"Nầy
Văn Thù! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay sống chết luân hồi từng
cùng làm lục thân quyến thuộc, thay đổi vô thường cũng như trò hát. Thân
mình và thân loài khác đồng là chất huyết nhục, vì thế nên chư Phật
không ăn thịt. Lại nữa, chúng sanh giới tức là ngã giới, thịt loài khác
chính là thịt của mình, nên chư Như Lai không ăn thịt...
Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
Ðề yếu:
Ở Việt Nam, không những Phật giáo, mà
trong các tôn giáo khác cũng có nhiều người ăn chay. Riêng về đạo Phật,
tuy phần đông đều dùng chay lạt, song ít ai hiểu xác đáng sự lý của việc
này. Về phần sự, có người ăn chay kỳ không trúng ngày tháng, hoặc không
kiêng cữ hành, hẹ, tỏi, kiệu, có kẻ lại gia vị vào các thứ như tôm khô,
hào khô. Do đó nên công đức không được toàn vẹn. Về phần lý, nhiều
người không hiểu nguyên do chánh đáng của việc ăn chay, hoặc lầm tin
theo tà thuyết, hay tưởng ăn chay nhiều là tu nhiều rồi sanh lòng ngã
mạn. Do chỗ phát tâm không chánh ấy, nên kết cuộc sự thực hành cũng
không bền. Ngoài ra, có vị đem lòng nghi cho thuyết ăn chay là do tập
tục của Trung Hoa đặt ra, chớ không phải chính Phật nói, bằng cớ là
những vị ở các xứ thuộc Nam tông Phật giáo vẫn ăn mặn mà cũng chứng
thánh quả. Sở dĩ có mối nghi đó, là vì họ chưa hiểu rõ nghĩa phương tiện
của Nhị thừa và nghĩa chân thật của Ðại thừa. Lại có người nghi rằng:
có lẽ khi xưa Phật cũng ăn mặn, vì khi đi khất thực, dân chúng cúng thức
gì dùng thức ấy, tại sao ta bắt buộc phải ăn chay? - Xin đừng đem tâm
chúng sanh mà trắc lượng việc ấy, vì chúng ta là phàm phu không thể sánh
với Phật là bậc đại giải thoát, có đầy đủ thần thông phương tiện trong
khi hóa độ hữu tình. Vã lại, trong các Kinh liễu nghĩa, đức Thế Tôn đã
nêu rõ nguyên nhân hợp tình lý của sự không dùng huyết nhục, khuyên bảo
đệ tử nên dùng chất thanh đạm, thì ta cứ y theo lẽ phải và lời Phật dạy
mà thực hành. Hơn nữa, theo kinh Ương Quật Ma, thì chẳng những riêng đức
Thích Ca, mà tất cả chư Phật đều không dùng huyết nhục.
Ðể giúp người học Phật trên
phương diện tiến tu, trong đây trình bày các sự lý, lời khuyên của Như
Lai cùng cổ đức về việc ăn chay, giới sát, phóng sanh. Mong rằng các mục
nơi bản chương có thể đem lại cho duyệt giả những điều hữu ích.
Tiết I - Ý Nghĩa Của Sự Ăn Chay
Theo quan niệm phổ thông của
hàng Phật tử Việt Nam, ăn chay là dùng những chất thanh đạm, không ăn cá
thịt và các thứ hôi nồng thuộc về loại ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén,
hưng cừ). Nếu dùng cá thịt và ngũ tân, người ta gọi là ăn mặn. Nhưng
thật ra, chữ "Chay" nói trại là nguyên âm "Trai" và Trai có nghĩa là Trung hoặc Thời
thực. Trung hay Thời thực là dùng bữa giữa ngày vào giờ Ngọ, nếu ăn quá
ngọ gọi là phi thời thực. Còn dùng chất thanh đạm, nên gọi là "tố thực", nghĩa là "ăn lại", mới xác đáng hơn. Tuy nhiên, chữ Trai dịch từ Phạm âm Ô ba va sa tha (Upavasatha), lại có nghĩa là "thanh tịnh". Và bởi ăn lại cũng có tánh cách làm cho thân tâm con người nhẹ nhàng thanh tịnh, nên bên Ðại thừa giáo mới chuyển lần ý nghĩa Tố thực xem đồng với Trai thực. Vậy tiếng "Chay"
tuy không hoàn toàn xác đáng với nguyên thủy của nó, nhưng cũng có một
phần nào ý nghĩa, nên bút giả xin dùng danh từ này với ý dùng chất thanh
đạm cho hợp với quan niệm phổ thông của Phật tử Việt Nam.
Phần đông Phật tử không hiểu xác đáng ý nghĩa ăn chay, nếu có hỏi duyên do thì trả lời một cách đại khái: "Tôi ăn chay để tập lần tánh nết cho thêm bình tĩnh hiền lương". Lại có những lời đồn huyễn bảo: "Ăn
chay sẽ khỏi tai nạn bom nguyên tử, hoặc ma vương sắp ra đời, hay sắp
tận thế, ai không ăn chay sẽ bị chết hết, không được dự hội Long Hoa".
Những truyền thuyết như trên đều không có căn bản, làm cho nhiều người
cố tự ép ăn chay một cách gắng gượng, kết cuộc qua một thời gian rồi
cũng thôi bỏ. Theo Phật giáo, ăn chay có những ý nghĩa như sau:
1- Vì lòng thương xót chúng sanh:
Ðã là loại hữu tình, loài nào cũng biết đau đớn buồn khổ và ham sống sợ
chết, trừ những duyên cớ riêng biệt. Chính mình khi bị vấp ngã hay đứt
tay một chút, còn cảm thấy đau đớn, huống chi là cảnh đâm chém, đập
giết, thiêu nướng, xẻ thịt, banh da! Như thế tại sao ta lại nỡ an nhiên
vui vẻ, ăn uống trên sự đau khổ vô hạn của chúng sanh? Chính mình khi
sắp bị giết đã khóc thương sợ hãi, hoặc người thân bị giết thì cũng xót
xa, oán hận, đau buồn! Như thế tại sao ta lại nỡ làm cho chúng sanh
khác sợ hãi đau thương lúc sắp bị giết, bị chia ly cùng quyến thuộc? Ðức
Phật là đấng đại từ bi, nên người con Phật thể theo lòng từ bi đó mà ăn
chay, để tránh việc trực tiếp hoặc gián tiếp sát sanh đầy thê thảm ấy.
Trong kinh Lăng Già, đức Thế Tôn bảo Ðại Huệ Bồ Tát: "Những người ăn
thịt đoạn hết hạt giống đại từ. Ta xem chúng sanh luân hồi trong sáu
nẻo, đời đời làm cha mẹ anh em chồng vợ con cái lẫn nhau. Chúng sanh ăn
thịt nhau, toàn là ăn thịt lục thân quyến thuộc của mình. Thế mà loài
hữu tình mơ màng không biết, thường sanh lòng giết hại, làm cho nghiệp
khổ thêm lớn, khiến nên mãi bị lưu chuyển trong đường sanh tử, không
được thoát ly. Kẻ không ăn thịt, sẽ được vô lượng công đức tụ. Nếu tất
cả mọi người không ăn thịt, thì không ai giết hại chúng sanh. Do có
người ăn thịt tìm hỏi để mua, nên mới có kẻ vì cầu tài lợi giết chúng
sanh để bán. Cho nên kẻ ăn thịt cùng người giết chúng sanh để bán thịt,
cả hai đều có tội".
2- Vì tránh ác báo của nghiệp sát:
- Bởi tham miếng ngon, nên con người mới tạo nghiệp giết hại. Nhưng vì
vô minh che lấp, không rõ thấu lý nhân quả, nên kẻ gây nghiệp sát đâu
biết hành vi đó trở lại làm khổ chính mình. Theo lý nhân quả trong kinh,
người tạo sát nghiệp, như nặng tất bị đọa vào tam đồ, nhẹ thì phải chịu
nhiều đau bịnh, hoặc chết yểu, cùng sự khổ nạn về chiến tranh. Kinh
Niết Bàn nói: "Tội sát sanh có ba bậc: thượng, trung, hạ. Nghiệp sát
bậc hạ, là giết từ loài kiến cho đến tất cả bàng sanh. Người tạo tội
nầy phải bị đọa vào tam đồ, chịu sự khổ về bậc hạ. Tại sao thế? Bởi loài
nhỏ dù là con kiến, con muỗi cũng có chút căn lành, nếu giết nó thì
phải chịu tội báo. Nghiệp sát bậc trung là giết từ phàm phu trong loài
người cho đến bậc A Na Hàm. Người tạo tội nầy phải bị đọa vào địa ngục,
ngạ quỉ, bàng sanh, chịu sự khổ về bậc trung. Nghiệp sát bậc thượng là
giết từ cha mẹ cho đến bậc A La Hán, Bích Chi Phật. Người tạo tội nầy,
phải bị đọa vào đại địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ về bậc thượng".
3- Vì muốn dứt tâm tham nhiễm nơi vị trần:
- Trong mười pháp giới, nếu nói tóm tắt, duy có hai nẻo: phàm và
thánh. Phàm phu tâm còn nhiễm ô phiền não, chư thánh tâm hằng sáng sạch
lặng trong. Bởi thế cho nên hàng Phật tử muốn vượt phàm lên thánh, thoát
nỗi khổ luân hồi, phải bỏ nhiễm về tịnh. Mà muốn được tịnh tâm, phải
ngăn ngừa đừng cho sáu căn nhiễm sáu trần. Người nào ăn chay mà cảm thấy
khó khăn, đó bởi do còn thích món ăn ngon, nghĩa là thiệt căn còn nhiễm
vị trần. Vì thế, muốn dễ được tịnh tâm, người Phật tử nên tập lần từ ăn
chay kỳ đến chay trường.
Có kẻ hỏi: - Tại sao bên Phật
giáo Nam tông vẫn còn ăn mặn? Và nếu không thanh tịnh, tại sao những
vị bên phái ấy lại chứng thánh quả? Xin đáp: - Ðức Phật vì tùy hoàn
cảnh căn cơ, trong khi nói giáo pháp Nhị thừa, phương tiện tạm mở cho ăn
ngũ tịnh nhục (không thấy giết, không nghe giết, không nghi giết, thịt
con thú tự chết, thịt loài thú khác ăn còn dư). Nhưng đến khi thuyết qua
giáo nghĩa Ðại thừa, ngài lại triệt để cấm dùng đồ huyết nhục, vì lẽ
mất lòng từ bi bình đẳng, và gây nhân vay trả luân hồi. Như trong kinh
Lăng Nghiêm, đức Thế Tôn còn khuyên không nên dùng đồ bằng da, bởi còn
thọ dụng một thân phần của chúng sanh tức là còn mắc nợ nó, huống chi là
thường ăn thịt? Trong kinh Ương Quật Ma, ngài Văn Thù Bồ Tát thưa: "Bạch Thế Tôn! Phải chăng nhân vì Như Lai tạng, nên chư Phật không ăn thịt?" Ðức Phật bảo: "Nầy
Văn Thù! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay sống chết luân hồi từng
cùng làm lục thân quyến thuộc, thay đổi vô thường cũng như trò hát. Thân
mình và thân loài khác đồng là chất huyết nhục, vì thế nên chư Phật
không ăn thịt. Lại nữa, chúng sanh giới tức là ngã giới, thịt loài khác
chính là thịt của mình, nên chư Như Lai không ăn thịt. Nầy Văn Thù! Như
con bò tự chết, người chủ dùng da nó làm giày dép đem bố thí kẻ giữ
giới. Như bậc giữ giới không thọ tức là pháp Tỷ khưu; nếu thọ trì tuy
không phải phá giới, song thiếu tâm từ bi. Cho nên, không thọ dụng thân
phần của hữu tình, tức là lần lượt lìa nhân duyên sát sanh vậy". Ðời
Ðường bên Trung Hoa, Ðạo Tuyên luật sư giữ giới tinh nghiêm, nên chư
thiên thường hiện thân ủng hộ. Cứ theo bộ Tuyên Luật Sư Cảm Ứng Ký, Tứ
thiên vương thưa với Tuyên sư rằng: "Thuở đức Như Lai còn ở đời, một
hôm ngài phóng ánh sáng lớn bảo các thiên, long, quỉ, thần: - Sau thời
chánh pháp diệt tận, có nhiều vị Tỷ khưu chấp theo giáo tích Tiểu thừa
của ta, không hiểu ý nghĩa Tỳ ni, bảo rằng ta cho các Sa môn ăn thịt. Vì
thế, trong tăng già lam hiện ra cảnh tượng sát sanh cũng như lò thịt.
Lại có các vị Tỷ khưu mặc đồ tơ lụa gần gũi nơi quán rượu dâm xá, không
học ba tạng, chẳng giữ cấm giới, làm cho đạo pháp ta suy vi, thật đáng
thương xót! Nên biết từ vô lượng kiếp đến nay, ta tu Bồ Tát hạnh đã xả
bỏ đầu, mắt, tủy, não, vì tâm từ bi không tiếc thân mạng để bố thí cho
loài hữu tình, có lẽ nào lại bảo đệ tử mình ăn thịt chúng sanh? Ta niết
bàn rồi, các Tỷ khưu thay thế ta làm thầy trời người dẫn dạy hữu tình
khiến cho đắc đạo quả; có lẽ nào bậc thiên nhơn sư mà lại ăn thịt chúng
sanh ư? Khi ta mới thành đạo, tuy trong luật có mở ra cho ăn năm thứ
tịnh nhục, nhưng đó không phải thật là thịt của bốn loài, mà là thịt do
sức thiền định bất tư nghì của ta biến hóa ra. Trong các kinh Niết Bàn,
Lăng Già, ta không cho người trì giới ăn thịt. Nếu có Tỷ khưu nào bảo
rằng trong Tỳ ni giáo, Phật cho ăn cá thịt, cho mặc áo tơ lụa, đó là lời
ma thuyết, là phỉ báng ta!" Lời Phật đã dạy như thế, nếu ăn thịt
cá mà không trước nhiễm cũng có thể chứng quả thánh như các vị bên Nam
tông đã tu chứng. Nhưng nếu so hai phương diện ăn chay và mặn, thì ăn
chay dễ đoạn nhiễm tâm hơn; đến như về nghĩa từ bi bình đẳng, bên ăn
chay lại hoàn toàn hợp lý. Thế nên biết giáo nghĩa Nhị thừa chỉ là
phương tiện tạm thời, giáo nghĩa Ðại thừa mới là chân thật cứu cánh. Vậy
người tu nên hướng theo lẽ phải và xét lại năng lực của mình, đừng quá
cầu cao tự cho là bậc viên dung tự tại, vội nói câu "Tửu nhục xuyên trường quá. Bất ngại bồ đề đạo" (Chất rượu thịt ăn vào cũng ra ngoài, không ngại chi đến sự giải thoát cả) mà lầm.
4- Vì để cho thân tâm nhẹ nhàng, dễ thực hành trên đường tu:
- Ăn chay nếu đúng cách thì hợp với vệ sinh, và khiến cho thân tâm
thanh tĩnh nhẹ nhàng thuận tiện trên đường tu tập. So lại thì khi dùng
mặn, ta cảm thấy trong người nặng nề mệt nhọc, chất ăn khó tiêu hơn. Các
nhà bác học hữu danh đông tây đã công nhận lẽ đó. Như ông Sénèque, một
triết gia, đã nói: "Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc,
thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay. Do đó loài người bị
nhiều bịnh mà chết sớm". Những y khoa bác sĩ trứ danh như các ông: Soteyko, Varia Kiplami cũng bảo: "Trong các thứ thịt có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người". Và bà White, nhà nữ bác học, sau một cuộc thí nghiệm đã tuyên bố: "Các
thứ hột, trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã
dành để nuôi chúng ta. Các thức ấy chỉ cần nấu nướng một cách đơn giản,
thì ăn vào hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho con người thân thể tráng
kiện, tinh thần sáng suốt và tránh được biết bao nhiêu là bịnh tật!"
Chất máu thịt vốn là uế trược, hơn nữa loài thú khi bị giết sanh lòng
uất hận, độc khí lưu trữ vào tế bào, hoặc gặp nhằm những con vật mang
bịnh, như bịnh lao, bịnh sán..., nếu người ăn vào làm sao khỏi sanh đau
yếu?
Có vị hỏi: - Nếu ăn chay cũng đủ sanh tố, tại sao tôi thường thấy người ăn chay trường phần nhiều đều có vẻ xanh và gầy? Xin đáp:
- Ðó là do nhiều nguyên nhân khác biệt, không phải lỗi ở sự ăn chay;
chẳng hạn như vấn đề tâm lý, hoặc không biết cách thức dùng chay. Về tâm
lý, như có người ăn chay với tánh cách gắng gượng, mãi thèm những đồ
mặn, lầm nghĩ rằng ăn chay thiếu sức khỏe, thường đem lòng lo lắng e
ngại. Hoặc có người tu, mà chưa diệt được niệm tưởng mơ sắc dục, hoặc
làm việc suy nghĩ quá nhiều. Những tâm trạng ấy có ảnh hưởng không tốt
cho sức khỏe, bằng chứng như ta thường thấy người nào trải qua một đêm
lo nghĩ, sáng ra gương mặt họ hiện rõ vẻ tiều tụy bơ phờ. Về việc không
biết cách dùng chay, như những người vì lỡ phát nguyện, nên ăn chay một
cách bắt buộc lấy có, chỉ dùng tương chao, ít lát dưa, hoặc muối sả ớt
cho qua bữa. Hơn nữa nhiều người quan niệm tu là phải khổ hạnh, nên
không mấy chú ý đến việc ăn uống; hoặc kho đầu củ cải, vỏ dưa, chiên xơ
mít, hay làm những thức ăn giống đồ mặn rất công phu, song thật sự không
có bao nhiêu chất bổ. Ngoài ra, tập tục của các chùa Việt Nam thiên về
sự tụng niệm cúng lễ, thường khi liền cả đêm ngày. Sự sinh hoạt của Phật
giáo Việt Nam lại nghèo, chư tăng ni thiếu phương tiện học tập, phải
dùng sức quá nhiều, nên vị nào khi học thành tài hầu hết đều suy gầy đau
yếu. Ðó là đại lược những nguyên do khiến cho người tu thường kém sức
khỏe, chẳng phải lỗi ở nơi không ăn cá thịt. Nếu ăn chay mà hợp cách,
với lòng hiểu đạo hoan hỷ, và đường lối tu không thái quá bất cập, thì
đã ít bịnh tật, lại thêm có lợi ích cho thân tâm.
Tóm lại, ý nghĩa của ăn
chay là vì lòng từ bi, vì tránh ác báo, vì lìa trần nhiễm, vì thuận ích
cho đường tu. Nếu lập cơ bản nơi bốn điểm nầy mà dùng chay, thì sự thực
hành sẽ bền và tăng thêm phước huệ. Như trái với cơ bản đó, tất việc làm
chỉ có tánh cách thời gian, khó bền bỉ, kết cuộc không được lợi ích gì
thiết thật trên đường tu.
Kinh sách trích dẫn:
-Kinh Lăng Già, Kinh Ương Quật Ma, Kinh Niết Bàn, Kinh Tứ Thiên Vương, Luận Trí Ðộ, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Phạm Võng, Kinh Ðề Vị, Tư Trì Ký, An Sĩ Toàn Thơ, Tuyên Luật Sư Cảm Ứng ký.
Hòa thượng Thích Thiền Tâm
0 Kommentare:
Post a Comment