Phật hiệu ấy, thật hay chăng? Có rất
nhiều câu hỏi trong đó! Niệm một câu Phật hiệu
này, có rất nhiều xen tạp; nhưng xen tạp những
gì, chính quý vị cũng chẳng biết! Vì sao không biết?
Do quý vị ngu si, tham, sân, si. Nếu chẳng ngu si, sẽ
biết điều gì xen tạp. Do ngu si, nên xen tạp mà chẳng
biết; vì thế, công sức chẳng thuần. Niệm Phật
lập tức thật sự là Phật, nhưng vì quý vị
công phu chẳng thuần, chẳng đạt tiêu chuẩn, cứ
hướng theo phương hướng đó thì sẽ chẳng
sai, nhưng chưa đạt được mục tiêu
này. Làm sao để chẳng hoài nghi? Phải thấy thấu
suốt. Khi tôi mới học Phật, thầy dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”.
Thấy thấu suốt là hiểu rõ minh bạch chân tướng
sự thật. Kẻ căn tánh trung hạ như chúng ta chỉ
có thể từ từ hiểu rõ kinh giáo. Sau khi hiểu rõ,
quý vị cũng rất dễ buông xuống. Chính quý vị
biết “chẳng buông xuống là sai”, lầm lẫn quá
đỗi! Vì sao phải buông xuống? Vì nó (phiền não, mê
hoặc, chấp trước, phân biệt, vọng tưởng)
vốn không có, hết thảy đều là giả! Phàm những
gì có hình tướng đều là hư vọng, vạn
pháp đều Không. Khi đến cõi Thường Tịch Quang
Tịnh Độ, nhân quả cũng là không. Chư
vị phải biết: Đến cõi Thường Tịch
Quang, nhân quả chẳng còn nữa. Trong cõi Thật Báo, còn
có nhân quả. Trong Phật môn có câu: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không” (vạn
pháp đều là không, nhân quả chẳng không). Trong mười pháp giới,
nhân quả chẳng không. Thật ra, trong cõi Thật Báo, vẫn
là nhân quả chẳng không, đến cõi Thường Tịch
Quang [nhân quả] mới chẳng còn nữa.
“Trực tiệp liễu đáng,
phương tiện cứu cánh, kỳ đặc thù thắng,
bất khả tư nghị” (Thẳng chóng ổn thỏa,
thích đáng, phương tiện rốt ráo, đặc biệt
lạ lùng thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn). Mấy
câu này là lời tán thán bộ kinh này và pháp môn này, thù thắng
khôn sánh. Chúng ta có thể gặp gỡ, tức là có nhiều
phước báo. Thật đấy, trong pháp giới hư
không giới, bao nhiêu vị Bồ Tát mong cầu mà chẳng
cầu được. Đạo tràng này của chúng ta tuy
không lớn, thính chúng đông đảo, lũ chúng ta mắt
thịt chẳng thấy. Khi quý vị thấy được,
sẽ biết thính chúng nhiều vô số. Tuy chúng ta ở
đây mở toang cửa, hoan nghênh mọi người, chẳng
có bất luận điều kiện gì, nhưng rành rành là vẫn
có thần hộ pháp, có chẳng ít chúng sanh bị thần hộ
pháp chặn ở ngoài cửa, không vào được. Chúng
ta thờ bài vị, là thiết lập chỗ ngồi cho họ,
để họ có chỗ ngồi, có thể tiến vào
nghe kinh, đến nơi đây tu hành. Hết thảy pháp toàn
là huyễn hóa, chẳng có lớn hay nhỏ. Lớn hay nhỏ
tùy thuộc tâm lượng của quý vị. Tâm lượng
càng lớn, đạo tràng càng to. Tâm lượng nhỏ
nhoi, đạo tràng sẽ bé tí, đại đạo tràng
cũng biến thành tiểu đạo tràng. Tâm lượng
lớn, tiểu đạo tràng cũng biến thành đại
đạo tràng, chẳng thể nghĩ bàn! “Tiện dĩ Tịnh Độ chư kinh chi trung,
duy thử kinh bị nhiếp viên diệu” (Ấy là vì
trong các kinh Tịnh Độ, chỉ có kinh này gồm trọn
các điều mầu nhiệm viên mãn). Tịnh Độ có
tam kinh, trong phần trên tôi đã thưa với quý vị, cư
sĩ Ngụy Mặc Thâm đem quyển cuối cùng của
kinh Hoa Nghiêm, ghép vào sau Tam Kinh, biến thành Tứ Kinh; Ấn
Quang đại sư đem Đại Thế Chí Bồ Tát
Niệm Phật Viên Thông Chương của kinh Lăng
Nghiêm ghép vào cuối Tứ Kinh, biến thành Tịnh Độ
Ngũ Kinh, viên mãn! Tu Tịnh Độ năm kinh này là viên
mãn. Trong ngũ kinh, bộ kinh nào giảng viên mãn nhất, một
chút khiếm khuyết cũng không có? Đó là kinh Vô Lượng
Thọ; vì thế, cổ đại đức tán thán bộ
kinh này là cực viên, cực diệu.
“Dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm vi Tông, dĩ Di Đà thập niệm
tất sanh chi đại nguyện vi bổn” (Lấy
phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm làm Tông,
lấy đại nguyện “mười niệm ắt
sanh” của Phật Di Đà làm gốc). Hai câu này rất
quan trọng! Phẩm Tam Bối Vãng Sanh trong kinh này đã giảng
rất rõ ràng [ý nghĩa của] “phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”.
Phẩm Tam Bối Vãng Sanh gồm bốn đoạn kinh
văn: Thượng bối vãng sanh, trung bối vãng sanh, hạ
bối vãng sanh; đoạn cuối cùng là tu học Đại
Thừa Phật pháp, bất luận tu học pháp môn nào, đem
công đức đã tu hồi hướng cầu sanh Tịnh
Độ, sẽ đều có thể vãng sanh. Quý vị thấy
pháp môn Tịnh Độ này lớn như thế đó! Trong
khoa phán, pháp sư Từ Châu đã đặt đề mục
cho đoạn này là Nhất Tâm Tam Bối, đặt hay lắm,
đã gồm thâu toàn bộ Phật pháp. Phát Bồ Đề
tâm, Bồ Đề tâm là gì? Điều này thường
được nói tới. Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh giảng Bồ Đề tâm là “chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện
tâm”, kinh dạy như thế. Trong Đại Thừa Khởi
Tín Luận, Bồ Đề tâm được giảng là “trực tâm, thâm tâm, đại bi
tâm”. Gộp chung kinh và luận lại để xem, ý
nghĩa rất rõ rệt. Thể của Bồ Đề tâm,
cũng là chân tâm trong Bồ Đề tâm, Thể của
chân tâm là gì? Là chân thành. Chân thành đến chỗ cùng cực
thì gọi là chí thành, tức chí thành tâm. Trực tâm như Khởi
Tín Luận đã nói: Chẳng có mảy may cong vạy nào, đó
chính là chân thành. Chúng ta chiếu theo kinh luận để hiểu
ý nghĩa. “Thâm tâm” chẳng
dễ giải thích. Cổ đại đức giải
thích [thâm tâm] là ưa thiện, chuộng đức, giải
thích thâm tâm như thế. Thâm tâm là tự thụ dụng, dành
cho chính mình. Đại bi tâm là đối người khác,
từ bi đối người khác. Do vậy, trong hơn
hai mươi năm trước, tôi giảng kinh này, dùng
ngay [những từ ngữ trong] tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ “thanh tịnh,
bình đẳng, chánh giác”, đó là thâm tâm. Chân thành tâm
như đã nói trong phần trên chính là cái Thể của Bồ
Đề tâm. “Thanh tịnh,
bình đẳng, chánh giác” là Tự Thụ Dụng, từ
bi là Tha Thụ Dụng. Nói cách khác, dùng tâm gì đối với
chính mình? “Thanh tịnh, bình
đẳng, giác”. Dùng tâm gì đối với người
khác? Đại từ đại bi. Đây gọi là “phát Bồ Đề tâm”.
Chúng ta tu
hành là tu điều gì? Tu tâm. Tâm chúng ta có thanh tịnh hay
không? Bình đẳng hay bất bình đẳng? Tâm thanh tịnh
là giới luật, tâm bình đẳng là Thiền Định,
tâm Chánh Giác là trí huệ, Giới - Định - Huệ.
Chúng ta học Giới - Định - Huệ như thế
nào, quý vị phải hiểu rõ: Nếu trì giới mà tâm chẳng
thanh tịnh, quý vị đã uổng công trì giới! Tu Định
mà chẳng khai trí huệ, cũng uổng công tu Định!
Nhân Giới đắc Định, do Định khai Huệ.
Vì thế, trì giới là phương tiện, không phải là
mục đích, [trì giới] nhằm muốn đạt tới
Thiền Định, đạt tới bình đẳng. Bình
đẳng mới là Định. Nếu chúng ta thật sự
đạt được cái tâm thanh tịnh, thưa quý vị,
Thủy Tai trong Tam Tai chẳng còn nữa. Tâm bình đẳng
hiện tiền, động đất chẳng còn nữa.
Hôm nay, có một đồng học đưa cho tôi xem một
tài liệu, gần như chưa đầy một tháng,
động đất cấp sáu[2] trở lên đã xảy ra mười mấy
lần tại các nơi trên toàn thế giới, liên tiếp
xảy ra như thế là do nguyên nhân gì? Từ cấp sáu trở
lên đã đáng sợ lắm, [có trường hợp
động đất] đến cấp tám. Sau khi giác ngộ,
Phong Tai chẳng còn nữa. Ngu si cảm Phong Tai. Nếu chứng
đắc tâm bình đẳng, nhiệt độ của địa
cầu sẽ chẳng tăng lên, khôi phục bình thường.
Vì thế, đức Phật chỉ dạy chúng ta: “Cần tu Giới, Định,
Huệ, tức diệt tham sân si” (siêng tu Giới, Định,
Huệ, dứt diệt tham, sân, si). Cảm ứng của
tham, sân, si là tai nạn, là bất thường. Giới,
Định, Huệ là bình thường. Do vậy, phải
phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm, một
phương hướng là Tây Phương, một mục
tiêu là thế giới Cực Lạc, một nguyện vọng
là thân cận A Di Đà Phật, chúng ta sẽ thành công trong một
đời này, những thứ khác đều là giả.
Học rộng nghe nhiều
khá lắm, nhưng [tai ương, vô thường] xảy
đến, [trở tay] chẳng kịp! Do vậy, tôi
thường khuyên các đồng học: Học rộng
nghe nhiều tốt lắm, nhưng sang thế giới Cực
Lạc hãy làm. Vì sao? Sang bên đó, điều đầu
tiên mà chúng ta đạt được là Vô Lượng Thọ,
dẫu học nhiều thứ vẫn được! Ta có
thời gian mà! Ở nơi đây, sanh mạng quá ngắn ngủi,
chúng ta chớ nên lãng phí thời gian, đừng lãng phí!
Hơn nữa, trong thế gian này, trí huệ chưa khai, học
gì cũng chẳng viên mãn, hiểu biết nửa vời, lại
còn phạm rất nhiều sai lầm, cớ gì cứ phải
như thế? Do vậy, phải thật thà, phải nghe lời!
Đức Phật dạy chúng ta một mực chuyên niệm,
đức Phật dạy như thế trong kinh văn của
kinh Vô Lượng Thọ. Tông (宗) là tôn chỉ, Tông nghĩa là gì? Là điều
quan trọng nhất. Đây là nói về phương pháp tu
học. [Tông] là phương pháp tu học quan trọng nhất,
là phương pháp đáng tôn sùng nhất, thập
phương chư Phật đều tán thán. Phương
pháp tu học chủ yếu của Tịnh Tông là “nhất hướng chuyên niệm”.
Chữ “Tông” có ba ý nghĩa ấy.
“Dĩ Di Đà thập niệm tất
sanh chi đại nguyện vi bổn” (lấy đại
nguyện “mười niệm ắt
sanh” của Phật Di Đà làm gốc). Đây là nguyện
thứ mười tám; “phát Bồ
Đề tâm” là nguyện thứ mười chín. Đây
là hai nguyện trọng yếu nhất trong bốn
mươi tám nguyện. Cổ đại đức nói
nguyện nào trọng yếu nhất trong bốn
mươi tám nguyện? Mọi người đều nói là
nguyện thứ mười tám. Nguyện thứ mười
tám là “mười niệm hay một
niệm, đều có thể vãng sanh”. Điều kiện
là gì? Điều kiện là trọn đủ tín nguyện.
Một niệm hay mười niệm là nói về lúc nào? Là
nói khi quý vị vãng sanh, lúc quý vị rời khỏi thế
gian, niệm cuối cùng [trong lúc ấy]. Niệm cuối
cùng là A Di Đà Phật, do niệm ấy bèn vãng sanh. Do vậy,
lúc lâm chung, nếu một niệm vẫn là nghĩ tới
tài sản trong nhà, xong luôn! Sẽ đi vào quỷ đạo!
Nếu nghĩ tới kẻ nào khiến ta bị oan uổng,
ta vẫn còn hận hắn, sẽ sanh vào địa ngục!
Một niệm cuối cùng quyết định quý vị từ
nơi này rốt cuộc sẽ sanh về đâu, mấu chốt
ở một niệm ấy; vì thế, một niệm rất
trọng yếu! Điều quan trọng nhất trong việc
đưa người khác đi vãng sanh (trợ niệm) là
giúp cho người ấy trong một niệm cuối cùng
đừng quên mất A Di Đà Phật. Chúng ta vây quanh
người ấy, niệm niệm đều là A Di Đà
Phật, nhắc nhở người ấy, công đức
vô lượng, bảo người ấy không nên có ý niệm
nào khác. Cổ đại đức đã làm rất tốt,
không cho phép người nhà, quyến thuộc gần gũi
người sắp mất. Khi người ấy sắp tắt
hơi, người nhà, quyến thuộc lánh đi để
người ấy chẳng khởi lên tình chấp. Hễ tình
chấp dấy lên, ngay lập tức [người sắp
mất ấy] bị đọa lạc, sanh trong tam ác đạo.
Người nhà, quyến thuộc rời khỏi, các đồng
tham đạo hữu giúp đỡ; đấy là chính xác. [Dẫu]
người nhà, quyến thuộc học Phật, tốt
nhất là cũng nên rời khỏi, [kẻo] người
sắp mất thấy con cháu sẽ dấy động tình
cảm, khi ấy, sẽ là vấn đề nghiêm trọng.
Vì thế, người nhà, quyến thuộc rời khỏi
người chết là chuyện hết sức hợp lý.
“Thâm minh tam bối vãng sanh chi nhân”
(Nêu tỏ sâu xa cái nhân vãng sanh của ba bậc). Trong kinh,
đức Phật đã nói rất rõ ràng, trong hai
chương Tam Bối Vãng Sanh và Vãng Sanh Chánh Nhân đã nói rõ
ràng, minh bạch. “Quảng nhiếp
cửu giới thánh phàm chi chúng” (rộng nhiếp các bậc
thánh phàm trong chín pháp giới): Pháp môn này quá lớn, có năng
lực nhiếp thọ chúng sanh trong chín pháp giới. Trong
chín pháp giới, ba pháp giới phía trên là Bồ Tát, Duyên Giác,
Thanh Văn, chúng ta gọi họ là thánh nhân. Bồ Tát là đại thánh, Thanh Văn và Duyên Giác
là tiểu thánh. Trong lục đạo đều là phàm phu,
phàm chúng. Niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ là đi
làm Phật, ai nấy đều có phần, quỷ thần
cũng có phần, trời, người cũng có phần,
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cũng có phần, vấn
đề là quý vị có phước báo và duyên phận gặp
gỡ hay không? Đã gặp, quý vị bèn tin tưởng,
phát nguyện vãng sanh thì sẽ thành. Nói theo Lý, đáng lẽ
Bồ Tát, A La Hán dễ [có phước đức và nhân duyên
tu pháp môn này] hơn chúng ta; vì sao kinh nói “trong mười pháp
giới, nhân gian vãng sanh thuận tiện nhất”, do nguyên
nhân nào? Trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh có tỷ
dụ: “Phú quý học đạo
nan”; người phú quý hưởng phước, quên tuốt,
coi thường chuyện học Phật. Bần cùng học
đạo cũng khó! Kẻ bần cùng cuộc sống quá
khổ, ba bữa còn chưa đủ ăn, bận bịu
kiếm sống, chẳng có thời gian để học
Phật. Còn loài người thì sao? Chẳng thể coi là rất
giàu có, nhưng cũng là chẳng thanh bần, thuộc loại
thường thường bậc trung, dễ giác ngộ, dễ
tu hành. Thuận tiện ở chỗ này! Chúng ta có thể hiểu
được! Cuộc sống của chư thiên nhân tốt
đẹp hơn chúng ta, phước báo to lớn; còn tam ác
đạo thì sao? Quá khổ sở!
Hiện
thời, dường như tình hình có biến hóa đôi chút.
Tôi nghe không ít tin tức, ngay cả ngạ quỷ, địa
ngục niệm Phật vãng sanh cũng không ít; ngược
lại, con người chẳng tin! Người niệm Phật
đến cuối cùng đều niệm đến nỗi
sanh vào quỷ đạo hay địa ngục, chuyện này
là như thế nào? Đối với chuyện này, nếu
chư vị đọc bộ Đại Thế Chí Viên Thông
Chương Sớ Sao của pháp sư Từ Vân Quán Đảnh,
Đại Thế Chí Viên Thông
Chương rất ngắn, hai trăm bốn mươi bốn
chữ, mà bản chú giải của Ngài là một quyển
dầy như thế. Bản tôi đọc chính là loại
sách đóng gáy bằng cách xâu chỉ, là một quyển dầy
như thế đó! Nơi trang cuối, thuở ấy, tôi
đọc mà không hiểu, Ngài nói một trăm thứ
quả báo của người niệm Phật; câu đầu
tiên là người niệm Phật đọa A Tỳ địa
ngục, đọa ngạ quỷ, đọa súc sanh. Tôi đọc
xong, hết sức nghi hoặc, cầm cuốn sách ấy đến
hỏi thầy, tôi học kinh giáo với lão cư sĩ Lý
Bỉnh Nam.
Tôi hỏi: “Thưa thầy, niệm Phật là chuyện tốt,
nhưng niệm Phật như thế nào mà đọa
địa ngục?” Thầy xem rồi bảo: “Đây là một
vấn đề lớn, quan trọng lắm, tôi chẳng
nói với một mình anh! Khi giảng kinh tôi sẽ giảng
giải đạo lý này cùng mọi người”. Thật ra,
quý vị dùng cái tâm gì để niệm Phật? Quý vị
niệm Phật, nhưng chẳng đoạn tham, sân, si. Tham,
sân, si, mạn, nghi gọi là Ngũ Độc. Quý vị
dùng tâm Ngũ Độc này để niệm Phật thì vẫn
đọa địa ngục; do vậy, chẳng thể không
hiểu nhân quả. Vậy thì niệm Phật có uổng công
hay không? Chẳng phí công niệm Phật! Trong A Lại Da Thức
đã gieo chủng tử Phật. Trước hết, quý vị
gánh chịu quả báo do các tội nghiệp đã tạo tác,
đợi cho đến khi quý vị thoát khỏi địa
ngục, chẳng biết tới đời nào đó, lại
được làm thân người, lại gặp gỡ Phật
pháp, gặp được pháp môn Tịnh Độ, quý vị
lại tu tiếp. Vì thế, chỉ có thể nói là trong A Lại
Da Thức đã gieo chủng tử niệm Phật, chủng
tử ấy vĩnh viễn bất hoại, sau này nhất
định sẽ khởi tác dụng. Lợi ích ấy
cũng rất thù thắng, nhưng luân hồi trong lục
đạo, quý vị vẫn phải chịu hết các nỗi
khổ sở. Do vậy, niệm Phật phải dùng Bồ
Đề tâm để niệm, chân thành, thanh tịnh, bình
đẳng, chánh giác, từ bi. Quý vị dùng tâm này để
niệm, sẽ hoàn toàn tương ứng; đúng là “nhất niệm tương ứng
nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng
niệm niệm Phật”.
“Chánh hiển trì danh niệm Phật
chi pháp, trực chỉ vãng sanh quy nguyên chi lộ. Thị cố,
thử kinh xưng vi Tịnh Tông đệ nhất kinh dã” (Chỉ rõ ràng phương pháp Trì Danh Niệm
Phật, chỉ thẳng con đường vãng sanh để
trở về nguồn. Vì thế, kinh này được gọi
là kinh bậc nhất của Tịnh Tông). Quả thật tổ
sư đại đức đã chỉ rõ phương
pháp Trì Danh Niệm Phật; đấy là chỉ thẳng,
không đi đường vòng, chỉ thẳng thừng một
con đường gần nhất, con đường thẳng
ấy không ngoằn ngoèo. Dẫn đến đâu? Vãng sanh
quy nguyên! “Quy nguyên” là trở
về nguyên thủy, nguyên thủy là gì? Tự tánh. Y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới từ tự
tánh biến hiện. Tự tánh có thể sanh, có thể hiện,
A Lại Da có thể biến; đấy là y báo và chánh báo
trang nghiêm trong mười pháp giới. Chúng ta gặp Phật,
Bồ Tát; Phật, Bồ Tát cũng ở trong mười
pháp giới, cũng có cùng một hoàn cảnh bị khổ,
chịu nạn như chúng ta, nhưng các Ngài giác ngộ, quy
nguyên, trở về tự tánh. Chúng ta thường nói các Ngài
“thành Phật, thành Bồ Tát”, trở về tự tánh. Các
Ngài hiểu rõ, minh bạch, nên các Ngài đến chỉ dạy,
giáo hóa chúng ta làm thế nào thoát ly biển khổ. Lục
đạo là biển khổ. Trong biển khổ sâu thẳm,
tứ thánh pháp giới là chỗ ven bờ, chỗ biển
cạn, lên được bờ mới tính là thoát ly. Bờ
ấy được gọi là “bỉ
ngạn” (bờ bên kia), là “Niết
Bàn bỉ ngạn”. Niết Bàn là bất sanh, bất diệt,
công đức viên mãn. Bỉ ngạn là cõi Thật Báo Trang
Nghiêm. Đức Phật giáo hóa, giúp đỡ hết thảy
chúng sanh [đạt đến Niết Bàn] mới được
coi là viên mãn. Do vậy, kinh này là kinh bậc nhất của Tịnh
Tông, Tịnh Tông đồng học chẳng thể không học.
Lại đọc
tiếp: “Đản thử thù
thắng đệ nhất chi Tịnh Tông bảo điển,
cánh tại ngã quốc Đại Tạng trung trần phong
nhất thiên dư niên” (Nhưng kinh điển quý báu bậc
nhất của Tịnh Tông này bị bụi phủ trong Đại
Tạng Kinh nước ta đã hơn một ngàn năm). Kinh
Vô Lượng Thọ được truyền sang Trung Quốc
sớm nhất, vào thời đại Đông Hán. Vào thời
Hậu Hán, ngài An Thế Cao đến Trung Quốc, kinh Vô
Lượng Thọ liền được truyền sang Trung
Quốc, cho nên cũng là kinh được phiên dịch sớm
nhất. Thời đại Đông Tấn, Huệ Viễn
đại sư lập Niệm Phật Đường tại
Lô Sơn, tức Đông Lâm Niệm Phật Đường,
nay là Đông Lâm Tự, [là đạo tràng] cho các đồng
học chuyên tu Tịnh Độ, trong ấy người tại
gia lẫn xuất gia, tổng cộng một trăm hai
mươi ba người. Một trăm hai mươi ba người
cùng nhau niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thưa
cùng quý vị, kinh điển để làm căn cứ là
kinh Vô Lượng Thọ, vì khi đó, kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật và kinh A Di Đà đều chưa truyền
sang Trung Quốc, kinh điển Tịnh Tông chỉ có một
bộ này. Vì thế, cả nhóm người của vị tổ
sư đời thứ nhất là Huệ Viễn đại
sư dựa theo kinh Vô Lượng Thọ, không dễ dàng!
Đối với bộ kinh này mà có thể tin, có thể hiểu,
có thể phát nguyện, có thể thật sự hành, há dễ
dàng ư? Chúng ta xem truyện ký của Huệ Viễn đại
sư trong Cao Tăng Truyện, quý vị có thể thấy được
tình hình tu hành nồng nhiệt thuở ấy. Họ kết
giới an cư, phía trước [đạo tràng] có một
con suối nhỏ, tên là Hổ Khê. Chúng tôi suy đoán, chắc
là khi ấy trên núi có cọp, nên mới gọi là Hổ Khê.
Hổ Khê là giới tuyến của họ, người tu
hành nhất định chẳng rời khỏi giới tuyến
này. Tại Trung Quốc, Nho, Thích, Đạo là một nhà, nên
cũng có một câu chuyện về Viễn Công được
gọi là Hổ Khê Tam Tiếu. Có hai người bạn thân
đến thăm, Đào Uyên Minh (Đào Tiềm) là Nho gia, Lục
đạo trưởng tu Đạo, tới Đông Lâm thăm
Viễn Công, nói chuyện rất cao hứng. Lúc chia tay, Viễn
Công đưa tiễn, vô tình vượt qua Hổ Khê. Bước
qua chiếc cầu bắt ngang Hổ Khê, sau khi bước
qua khỏi, ba người cười ha hả. Đó là giới
tuyến, chẳng thể vượt qua, mà nghiễm nhiên
đi quá lố. Vì thế, truyền thống văn hóa Trung
Quốc chẳng tách rời Nho, Thích, Đạo, vững vàng
như cái đỉnh có đủ ba chân.
Viễn Công
nương theo bộ kinh này tu hành; nhưng người
đời sau không sốt sắng dốc công nơi kinh này
như vậy, là vì không lâu sau đó, ước chừng chưa
đầy năm mươi năm, kinh Di Đà và Quán Kinh được
dịch ra. Quả thật, vào thời kỳ đầu của
Tịnh Tông, điển tịch Phạn văn được
truyền sang Trung Quốc, người ta thường dốc
công nhiều nhất nơi kinh Di Đà, chú sớ [kinh Di Đà]
cũng nhiều nhất. Hơn một ngàn năm qua, kinh này
(kinh Vô Lượng Thọ) không được Tịnh Tông
chú trọng vì nguyên nhân gì? Sách viết tiếp: “Khảo kỳ nguyên nhân, cái do thử
kinh ngũ chủng nguyên dịch, hỗ hữu tường
lược, xuất nhập thậm cự” (xét đến
nguyên nhân là do năm bản dịch gốc của kinh này, có
bản chi tiết, có bản đại lược, sai biệt
quá lớn), phải biết nguyên nhân là như vậy. Năm
bản dịch gốc được nói đến ở đây
hiện thời được bảo lưu trong Đại
Tạng Kinh, kinh Vô Lượng Thọ có năm bản dịch.
Theo Dịch Kinh Mục Lục, từ triều Hán tới
triều Tống, có mười hai bản dịch, quá nhiều,
rốt cuộc nên tuân theo bản nào? Trong các bản dịch
này, sai biệt rất lớn, ở đây, cụ Hoàng nêu một
ví dụ, “lệ như Di
Đà đại nguyện” (chẳng hạn như đại
nguyện của Phật Di Đà). Chúng ta thường nói bốn
mươi tám nguyện thì bốn mươi tám nguyện
là dựa theo bản dịch đời Ngụy và đời
Đường, hai bản này chép bốn mươi tám nguyện.
Trong bản dịch đời Hán và Ngô, Ngô [ở đây] là
nhà Đông Ngô thời Tam Quốc, do Chi Khiêm phiên dịch, thì
là hai mươi bốn nguyện. Trong bản dịch đời
Tống là ba mươi sáu nguyện, sai biệt quá lớn!
Nếu chỉ có một bản gốc bằng tiếng Phạn,
bất luận là ai dịch, đương nhiên văn tự
sẽ không giống nhau, nhưng ý nghĩa nhất định
như nhau, chẳng hạn các điều trong lời nguyện
nhất định sẽ giống nhau, chẳng thể nào
có sai biệt lớn như vậy. Do đó, cổ nhân phán
đoán: Thích Ca Mâu Ni Phật thuở còn tại thế đã
nhiều lần tuyên giảng kinh này, nên mới có tình hình này
xuất hiện. Đức Thế Tôn giảng kinh từ
trước tới nay, chưa hề giảng kinh nào hai lần,
chỉ giảng một lần, chẳng giảng hai lần,
chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được tuyên
giảng nhiều lần, chứng tỏ tầm quan trọng
của bộ kinh này và tầm quan trọng của pháp môn này.
Tổ sư đại đức đã chỉ ra như vậy!
“Toại sử sơ tâm học giả,
chuyên trì nhất dịch, nan minh thâm chỉ, biến độc
ngũ chủng, hựu cảm gian nan” (Khiến cho người
mới học chuyên trì một bản dịch sẽ khó thấu
hiểu tông chỉ sâu xa; nếu đọc trọn năm
bản dịch, sẽ cảm thấy khó khăn). Thật
khó! Quý vị thấy vào đời Tống, cư sĩ Vương
Long Thư là một vị đại đức lỗi lạc,
nhưng không thể đọc cả năm bản dịch
gốc, chỉ được thấy bốn bản. Vì thế,
bản hội tập của ông căn cứ trên bốn bản
dịch gốc. Bản dịch đời Đường
chính là hội Vô Lượng Thọ trong kinh Đại Bảo
Tích, ông Vương Long Thư chưa được đọc
bản dịch này! Trong bản này, có rất nhiều khai thị
tuyệt diệu, mà bốn bản dịch kia không nhắc
tới. Vì thế, bản hội tập này
chưa hoàn mỹ. Quý vị hãy suy nghĩ: Có địa vị,
giàu có như Vương Long Thư, mà còn chẳng có cách nào sưu
tập hoàn toàn năm bản dịch gốc, vẫn thiếu
mất một loại, tìm không ra! Xưa kia, tìm một bản
kinh là chuyện hết sức khó khăn! Vì thế, cổ
đại đức dạy chúng ta: Kinh điển phải
bảo tồn rất cẩn thận, khi đọc phải
cẩn thận. Trên kinh bổn, quyết định không thể
đánh dấu hay viết chữ, chớ nên gây hư hại.
Vì sao? Nhằm lưu truyền cho hậu thế, để
người đời sau có kinh để đọc. Không
như hiện thời, thuật ấn
loát phát triển, thuận tiện như thế. Vì lẽ
đó, có người hỏi tôi: “Chúng con có thể viết
chữ hay đánh dấu trên cuốn kinh được hay
không?” Tôi bảo: “Được chứ!” Vì sao? Quá nhiều!
Chẳng bị thất truyền! Trước kia quá ít, sợ
bị thất truyền. Từ đời Tống trở
về trước, kinh điển toàn là chép bằng tay, kỹ
thuật ấn loát mới được phát minh vào đời
Tống, nhưng dùng bản khắc gỗ để in, suy
cho cùng vẫn là hữu hạn, hết sức hữu hạn.
Ấn loát phát triển cũng chỉ trong năm
mươi năm gần đây, chứ năm mươi
năm trước đó, sắp chữ đúc bằng kim
loại vẫn khá phiền phức. Hiện thời quá thuận
tiện, chúng ta phải hiểu điều này. Đối
với bản in hiện thời, nếu quý vị cảm
thấy chỗ nào rất quan trọng, có thể đánh dấu,
có thể gạch một vạch đỏ, như Hoằng
Nhất đại sư đọc sách, dùng các màu khác nhau để
đánh dấu; kinh bổn nhiều, có thể làm theo cách này!
“Ư thị, đa xả thử
kinh, nhi chuyên công A Di Đà kinh hỹ” (do vậy, đa số
bỏ kinh này để dốc sức nơi kinh A Di Đà).
Đây là lý do vì sao từ xưa tới nay, ít người giảng
kinh này, người chú giải kinh này cũng ít, nhưng
đối với kinh A Di Đà, chú giải đông, giảng
giải nhiều. Do vậy, Tịnh Tông gần như coi
kinh A Di Đà là bộ kinh quan trọng nhất. “Thanh sơ, Bành Thiệu Thăng
cư sĩ viết” (đầu đời Thanh, cư sĩ
Bành Thiệu Thăng nói), Bành Thiệu Thăng là Bành Tế Thanh,
“thử kinh xiển
dương giả thiểu, thật dĩ vô thiện bổn
cố” (kinh này ít người xiển dương, thật
ra là vì chưa có bản hoàn thiện), lời này rất hợp
lý! Chưa có bản nào tận thiện! Quý vị nhìn vào năm
bản dịch gốc sẽ biết liền! “Thành tai thị ngôn! Thị
dĩ, Tống Vương Nhật Hưu, Thanh Bành Thiệu
Thăng, Ngụy Thừa Quán đẳng đại cư
sĩ, quân vị hoằng dương thử kinh, tiên hậu
nhi hữu hội bổn dữ tiết bổn chi tác” (Lời
ấy đúng thay! Do vậy, các vị đại cư sĩ
như ông Vương Nhật Hưu đời Tống, Bành
Thiệu Thăng và Ngụy Thừa Quán đời Thanh, vì
hoằng dương kinh này mà trước sau đã có các bản
hội tập và bản trích lục, phân chia chương đoạn).
Đến phần sau, sẽ giới thiệu tỉ mỉ
[chuyện này]. Đời Tống, cư sĩ Vương Long
Thư, Vương Nhật Hưu là Vương Long Thư,
từng viết cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn.
Long Thư là địa danh, cũng chính là Thư Thành ở
tỉnh An Huy quê tôi, cách nơi tôi sanh ra rất gần. Cuốn
Tịnh Độ Văn của ông Vương viết hết
sức hay, nhiều người do đọc cuốn sách này
mà tu Tịnh Độ, tiếp dẫn rất nhiều
người. Ngụy Thừa Quán là Ngụy Mặc Thâm, là người
thuộc niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh. Những vị này đều
là đại đức cư sĩ, Bành Thiệu Thăng sống
vào thời Càn Long. Vương cư sĩ và Ngụy cư
sĩ đều có bản hội tập kinh Vô Lượng
Thọ, họ soạn bản hội tập, còn Bành Thiệu
Thăng soạn tiết bổn, [tức là] ông ta chỉ lấy
một bản, tức bản dịch của ngài Khang
Tăng Khải, đem chỉnh lý, san đính[3] một lần nữa. Nay chúng ta nói “san đính” tức là gạt bỏ
những phần khó hiểu, chẳng dễ đọc, tạo
thành bản trích lược, trở thành dễ đọc hơn.
Vì thế mới có một tiết bổn và hai loại bản
hội tập.
Tiếp đó,
sách giới thiệu, “Tống
đại, đại cư sĩ Vương Nhật
Hưu, tằng soạn Long Thư Tịnh Độ Văn,
tứ hải xưng dự, truyền tụng chí kim” (đời
Tống, đại cư sĩ Vương Nhật Hưu
từng viết Long Thư Tịnh Độ Văn, được
bốn biển khen ngợi, truyền tụng đến
nay). Các đồng học tu Tịnh Độ, hình như
rất ít ai chưa đọc Long Thư Tịnh Độ
văn. Khi chúng tôi mới học Phật, cũng hết sức
ưa thích bộ sách này. Viết hay lắm, có thể coi như
sách để học Quốc Văn. “Vương thị lâm chung, đoan lập vãng sanh”
(Họ Vương lúc lâm chung, đứng thẳng vãng
sanh), cư sĩ Vương Long Thư đứng vãng sanh,
biết trước lúc mất, chẳng ngã bệnh. Trong Cư
Sĩ Truyện, trong Đại Tạng Kinh có bộ Cư Sĩ
Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đều
có ghi chép. “Khả chứng
cư sĩ thật vi ngã quốc Tịnh Tông giải hạnh
câu ưu, thù thắng hy hữu chi tại gia đại
đức” (Đủ chứng tỏ Vương cư
sĩ là bậc tại gia đại đức thù thắng
hiếm có, hạnh lẫn giải đều tốt đẹp
trong Tịnh Tông nước ta). Chúng ta thấy ông ta vãng sanh,
cách ông ta biểu diễn, chúng ta liền biết ông ta vãng
sanh chẳng giả chút nào, đứng mất. “Vương thị thâm khái bảo
điển chi trần phong, ư thị nãi hội tập Vô
Lượng Thọ kinh, Hán, Ngụy, Ngô, Tống tứ chủng
nguyên dịch, lánh thành nhất bổn, danh vi Đại A Di
Đà Kinh” (Họ Vương tiếc nuối sâu xa bảo
điển bị phủ bụi, bèn hội tập bốn
bản dịch gốc các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống,
tạo thành một bản riêng, đặt tên là Đại
A Di Đà Kinh). Trong Long Tạng (Càn Long Đại Tạng
Kinh) có bản này, hình như Nhật Bản Đại Chánh
Tạng[4] cũng có, Đại Chánh Tạng cũng
thu nhập bản này. Có thể đưa vào Đại Tạng
Kinh tức là bản này được lịch đại
cao tăng đại đức công nhận, nên mới có
thể “nhập Tạng” (đưa vào Đại Tạng
Kinh). Vì lẽ đó, Đại Tạng Kinh là tiêu chuẩn thật
sự. Nếu chúng ta muốn học kinh điển, nhưng
kinh điển ngụy tạo rất nhiều, rốt cuộc
kinh nào là thật, bộ kinh nào đáng tin cậy? Vào thời
cổ, khi quý vị xem Đại Tạng, hễ kinh nào có
trong Mục Lục của Đại Tạng sẽ là đáng
tin cậy, kinh nào không có, chẳng đáng tin cậy! Đây
là lập một tiêu chuẩn cho người đời
sau. Nhưng tốt nhất là nếu quý vị có được
một bản, đối chiếu với Đại Tạng
Kinh [thấy có bản kinh ấy] sẽ càng yên tâm. Quý vị
thấy ông Vương chỉ dùng bốn bản dịch gốc
thuộc các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống, thiếu bản
dịch đời Đường, chỉ có bốn bản!
“Vương bổn xuất thế,
hải nội xưng tiện, tùng lâm phụng vi khóa bổn”
(bản của ông Vương ra đời được
trong nước khen là tiện lợi, chốn tùng lâm dùng làm
kinh nhật tụng). “Tùng lâm”
là Phật môn đạo tràng, nhà Phật gọi là tùng lâm, còn
hiện tại thì sao? Hiện thời là đại học.
Nói thật ra, tùng lâm là đại học Phật giáo, có chế
độ chánh thức, được chế độ
hóa. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh giáo học, giống
như trường tư thục do tư nhân quản lý,
không có chế độ, giống như thuở Khổng lão
phu tử còn tại thế dạy học, không có trường
học nào theo hệ thống, quy chế chánh quy, không có! Tại
Trung Quốc, đến thời Tùy - Đường, [trường
học] mới chính thức đi vào khuôn khổ. Vì thế,
đây là một điểm đặc sắc của Phật
giáo Trung Quốc. Thuở đó, thầy Phương bảo
tôi: “Tùng lâm là một sáng kiến
mang tính cách mạng của Phật giáo Trung Quốc, chính thức biến tu viện thành trường
học”. Người đứng
đầu tùng lâm được gọi là Chủ Tịch,
còn gọi là Phương Trượng Trụ Trì, đó là
gì? Hiệu Trưởng! [Trụ Trì] là chức vị Hiệu
Trưởng. Thủ Tọa Hòa Thượng là Giáo Vụ Trưởng.
Duy Na là Huấn Đạo Trưởng. Giám Viện là Tổng
Vụ Trưởng. Phân công những người chịu
trách nhiệm hoàn toàn giống như cách tổ chức của
một trường đại học hiện thời; danh
xưng khác nhau, nhưng trên thực tế, Duy Na đúng là Huấn Đạo Trưởng, [phụ
trách] giáo huấn, chỉ đạo. Điện, đường
là phòng học, “chia ra nơi chốn để giảng kinh”
(phân tòa giảng kinh). Quý vị thích học khoa mục nào, sẽ
có thầy chỉ dạy, có giảng đường nhất
định, giống như trong nhà trường. Vì vậy,
quý vị phải hiểu Phật giáo truyền tới Trung
Quốc là giáo dục, chẳng phải là tôn giáo, mãi cho tới
niên hiệu Càn Long nhà Thanh vẫn chưa bị biến chất,
luôn là giáo dục. Tùng lâm là đại học, [ngoài ra] còn có
những ngôi chùa nhỏ. Chùa nhỏ là trường chuyên
khoa, chỉ học một thứ. Tịnh Tông đạo
tràng tu tập năm kinh Tịnh Độ, chẳng có “phân
tòa giảng kinh” (chia thành nhiều pháp môn để giảng
kinh chuyên biệt), là trường chuyên khoa chuyên dốc sức
vào một môn, hoặc là cũng học các kinh luận có liên
quan đến môn này. Tình hình là như vậy đó.
Hiện
thời Phật giáo suy vi, do đâu mà suy? Vứt bỏ giáo
học. Sau khi vứt bỏ giáo học, kinh sám Phật sự
trở thành hưng vượng, biến Phật giáo thành
tôn giáo, thật sự trở thành tôn giáo, chúng ta cũng chẳng
thể không thừa nhận, nó quả thật biến thành
tôn giáo, đã quên mất gốc, Phật giáo vốn chẳng
phải là tôn giáo! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
quý vị kiểm trong kinh điển, đức Phật chẳng
làm Phật sự một ngày nào. Nếu làm Phật sự một
bữa nào, kinh điển phải ghi chép tường tận,
nhưng chẳng thấy! Trong Đại Tạng Kinh có nhiều tài liệu về kinh sám, Phật
sự. [Những thứ ấy] do người đời
sau, tức các vị tổ sư đại đức
đời sau biên soạn, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật
[nói ra]. Vì vậy, chẳng thể không biết vì sao Phật
giáo trở thành nông nỗi này, suy vi đến tình trạng
này, nhất định phải hiểu rõ ràng. Tiên sinh Phương
Đông Mỹ đã nhiều lần nhắc nhở tôi:
“Phật giáo Trung Quốc muốn
phục hưng, nhất định phải thực hiện
bằng cách khôi phục chế độ tùng lâm”. Đó
chính là mở trường đại học, phải thực
hiện giáo dục. Vào thời đầu Dân Quốc, có mấy
vị [đã làm chuyện này], nhưng thời gian rất ngắn,
đều chẳng còn nữa! Hình như có một vị
pháp sư mở Hoa Nghiêm Đại Học, pháp sư Thái Hư
mở Phật học viện tại Hạ Môn. Pháp sư Viên
Anh mở Lăng Nghiêm Chuyên Tông Học Viện tại Thượng
Hải. Có mấy vị làm, nhưng thời gian cũng
không dài, sau này đều chẳng còn nữa. Pháp sư Đế
Nhàn giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời
giảng kinh, dạy học. Ngài thuộc tông Thiên Thai, đào
tạo không ít nhân tài. Ở Mỹ, tôi còn gặp môn hạ của
Ngài. Hội dịch, hội tập là chuyện có lý, ông Vương
Long Thư hội tập đầu tiên, được tùng
lâm tôn trọng, dùng bản ấy làm kinh nhật tụng. “Ngã quốc Long Tạng” (Long Tạng
nước ta) chính là Đại Tạng kinh được
biên tập dưới thời vua Càn Long, “cập Nhật Bản Đại Chánh Tạng diệc
quân thái nhập Vương bổn” (và Đại Chánh Tạng của Nhật Bản cũng đều
chọn bản của ông Vương để nhập tạng),
dùng bản của ông Vương Long Thư, tức là bản
hội tập của ông Vương Nhật Hưu.
“Liên Trì đại sư viết”
(Liên Trì đại sư nói). Liên Trì đại sư sống
vào cuối đời Minh, lúc tại thế, Ngài đã phục
hưng Tịnh Độ Tông, hết sức khó có! Đạo tràng của Ngài ở Hàng
Châu. Ngài nói: “Vương thị
sở hội, giảo chi ngũ dịch, giản dị
minh hiển, lưu thông kim thế, lợi ích thậm đại”
(bản hội tập của họ Vương, so với
năm bản dịch gốc, đơn giản, dễ hiểu,
rõ ràng, được lưu thông trong đời hiện tại,
lợi ích rất lớn). Đây là lời tán thán của vị
tổ sư đời thứ tám của
Tịnh Độ Tông là Liên Trì đại sư đối
với ông Vương Long Thư. “Hựu viết: Dĩ Vương bổn thế sở
thông hành, nhân tập kiến
cố” (Lại nói: Do bản của ông Vương được
lưu hành rộng rãi trong cõi đời, người ta quen
thấy), do được lưu thông rất rộng, người
đọc tụng rất nhiều. “Cố ư sở trước Di Đà Sớ Sao trung,
phàm dẫn chứng Vô Lượng Thọ Kinh chi xứ, đa
thủ Vương văn, gián thái nguyên dịch” (Vì thế,
đối với tác phẩm Di Đà Sớ Sao của tôi,
hễ chỗ nào dẫn chứng kinh Vô Lượng Thọ,
phần lớn trích theo bản của ông Vương, chỉ
đôi khi dẫn theo bản dịch gốc). Hình như tôi đã
giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao đôi ba lần, quả thật
[là một tác phẩm] hết sức hay! Do trong thời đại
đó, chúng ta nhìn vào nội dung sách Sớ Sao, giống
như chúng ta nhìn vào toa thuốc, sẽ biết những người
ấy đang bị bệnh gì. Trong thời đại đó,
trên lãnh thổ Trung Quốc, Phật giáo Thiền Tông hết
sức hưng thịnh, nhiều kẻ coi rẻ, xem thường
Tịnh Độ. Do vậy, trong Sớ Sao, Liên Trì đại
sư đã dùng gì để chú giải kinh A Di Đà? Dùng Hoa
Nghiêm, nâng kinh Di Đà lên ngang tầm vóc kinh Hoa Nghiêm, khiến
mọi người tôn trọng! Rất tuyệt vời! Quả
thật lời của cư sĩ Bành Tế Thanh đã nói,
trong phần sau cũng có dẫn chứng lời này, có lý lắm!
Cư sĩ Bành Tế Thanh nói kinh Vô Lượng Thọ là
Hoa Nghiêm trung bổn. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm là Đại Vô
Lượng Thọ Kinh. Hoặc nói cách khác, kinh A Di Đà là
Tiểu Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ,
kinh Di Đà một mà ba, ba mà một, Liên Trì đại
sư đề xướng điều này, được
các bậc cao tăng đại đức trong Phật môn công
nhận, tán đồng, Tịnh Độ lại được
hưng vượng, nên Ngài được xưng tụng
là tổ sư đời thứ tám.
Tổ
sư của Tịnh Độ Tông không giống như
trong các tông phái khác, các tông phái là khác là “đại đại tương truyền”, [tức
là] từ một đời này truyền lại cho đời
sau, trong Tịnh Độ Tông không có [thể lệ ấy].
Tịnh Độ Tông chẳng phải là “đại đại tương truyền”, mà là
sau khi vị đại đức ấy đã vãng sanh, người
đời sau khẳng định vị ấy đối
với Tịnh Độ Tông có cống hiến đặc
thù, bèn tôn vị ấy làm tổ sư. Vì thế, tổ sư
Tịnh Độ Tông là do dân tuyển (bầu chọn), chẳng
phải đời này truyền sang
đời kia, mà là dân tuyển. Giống như thời cận
đại, Ấn Quang đại sư đối với Tịnh
Độ Tông có cống hiến rất lớn, mọi
người công nhận Ngài xứng đáng là vị tổ
sư đời thứ mười ba. Nếu là tổ
tổ tương truyền (tổ sư này truyền cho tổ
sư kia), phải biết là sẽ có tới sáu bảy mươi
đời, nhưng Tịnh Độ Tông mới có mười
ba đời. Nếu như đời này không có người
như vậy, sẽ không ai được chọn. Thật
sự có cống hiến đặc thù đối với sự
tu trì và hoằng dương Tịnh Tông, người ấy
sẽ được người đời sau tôn xưng
là “nhất đại tổ
sư” (tổ sư trong một đời). Tổ sư
[trong Tịnh Tông] do đó mà có, do dân tuyển. [Chư Tổ
của] Tịnh Tông được gọi là “đại
sư” cũng là do đặc biệt tôn trọng, bởi lẽ,
đây cũng là một kiến thức thông thường
quý vị cần biết. Chữ “đại sư” chẳng
thể tùy tiện xưng hô! Danh xưng “đại sư”
trong Phật môn chuyên dùng để gọi Thích Ca Mâu Ni. Quý vị
thấy đó: Trước kia, thầy của hoàng đế
gọi là Quốc Sư; người phiên dịch kinh điển
được gọi là Tam Tạng Pháp Sư, bậc đại
đức trong Thiền môn gọi là Thiền Sư, vị
nào chuyên dốc sức nơi Luật thì gọi là Luật Sư,
nghiên cứu luận điển thành công bèn gọi là Luận
Sư, không ai xưng là đại sư! Chỉ có Tịnh
Độ tông xưng là đại sư, vì sao? Các vị ấy
chẳng khác gì Phật, có thể chỉ dạy chúng sanh niệm
Phật vãng sanh, hễ vãng sanh bèn thành Phật. Quý vị xem:
Phật độ chúng sanh chẳng phải [chỉ dạy,
giúp họ] thành Phật đó sao? Những vị đại
đức độ chúng sanh dùng pháp môn này, cũng dạy
họ thành Phật trong một đời, có khác gì Phật?
[Cho nên] đều gọi là đại sư. Vì thế, chỉ
có tổ sư Tịnh Tông được gọi là đại
sư, phải biết kiến thức thông thường này!
Nay chúng ta là kẻ tầm thường mà xưng là đại
sư tức là quá lố, không thể được!
Tiếp
theo đó là: “Hựu U Khê đại
sư cánh hữu thịnh yên” (hơn nữa, U Khê đại
sư càng dùng rộng rãi hơn), đây
là một vị cùng thời đại với Liên Trì đại
sư, cũng là một vị đại đức trong Tịnh
Tông. Ngài có trước tác bộ Di Đà Viên Trung Sao. Khi
chúng tôi mới vừa tiếp xúc Tịnh Tông, thầy
có trao cho tôi ba bản chú giải, ba bản chú giải ấy
là ba tác phẩm chú giải kinh Di Đà có uy tín nhất, người
tu Tịnh Độ chẳng thể không đọc. Thứ
nhất là A Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Trì đại
sư, thứ hai là Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư trong bộ Tịnh Độ Thập Yếu; thứ
ba là Viên Trung Sao của U Khê đại sư. Ba bản chú
giải này là tác phẩm chú giải kinh Di Đà có uy tín nhất.
Trong Viên Trung Sao, hễ trích dẫn kinh văn của kinh Vô
Lượng Thọ bèn hoàn toàn dùng bản hội tập của
ông Vương Long Thư. Trong bộ Sớ Sao của Liên
Trì đại sư, đại khái là trích dẫn bản hội
tập của ông Vương Long Thư hơn phân nửa một
chút, phần còn lại vẫn trích dẫn từ các bản
dịch gốc. “Cận đại,
Ấn Quang đại sư ư sở soạn Trùng Khắc
Viên Trung Sao Tự trung, diệc tán Vương bổn
văn nghĩa tường tất, cử thế lưu
thông” (gần đây, trong bài Tựa Tái Bản Bộ Viên
Trung Sao do Ấn Quang đại sư viết, Ngài cũng
khen ngợi bản của ông Vương văn lẫn nghĩa
tường tận, đầy đủ, lưu thông rộng
rãi trên cõi đời). Cận đại, trong Ấn Quang Văn
Sao có bài này, đây là một thiên văn chương của
Ngài. Trong bài Trùng Khắc A Di Đà Kinh Viên Trung Sao Tự, Ngài
đã tán thán như vậy, chứng tỏ việc hội
tập là chính xác, là chuyện phải có người đứng
ra làm. Vậy mà trong thời cận đại có người
phê bình hội tập là sai lầm, lời này nói chẳng xuôi
tai!
Có rất
nhiều người đến hỏi tôi, đối với
bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên
Cư, ở trong nước lẫn Đài Loan đều có
những vị đại đức trong Phật môn phản
đối “đừng nên làm chuyện này”, [họ đem
chuyện ấy] tới hỏi tôi. Tôi nói: Nếu chúng ta chẳng
thừa nhận việc hội tập, cho là không đúng pháp,
sẽ có rất nhiều vấn đề! Hiện thời,
trong nhà chùa, khóa tụng sáng tối chẳng phải do Thích
Ca Mâu Ni Phật đã nói, kinh văn và nghi quy trong ấy đều
là hội tập, cũng chẳng thể dùng những khóa bản
ấy! Bình thường, quý vị làm Phật sự, như
Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, Đại Bi Sám, Diệm Khẩu,
Thủy Lục, những bản ấy toàn là hội tập,
thảy đều chẳng thể dùng. Khóa tụng sáng tối
trong nhà chùa phải đọc nguyên văn mới đúng, vậy
thì rất nhiều thứ trong nhà chùa đều trở
thành có vấn đề, đều chẳng đúng pháp! Quý
vị thấy trong Phật môn có bao nhiêu thứ là hội tập
của tổ sư đại đức từ xưa đến
nay. Vì thế, phải hiểu đạo lý này, chẳng thể
không nói theo lý. Sau khi quý vị đều hiểu rõ, sẽ
biết hội tập là cần thiết, nhất là thuở
ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy chúng ta: “Y pháp, bất y nhân; y nghĩa, bất
y ngữ; y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa;
y trí, bất y thức”. Hơn nữa, kinh Đại Thừa
thường dạy: “Phật
vô hữu định pháp khả thuyết” (Phật không
có pháp nhất định nào để nói), “pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”
(pháp còn nên bỏ, huống gì phi pháp), nói rành mạch, triệt
để như vậy! Vì thế, chúng ta nhất định
phải hiểu pháp do đâu mà có? Do con người mà
hưng khởi, người ta mắc bệnh gì, đức
Phật bèn kê toa thuốc đó; người không có bệnh,
sẽ chẳng có toa thuốc! Đó là chữa bệnh. Do vậy,
nhất định phải hiểu đạo lý này. Đây
là nói rõ hội tập là chuyện phải nên làm!
Tiếp đó
là nói đến những vấn đề trong hai bản hội
tập: “Vương thị hội
kinh, tuy đại hữu công ư Tịnh Tông, đản
sở hội chi bổn phả đa suyễn ngộ” (Ông
Vương hội tập kinh, tuy có công lớn đối
với Tịnh Tông, nhưng trong bản hội tập có khá
nhiều sai lầm), trong ấy phạm sai lầm, đó là
sự thật! Cho nên cũng phải nhận biết rõ ràng
[những khuyết điểm ấy]! Cụ Hoàng nêu tỷ
dụ: “Bạch khuê chi hà, hiền
giả tích chi” (bạch khuê có vết, người hiền
tiếc nuối), bạch khuê[5] là ngọc,
ngọc có tỳ vết, tỷ dụ bản hội tập
của cư sĩ Vương Long Thư [có khuyết điểm],
khiến người hiền tiếc nuối! “Liên Trì đại sư vị kỳ:
Sao tiền trước hậu, khử thủ vị tận”
(Liên Trì đại sư nói: “Trích dẫn kinh văn trong phần
trước, ghép lời văn do mình sáng tác vào phần sau,
lấy bỏ chẳng trọn hết”), điều này sẽ
được giải thích trong phần sau. “Bành Thiệu Thăng cư sĩ xích chi vi: Lăng
loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ” (Cư sĩ
Bành Thiệu Thăng chê trách: “Rối ren, sai sót, chẳng hợp
ý chỉ viên dung”). Những lời phê bình này cũng đều
có căn cứ. Nếu như chúng ta đem năm bản dịch
gốc đối chiếu, quý vị sẽ hiểu ngay. Hiện
thời có mấy vị cư sĩ [đã làm chuyện so sánh
này], tôi thấy họ đã đối chiếu sự bất
đồng giữa hai bản hội tập với năm
bản dịch gốc, làm kỹ lắm, rất tốn công.
Sau khi quý vị đã xem xong, mới biết bản hội
tập này của Hạ lão cư sĩ hay lắm, hội tập
quá khéo! Đúng là hay hơn mấy bản hội tập trước
đó! Do vậy, hiện thời có tổng cộng chín bản,
gồm: Ba bản hội tập, một bản tiết lục,
năm bản dịch gốc, tôi in cả chín bản này thành
một cuốn. Khi ấy, tôi giảng bản hội tập
của Hạ lão cư sĩ ở nước ngoài, sợ có
kẻ đến kiếm chuyện, cho nên tôi in chung cả
chín loại để quý vị tự xem. Kẻ nào thắc
mắc, có nghi vấn, tôi đưa sách cho kẻ ấy xem,
“ông hãy tự xem đi!”, tôi chẳng cần phải trả
lời. Chín bản đều có, nhưng đều đọc
hết thì thật là khó! Một bản hội tập hay
như thế, đức Thế Tôn đã nói: Đến
lúc pháp diệt tận, hết thảy các kinh đều chẳng
còn nữa, cuối cùng chỉ còn lưu lại mình kinh Vô
Lượng Thọ này, nhưng là bản nào của kinh Vô
Lượng Thọ? Chắc chắn là bản hội tập
của cụ Hạ Liên Cư, chứ không phải là bản
dịch gốc. Chúng ta có thể khẳng định điều
này! Bản hội tập này quá hay, chúng ta cần phải
nhận biết điều này thì mới chẳng đến
nỗi hoài nghi kinh này! Kẻ phê bình rất nhiều, sự
tu học, thâm nhập kinh giáo của họ đã đạt
tới bản lãnh như Vương Long Thư, Ngụy Mặc
Thâm, và Hạ Liên Cư hay chưa? Nếu chưa đạt
tới trình độ ấy, lẽ nào có thể tùy tiện
phê bình? Cá nhân quý vị phê bình, chính quý vị tạo nghiệp
phải tự gánh vác. Nếu quý vị ảnh hưởng
tới người khác, khiến người khác nẩy
sanh hoài nghi đối với bản này, không học tập
nữa, lỗi lầm lớn lắm! Quý vị đoạn
Pháp Thân huệ mạng của người khác, có phải
gánh trách nhiệm nhân quả hay chăng? Chắc chắn là
phải! Chúng ta học kinh giáo, chẳng thể không biết
điều này! Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng
ta học tập tới đây.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment