Chúng ta phải
tin tưởng, gặp được pháp môn này chính là
cơ duyên hy hữu trong một đời này! Quý vị có
được cơ hội này, có thể trở về tự
tánh, có thể viên thành Phật đạo, khó thể gặp
gỡ cơ hội này. Bởi lẽ, “thân người khó được, Phật pháp khó gặp”.
淨土大經解演義
Phần
1
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
TẬP 1
Thưa chư vị
pháp sư, chư vị đại đức, chư vị
đồng học, xin hãy ngồi xuống.
Ngày hôm nay nhằm tiết
Thanh Minh Âm lịch, chúng tôi chọn ngày hôm nay để bắt
đầu giảng Tịnh Độ Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa. Đối với mọi người, danh
xưng này dường như rất xa lạ, nhưng các vị
đồng tu đã lâu trong nhà Phật biết Tịnh
Độ Đại Kinh là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô
Lượng Thọ hiện thời có chín phiên bản khác
nhau, bản được chúng tôi chọn lựa chính là bản
hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Sắp
theo thứ tự triều đại trước sau, bản
này là bản cuối cùng, là bản thứ chín. “Giải” (解) là chú giải, do đệ tử cụ
Hạ là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải. Duyên khởi này cũng rất chẳng
thể nghĩ bàn! Trong giáo pháp Đại Thừa, cũng
như trong Phật môn, [mọi người] đều cảm
thấy kinh Vô Lượng Thọ rất hy hữu. Vì sao? Vì
thuở đức Thế Tôn tại thế, giảng
kinh, dạy học suốt bốn
mươi chín năm; trong bốn mươi chín năm, Ngài
đã giảng khá nhiều kinh luận, [các kinh luận khác]
lão nhân gia chỉ giảng một lần, chẳng hề giảng
trùng lặp, chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được
giảng trùng lặp mấy lượt. Đối với
sự phiên dịch tại Trung Quốc, từ Dịch Kinh
Mục Lục, chúng ta thấy kinh này có mười hai bản
dịch, được phiên dịch nhiều lần nhất.
Từ triều Hán cho đến triều Tống, trong vòng
tám trăm năm, dịch mười hai lần. Lẽ
đương nhiên, nếu cùng một bản gốc, tuy
có nhiều bản dịch, đương nhiên văn tự
trong các bản dịch ấy khác nhau, nhưng nội dung chắc
chắn là đại đồng tiểu dị. Như kinh
Kim Cang có sáu bản dịch, từ Đại Tạng Kinh, chúng
ta có thể thấy sáu bản dịch ấy có cùng một nguyên
bản (bản gốc), cũng có nghĩa là đức Thế
Tôn chỉ giảng [kinh Kim Cang] một lần. Kinh Vô Lượng
Thọ rất lạ lùng, những bản dịch sai biệt
rất lớn. Chỗ rõ ràng nhất, mà cũng là phần trọng
yếu nhất trong kinh này, chính là bổn nguyện của A
Di Đà Phật. Hiện tại, chỉ còn lại năm bản
trong mười hai bản dịch, đã thất truyền
bảy bản. Hiện thời, trong Đại Tạng
Kinh có mục lục [ghi tựa đề của các bản
dịch ấy], nhưng không có văn bản. Đây là chuyện
rất đáng tiếc nuối!
Trong
năm bản dịch gốc còn được lưu truyền,
hai bản ghi bốn mươi tám nguyện, hai mươi
bốn nguyện cũng được ghi trong hai bản,
còn bản dịch đời Tống chép ba mươi sáu
nguyện, sai biệt quá lớn! Nếu bảo nguyên bản
chỉ có một loại, chắc chắn không thể nào có
sự sai biệt này. Đó là chuyện chẳng thể xảy
ra được! Do vậy, từ chỗ có ba loại bổn
nguyện sai biệt, cổ đại đức phán
đoán: Đối với bảy bản dịch đã thất
truyền, do không biết nội dung [nên chẳng dám bàn tới],
từ năm bản dịch này, khẳng định đức
Thế Tôn tối thiểu giảng [kinh Vô Lượng Thọ]
ba lần. Ba lượt nói bổn nguyện của A Di
Đà Phật, đức Thế Tôn nói các điều nguyện
không giống nhau, nên mới có sai biệt. Dự đoán này
rất hợp la-tập (logic), bọn chúng ta cũng đều
có thể chấp nhận. Nhiều lần tuyên giảng đâu
phải dễ! Nếu không phải là hết sức trọng
yếu, đức Thế Tôn chẳng thể tuyên giảng
nhiều lượt. Trong Đại Tạng Kinh, gần
như chẳng tìm được dấu vết [những
bộ kinh khác] được tuyên giảng nhiều lần.
Sở dĩ, thuở còn tại thế, đức Phật
đã tuyên giảng bộ kinh này nhiều lần, vì đây là
một bộ kinh vô cùng trọng yếu. Nhất là chúng ta
thấy Thiện Đạo đại sư đã nói hai
câu, ngài Thiện Đạo là người đời Đường,
theo truyền thuyết Ngài là A Di Đà Phật tái lai, lời
ngài Thiện Đạo nói chính là lời A Di Đà Phật nói!
Ngài dạy: “Như Lai sở
dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn
nguyện hải” (Sở dĩ đức Như Lai xuất
hiện trong thế gian chỉ vì muốn nói biển bổn
nguyện của Phật Di Đà), có nghĩa là nói: Thập
phương chư Phật thị hiện trong thế gian
[chỉ vì nguyên nhân này]. Qua phẩm Hoa Tạng Thế Giới
và phẩm Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta thấy vũ trụ quan của nhà Phật (Triết
Học hiện đại bảo [nội dung những
điều được nói trong hai phẩm kinh trên
đây] là vũ trụ quan nhà Phật) quá lớn! Các nhà thiên
văn học hiện thời chưa đạt tới cảnh
giới này. Nói theo Phật giáo, sự quan sát và lý giải của
các nhà thiên văn học vẫn chưa thể thoát khỏi
thế giới Sa Bà.
Chúng tôi học
kinh giáo nhiều năm như thế, thấy hầu hết
các vị đại đức tiền bối đã sớm
cho rằng một đơn vị thế giới nói trong
kinh Phật là địa cầu. [Kinh nói] mặt trời
xoay vòng quanh núi Tu Di (Sumeru), rất nhiều người hiểu
lầm, nghĩ núi Hỷ Mã Lạp Nhã (Himalaya) là Tu Di Sơn.
Sau này, khoa học chứng minh địa cầu hình tròn nên
gọi là “địa cầu”, chẳng khác gì các ngôi sao trên
trời, cũng không thể coi là quá lớn được!
Địa cầu xoay quanh mặt trời, chứ không phải
mặt trời xoay quanh địa cầu. Họ biết
có Thái Dương Hệ (Solar system), mặt trời xoay
quanh hệ Ngân Hà (Galaxy), nhưng chúng ta không có cách nào xoay
chuyển quan niệm này! Tu Di Sơn ở đâu? Chắc
chắn Tu Di Sơn chẳng ở trên địa cầu. Phật
pháp hình dung Tu Di Sơn bằng danh xưng Diệu Cao, chúng
ta có thể hiểu chữ Cao, nhưng Diệu rất khó
hiểu. Chúng tôi vốn nghĩ [một đơn vị thế
giới trong kinh Phật] là một cõi Phật, tức là phạm
vi giáo hóa của một vị Phật, giống như các
khoa học gia hiện thời bảo là một “hệ Ngân
Hà”. Kể từ năm 1986, tôi kết duyên, quen biết lão
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Thuở ấy, hai người
chúng tôi vô cùng vui sướng, vì hoằng dương bản
hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư vốn
chỉ có hai người bọn tôi. Cụ giảng bộ
kinh này trong nước, tôi giảng bộ kinh này tại hải
ngoại. Chúng tôi gặp mặt, cụ Hoàng nêu lên vấn
đề này, cho tôi biết: Một đơn vị thế
giới trong kinh Phật chẳng phải là Thái Dương
Hệ, mà là hệ Ngân Hà. Trung tâm của hệ Ngân Hà là “hắc
động” (black hole), Tu Di Sơn phải là hắc động.
Sự cao lớn của hắc động chúng ta có thể
hiểu được, nhưng cho đến hiện thời,
vẫn chưa có ai có thể lý giải tình trạng thật
sự của hắc động, chỉ biết là nó có sức
hút rất lớn, ngay cả ánh sáng cũng không có cách nào
xuyên qua, đều bị nó hút mất. Nó là cốt lõi của
hệ Ngân Hà, tất cả các tinh cầu đều xoay
quanh cái lõi này. Cổ nhân Trung Quốc gọi nó là Hoàng Cực
(Ecliptic Pole), hệ Ngân Hà mới
là một đơn vị thế giới. Một ngàn đơn
vị thế giới gọi là một “tiểu thiên thế
giới”. Đó chính là một ngàn hệ Ngân Hà, một tiểu
thiên thế giới đấy! Lại lấy tiểu thiên
thế giới làm đơn vị, một ngàn tiểu
thiên thế giới gọi là “trung thiên thế giới”, một
ngàn trung thiên thế giới gọi là một “đại thiên
thế giới”. Một đại thiên thế giới có
bao nhiêu hệ Ngân Hà? Mười ức hệ Ngân Hà. Các nhà
thiên văn học hiện tại chưa thể quan sát
[điều này]; đây là khu vực giáo hóa của một
đức Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói có vô lượng vô biên
thế giới như vậy trong vũ trụ. Nói đến
“thế giới Hoa Tạng” thì thế giới Hoa Tạng
giống như một cao ốc có hai mươi tầng,
thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc đều
thuộc tầng thứ mười ba. Lại chẳng biết
có bao nhiêu thế giới giống như thế giới Hoa
Tạng! Đấy là thế giới quan của Phật
pháp, thế giới đồ sộ, quả thật chẳng
thể nghĩ bàn được!
Đức
Phật xuất hiện trong thế gian, khu vực giáo hóa của
mỗi vị Phật nhỏ nhất là một đại
thiên thế giới. Có trường hợp là hai, ba đại
thiên thế giới, hay năm, sáu đại thiên thế giới,
mười mấy đại thiên thế giới cũng
có; Phật cũng có phước báo to hay nhỏ khác nhau!
Nguyên nhân do đâu? Trong khi tu nhân, tâm lượng khác nhau, cho
nên [khi thành Phật] cảm quả cũng chẳng giống
nhau. Trừ điều này ra, chẳng có gì khác biệt.
Đây là nói “duyên hóa độ chúng sanh” không giống nhau. Vì
vậy, người học Phật phải rộng kết
pháp duyên với hết thảy chúng sanh; trong tương lai,
quý vị thành Phật sẽ độ người khác
đông đảo. Rộng kết pháp duyên rất quan trọng!
Đức Phật thị hiện trong các cõi Phật khác
nhau đều do có duyên, chẳng thể nói là “không có duyên”,
đều có duyên, duyên ấy rất phức tạp. Dùng
phương pháp ổn thỏa, thích đáng, đơn giản,
dễ dàng, nhanh chóng nào để giúp người khác có thể
trở về tự tánh? Trở về tự tánh là thành Phật
viên mãn, trở về nguồn cội, dùng phương pháp
nào? Dùng phương pháp Niệm Phật của Tịnh
Độ; do vậy, ngài Thiện Đạo nói: “Duy thuyết Di Đà bổn nguyện
hải” (chỉ để nói bổn nguyện của Phật
Di Đà). Kinh ấy là kinh gì? Kinh Vô Lượng Thọ. Vì
thế, kinh Vô Lượng Thọ được gọi kinh
bậc nhất trong Tịnh Tông. Tịnh Độ Tông thật
đơn giản, kinh điển để làm căn cứ
gồm năm thứ. Thuở ấy, đức Thế Tôn
giảng ba thứ, tức là ba bộ kinh, [thường gọi
là] Tịnh Độ Tam Kinh: Vô Lượng Thọ Kinh, A Di
Đà Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Phân
lượng cũng chẳng lớn. Nếu chỉ là kinh
văn của ba bộ kinh, tức là chánh kinh không có phần
chú giải, in chung lại thành một quyển mỏng tanh,
phân lượng rất ít, đơn giản, dễ dàng,
nhưng thành tựu vô cùng thù thắng. Thiện Đạo
đại sư cho chúng ta biết điều này.
Chúng ta phải
tin tưởng, gặp được pháp môn này chính là
cơ duyên hy hữu trong một đời này! Quý vị có
được cơ hội này, có thể trở về tự
tánh, có thể viên thành Phật đạo, khó thể gặp
gỡ cơ hội này. Bởi lẽ, “thân người khó được, Phật pháp khó gặp”.
Chúng ta được làm thân người, gặp gỡ Phật
pháp, lại gặp được pháp môn thù thắng khôn sánh
trong Phật pháp, phải trân quý cơ duyên này. Pháp môn này còn
gọi là “pháp khó tin”, do phương pháp quá đơn giản,
quá dễ dàng, nên rất nhiều vị Bồ Tát chẳng
tin! Nói theo Lý, phải hết vọng mới có thể quay về
nguồn được, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều
chẳng tách lìa nguyên tắc này. “Vọng”
là phiền não. Ba loại phiền não lớn là Vô Minh phiền
não, Kiến Tư phiền não, và Trần Sa phiền não;
đấy là ba loại lớn. Đoạn Kiến Tư
phiền não, lục đạo luân hồi chẳng còn nữa.
Bởi lẽ, lục đạo chẳng thật, giống
như một giấc mộng. Quý vị chưa thoát khỏi
lục đạo, đang nằm mộng, vẫn chưa tỉnh
mộng. Khi nào quý vị buông Kiến Tư phiền não xuống,
kinh Hoa Nghiêm gọi Kiến Tư phiền não là chấp
trước, đối với hết thảy pháp thế gian
và xuất thế gian chẳng còn chấp trước, buông
Kiến Tư phiền não xuống, quý vị bèn chứng quả
A La Hán. A La Hán đã tỉnh, từ trong lục đạo tỉnh
giấc mộng lớn bèn là A La Hán, lục đạo chẳng
còn nữa! Lục đạo chẳng còn, đã tỉnh; vì
sao quý vị vẫn còn ở trong mộng? Quý vị còn có
phân biệt, còn có vọng tưởng, [những thứ này]
vẫn là phiền não, nhẹ hơn Kiến Tư phiền
não một tí, nhưng vẫn còn. Nếu phân biệt cũng
buông xuống, chẳng còn phân biệt nữa, không chỉ là
chẳng phân biệt, mà vọng tưởng cũng buông xuống.
Vọng tưởng là gì? Tôi thường gọi nó là “khởi
tâm, động niệm”. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm.
Khởi tâm động niệm đều không có, đương
nhiên chẳng có phân biệt, chấp trước, quý vị
thật sự tỉnh mộng. Hễ tỉnh thì tứ
thánh pháp giới đều không có, tức là mười
pháp giới chẳng có. Mười pháp giới bao gồm lục
đạo, dưới là lục đạo, trên là tứ
thánh, tứ thánh là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật; Phật
[trong tứ thánh pháp giới] cũng chẳng thật! Phải
biết điều này! Đừng nên chấp trước,
chớ nên phân biệt! Sau khi buông xuống những điều
này, chẳng thấy tứ thánh pháp giới nữa, quý vị
thật sự tỉnh khỏi mộng cảnh. Khi tỉnh
ấy, vẫn còn có tướng cảnh giới, vẫn còn
có tướng, tướng gì vậy? Chúng ta thường gọi
nó là Nhất Chân pháp giới, là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật Như Lai. Chúng ta nói thế giới Cực Lạc,
kinh Hoa Nghiêm nói thế giới Hoa Tạng, chúng đều
là những cõi Thật Báo của Như Lai. Nói tới cõi Thật
Báo của Như Lai, quý vị phải nhớ: Nó là cõi Thật
Báo của chính mình, Tự - Tha bất nhị, Tha là chư Phật
Như Lai, thật sự chẳng hai!
Do vậy,
trong mấy năm gần đây, chúng tôi cực lực
đề xướng: Phật sự sử dụng trong Tịnh
Tông là Tam Thời Hệ Niệm do thiền sư Trung Phong
biên soạn, Ngài là bậc đại đức trong Thiền
Tông. Quý vị thấy Ngài biên soạn nghi thức Hệ Niệm
hoàn toàn dùng [giáo nghĩa] Tịnh Độ, cõi âm lẫn
dương gian đều được lợi ích. Lão
nhân gia nói rất rõ ràng: “Tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, Di Đà ở
đâu? Di Đà là tự tánh, Tịnh Độ cũng là tự
tánh; tâm và tánh là một, chẳng hai. Nếu quý vị thật
sự hiểu rõ, sẽ biết chư Phật Như Lai và
hết thảy chúng sanh có mối quan hệ mật thiết
với bản thân chúng ta. Nói tới “quan hệ” thì mối
quan hệ ấy thuộc loại luân lý, tức là quan hệ
nói theo phương diện luân lý. Kinh giáo Đại Thừa
giảng quan hệ rất thấu triệt, giảng đến
mức viên mãn rốt ráo: Trọn khắp pháp giới hư
không giới, trên là chư Phật, dưới là chúng sanh, có
cùng một Thể với chính mình, chẳng phải là “một
nhà”, mà là “một Thể”. Nói tới mối quan hệ này.
Do vậy, lòng yêu thương ấy được gọi
là Vô Duyên Đại Từ, Từ là lòng yêu thương,
quan tâm, Vô Duyên là chẳng có điều kiện; Đồng
Thể Đại Bi, Bi là thương xót, thương xót hết
thảy chúng sanh mê mất tự tánh. Phải biết: Họ
và chúng ta là một Thể, chẳng phải là người
ngoài, mà là Đồng Thể. Vô Duyên là giúp đỡ họ
vô điều kiện. Vì thế, trong nhân gian có lòng Chân Ái (lòng
yêu thương chân thật), Chân Ái là lòng yêu thương của
Phật, Bồ Tát, là đại từ đại bi. Thật
đấy! Bậc giác ngộ thì có, còn kẻ mê mất tự
tánh chẳng phải là không có, nhưng kẻ ấy bị mê,
do mê nên lòng Chân Ái bị biến chất. Do vậy, trong kinh
đức Phật gọi lòng yêu thương ấy (lòng yêu
thương của kẻ mê mất chân tánh) là Hữu Ái Duyên
Từ, như trong thế gian hiện thời, lòng
thương yêu của cha mẹ đối với con cái gọi
là Ái Duyên, có lòng từ bi, nhưng từ bi đối với
kẻ có quan hệ máu mủ, ruột thịt, bị chi phối
bởi mối quan hệ này. Lại có Chúng Sanh Duyên Từ Bi,
tâm lượng lớn hơn một chút, yêu thương
chính mình, mà cũng có thể yêu thương người
khác. Câu “phàm thị nhân, giai tu
ái” (phàm là người, đều phải yêu) trong Đệ
Tử Quy chính là Chúng Sanh Duyên Từ Bi. Bồ Tát có Pháp Duyên Từ
Bi, lại cao hơn một tầng nữa, các Ngài liễu
giải chân tướng sự thật. Thật sự
đạt đến minh tâm kiến tánh, đại triệt
đại ngộ, đó là lòng từ bi của Phật. [Lòng
từ bi ấy] chẳng có điều kiện, đấy
mới là Chân Ái. Những lòng Ái khác có điều kiện,
còn lòng Ái này chẳng có điều kiện. Chúng ta hiểu
rõ đạo lý này thì học Phật mới tìm được
người thân thật sự! Chúng ta giống trẻ nhỏ
mê mất phương hướng, thật sự tìm
được cha mẹ, tìm được người
quan tâm, yêu thương chúng ta rồi. Những người
ấy là chư Phật, Pháp Thân Bồ Tát, các Ngài thật sự
có thể giúp chúng ta phá mê khai ngộ, trở về tự
tánh, công đức viên mãn. Bởi lẽ, chỗ khác nhau giữa
chúng sanh và Phật là mê hay ngộ; trừ mê và ngộ ra, chẳng
có gì khác nhau! Trong giáo pháp Đại Thừa, quý vị càng
đọc, càng hiểu rõ, càng minh bạch, đọc đến cuối cùng, quý vị
hoát nhiên hiểu rõ, “nguyên lai
đương hạ”, tức là ở ngay nơi này,
ngay trong lúc này!
Tịnh Tông
thật sự khó tin, đặc biệt là đối với
những phần tử tri thức. Tôi học Phật là do
tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu. Lúc trẻ
cũng theo học trong nhà trường, chịu ảnh
hưởng của các giáo viên, nghĩ Phật giáo là tôn
giáo, là mê tín, lại còn là đa thần giáo (polytheism), phiếm
thần giáo (pantheism) trong các tôn giáo, là một tôn giáo thuộc
loại thấp. Tôn giáo bậc cao chỉ nói tới một
vị chân thần. Qua biểu hiện, Phật giáo thật
sự là mê tín, thuở ấy, tôi chẳng liễu giải.
Trong xã hội hiện thời, kẻ chẳng liễu giải
càng nhiều! Tôi học Triết Học với thầy
Phương. Trong khóa học cuối cùng, thầy giảng Triết
Học trong kinh Phật, tôi nói: “Phật giáo là tôn giáo, mê tín,
là phiếm thần giáo, kiếm đâu ra Triết Học?”
Thầy bảo tôi: “Anh không biết,
tuổi anh còn trẻ, Thích Ca Mâu Ni Phật là một triết gia vĩ đại nhất
trên thế giới. Triết Học trong kinh Phật là đỉnh
cao nhất trong Triết Học trên toàn thể thế giới”. Lúc ấy, thầy bảo tôi như thế
này: “Học Phật là sự
hưởng thụ tối cao trong đời người”.
Trong khóa học ấy, tôi tiếp nhận Triết Học
từ kinh Phật như vậy, mới thay đổi
quan niệm sai lầm trong quá khứ, nhận thức Phật
giáo bằng nhãn quan mới. Duyên của tôi rất thù thắng,
sau khi thầy Phương giới thiệu Phật giáo cho
tôi biết, không đầy hai tháng sau, tôi có cơ hội
quen biết Chương Gia đại sư, do một thân
vương Mông Cổ cuối đời Thanh giới thiệu
cho tôi quen biết Chương Gia đại sư. Khi
đó, tôi vừa tiếp xúc Phật pháp, đây cũng là do
thầy Phương từ bi, chỉ cho tôi đường
lối học tập. Thầy nói Phật pháp chẳng ở
trong chùa chiền, ở đâu? Trong kinh điển. Anh muốn
thật sự tìm được Phật giáo, phải tìm từ
kinh điển. Sự hướng dẫn này vô cùng quan trọng,
do vậy, tôi thủy chung cảm tạ ân đức thầy;
bởi lẽ, không có sự chỉ điểm ấy, chúng
tôi sẽ thỉnh giáo người xuất gia. Nhiều kẻ
xuất gia vứt bỏ kinh giáo, chẳng học tập, chẳng
thể thuyết pháp, trong tình hình ấy, chắc chắn
chúng tôi sẽ hoài nghi, lòng tin chẳng còn nữa! Do cụ
Phương biết [Phật pháp] ở trong kinh điển,
cụ nói thuở xưa, người xuất gia và tại
gia học Phật đều là những bậc học vấn
lỗi lạc, thật sự là đại đức,
đại triết, hiện nay rất hiếm [những
người như vậy].
Sau khi tôi
tiếp xúc Chương Gia đại sư, Ngài dạy tôi
học về Thích Ca Mâu Ni Phật, bảo tôi hãy xem hai tài liệu.
Hai tài liệu ấy ở trong Đại Tạng Kinh, thuở
ấy chưa có bản lưu hành riêng, đó là Thích Ca Phổ
và Thích Ca Phương Chí[1]. Lão nhân gia rất từ bi: “Anh muốn
học Phật, trước hết, anh phải nhận biết
Thích Ca Mâu Ni Phật, sẽ chẳng đi lòng vòng”. Sau khi
đọc xong hai tài liệu ấy, tôi mới biết Thích
Ca Mâu Ni Phật quả thật rất vĩ đại. Nói
theo cách bây giờ, Ngài là nhà giáo dục, chẳng vướng
mắc trong tôn giáo. Xuất thân từ dòng dõi vua chúa, phụ
thân Ngài là quốc vương. Cổ Ấn Độ thuở
ấy chẳng khác thời Xuân Thu Chiến Quốc của
Trung Hoa cho mấy, đều là có rất nhiều quốc
gia nhỏ. Ngài là vương tử, mười chín tuổi
rời khỏi gia đình, đi tham học. Do vậy, chúng
ta biết Thích Ca Mâu Ni Phật tuổi thanh niên vô cùng hiếu
học, rời khỏi gia đình để cầu học,
cuộc sống rất khổ sở, giống như vị
Tăng khổ hạnh. Ấn Độ [thuở ấy] quả
thật là một nơi tốt đẹp. Thuở ấy,
học thuật trên địa cầu này, đặc biệt
là Triết Học, có thể coi như Ấn Độ
đứng đầu thế giới. Tôn giáo cũng giống
như thế, Ấn Độ là xứ sở tôn giáo, tất
cả các bậc đại đức trong tôn giáo Ngài đều
gặp gỡ, học tập; lại còn học hết sức
nghiêm túc, tất cả các học phái Ngài cũng
đều học qua. Khi ấy, phong khí Thiền Định
ở Ấn Độ rất thịnh, bất luận tôn
giáo hay học thuật đều coi trọng Thiền
Định. Tứ Thiền Bát Định nói trong kinh Phật
chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật đề xướng.
Chẳng phải vậy! Tôn giáo lẫn học thuật của
Cổ Ấn Độ đều học những môn này, đương
nhiên, chàng thanh niên Thích Ca Mâu Ni cũng không ra ngoài lệ
ấy.
Thiền
Định có thể đột phá các chiều không gian
(spatial dimensions), cho nên phát hiện lục đạo. Lục
đạo là thật, chẳng giả. Quý vị tu Định
đến một trình độ nhất định, sẽ
thấy giống như họ đã thấy: “Hoàn toàn giống
như các vị đã nói!” Người thấy [những điều
này] nhiều lắm! Phía trên là từ hai mươi tám tầng
trời, phía dưới đến A Tỳ địa ngục,
họ hiểu rành rẽ tình trạng trong toàn thể lục
đạo, nhưng nếu hỏi: “Lục đạo do
đâu mà có? Vì sao có lục đạo? Ngoài lục đạo
ở ngoài còn có thế giới hay chăng?” Vấn đề
này, không chỉ hết thảy các tôn giáo của Ấn
Độ chẳng có cách nào trả lời, mà những triết
gia Ấn Độ cũng chẳng thể giải đáp.
Thích Ca Mâu Ni Phật tu mười hai năm, đến
năm ba mươi tuổi, thôi học tập, học
mười hai năm, rốt cuộc đã tốt nghiệp,
buông bỏ, tịnh tọa dưới cội cây Tất
Bát La (Pippala) bên bờ sông Hằng, khai ngộ. Cây ấy về
sau được gọi là “Bồ
Đề thụ”. Bồ Đề (Boddhi) có nghĩa là
“giác ngộ”. Ngài đại triệt đại ngộ ở
nơi ấy. Nhập Thiền Định càng sâu hơn,
Thiền Định gì vậy? Trong kinh Lăng Nghiêm, Định
ấy được gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại
Định, kinh Hoa Nghiêm gọi Định ấy là Sư Tử
Phấn Tấn tam-muội, đó là kiến tánh; đó cũng
là nói: Thật sự buông “khởi tâm, động niệm” xuống.
Chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn khôi phục
tự tánh, mới thật sự hiểu rõ ràng, rành rẽ chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh. Lục đạo
luân hồi là chuyện nhỏ nhặt, quá nhỏ bé, thảy
đều hiểu rõ ràng, đương nhiên hết sức
vui sướng, Ngài bèn tường thuật, báo cáo tỉ mỉ
cảnh giới này. Nói với ai? Nói với con người,
người ta nghe chẳng hiểu! Đừng nói người
thế gian chúng ta nghe không hiểu, chư thiên trong hai
mươi tám tầng trời nghe cũng không hiểu; bởi
lẽ, Ngài giảng trong Định. Chúng ta thấy Thích Ca
Mâu Ni Phật tịnh tọa dưới cội Bồ
Đề, đâu biết Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm nơi ấy.
Kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới khai ngộ của đức
Thế Tôn. Ngài nói cặn kẽ, nêu bày toàn bộ. Nói trong
bao nhiêu ngày? Theo kinh chép thì là “hai
thất”, tức mười bốn ngày, cũng có kinh bảo
là giảng trong hai mươi mốt ngày. Chúng ta có thể
không cần quan tâm đến chuyện này, cũng không cần
phải khảo chứng, đừng phân biệt, chấp
trước chuyện này. Tối đa là hai mươi mốt
ngày, giảng trong Định!
Trong Thiền
Định, thời gian và không gian chẳng còn nữa. Thời
gian và không gian chẳng còn, chúng ta có thể tin chuyện này,
vì sao? Có chứng minh khoa học! Khoa học chứng minh
như thế nào? Thôi miên rất khoa học! Trong thôi miên, thời
gian và không gian chẳng còn nữa! Quý vị thấy: Thôi
miên hai tiếng, người được thôi miên có thể
nhớ được vài đời trong quá khứ. Lúc bị
thôi miên, người ấy có thể tới thiên đường,
mà cũng có thể xuống địa ngục. Quý vị
thấy đó: Đột phá thời gian lẫn không gian! Do
chúng ta biết: Thôi miên cũng là tinh thần phải buông lỏng
hết thảy, buông xuống hết thảy, trong tâm không
có tạp niệm, có cùng một nguyên lý [với Thiền Định].
Công phu Thiền Định càng sâu hơn, thời gian [nhập
Định] càng dài hơn, bảy ngày, hai mươi mốt
ngày, trọn pháp giới hư không giới quả thật
đều có thể thấy rõ rệt, minh bạch. Thật
ra, có cần tốn ngần ấy thời gian hay không? Không
cần! Chỉ trong một niệm! Trong một niệm bèn
thông đạt, hiểu rõ, tùy thuộc quý vị buông xuống
nhiều hay ít. Sai biệt chẳng do công phu cạn hay sâu,
mà do quý vị buông xuống nhiều hay ít. Vì thế, quý vị
muốn dụng công, ngàn muôn phần đừng chấp
trước; buông xuống càng nhiều, tâm quý vị càng thanh
tịnh, càng gần với tự tánh. Trong cuốn [Tu Hoa
Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận] Hoàn Nguyên Quán có nói: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”,
tức là càng buông xuống nhiều, càng gần với tự
tánh. Càng gần tự tánh, quý vị càng liễu giải. Sau
khi liễu giải chân tướng, lão nhân gia xuất Định,
bắt đầu dạy học, vì sao bắt đầu dạy
học? Tâm từ bi tự nhiên lưu lộ, chẳng có lý
do, không có điều kiện, thấy chúng sanh bèn muốn giúp
họ trở về tự tánh. Vì lẽ gì? Họ và ta là một,
không hai. Người giác ngộ biết, kẻ mê chẳng
biết [ta và người] là một Thể. Làm như thế,
dạy suốt bốn mươi chín năm, đức Thế
Tôn viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi. Từ
năm ba mươi tuổi bắt đầu dạy học
tới năm bảy mươi chín tuổi; do đó, Ngài
giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn
mươi chín năm.
Chúng ta nhìn
từ chỗ này, Ngài dùng thân phận nào? Mang chức nghiệp
giáo sư, suốt đời dạy học. Dạy gì? Hết
thảy các kinh do Phật đã giảng lúc còn tại thế
chưa chép thành văn tự, đều chỉ là miệng
nói. Sau khi đức Thế Tôn viên tịch, các học trò
đem những gì thầy đã dạy, đã nói trong quá khứ
ghi chép lại, đến khi ấy mới trở thành kinh
điển. Ghi chép cũng chẳng phải là chuyện
đơn giản, phải tìm người nhắc lại,
tìm ai? Tìm A Nan. A Nan là thị giả
của đức Phật. Kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã
nói trong một đời, ngài A Nan đều nghe qua. A Nan là
em họ nhỏ nhất của đức Phật. Anh em họ
của Ngài gồm tám người, Thích Ca Mâu Ni Phật lớn
nhất, A Nan nhỏ nhất, tức lão Bát, kém Phật hai
mươi tuổi. Do thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng kinh từ hai mươi năm trước đó,
tức là khi Thích Ca Mâu Ni Phật bắt đầu giảng
kinh, ngài A Nan mới sinh ra. Đức Phật đã giảng
kinh suốt hai mươi năm, ngài A Nan mới xuất
gia năm hai mươi tuổi, những kinh Phật đã
giảng trong hai mươi năm trước, A Nan chưa
được nghe. Vì thế, kinh có chép: Những lúc rảnh
rỗi, đức Thế Tôn đem những gì đã nói
trong quá khứ đều giảng lại cho ngài A Nan nghe,
cho nên Ngài nghe kinh rất hoàn chỉnh. Ngài A Nan có trí nhớ đặc
biệt tốt, nghe một lần sẽ vĩnh viễn chẳng
quên, giống như máy thâu âm, Ngài có thể nhắc lại nguyên
văn, có khả năng hy hữu này. Trong các đệ tử
Phật, chỉ có Ngài có trí nhớ cao nhất. Vì thế,
sau khi đức Phật diệt độ, mọi người
thỉnh A Nan lên tòa giảng lại, năm trăm vị A
La Hán là các đệ tử đức Phật, trong thuở
ấy, họ là những vị thường nghe kinh, đều
chứng minh. Kinh nói ra phải được năm
trăm A La Hán cùng đồng ý “A
Nan nói không sai, đức Phật đã
nói như thế” rồi mới ghi chép lại. Nếu
có [điều nào bị] một ai đó nghi ngờ, phải
lược bỏ điều ấy, nhằm giữ chữ
Tín với người đời sau. Kinh tạng được
kết tập nghiêm ngặt như thế, chẳng phải
là chuyện dễ dàng!
Văn tự
dùng để kết tập thuở ấy là Phạn
văn, hiện thời rất ít người hiểu cổ
văn Ấn Độ. Kinh điển truyền đến
Trung Quốc bằng tiếng Phạn, thuở ấy, những
lưu học sinh Trung Quốc (những vị cao tăng
sang Thiên Trúc cầu pháp) đến Ấn Độ học
tập cũng học Phạn văn, từ tiếng Phạn
dịch sang tiếng Hán mà có thể chẳng bị sai lầm
ư? Nay chúng ta dịch một bài văn chương từ
tiếng Anh sang tiếng Hán, có thể dịch đúng một
trăm phần trăm hay không? Không thể nào! Nói chung là có
sai lầm. Đừng nói ngôn ngữ ngoại quốc, đối
với cổ văn Trung Quốc, quý vị lấy một
bài văn chương của cổ nhân, tìm vài người,
hay tìm mười người, bảo họ dịch bài ấy
thành văn Bạch Thoại, mười người dịch
khác nhau, rốt cuộc dùng tiêu chuẩn nào [để phán định
đúng sai]? Rất khó nói, điều này có thể khiến
cho người ta tin tưởng [tính chính xác của kinh Phật]
hay chăng? Khi ấy, tôi đã thỉnh giáo tiên sinh
Phương Đông Mỹ chuyện này, làm thế nào để
khiến chúng ta sanh khởi lòng tin? Thầy Phương hết
sức cảm khái, nói: Người Trung Quốc thời cổ
chẳng giống người Trung Quốc hiện thời.
Người Trung Quốc hiện thời đánh mất
lòng tự tin dân tộc, nên mới bị lăng nhục lớn
lao như thế, chịu lắm khổ nạn như vậy.
Xưa kia, người Trung Quốc không như vậy, hết
sức tự hào. Kinh điển tiếng Phạn sau khi dịch
sang tiếng Hán, không những ý nghĩa chẳng bị sai lầm,
mà văn tự còn đẹp đẽ, bóng bẩy hơn
nguyên văn! Nói cách khác, đã có bản tiếng Hán, có thể
không cần đến bản tiếng Phạn, tự hào
như thế đó! Tại Trung Quốc vào thời Tùy -
Đường, người Trung Quốc thật sự giống
như người Trung Quốc, đâu phải như hiện
thời? Thầy Phương dạy tôi như thế, hóa
giải nỗi nghi vấn của tôi.
Đúng
không? Đúng! Từ xưa tới nay, Trung Quốc quả
thật là một nước lễ nghĩa, là một
nước to lớn mênh mông, mãi cho đến đời Thanh,
lòng tự tin ấy bị mất sạch. Vào cuối đời
Thanh, vào cuối triều đại mới nẩy sanh vấn
đề, rất nhiều nhân tố khiến cho vấn
đề nẩy sanh, sử cận đại đã chép rất
rõ ràng: Chẳng phải là truyền thống Trung Quốc có
vấn đề, mà do người lãnh đạo đất
nước thuở ấy là Từ Hy Thái Hậu có vấn
đề. Đúng là “một
người khiến đất nước hưng thịnh,
một người khiến cho quốc gia, dân tộc bị
diệt vong”, liên quan tới một cá nhân quá lớn! Nhà
Thanh từ thuở khai quốc cho đến đời chồng
của bà ta là vua Hàm Phong, Từ Hy Thái Hậu là phi tử của
Hàm Phong, đế vương các đời đều mời
các bậc cao nhân Nho, Thích, Đạo, nói theo danh từ hiện
nay là “chuyên gia, học giả” vào hoàng cung. Hoàng đế dẫn
phi tần, văn võ đại thần nghe giảng mỗi
ngày, học tập mỗi ngày, thật sự làm! Từ Hy
phế trừ chế độ này; Từ Hy không theo những
bậc đại đức Nho, Thích, Đạo nữa,
không nghe lời họ nữa. Bà ta mê tín, cầu cơ, phò
loan, ham chuyện thần tiên, quốc gia đại sự
đều đem thưa hỏi trong đàn cầu cơ. Do
vậy mất nước! Chương Gia đại
sư kể cho tôi biết chuyện này. Đời trước
của ngài Chương Gia là quốc sư của các đời
hoàng đế nhà Thanh; trong tứ đại lạt-ma[2] chỉ mình Ngài có đạo tràng tại
Bắc Kinh. Chương Gia đại sư có trụ sở
tại Bắc Kinh, Ngài thường ở Bắc Kinh để
làm cố vấn cho hoàng thượng. Lão nhân gia cho tôi biết:
Chuyện xấu do Từ Hy gây ra, bà ta phá hoại chế
độ; người lãnh đạo coi rẻ truyền
thống, dần dần ảnh hưởng tới quần
chúng. Nếu chúng ta truy cứu, truyền thống văn hóa
tốt đẹp như thế, vì lẽ nào mà trở thành
nông nỗi như hiện thời? Đầu mối do Từ
Hy. Chúng ta phải biết yêu mến, phải làm thế nào
để khôi phục [truyền thống văn hóa].
Do vậy,
sau khi chúng tôi hiểu rõ ràng, minh bạch chuyện này, mới
biết Phật pháp thù thắng, càng học càng ham thích, khi ấy,
mới phát hiện, thật sự phát hiện của báu,
phát hiện kinh giáo là món trân bảo thù thắng khôn sánh.
Nhưng trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy
trí mạc năng giải” (Phật pháp không có người
nói, thì tuy có trí vẫn chẳng thể hiểu được).
Hiện thời, sách vở thì có, nhưng thiếu người
truyền thừa. Trong thời Dân Quốc, đúng là đời
sau thua đời trước, đã đến thuở mạt.
Trong thời Kháng Chiến, nói chung còn có mười mấy
vị xuất gia và tại gia [hoằng dương Phật
pháp]. Sau thời Kháng Chiến, ngày càng ít, bậc đại
đức hiếm hoi, thiếu người kế tục,
đặc biệt là trong năm mươi năm gần
đây. Chúng ta biết: Phật giáo thật sự hoàn toàn chẳng
có diện mục. Tại Đài Loan, thật sự giảng
kinh, dạy học chỉ có mình thầy Lý. Cụ mở một
liên xã tại Đài Trung, trong liên xã mở lớp dạy học.
Cụ mở mười mấy lớp đều là dạy
truyền thống văn hóa giống như giáo dục xã hội
hoặc lớp huấn luyện bổ túc, không nhận học
phí. Bản thân thầy Lý lắm tài nhiều nghề, biết
rất nhiều thứ, có năng lực dạy dỗ. Cụ
dạy học tại Đài Trung ba mươi tám năm, tịch
năm chín mươi bảy tuổi. Cụ giảng kinh tại
Đài Trung suốt ba mươi tám năm chẳng gián
đoạn, nhưng mỗi tuần chỉ giảng một
buổi, ấn định buổi học nhằm ngày thứ
Tư, thời gian cố định, nơi chốn cố
định. Do vậy, cụ chẳng cần tuyên truyền,
thứ Tư mỗi tuần đến Từ Quang Đồ
Thư Quán ở Đài Trung, nhất định thấy cụ
giảng kinh ở đó, mỗi tuần một lần. Cụ
dạy lũ học sinh chúng tôi là những học sinh trẻ
tuổi học giảng kinh cũng là mỗi tuần một
lần nhằm ngày thứ Sáu, dạy chúng tôi giảng kinh;
còn dạy cổ văn thì như một lớp học nhỏ
của nhóm ông Giang Dật Tử, họ học thi từ với
cụ. Ngoài ra, còn có nhiều khoa mục, nhưng chính thầy
tìm không ra thời gian, phải mời giáo viên từ bên ngoài
đến dạy. Do là giáo dục xã hội, nên xét về
điểm này, rất giống với cách thức dạy
dỗ thời Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đối
với Phật giáo trên toàn thế giới hiện thời,
tôi nghĩ: Nếu nói đại lược, tối thiểu
có sáu hình thức khác nhau mà chúng ta phải biết. Loại
thứ nhất là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật,
lão nhân gia suốt đời làm thầy; nói theo cách bây giờ,
Ngài là một nhà giáo dục văn hóa xã hội đa nguyên,
Ngài mang thân phận là một người có nghĩa vụ
làm công tác giáo dục văn hóa xã hội đa nguyên, không nhận
học phí. Cuộc sống rất đơn giản, ăn
một bữa Ngọ, ngủ dưới gốc cây, suốt
đời không xây trường học. Giảng dạy ở
chỗ nào? Rừng núi, dưới cội cây, số người
học chẳng ít! Vì thế, nay chúng ta nghĩ đến,
thấy chẳng đơn giản. Thường Tùy Chúng là
một ngàn hai trăm năm mươi lăm người,
những vị này chẳng rời khỏi Phật. Tôi
nghĩ những người tham dự khác, tối thiểu
cũng bằng số này. Nói cách khác, khi Phật dạy học,
thính chúng phải tới hai, ba ngàn người. Thuở ấy,
đâu có máy khuếch âm, ở trong đồng trống, nếu
người ta nghe không rõ ràng lắm, có còn hứng thú theo học
với Phật nữa hay chăng? Buổi tối nghỉ dưới
cội cây, gió thổi, nắng hun, mưa táp đều chẳng
ngại, thân kim cang bất hoại mà! Giữa trưa ăn
một bữa, người ta cho gì ăn nấy, chẳng
phân biệt tí nào. Đó là hạng người gì, thân thể
gì vậy? Chúng ta ngẫm lại, không có cách nào sánh bằng!
Chúng ta ra ngoài đồng ở một đêm, hôm sau về
nhà bèn ngã bệnh, làm sao có thể sánh bằng? Chẳng phải
là một hai ngày, mà là sống như vậy suốt bốn
mươi chín năm, chẳng thể khiến kẻ khác bội
phục ư? Thật sự có công phu, thân lẫn tâm đều
khỏe mạnh. Đây chính là Phật giáo nguyên gốc của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Lão nhân gia suốt đời chẳng
lập đạo tràng là có lý của Ngài; bởi lẽ, lập
đạo tràng sẽ có kẻ khởi ý niệm cong quẹo:
“Làm thế nào để có đạo tràng ấy?” Ngài không
có đạo tràng, vì biết người đời sau [đối
với đạo tràng] sẽ có tác dụng phụ (kiến
giải chấp trước, tham cầu lệch lạc), thứ
gì cũng không có, chúng ta nên học theo điều này!
Phật
giáo truyền sang Trung Quốc, đạo tràng do quốc
gia, hoặc những vị trưởng giả đại
phú kiến tạo, đều gọi là “thập
phương đạo tràng”, đều chẳng thuộc tư
nhân. Đạo tràng tự quản lý là cách thức rất
hay, hết thảy những người điều hành đều
được bầu ra. Do vậy, Phật môn có chế
độ tuyển cử sớm nhất. Trụ Trì hay Đương
Gia đều do tuyển cử, nhiệm kỳ một
năm. Vì lẽ gì? Đây là phục vụ; phục vụ
thì chẳng thể bắt người
ta phải phục vụ mãi, mỗi cá nhân đều phải
có nghĩa vụ này, hoàn toàn là nghĩa vụ. Vì thế,
mỗi cá nhân tối thiểu phải phục vụ một
năm. Trong chùa chiền, ngày Ba Mươi tháng Chạp, các
vị [chấp sự] cùng từ chức, bầu cử lại.
Ngày hôm sau, những người mới được tuyển
cử sẽ nhậm chức vào ngày mùng Một tháng Giêng,
đến hôm Ba Mươi [tháng Chạp năm ấy] sẽ
cùng từ chức. Vì vậy, đây là một chế độ
tốt đẹp, chẳng có ai tranh chấp, thật sự
là tuyển lựa người tài năng và đức độ
làm Trụ Trì đạo tràng; bởi lẽ, đây là một
cơ cấu giáo học. Tại Trung Quốc đã có chế
độ này, chính thức đi vào khuôn khổ, chính thức
tiến hành công tác giáo học. Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo học
tư nhân, giống như Khổng lão phu tử cũng là
giáo học tư nhân. Sau khi đạo Phật truyền
đến Trung Quốc bèn có chế độ, chế
độ này được gọi là “chế độ tùng lâm”. Trong quá khứ, Phương
tiên sinh đã nhiều lượt nói với tôi điều
này, tối thiểu cũng phải mười mấy lần,
tạo ấn tượng rất sâu đậm. Thầy
nói Phật giáo muốn hưng vượng, nhất định
phải khôi phục chế độ tùng lâm. Chế độ
tùng lâm là trường học, chính thức quản lý
trường học: Chủ tịch tùng lâm là hiệu
trưởng, Thủ Tọa là giáo vụ trưởng, Duy
Na là huấn đạo trưởng, Giám Viện là tổng
vụ trưởng, hoàn toàn giống với cách phân chia
trách nhiệm trong trường đại học. Tuy khác danh
xưng, nhưng chức trách như nhau, quả thật là một
trường học. Đấy là trong quá khứ. Hiện thời
chẳng còn nữa. Hiện nay, Phật giáo biến thành tôn
giáo. Chúng ta nên biết điều này xảy ra từ thời
vua Gia Khánh trở đi. Trong thời Càn Long - Gia Khánh, chùa
chiền, tùng lâm Trung Quốc vẫn còn là nơi dạy học,
đời nào cũng có bậc cao tăng, đại đức.
Hiện nay đã biến thành tôn giáo, chúng ta cũng chẳng
thể không thừa nhận nó. Do vậy, loại thứ
hai là tôn giáo Phật giáo. Quý vị thấy loại này lấy
kinh sám Phật sự, pháp hội làm chính yếu, chẳng giảng
kinh, dạy học, biến chất rồi! Loại thứ
ba là biến thành học thuật. Trong trường đại
học, ban Triết Học dùng kinh Phật để giảng
dạy, tôi cũng dạy mấy năm, Phật giáo biến
thành học thuật, biến chất rồi! Loại thứ
tư là du lịch vãn cảnh trong nước, tức là loại
Phật giáo tham quan du lịch. Còn có một loại rất
mới, rất “hợp thời trang” là xí nghiệp Phật
giáo, nghe nói còn có cạnh tranh trên thị trường, xí
nghiệp Phật giáo mà! Loại cuối cùng là tà giáo Phật
giáo, đeo chiêu bài Phật giáo, thật ra chẳng ăn nhập
gì với Phật giáo, giống như cái gọi là Pháp Luân Công,
hoàn toàn sai lầm. Như vậy là tối thiểu có sáu
hình thức khác nhau, chúng ta đang học loại nào, phải
hiểu rõ điều này!
Do Chương
Gia đại sư chỉ tôi đường lối này, dạy
tôi hãy học về Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi cũng rất
vâng lời, hết sức tôn kính thầy, vâng lời thầy
chỉ dạy. Sau đấy, không những thầy dạy
tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, mà còn mong tôi hãy xuất
gia, đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tôi làm theo, chứng thực lời cụ Phương
đã nói: “Học Phật là hưởng
thụ tối cao trong đời người”, thật
là hạnh phúc sung sướng mỹ mãn. Có thử thách hay
chăng? Thử thách hết sức nhiều, thử thách
đều là khảo thí. Chúng ta học Phật, đối
với người, đối với sự, đối với
vật, phải vĩnh viễn giữ tấm lòng cảm
ơn. Quý vị sẽ luôn gặp phải hủy báng,
chướng ngại, thậm chí hãm hại, quý vị phải
cảm ơn những người ấy. Vì sao? Họ đến
khảo ta, ta đều có thể vượt qua, chẳng
oán hận, chỉ cảm ơn. Vì lẽ gì họ chướng
ngại ta như thế? Đại khái là do hai nguyên nhân: Một
là trong đời quá khứ, có lẽ ta đã chướng
ngại họ. Đấy là oan oan tương báo. Nay chúng
ta hiểu rõ, giác ngộ, tiếp nhận quả báo này, hóa
giải oan nghiệt ấy. Ta chẳng trả thù họ, mà
cũng đừng nên oán hận họ. Một nguyên nhân
khác là từ xưa đến nay, đây là điều chẳng
thể tránh khỏi. Bị đố kỵ, chướng
ngại là do bản thân chúng ta cư xử chẳng cẩn
thận, thái độ chẳng khiêm tốn, khiến kẻ
khác sanh lòng ghen ghét. Đó là ta sai, chẳng phải kẻ ấy
sai, chúng ta cũng phải cảm ơn kẻ ấy. Trong
Phật pháp, nơi đâu hữu duyên bèn đến đó,
hữu duyên được gọi là “thời tiết nhân duyên”. Cổ nhân Trung Quốc
thường nói: “Nhân vô thiên nhật
hảo, hoa vô bách nhật hương” (người chẳng
tốt đẹp ngàn ngày, hoa chẳng thơm trăm bữa).
Người và người ở chung với nhau, có thể
ở chung ba năm, quý vị bèn chán ngán, nẩy sanh vấn
đề. Chúng ta phải biết dè dặt, cẩn thận
trong khởi tâm động niệm, lời lẽ, hành vi,
phải lấy những lời chỉ dạy của Phật,
Bồ Tát, thánh hiền làm tiêu chuẩn ứng xử cho
chúng ta, nghiêm ngặt tuân thủ, chắc chắn sẽ có
ích. Đối với những kẻ thương tổn
chúng ta, chúng ta dùng tâm tình báo ân để đối đãi, lâu
ngày họ sẽ biết, biết rồi cũng sẽ hối
cải, nhưng như thế nào? Nói xin lỗi là vấn
đề thể diện! Chúng ta biết điều ấy,
trong tâm kẻ ấy chẳng còn oán hận chúng ta, hóa giải
rồi. Quý vị nói xem chuyện này có vui sướng lắm
hay không, là chuyện tốt đẹp như thế đó!
Bởi lẽ,
trong thế gian hiện tại, oan oan tương báo quá nhiều,
vì lẽ gì? Quý vị đối xử với người
khác, chẳng ban bố ân đức, khó tránh kết oán với
người khác. Nay vì sao con hiếu cháu hiền ít ỏi, quý
vị ngẫm xem chính mình có bố thí ân đức đối
với người ngoài hay chăng? Bố thí ân đức
mới có kẻ báo ân tìm đến. Bố thí tài vật mới
có người tới trả nợ. Luôn luôn toan chiếm phần
tiện nghi hơn người, đó là gì? Con cháu của quý
vị là kẻ đến đòi nợ. Đâu đâu
cũng ngạo nghễ, lấn áp người khác, như vậy
là sẽ có kẻ tới báo oán. Phiền phức ở chỗ
này. Chúng ta nhất định phải hiểu điều
này, đều là “tự làm, tự chịu”. Mọi người
đều là người tốt, tổ tiên dạy chúng ta “nhân tánh bổn thiện” (tánh
con người vốn lành), Đại Thừa Phật pháp
dạy chúng ta “tất cả chúng
sanh vốn là Phật”, chúng ta thấy người khác
như thế nào? Chúng ta phải thấy người khác, hết
thảy chúng sanh đều là Bồ Tát, đều là Phật,
thật đấy, chẳng giả đâu! Vì sao Thiện Tài
chứng đắc Phật quả rốt ráo viên mãn trong một
đời? Xưa kia, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng Tứ
Thập Hoa Nghiêm, cũng bỏ ra không ít thời gian;
đáng tiếc là khi ấy ngay cả máy thâu âm cũng
chưa có. Tôi giảng kinh được một nửa bèn
hiểu rõ, biết bí quyết thành tựu của Ngài chính
là: Trong lòng Ngài, chúng sanh toàn là thiện tri thức, toàn là Phật,
Bồ Tát, cho nên Ngài thành tựu. Tôi quan sát cẩn thận,
tìm ra thông tin này từ kinh điển: Thầy của Ngài là
Văn Thù Bồ Tát. Ngài đắc Căn Bản Trí nơi Văn
Thù Bồ Tát, mà cũng là đắc thanh tịnh tâm, đại
triệt đại ngộ. Ngộ rồi khởi tu, khởi
tu là gì? Khởi tu là sống. Văn Thù Bồ Tát bảo Ngài
đi tham học, năm mươi ba lần tham học, tham
học là gì? Tiếp xúc các tầng lớp trong xã hội, hết
thảy mọi người mà quý vị tiếp xúc từ
sáng đến tối toàn là Phật, toàn là Bồ Tát, chỉ
có một mình ta là phàm phu. Ngài mang tâm thái như vậy, áp dụng
toàn bộ những điều đã học từ chỗ
thầy vào cuộc sống, áp dụng trong công việc, áp dụng
trong xử sự, đãi người, tiếp vật.
Khi thầy
Phương giới thiệu kinh Hoa Nghiêm, đã bảo tôi:
Kinh Hoa Nghiêm có lý luận viên mãn, có phương pháp thiện
xảo, cuối kinh lại còn có biểu diễn. Năm
mươi ba lần tham học là biểu diễn, quý vị
thấy: Đem đạo lý và phương pháp áp dụng vào
cuộc sống, công tác, vào xử sự, đối nhân xử
thế cho quý vị thấy. Cụ nói bộ sách giáo khoa này,
cụ quan niệm kinh Hoa Nghiêm là Phật học khái luận
bậc nhất trên thế giới, tìm chẳng ra loại
tài liệu giảng dạy thứ hai nào tốt đẹp
như thế. Vì thế, vào tuổi xế chiều, lão nhân
gia dạy Triết Học Hoa Nghiêm cho chương trình tiến
sĩ ở đại học Phụ Nhân (đại học
của giáo hội Công Giáo) đúng là thỏa thích. Chúng tôi được
thầy chỉ dạy, mới biết Phật pháp thù thắng
khôn sánh. Phật pháp quả thật có thể giải quyết
vấn đề của chính mình. Bản thân tôi có rất
nhiều vấn đề, trong đời quá khứ chẳng
tu phước báo. Số mạng có thật! Quý vị đọc
Liễu Phàm Tứ Huấn, thấy tiên sinh Liễu Phàm được
Khổng tiên sinh đoán mạng, suốt hai mươi năm
chẳng sai mảy may: Thu nhập hàng năm, thứ tự
đỗ đạt, địa vị đẳng cấp
mỗi năm đã định trước trong số mạng.
Trong cuộc sống hằng ngày, tiên sinh Viên Liễu Phàm chuyện
gì cũng chẳng nghĩ tới, cùng thiền sư Vân Cốc
ngồi trong Thiền Đường suốt ba ngày ba
đêm, chẳng khởi một niệm. Loại người
này rất ít, thiền sư Vân Cốc rất kinh ngạc,
ba ngày ba đêm chẳng khởi một niệm, công phu này
khá lắm! Liền hỏi ông ta: “Ông tu như thế nào?”
Ông ta liền đáp lời, cũng rất thật thà: “Con
chẳng có công phu gì! Số mạng đã được
người khác đoán sẵn, khởi niệm vô ích, chẳng
thà coi như xong, chẳng khởi niệm nữa!” Thiền
sư Vân Cốc cười, bảo: “Ta ngỡ ông là thánh
nhân, hóa ra ông vẫn là phàm phu”. Ông ta hỏi: “Sao thầy nói
vậy?” Sư bèn giải thích. Đây là một người
thật sự hiểu mạng vận, chẳng khởi vọng
tưởng. Quý vị tin vào số mạng, hãy xem thiền
sư Vân Cốc dạy ông Viên phương pháp sửa đổi
số mạng. Số mạng của quý vị do đâu mà
có? Do [các nghiệp nhân] trong đời quá khứ tạo
thành.
Lúc tôi mới
học Phật, Chương Gia đại sư dạy tôi;
Ngài đã già, lớn hơn tôi ba mươi chín tuổi, khi
ấy, tôi hai mươi sáu tuổi, lão nhân gia đã sáu
mươi lăm tuổi. Sư đã gặp nhiều
người. [Theo Sư nhận định], con người
tôi ngoại trừ có chút thông minh nhỏ nhặt, trong số
mạng chẳng có của cải, chẳng có địa vị,
là kẻ bần tiện, có số ăn mày! Còn có một tí
thiện căn, đây là điểm khó có: Biết tôn
sư trọng đạo, hiếu thuận cha mẹ, thọ
mạng chỉ được bốn mươi lăm tuổi,
tôi tin tưởng [lời Sư]. Vì thế, Ngài giúp tôi, dạy
tôi tu ba điều: Tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố
thí, dạy tôi những điều này để sửa
đổi số mạng. Tài bố thí thì tôi không có tiền,
mỗi tháng bản thân chỉ có chút tiền lương,
đời sống khá chật vật, tiền đâu để
bố thí? Ngài hỏi tôi: Có cắc nào hay không? Một cắc
cũng được! Một đồng có được
hay không? Một đồng vẫn được! Anh hãy bố
thí từ một cắc, một đồng, trước hết,
phải có ý nguyện bố thí, có ý niệm ấy. Về sau,
tôi thường đến chùa miếu mượn kinh xem, chẳng
có chi khác, chùa miếu có kinh sách, mua bên ngoài chẳng
được. Thấy nhà chùa in kinh sách, bèn quyên góp một
ít tiền, chúng ta bỏ ra năm mươi xu, hay một
đồng đều được, làm từ chỗ
này. Phóng sanh thì lúc tôi mới học Phật bèn phóng sanh, in
kinh, đúng là càng thí càng nhiều, chẳng giả tí nào! Sau
này, theo thầy Lý học kinh giáo, rồi đi giảng kinh.
Giảng kinh là pháp bố thí. Đại khái, tôi giảng
kinh mười một, mười hai năm, có lần gặp
Cam Châu Hoạt Phật (Kanjurwa Khutughtu), vị này đã khuất,
cũng là học trò của Chương Gia đại
sư, cũng có địa vị rất cao trong Phật
giáo theo truyền thống Tây Tạng. Có một lần,
Sư cho tôi biết: “Pháp sư Tịnh Không, thầy đến
đây, tôi có lời muốn nói với thầy”. Tôi nói: “Thưa
Phật gia, chuyện gì thế?” Tôi và Sư rất thân thuộc.
Sư nói: “Chúng tôi phê bình sau lưng thầy”. Tôi hỏi: “Phê
bình tôi điều gì?” Sư nói: “Thầy là người rất
thông minh, cũng là một người tốt, rất
đáng tiếc mạng thầy rất khổ, đoản
mạng”. Tôi đáp: “Chuyện này có thể nói trước
mặt mà! Tôi biết rất rõ, tôi đâu bận tâm chuyện
này”. Sư nói: “Mấy năm nay, thầy giảng kinh công
đức rất lớn, số mạng của thầy
đã chuyển biến”. Tôi hỏi: “Thật sao?” “Thật
đó! Thầy thọ mạng rất dài, phước báo rất
lớn”. Tôi cũng chẳng cầu phước báo, cũng
chẳng cầu tuổi thọ, thật đấy! Sư
nói với tôi chuyện này xong, năm sau bèn vãng sanh, tôi không ngờ
Sư vãng sanh nhanh như vậy!
Vì thế,
gặp được Phật pháp, vận mạng mới
chuyển biến rất lớn, mỗi một lần bị
vùi dập là một lần được tiến triển
với mức độ lớn, đồng học ở
cạnh tôi đều đích thân thấy điều này.
Chúng ta học Phật chỉ có một sứ mạng: Mong
cho chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật tồn tại lâu dài,
học đòi Thích Ca Mâu Ni Phật giúp hết thảy chúng
sanh phá mê khai ngộ. Phá mê khai ngộ bằng giáo học. Con
người khổ nạn, xã hội gặp tai nạn là
vì đâu? Đều do chúng sanh mê hoặc, điên đảo,
tạo tác nghiệp bất thiện mà cảm vời. Làm thế
nào để giúp chúng sanh, giúp xã hội hóa giải tai nạn?
Dùng ngay biện pháp quen thuộc của Thích Ca Mâu Ni Phật,
giảng kinh, dạy học. Bởi lẽ, người giảng
kinh dạy học càng đông, kẻ được giáo hóa
càng nhiều, người giác ngộ càng lắm, nhiều vấn
đề trong xã hội sẽ được giải quyết,
cái gọi là “thiên tai” cũng dần dần bị hóa giải,
chuyện này là thật, chẳng giả! Tiến sĩ Giang
Bổn Thắng làm thí nghiệm trên nước, mới đây
đã triệu tập một hội nghị tại
Đông Kinh, có mời tôi. Tôi viết một bài diễn giảng,
giao cho cư sĩ Chung Mậu Sâm thay tôi tham dự, báo cáo
trong đại hội. Khoa học chứng minh ý niệm của
chúng ta chẳng thể nghĩ bàn. Bởi lẽ, theo giáo
pháp Đại Thừa, vũ trụ do đâu mà có? Vạn
pháp do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Đức Phật nói rất
rõ ràng: “Duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến”. Vì thế, chúng ta giải quyết
vấn đề của chính mình, sẽ giải quyết vấn
đề nơi hoàn cảnh. Đối với thiên tai
trong môi trường hiện thời, Phật pháp đã dạy
chúng ta một nguyên tắc chỉ đạo tối cao, tức
là quý vị phải thật sự hiểu: “Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Chỉ
cần chuyển biến cái tâm. Giáo học của Phật pháp
không có gì khác, dạy bảo chúng ta hãy chuyển ác thành thiện,
[thiện, ác] có tiêu chuẩn. Thập Thiện Nghiệp
Đạo là tiêu chuẩn trong nhà Phật. Quý vị đừng
coi thường mười điều này. Trong giáo pháp Tiểu
Thừa, mười điều ấy được triển
khai thành ba ngàn oai nghi; trong Đại Thừa Bồ Tát pháp,
triển khai thành tám vạn bốn ngàn oai nghi, tức là
mười điều này mở rộng thành tám vạn bốn
ngàn điều, chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, tu Thập
Thiện viên mãn thì tám vạn bốn ngàn điều quý vị
đều thực hiện, quý vị sẽ thành Phật!
Đừng
coi thường một trăm mười ba điều
trong cuốn Đệ Tử Quy của Nho gia! Nếu triển
khai thì chúng cũng thành tám vạn bốn ngàn điều, toàn
bộ văn hóa truyền thống được thực
hiện ngay trong đó. Do vậy, Tứ Thư, Ngũ Kinh,
mười ba kinh, thậm chí Tứ Khố Toàn Thư đều
chẳng tách rời [những điều ấy]; mỗi một
điều đều chẳng tách rời, đều giống
với Thập Thiện Nghiệp Đạo. Mỗi một
bộ kinh, mỗi một câu, mỗi một chữ trong
Đại Tạng Kinh đều chẳng tách lìa Thập
Thiện Nghiệp Đạo, một tức hết thảy,
hết thảy tức một. Cũng vì hiện thời
đúng là lúc tai nạn rất nhiều, cho nên tôi phát tâm tạm
ngừng giảng kinh Hoa Nghiêm từ một năm tới
hai năm để lần này giảng bộ kinh này. Trong
quá khứ, tôi đã giảng kinh Vô Lượng Thọ mười
lần, nhưng lần này, tôi chẳng giảng kinh mà giảng
chú giải, giảng chú giải của ai? Giảng bản
chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Hoàng
lão cư sĩ với tôi là bạn bè, mà cụ cũng là thầy
của tôi. Cụ có cùng vai vế với thầy tôi. Lão
cư sĩ Lý Bỉnh Nam là học trò của đại
sĩ Mai Quang Hy. Mai đại sĩ và cụ Hạ Liên
Cư là sư huynh, sư đệ, bạn bè hết sức
thân thiết. Cụ Hoàng Niệm Tổ là cháu gọi cụ
Mai Quang Hy bằng cậu, là học trò cụ Hạ Liên Cư.
Do trước kia chưa từng gặp mặt, nhưng
tôi từng nghe cụ Lý nhắc đến tên cụ Hoàng,
có chút ấn tượng như thế đối với cụ
Hoàng Niệm Tổ. Thuở ấy, năm 1986, tôi là hội
trưởng của Hoa Phủ Phật Giáo Hội tại Washington,
Mỹ quốc. Các đồng tu tới bảo tôi: Họ
tính mời một vị thượng sư Mật Tông sang
Mỹ hoằng pháp. Khi đó, tôi nghe xong, không cho là đúng:
“Chúng ta là Tịnh Độ Tông, chớ nên dính dáng môn phái khác!”
Tôi nói: “Chúng ta thâm nhập một môn, trường thời
huân tu”. Tôi hỏi họ: “Vị đại đức Mật
Tông ấy là ai thế?” Họ thưa: “Hoàng Niệm Tổ”.
Trong đầu tôi có ấn tượng về Hoàng Niệm
Tổ, tôi nghĩ mãi mới ra, tôi hỏi: “Có phải ông ta
là cháu cụ Mai Quang Hy hay chăng?” Họ đáp: “Đúng vậy”.
Tôi bảo: “Hãy thỉnh ông ta sang”. Thầy Lý đã nói đến
vị này mấy lần, tôi tưởng cụ là người
lớp trước, đã tịch rồi, [nào ngờ] cụ
vẫn còn trong nhân gian, rất khó có! Những điều cụ
giảng là chân truyền, không có vấn đề gì! Vị
này được đích thân cụ Mai và cụ Hạ uốn
nắn, dạy dỗ, tôi nói: “Vị đại đức
này khó có, quý vị hãy thỉnh cụ đến đây”. Thỉnh
cụ đến như thế đó.
Thỉnh
đến rồi mới biết, cụ hoằng
dương bản hội tập này trong nước, tôi hoằng
dương tại hải ngoại. Cụ nghe nói xong, hai
người chúng tôi hết sức cao hứng. Điều
hết sức khó có là khi ấy, cụ vừa viết xong bản chú giải, in bằng ronéo, chữ
in lờ mờ, chẳng rõ ràng. Chúng ta biết: In thứ gì
bằng ronéo, nhiều nhất là
không hơn một trăm bản. In hơn một trăm bản,
giấy sáp (stencil) sẽ chẳng thể dùng được
nữa. Cho nên cụ mới phải dùng bản in như vậy.
Đương nhiên, bộ sách cụ mang sang Mỹ, nhất
định là chọn bản in tương đối
rõ ràng một chút để tặng cho tôi; tôi đọc xong,
hết sức hoan hỷ. Cụ mong tôi viết lời tựa,
do vậy, lời tựa [bộ chú giải ấy] là do tôi
viết. Trước kia, tôi sang Bắc Kinh, sang vài lần, toàn
là đến gặp cụ, vì gặp cụ mà sang đó. Mỗi
một lần sang đó, chúng tôi đều có một khoảng
thời gian rất dài để thảo luận các vấn
đề Phật pháp. Cụ dạy tôi rất nhiều; do
vậy, chúng tôi là bạn bè thân thiết, mà cụ cũng là
thầy tôi, tôi cũng cảm kích ân đức của cụ.
Bản hội tập này của cụ Hạ đâu phải
là dễ có, phàm phu làm sao có thể làm được! Các lần
hội tập trong quá khứ, [các bản hội tập của]
Vương Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, hay tiết bản
(bản trích lục, phân chia thành chương đoạn) của
Bành Tế Thanh đều có vấn đề, vẫn
chưa thể coi là bản tận thiện tận mỹ.
Đọc bản này, nếu quý vị xem lời tựa rất
dài của cư sĩ Mai Quang Hy, [sẽ thấy cụ Mai]
viết hết sức rõ ràng. Do vậy, ở Đài Trung,
sau khi bản này truyền đến Đài Trung, thầy Lý
đã giảng kinh này một lượt. Khi ấy, kinh
chưa có chú giải, chính cụ Lý dùng bút lông viết lời
mi chú[3] kỹ
càng, đầy đủ. Khi cụ giảng bộ kinh này,
tôi còn chưa đến Đài Trung, chưa được
nghe, nhưng cụ đem bản mi chú này trao cho tôi, tôi có thể
đọc hiểu; dùng bản này, tôi cũng có thể giảng,
có năng lực này. Do vậy, khi đó, chúng tôi đã tính
giảng bộ kinh này, trình lên thầy. Thầy bảo
chưa được, chưa đến lúc, chưa đến
thời tiết nhân duyên. Vì thế, các đồng tu ở Đài
Bắc đã in kinh xong, nhưng rốt cuộc đổi sang
giảng kinh Lăng Nghiêm; tôi ở Đài Bắc, trước
sau đã đem kinh Lăng Nghiêm học được từ
lão nhân gia giảng bảy lần.
Do nguyên
nhân gì? Đố kỵ, chướng ngại. Tại Đài
Loan, mọi người có thành kiến đối với cụ
Hạ, đối với thầy Lý cũng có thành kiến,
nên thầy bảo tôi hãy tránh né. Đến khi lão nhân gia vãng
sanh, tôi ở Mỹ, nghĩ thầy đã cho tôi bản này,
rất nhiều người chưa thấy bản này, tôi
liền phát tâm in một vạn cuốn. Năm sau, tức
năm 1987, in xong xuôi, bèn cho lưu thông, tại ngoại quốc,
các đồng học ở Mỹ thấy bản này hết
sức thích thú, liền thỉnh tôi giảng giải. Vì thế,
tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ lần đầu
tiên tại Vancouver, Gia Nã Đại. Lần thứ hai, tại
thành phố San Francisco. Trước sau, giảng tất cả
mười lần, kinh mới được giảng giải,
lưu thông như vậy. Lần này tôi mang theo nguyên bản
kinh này, tặng cho ông Hồ Tiểu Lâm làm kỷ niệm. Ông
ta cũng thọ trì kinh Vô Lượng Thọ, số lần
đọc tụng rất nhiều. Từ nay về sau, chúng
ta phải vĩnh viễn lưu truyền kinh Vô Lượng
Thọ. Chúng ta cảm tạ ân đức hội tập của
cụ Hạ, cảm tạ cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
nhọc lòng chú giải bộ kinh này. Vì thế, lần này,
tôi phát tâm giảng bản chú giải của cụ, gọi
là Diễn Nghĩa. Quý vị thấy kinh Hoa Nghiêm có Diễn
Nghĩa, đối với kinh Di Đà, Liên Trì đại
sư có tác phẩm Sớ Sao. Học trò của Liên Trì đại
sư lại chú giải Sớ Sao gọi là Diễn Nghĩa.
Đại khái, đối với diễn nghĩa, các vị
có khái niệm sâu nhất, như là tiểu thuyết Tam Quốc
Diễn Nghĩa. Chúng ta dùng phương pháp này để cùng
nhau học tập, học tập nhằm thâm nhập, thấu
triệt, theo phương pháp giống như ông Hồ Tiểu
Lâm học tập tác phẩm [Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ] Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán, từng câu, từng chữ chúng tôi đều
giảng rõ ràng.
Trong những
năm qua, chúng tôi gặp nhiều người thuộc giới
học thuật, tôi tiếp xúc rất nhiều, đặc
biệt là đối với sinh viên đại học hiện
thời, cảm thấy họ không giống thuở trước.
Xưa kia, khi tôi dạy tại đại học, sinh viên kể
ra cũng khá lắm. Khi lên lớp, chúng tôi đã không theo
cách dạy thời cổ, mà là giảng giải, giảng
hai tiếng đồng hồ, sinh viên thường rất
yên lặng lắng nghe. Trong nhà trường hiện thời,
không thể làm như vậy được! Sức chú ý của
học sinh trong nhà trường hiện thời đại
khái chỉ có mười lăm phút. Sau mười lăm
phút, họ sẽ không để tâm nữa. Do vậy, tôi
thường đem chuyện này hỏi các giáo sư: “Quý vị
dạy trong trường, dạy như thế nào?” Họ
nói: “Giảng bài mười lăm phút”. Sau đó thì sao? Sau
đó là nói chuyện phiếm, dùng phương pháp này cho qua
thời gian. Chúng tôi thấy điều này hết sức
khó chịu, cũng là do học sinh tánh khí hời hợt.
Nói cách khác, đời chúng nó thiếu mục tiêu, thiếu
phương hướng, mù quáng, hiện tượng này rất
đau xót. Bởi vậy, tôi nghĩ tới hai câu nói của Khổng phu tử, hôm nay tôi đặc
biệt nêu ra hai câu này: “Thuật
nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”. Dùng hai câu nói này làm thái
độ học vấn, rất hay! “Thuật nhi bất tác” là gì? Không sáng tạo, không
phát minh. Phu tử tự nói sở học, sở tu, sở
giáo, sở truyền cả đời Ngài toàn là những thứ
do cổ thánh tiên hiền đã nói, không có gì là của chính
mình! Chúng ta có tin được hay chăng? Tôi học Phật
nhiều năm như thế mới tin tưởng,
đặc biệt là đối với những điều
được nói trong kinh Hoa Nghiêm và bộ Hoàn Nguyên Quán, vì
sao? Cổ thánh tiên hiền đều kiến tánh, thật
sự minh tâm kiến tánh. Tôi từng hỏi thầy Lý, tôi
nói: “Thưa thầy! Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Trang
có phải là Phật, Bồ Tát tái lai hay chăng?” Thầy mỉm
cười, bảo tôi: “Nói theo
Lý thì được, nhưng trên mặt Sự thiếu chứng
cứ”. Phẩm Phổ Môn nói “nên
dùng thân gì để đắc độ bèn hiện thân ấy”,
nhưng họ chẳng bộc lộ thân phận. Vì thế,
chúng ta có thể nói theo Lý thì thông suốt, họ đều
là bậc đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh.
Kiến tánh
sẽ viên mãn, quý vị chẳng thể thêm hay bớt chút
nào, luôn là viên mãn. Người ấy chứng viên mãn, mà quý vị
minh tâm kiến tánh cũng chứng viên mãn. Do vậy, hai chữ
Như Lai có một cách giải thích: “Như Lai giả, kim Phật như cổ Phật
chi tái lai” (Như Lai là Phật hiện tại giống
như cổ Phật trở lại), giống như nhau,
cho nên nói: “Những điều
ta nói đều giống như cổ nhân đã nói”.
Đúng vậy, chẳng sai tí nào! Tự - Tha bất nhị.
Vì vậy, đùn trách nhiệm cho lời cổ nhân nói, chính
mình chẳng có sáng tạo, phát minh, đó là khiêm hư. Bất
luận là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, khiêm
hư là bậc nhất. Quý vị thấy trong sáu
mươi bốn quẻ [của kinh Dịch] có câu: “Mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích”
(Tự mãn sẽ chuốc lấy tổn hại, khiêm tốn
được lợi ích). Trong sáu mươi bốn quẻ,
chỉ có quẻ Khiêm là “lục
hào giai cát” (sáu hào[4] đều tốt lành). Tâm con người
hiện thời hời hợt, bộp chộp, chẳng
khiêm hư; do vậy, chẳng những không thể tiếp
nhận thánh giáo, mà học thuật thế gian cũng chẳng
thể thành tựu. Hiện tại, tìm chẳng ra những
nhà văn học giống như thời Đường, Tống,
Nguyên, Minh. Vì thế, “thuật nhi
bất tác” rất quan trọng! “Tín nhi hiếu cổ”: Đối với những
trước tác của cổ nhân, thành tâm tin tưởng, một
chút hoài nghi cũng chẳng có. Ưa chuộng cổ nhân,
vui thích những giáo huấn của cổ nhân, những thứ
ấy đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng
nổi khảo nghiệm, bị thời gian lẫn con
người khảo nghiệm mà vẫn có thể lưu
truyền tới nay, chứng tỏ chúng có giá trị, chúng
ta phải tôn trọng, nghiêm túc, nỗ lực học tập.
Quý vị thấy Phật pháp nói theo Lý rất đơn giản,
chúng sanh và Phật chẳng khác, khác nhau ở chỗ nào? Mê hay
ngộ. Phật, Bồ Tát đã giác ngộ, chúng sanh chưa
giác ngộ, mê rồi! Do vậy, Phật, Bồ Tát giúp
đỡ chúng sanh, giúp gì? Giúp họ phá mê khai ngộ, giúp họ
“vọng tận, hoàn nguyên”
(hết vọng, trở về nguồn), đấy là giáo
dục. Giúp họ hoàn nguyên, giúp họ chứng đắc Bồ
Tát, chứng đắc Phật, có công đức hay không? Chẳng
có công đức. Vì sao? Họ vốn là Phật, vốn là Bồ
Tát. Giác ấy là Bổn Giác, Bổn Giác vốn có.
Quý vị
mới biết những bậc đại thánh đại
hiền giúp người, tâm địa thanh tịnh lắm,
thật sự chẳng nhiễm mảy trần, chẳng
có vọng niệm nào. Nếu tôi giúp quý vị như thế
là có ân đối với quý vị. Đấy là vọng niệm,
không có [vọng niệm ấy]! Chẳng có mảy may nào!
Cho nên các Ngài thanh tịnh, tự tại, chúng ta nhất
định phải hiểu điều này! Hiện thời,
con người hiểu lầm Phật giáo rất sâu, khi chúng
ta giảng giải, phải đặc biệt giảng rõ
ràng. Người Ấn Độ nói Phật, người
Hán nói “thánh nhân”. Phật nghĩa là gì? Nghĩa là giác ngộ.
Thánh (聖) là gì? Thánh có nghĩa là hiểu rõ! Hiểu
rõ chẳng phải là giác ngộ ư? Giác ngộ chẳng
phải là hiểu rõ ư? Bởi lẽ, Tự - Tha là một,
chẳng hai. Chúng ta xưng tụng Khổng Tử là Chí Thánh
Tiên Sư, chúng ta cũng có thể xưng tụng Phật
giống như vậy: “Chí Thánh
Bổn Sư”. Dùng cách xưng hô như vậy, mọi
người sẽ chẳng cảm thấy mê hoặc, sẽ
không nói Phật giáo là tôn giáo. Chí Thánh Bổn Sư, về căn
bản là một bậc thầy. Các Ngài đều dạy chúng
ta “thuật nhi bất tác, tín
nhi hiếu cổ”. Hai câu nói này của Khổng Tử được
chép trong sách Luận Ngữ, còn hai câu này của Phật được
ghi ở nơi đâu? Trong kinh Hoa Nghiêm, [tức là trong lời
giảng về] tựa đề của bộ Tứ Thập
Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư bảo đức
Phật còn nói viên mãn hơn Khổng Tử. Ngài nói đức
Thế Tôn từng bảo hết thảy các kinh do lão nhân
gia đã nói trong bốn mươi chín năm đều do
cổ Phật đã nói; đối với các kinh do cổ
Phật đã nói, đức Phật chẳng nói thêm một
chữ nào, “thuật nhi bất
tác”, Ngài nói đến mức độ ấy, đúng
hay không? Đúng! Vì sao? Phật hiện tại và cổ Phật
chẳng khác, sở chứng của Phật hiện tại
là sở chứng của cổ Phật, sở thuật của
Phật hiện tại là sở thuật của cổ Phật,
chẳng khác nhau!
Như vậy
thì chúng ta thực hiện hai câu này ra sao? Thực hiện
trong lần này. Đây là lần thứ mười một
tôi giảng bộ kinh này, dùng Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa, hoàn toàn dựa theo bản chú giải của thầy
Hoàng Niệm Tổ. Chúng ta báo ân, báo ân cụ Hạ đã vì
chúng ta hội tập một bộ sách viên mãn như vậy,
hy hữu khó gặp gỡ! Tôi tin cụ Hạ chẳng phải
là người thường, mà là bậc tái lai. Tôi từng hỏi
cụ Hoàng. Cụ Hoàng khẽ gật đầu, bảo: “Chớ
nên nói điều này với người ngoài”. Chúng tôi biết,
trong tâm hiểu rõ: Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
cũng không phải là người tầm thường, trong
hoàn cảnh khó khăn như thế mà viết ra một bộ
chú giải như vậy, quá khó có! Sưu tập lắm tài
liệu như thế. Tôi đã đến nhà cụ vài lần,
thấy các tài liệu chất đống trong thư phòng.
Quả thật là Tam Bảo gia trì, gần như cụ
nghĩ đến thứ gì, đều có người tặng
cho. Người tầm thường có thể được
như vậy hay chăng? Bộ kinh hay như thế, bản
chú giải tuyệt như thế, nếu chúng ta chẳng sốt
sắng học tập, sao chẳng phụ lòng cụ Hạ?
Sao chẳng khiến cụ Hoàng thất vọng? Sao khỏi
phụ lòng Thích Ca Mâu Ni Phật đã nhiều lần tuyên
giảng bộ kinh này? Báo ân Phật, báo ân thầy, báo ân quốc
gia, báo ân chúng sanh, chúng ta dùng phương pháp diễn
nghĩa này cũng là nghiêm túc, cẩn thận học tập.
Đó là nhân duyên giảng kinh lần này. Trong thời đại
này, phương thức báo ân cụ thể là phải dùng
phương pháp này, chúng tôi làm trước tiên. Hôm nay đã
hết thời gian, chúng ta học tập tới đây.
Ngày mai, chúng ta sẽ bắt đầu học từ phần
Tiền Ngôn (lời mở đầu). À! Cám ơn mọi người!
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment