Đúng vậy,
chẳng giả! Tăng đoàn một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người, ra bên ngoài khất thực, chẳng
phải là cơm ngàn nhà hay sao? Trộn lẫn lại để
ăn, quý vị thấy đó: Lợi hòa đồng quân
(chia sẻ lợi lạc bình đẳng). Quý vị ra ngoài
khất thực, khất thực chẳng được,
không sao cả! Biết về nhà sẽ được ăn,
được mọi người chia phần, lợi hòa
đồng quân...
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần
2
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
Tập 04
Thưa chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin ngồi xuống.
Xin xem trang hai trong quyển thứ nhất, phần Tiền
Ngôn (lời nói đầu).
Chúng ta đã
học đến chỗ cụ Niệm Tổ giới thiệu
sự tán thán của cổ đại đức đối
với bộ kinh này. Tiếp đó, cụ nói: “Cái dĩ bổn kinh trì danh niệm
Phật pháp môn” (là vì pháp môn trì danh niệm Phật được
nói trong kinh này), chúng ta đọc từ chỗ này, “viên mãn trực tiệp,
phương tiện cứu cánh, nhất siêu trực nhập,
tối cực viên đốn” (viên mãn, thẳng thừng,
nhanh chóng, phương tiện rốt ráo, hễ vượt
thoát bèn vào thẳng cảnh giới Phật, viên đốn
tột bậc). Trong lần trước, chúng ta đã đọc
đến câu này. Đây là nói vì sao pháp môn này được
lắm người tán thán như thế, tôi nghĩ nó có quan
hệ mật thiết với thập phương chư
Phật. Có thể nói pháp môn này trọn khắp pháp giới
hư không giới, không có vị Phật nào chẳng tán thán
A Di Đà Phật. Trong kinh Di Đà, chúng ta đọc thấy
sáu phương Phật ca ngợi; trong bản dịch kinh A
Di Đà của Huyền Trang đại sư, ghi là mười
phương Phật tán thán, nói rất cặn kẽ. Trong kinh
Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, đức Phật đều
giới thiệu với chúng ta như vậy. Trong khi tu nhân,
Phật Di Đà phát nguyện quá vĩ đại, chẳng
thể nghĩ bàn! Phật Phật đạo đồng,
chư Phật chứng đắc trí huệ và đức
tướng chẳng sai biệt, nhưng do lúc tu nhân, phát
nguyện và phát tâm thật sự có sai biệt. Phật pháp
chẳng tách lìa nhân quả, đừng nói là pháp thế gian,
Phật pháp cũng chẳng tách rời!
Lúc chúng tôi
mới học Phật, thầy khuyến khích chúng tôi; thuở
ấy, chúng tôi chưa hiểu sâu như thế. Thầy chỉ
nói phải phát tâm, phải rộng kết thiện duyên, trong
tương lai, pháp duyên hoằng pháp lợi sanh của anh sẽ
thù thắng. Nói với chúng tôi chân tướng sự thật
hiện tiền này, chúng tôi nghe xong cảm thấy rất
vui vẻ. Kết duyên như thế nào? Thuở ấy,
chúng tôi sống khá chật vật, học trò cũng chẳng
có bao nhiêu tiền bạc để kết duyên với mọi
người. Thầy dạy: Anh cầm một đồng,
mua một bao đậu phộng, đứng ở cửa
chính, người ta đến nghe kinh, tặng mỗi người
một hạt. Đó là kết duyên. Mua kẹo, tặng mỗi
người một chút, dùng tâm cung kính, dùng vẻ mặt
tươi cười để đón người ta, tiếp
đãi đại chúng tới nghe kinh. Pháp duyên giảng kinh
của thầy Lý rất tốt, đại khái là thính chúng
cả ba, bốn trăm người; thầy dạy tôi môn
phương pháp này.Về sau, chúng tôi có sức, không chỉ
dùng phương pháp này để kết duyên, mà dùng cách kết
pháp duyên trọng yếu hơn. Chúng tôi bắt đầu
in tặng những tấm thẻ, sau đó là kinh sách. Do khoa
học kỹ thuật tiến bộ, chúng tôi tặng
băng thâu âm, băng thâu hình, hiện thời bèn tặng CD.
Chúng ta có truyền hình vệ tinh, có mạng Internet, đều
nhằm kết pháp duyên.
Nhưng sau này, chúng tôi thâm
nhập kinh tạng, hiểu rõ pháp môn này, trong lúc tu nhân, A Di
Đà Phật đã phát nguyện quá lớn, Phật Phật
đạo đồng. Giữa chư Phật có thể nói,
[tức là đúng như] kinh đã nói như thế này: “Thập phương tam thế
Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất
trí huệ, lực, vô úy diệc nhiên” (Mười phương
ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một
trí huệ, lực, vô úy cũng thế). Phật có tâm đố
kỵ hay chăng? Không có! Chẳng những không có tâm [đố
kỵ], mà Phật chẳng có ý niệm! Chúng ta thường
nói là “chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng
phân biệt, đừng chấp trước”, Phật làm
được điều này. Nếu Ngài làm không được,
còn khởi tâm động niệm, sẽ là Bồ Tát, chưa
phải là Phật. Còn có phân biệt, chấp trước,
sẽ là phàm phu, chưa phải là thánh nhân. Phật đâu có
những đố kỵ, chướng ngại này! Tuyệt
đối chẳng thể có! Do Phật Di Đà phát đại
nguyện này, chư Phật hoan hỷ, đối với tất
cả hết thảy chúng sanh, hết thảy chư Phật
Như Lai đều giới thiệu Tây Phương Cực
Lạc thế giới, kể cả Tỳ Lô Giá Na Phật
trong hội Hoa Nghiêm cũng không ra ngoài lệ này. Vì thế,
Văn Thù, Phổ Hiền dẫn bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới
Hoa Tạng sang thế giới Cực Lạc quy y A Di Đà
Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng tức giận. Không
chỉ chẳng tức giận, mà còn hoan hỷ. Vì sao? Tu
hành thành Phật trong thế giới Hoa Tạng, kinh giảng
điều này rất rõ ràng, phải mất bao lâu? Ba A-tăng-kỳ
kiếp mới đoạn được tập khí vô minh
từ vô thỉ trong A Lại Da Thức. Vô minh đã đoạn
rồi, nhưng tập khí vô minh chưa đoạn, trong thế
giới Hoa Tạng phải tốn thời gian dài như thế
[để đoạn]. Đến thế giới Cực
Lạc thì sao? Đến thế giới Cực Lạc bèn
làm được, trong một ngày là xong! Phương tiện
thù thắng như thế, mười phương thế
giới chẳng có, chỉ riêng A Di Đà Phật là có. Được
rồi! Chỗ của Ngài có [sự thù thắng này], có thể
giải quyết thì mười phương chư Phật
đều đưa học trò của mình, kể cả hàng
Bồ Tát, sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đây là biểu thị pháp cho chúng ta biết: A Di Đà Phật
dạy dỗ là chư Phật Như Lai dạy dỗ.
Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, phải có tâm
lượng này, đây là gì? Tùy hỷ công đức! Kinh Hoa
Nghiêm nói “hằng thuận chúng
sanh, tùy hỷ công đức”, đây là đạt tới
rốt ráo viên mãn. Chư Phật Như Lai, quý vị hãy ngẫm
xem, chẳng phải là thanh tịnh tự tại ư? Ta
mong hết thảy chúng sanh thành Phật, đều tới
thế giới Cực Lạc, đều thanh tịnh tự
tại! A Di Đà Phật có mệt mỏi hay chăng? Chẳng
có! Làm mà không làm, không làm mà làm! Giúp hết thảy chúng sanh thành
Chánh Đẳng Giác, thành Vô Thượng Bồ Đề, trong
tâm A Di Đà Phật cũng chẳng có dấu vết. Đây
gọi là “tùy duyên diệu dụng”,
thật sự mầu nhiệm, mầu nhiệm đến
tột bậc! Đây là biểu thị pháp cho chúng ta thấy,
nói thật ra, chư Phật là như thế, Phật Di
Đà là như thế, mà mỗi người chúng ta cũng
đều như thế. Chỉ là mê mất tự tánh, chẳng
biết Thể, Tướng, Dụng của tự tánh rộng
lớn như thế, không biết trong tự tánh vốn sẵn
có, chẳng phải do bên ngoài mà có, chẳng liên quan gì với
bên ngoài. Do vậy, pháp môn trì danh niệm Phật là tự
tánh.
“Viên mãn trực tiệp”, “viên mãn” là chẳng khiếm
khuyết, “trực tiệp”
là không có chướng ngại; “phương
tiện cứu cánh, nhất siêu trực nhập”. Vì vậy,
pháp môn này là Đốn Giáo. Buông xuống là đốn xả.
Chỉ cần quý vị có thể bỏ, buông xuống
được, quý vị sẽ chứng đắc Phật
quả viên mãn rốt ráo ngay trong hiện tiền. Giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật thuở ấy dưới cội
Bồ Đề, buông xuống, chẳng khởi tâm, không
động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp
trước, bèn minh tâm kiến tánh. [Cảnh giới của]
Huệ Năng đại sư lúc canh ba nửa đêm trong
phương trượng thất của Ngũ Tổ
cũng là cảnh giới này, buông khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước xuống, bèn thành Phật.
Cảnh giới của Huệ Năng đại sư và cảnh
giới của Thích Ca Mâu Ni Phật dưới cội Bồ
Đề giống nhau, là tương đồng, đó “tối cực viên đốn”.
Nay chúng ta không có năng lực này, thật đấy! Vì
sao không có năng lực này? Tập khí phiền não quá nặng,
đức Phật giảng rõ ràng chân tướng sự thật,
chúng ta đã hiểu rõ, nhưng không thể bỏ xuống
được. Ở chỗ này, đức Phật có nói: “Phương tiện cứu cánh”,
câu này tuyệt diệu! Phương tiện là gì? Sáu chữ
Nam-mô A Di Đà Phật. Quý vị nắm vững sáu chữ
này, chấp trước nó; do vậy, Tịnh Tông gọi trì
danh niệm Phật là chấp trì danh hiệu, “chấp” (執) là nắm giữ. Quý vị chẳng giữ
lấy những thứ khác, buông xuống toàn bộ những
thứ chấp trước khác, thay bằng sự chấp
trước này, đây gọi là phương tiện rốt
ráo. Nam-mô A Di Đà Phật là gì? Thưa quý vị, là tự
tánh, là Tánh Đức của tự tánh. Hai chữ “Nam-mô” là tiếng Phạn, có
nghĩa là quy y, hay quy mạng. Quy (歸) là quay về, Y (依) là dựa vào, cái gì ta cũng đều
buông xuống, nay ta hoàn toàn nương cậy A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật là tự tánh, vô lượng quang, vô lượng
thọ; lại nói rõ cùng quý vị, trong Hoa Nghiêm, đức
Phật nói: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Vô lượng quang là trí huệ trong tự
tánh, vô lượng thọ là đức tướng của
tự tánh. Do vậy, niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật là
niệm trí huệ và đức tướng của tự
tánh, tuyệt lắm! Tiếp theo đó là đoạn: “Dĩ Di Đà Nhất Thừa
nguyện hải, lục tự hồng danh chi cứu cánh
quả giác, tác ngã chúng sanh chi nhân tâm” (Dùng biển nguyện
Nhất Thừa của Phật Di Đà, sáu chữ hồng
danh nơi quả giác rốt ráo để làm cái tâm trong khi
tu nhân của chúng ta). Vì thế, pháp môn này gọi là “quả pháp” (pháp môn tu nơi
quả vị), chẳng phải là “nhân pháp” (pháp môn chú trọng tu nhân). Tám vạn bốn
ngàn pháp môn là tu nhân hòng chứng quả, pháp môn này vừa bắt
đầu đã là quả, chẳng phải là pháp môn tu nhân.
Tiếp đó,
cụ Niệm Tổ nói: “Dĩ
quả vi nhân, nhân quả đồng thời. Tùng quả khởi
tu, tức tu, tức quả. Tâm tác, tâm thị, bất khả
tư nghị” (Lấy quả làm nhân, nhân quả đồng
thời. Từ quả khởi tu, tu chính là quả, quả
chính là tu, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, chẳng thể
nghĩ bàn). Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, tức là nói
pháp môn này khác với tám vạn bốn ngàn pháp môn ở chỗ
nào, nói rõ ra. Quý vị gặp pháp môn này há dễ dàng ư?
Nhiều kẻ Tiểu Thừa hay Bồ Tát gặp được,
nhưng chẳng tin, nên gọi là “pháp khó tin”. Nhị Thừa, Bồ Tát không tin, mà lũ
phàm phu chúng ta tin tưởng, kỳ quái thay! So ra, chúng ta cao
minh hơn hàng Nhị Thừa và Bồ Tát. Do duyên cớ nào?
Thiện căn và phước đức khác nhau. Trong một
đời này, gặp được pháp môn này, có thể
tin, có thể hiểu, lại còn chịu thật sự hành,
đây chẳng phải là chuyện trong một đời này,
mà là đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, từ
vô lượng kiếp đến nay, quý vị đã gieo
thiện căn, trong A Lại Da có thiện căn. Quý vị
chẳng có thiện căn, chẳng thể vừa gặp
bèn tin tưởng! Nếu thiện căn, phước
đức và nhân duyên đều đầy đủ, có đủ
những điều kiện ấy, chắc chắn vãng
sanh trong một đời này. Vẫn chưa đủ thì
sao? Chưa đủ, còn kém một chút; kém một chút bèn có
cách: Trong một đời này, nếu quý vị thật sự
tin tưởng, thật sự có thể lý giải, hãy
dũng mãnh, tinh tấn nhằm bù đắp cho thiện
căn và phước đức chưa đủ. Trong đời
này, chúng ta có thể làm được, khi thật sự muốn
bù đắp sẽ rất nhanh. Nếu như giải
đãi, biếng nhác, tán loạn, sẽ chẳng có cách nào hết!
Trong một đời này, chẳng có cách nào bù đắp
thì sao? Vẫn luân hồi trong lục đạo. Lần sau
gặp gỡ, sẽ tiếp tục tu. Đời đời
kiếp kiếp trong quá khứ, không biết
chúng ta cũng đã làm chuyện như vậy bao nhiêu lần!
Đây là sự thật. Từ vô lượng kiếp trong quá
khứ đến nay, không biết chúng ta đã làm bao nhiêu lần;
đời này lại gặp gỡ là do thiện
căn và phước đức trong đời quá khứ hiện
hành. Lần này hiểu rõ rồi, quyết định hạ
quyết tâm “ta phải thành tựu trong một đời này”,
phải hạ quyết tâm này! Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng, quý vị thật sự có quyết tâm này,
lẽ nào chẳng thành tựu? Có quyết tâm như vậy,
nhất định quý vị phải giác ngộ. Quý vị
buông thế duyên trong thế gian này xuống, phải thật
sự hiểu rõ: “Phàm những
gì có hình tướng đều là hư vọng”. Ý nghĩa
chân thật của câu này là gì? Đừng nói là một đời
này trong nhân gian, mà ngay cả lục đạo lẫn mười
pháp giới cũng chẳng thật, đều là giả,
đều chẳng đáng bận lòng, hãy nên buông xuống,
chẳng lưu luyến mảy may, quý vị sẽ chẳng
còn có chướng ngại nữa
Nếu có
mảy may nào chẳng buông xuống được, còn vướng
mắc, đối với phàm phu mà nói, nặng nhất là
tình chấp, đây là mê hoặc. Buông được những
thứ này, những thứ khác sẽ buông dễ dàng! Nhất
định phải biết: Những thứ như tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần là
họa hại, tình chấp chẳng phải là chuyện tốt.
Sau khi quý vị thấy thấu suốt, tình chấp là nghiệt
duyên (孽緣). Nó chướng ngại quý vị chứng
quả, chướng ngại quý vị khai ngộ, chướng
ngại quý vị niệm Phật vãng sanh. Trong thế gian này,
chẳng lẽ cha mẹ, thân thuộc chúng ta đều từ
bỏ? Điều này dường như đã trái phạm
luân thường! Thật vậy! Làm thế nào để
có thể làm trọn vẹn đôi bề? Quý vị có thể
chuyển biến tình duyên thành pháp duyên, chuyển biến người
nhà, quyến thuộc thành pháp lữ, thành đồng tham
đạo hữu, cùng sanh về cõi Cực Lạc, tốt
hơn nhiều! Trong một đời này, dẫu tình duyên
sâu đậm đến đâu đi nữa, chết rồi
là phải chia tay, còn có thể ở chung với nhau nữa
hay chăng? Chẳng thể nào! Nhưng sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sẽ thật
sự vĩnh viễn ở cùng một chỗ. Bất luận
quý vị ứng hóa trong đường nào, đều có
thể thấy rõ ràng, họ cần giúp đỡ, quý vị
bèn sanh trong cùng một đường với họ, giúp họ
một tay. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật
trong thế gian này, quý vị thấy các vị đệ tử
gồm một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị,
đều là đồng tham đạo hữu trong đời
quá khứ, còn có hàng tại gia: Quốc vương, đại
thần, cư sĩ hộ pháp, toàn là pháp quyến trong quá
khứ. Do vì giúp đỡ chúng sanh, nên giáo hóa chúng sanh mới
được thuận lợi như vậy, phải hiểu
đạo lý này, chúng ta sẽ chuyển biến thành công.
“Thị tâm thị Phật, thị
tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật): Đức
Thế Tôn đã nói câu này trong Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh. Đối với hiện thời, trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta gặp nhiều kẻ chẳng học Phật
hiểu lầm Phật, có thể dùng điều này để
giải thích cho kẻ ấy. Phật là gì? Phật là chân tâm
của quý vị. Ma là gì? Ma là vọng tâm. Trong tám tướng
thành đạo của Tiểu Thừa có hàng ma, Đại
Thừa không có. Đại Thừa biết Phật và ma là một, chẳng hai. Giác ngộ, ma bèn thành
Phật; mê rồi, Phật biến thành ma, chuyện là như
vậy đó, thảy đều là chính mình. Nói cách
khác, mê là ma, giác là Phật. Tâm thì sao? Tâm không có giác hay mê, giác
hay mê là vọng tâm, chân tâm chẳng có giác hay mê. Vì vậy, đã
giác ngộ, mà quý vị còn ý niệm giác ngộ, tức là quý
vị vẫn chưa giác ngộ, vẫn rớt trong hai ba
(tam tâm, nhị ý). Hai ba là bất giác; [nhận thấy] mê và
giác đối lập, làm gì đi nữa thì vẫn là hai thứ!
Câu cuối cùng nói rất hay: “Bất
khả tư nghị” (Chẳng thể nghĩ bàn). Chuyện
này quý vị chẳng thể nghĩ nổi. Hễ vừa
nghĩ liền trật, vừa nghĩ tới
liền mê. Quý vị chẳng thể nói được, hễ
nói thì cũng mê rồi! Thốt không nên lời! Nói không nên lời,
cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật nói suốt bốn mươi chín
năm, tuy nói suốt bốn mươi chín năm, [nhưng
đúng như] đức Phật đã nói rất hay: “Nói
mà chẳng nói, chẳng nói mà nói”. Chúng ta nghe lời này càng nghe
càng hồ đồ, lời Ngài nói là thật. Ngài nói
lời giả, chúng ta nghe hiểu rõ lắm, chẳng có vấn
đề gì. Ngài nói lời thật, càng nghe càng hồ đồ!
Chúng ta phải biết dụng tâm để hiểu. Do vậy,
đức Phật mới bảo chúng ta: Quý vị phải
biết nghe. “Biết nghe” là như Mã Minh Bồ Tát đã dạy
trong Khởi Tín Luận: “Ly ngôn
thuyết tướng”, [nghĩa là] quý vị nghe, nhưng
đừng chấp trước tướng nói năng.
Nghe nhưng chẳng chấp trước, chẳng phân biệt
sẽ là đúng. Nói cách khác, thật sự có thể chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước, ai nghe như vậy? Phật
nghe như vậy. Có khởi tâm, động niệm, nhưng
chẳng có phân biệt, chấp trước, ai nghe như
thế? Bồ Tát nghe như thế. Có khởi tâm, động
niệm, vẫn còn phân biệt, nhưng không chấp trước,
đó là cái nghe của A La Hán. Nếu khởi tâm động
niệm, phân biệt, chấp trước, thảy đều
trọn đủ, đó là cái nghe của phàm phu. Quý vị thấy
đó: Đều là nghe, nhưng khác nhau, cảnh giới lãnh
hội khác nhau.
Quý vị
thấy danh từ Khởi Tín trong bộ Khởi Tín Luận
của Mã Minh Bồ Tát, đó chính là nhập môn. Đại
Thừa nhập môn liền cho quý vị biết: Thật
ra, đối với khởi tâm động niệm, nói thật
ra, chúng ta chẳng có cách nào, nó quá vi tế. Di Lặc Bồ
Tát bảo: “Trong một khảy
ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”, làm
sao chúng ta có thể phát hiện được? Chúng ta làm
sao có thể đoạn sạch niệm? Chẳng thể nào!
Do chúng ta chẳng phải là bậc thượng thượng
thừa, nhưng chúng ta có thể học theo bậc thượng
thừa. Bậc thượng thừa là Bồ Tát, Bồ
Tát có khởi tâm động niệm, quyết định chẳng
có phân biệt, chấp trước, quý vị sẽ nghe được
nghĩa chân thật của Như Lai. Có phân biệt, chấp
trước, quý vị nghe xong, nói đã hiểu, thì đó là
ý nghĩa của chính quý vị, chẳng phải [ý nghĩa]
do đức Phật nói. Lại nói rõ hơn một chút, đấy
chẳng phải là kiến giải do Tánh Đức của
quý vị, mà là kiến giải trong A Lại Da Thức. Vì
sao? Vì quý vị có phân biệt, chấp trước, vẫn
là A Lại Da làm chủ tể! A Lại Da là vọng tâm. Tri
kiến trong vọng tâm, chẳng phải là chân tâm, còn cách
chân tâm một tầng; do điều này mà biết tu hành Phật
pháp là tu gì? Chính là hai chữ “buông xuống”, buông xuống là
được!
Thật
sự có thể đạt đến chẳng nghĩ bàn, điều
gì cũng chẳng nghĩ tới, điều gì cũng chẳng
nói tới, người ta hỏi, quý vị bèn trả lời.
Chẳng hỏi, cái gì cũng không biết; còn hễ hỏi
tới, điều gì cũng biết. Không ai hỏi quý vị,
tâm quý vị hoàn toàn ở trong Định. Đó là Căn Bản
Trí, kinh Bát Nhã bảo là “Bát Nhã
vô tri”. Lúc không có duyên, Bát Nhã vô tri, ở trong đại
định, đó chính là cảnh giới Đại Niết
Bàn thanh tịnh, tịch diệt. Người khác có cảm,
quý vị lập tức có ứng; khi ứng thì “không gì chẳng
biết”, đó là gì? Căn Bản Trí khởi tác dụng,
không gì chẳng biết. Giống như trong kinh đã kể
chuyện ngài Xá Lợi Phất: Ngài Xá Lợi Phất trí huệ
bậc nhất, không có vấn đề nào bắt bí Ngài được!
Bao nhiêu người thỉnh giáo Xá Lợi Phất, Ngài đều
đối đáp trôi chảy. Có người tới hỏi
Thích Ca Mâu Ni Phật, vì sao Xá Lợi Phất có đại
trí huệ như vậy? Trí huệ của Ngài do đâu mà có?
Phật giơ cái trống lên. Gõ trống, đức Phật
lấy cái trống làm tỷ dụ, Ngài nói: “Ông có thấy cái
trống này hay chăng?” “Dạ thấy”. “Bên trong cái trống
có gì hay không?” “Không có, trống trơn!” Là hai tấm da căng
ra; gõ nó, gõ mạnh, kêu to, gõ nhẹ, kêu nhỏ, chẳng gõ,
chẳng kêu! Đức Phật nói trí huệ trong tâm Xá Lợi
Phất giống như cái trống. Nếu quý vị chẳng
gõ, cái gì cũng đều không có. Nếu quý vị gõ, Ngài sẽ
lập tức có phản ứng. Đó là gì? Tự tánh Bát
Nhã, chẳng phải do bên ngoài mà có, bên ngoài không có. Học
những thứ từ bên ngoài quá khổ sở. Cảnh giới
bên ngoài là duyên, sẽ cảm. Giống như chúng ta đọc
kinh, mở kinh văn ra, đối trước văn tự,
văn tự là cảm, chúng ta phải ứng, do tự tánh
ứng, nên sanh trí huệ. Nếu chúng ta dùng phân biệt hay
chấp trước để ứng, nói theo cách người
hiện thời là “nghiên cứu”, nghiên cứu theo kiểu nào,
nghiên cứu tới, nghiên cứu lui cũng đều là
phiền não, đều là tri kiến sai lầm, chẳng phải
là chánh tri chánh kiến. Đức Phật nói “chánh tri chánh
kiến”, chớ nên nghiên cứu, nghiên cứu là suy nghĩ,
bàn bạc. Chớ nên nghiên cứu thì gọi là gì? Danh từ
Phật học là “tham cứu”,
không gọi là nghiên cứu. Tham cứu và nghiên cứu khác
nhau ở chỗ nào? Trong nghiên cứu có phân biệt, có chấp
trước; trong tham cứu không có phân biệt, chấp
trước; khác nhau ở chỗ này! Tham cứu là trí huệ,
nói thẳng thừng thì trong ấy chắc chắn không có
hiện tượng cong vạy, chúng ta học Đại
Thừa chẳng thể không biết điều này!
Tiếp đó,
dẫn sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải có một đoạn
như thế này: “Nhất thanh
A Di Đà Phật, tức Thích Ca Bổn Sư ư ngũ
trược ác thế sở đắc chi A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp. Kim dĩ thử quả
giác toàn thể thọ dữ trược ác chúng sanh, nãi
chư Phật sở hành cảnh giới, duy Phật dữ
Phật năng cứu tận, phi cửu giới tự lực
sở năng tín giải dã” (Một tiếng A Di Đà
Phật, chính là pháp để Thích Ca Bổn Sư đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong đời ác
ngũ trược. Nay đem toàn thể quả giác này trao
cho chúng sanh trược ác, đấy chính là cảnh giới
do chư Phật đã hành, chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu hiểu tột cùng, chẳng phải là chín
giới cậy vào tự lực mà hòng tin hiểu được).
Đây là nói rõ, thuyết minh đơn giản pháp môn này khó
tin, khó hiểu. Vì sao khó tin, khó hiểu? Thích Ca Mâu Ni Phật
thành Phật như thế nào? Ngẫu Ích đại sư đã
vạch trần bí mật: Niệm A Di Đà Phật bèn thành
Phật. Lời này ở đâu vậy? Nói ngay trong kinh Di
Đà. Chúng ta niệm kinh Di Đà mỗi ngày mà chẳng nhận
ra. Niệm mấy chục năm vẫn chẳng phát hiện.
Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật,
thật đấy, chẳng giả tí nào! Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật đã dạy chúng ta một nguyên
lý, nguyên tắc: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”. Nghĩ đến Phật
bèn thành Phật, chúng ta hằng ngày tưởng A Di Đà Phật,
quý vị quyết định thành Phật; quý vị mỗi
ngày tưởng Quán Âm Bồ Tát, sẽ thành Quán Âm Bồ Tát.
Quán Âm Bồ chẳng phải là một người, A Di
Đà Phật cũng chẳng phải là một người,
nhất định phải biết điều này. Quán Âm, Di
Đà vô lượng vô biên thân, quý vị niệm các Ngài, sẽ
hòa cùng một Thể với các Ngài, Tự, Tha bất nhị!
Trong [Tam Thời] Hệ Niệm Pháp Sự, thiền sư Trung
Phong đã nói: “Tự tánh Di Đà,
duy tâm Tịnh Độ”. Niệm danh hiệu này là đức
hiệu của tự tánh, Quán Âm Bồ Tát cũng là đức
hiệu của tự tánh, một đằng đuợc
kiến lập từ quả, một đằng kiến lập
từ nhân. Danh hiệu Phật là nói theo Quả, danh hiệu
Bồ Tát là nói theo nhân, Thể đều là tự tánh, chẳng
rời khỏi tự tánh.
Câu này rất
quan trọng, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật như thế
nào? Điều này được chính đức Phật dạy
rõ trong kinh. Đây là pháp để Ngài đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề,
cả câu này là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng
Hán thì có thể dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. A là Vô, chữ A trong A Di Đà Phật phải dịch
là Vô; Nậu Đa La là Thượng, [A Nậu Đa La là] Vô
Thượng; Tam là Chánh, dịch sang nghĩa tiếng Hán là
Chánh; Miệu là Đẳng, tức Đẳng trong bình
đẳng. Phía sau lại có một chữ Tam là Chánh, Bồ
Đề là Giác. Do vậy, dịch toàn bộ sang nghĩa tiếng
Hán là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có thể dịch,
chứ không phải là chẳng thể dịch. Vì sao không dịch?
Do tôn trọng, nên không dịch. Trong pháp Đại Thừa,
quý vị tu học nhằm hướng đến mục
tiêu gì? Chính là câu này! Nói cách khác, Đại Thừa nhằm
cầu chính điều này, chứ không có gì khác. Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác là tự tánh giác, chẳng phải
điều gì khác, cũng là nói “trở về tự tánh”. A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề sẵn có
trong tự tánh, “đắc” là “trở về”. Nói theo mặt
Tướng, Tịnh Độ Tông nói bốn cõi, Thường
Tịch Quang Tịnh Độ trong bốn cõi chính là điều
này, nó tương ứng với Thường Tịch Quang.
Trong Thường Tịch Quang, không có hiện tượng vật
chất, mà cũng chẳng có hiện tượng tinh thần,
nó tồn tại, chẳng có sanh diệt. Khi Huệ Năng
đại sư khai ngộ, đã nói năm câu về Thường
Tịch Quang: “Vốn tự thanh
tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự trọn
đủ, vốn chẳng lay động, có thể sanh ra vạn
pháp”. Sanh ra vạn pháp như thế nào? Có một niệm
bất giác, vạn pháp liền xuất hiện. Một niệm
bất giác gọi là “vô thỉ
vô minh”, quý vị phải nhớ, đức Phật giảng
rất rõ ràng, rất minh bạch. “Vô thỉ”, “thỉ”
(始) là bắt đầu, [vô thỉ là] không
có bắt đầu. Vì sao có một niệm bất giác? Chẳng
có lý do, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có sự gì. Nếu
quý vị muốn truy cứu một niệm bất giác, vì
sao có một niệm bất giác, quý vị đọa lạc
ngay lập tức. Quý vị thấy quý vị có phân biệt,
có chấp trước, liền từ chỗ cao nhất rớt
xuống lục đạo luân hồi. Do vậy, đức
Phật dùng danh từ này hay lắm, vô thỉ! Quý vị chớ
nên truy cứu, đừng nên truy cứu nó bắt đầu
khi nào, chớ nên truy cứu, đúng là vô thủy.
Mãi cho
đến khi đọc phần đối thoại giữa
đức Thế Tôn và Di Lặc Bồ Tát, chúng tôi mới hơi
hiểu rõ chân tướng sự thật này. Vì sao nó vô thỉ?
Nó quá ngắn ngủi! Quý vị hãy nghĩ xem, nay chúng ta tính
trong một giây khảy ngón tay bốn lần, một niệm
là thời gian bao lâu? Một ngàn hai trăm tám mươi triệu
phần của một giây, quý vị có thể nói nó bắt
đầu từ đâu hay chăng? Chúng ta nói “bắt đầu”
thì chẳng biết đã trải qua bao nhiêu niệm, bởi
lẽ, niệm tồn tại trong một thời gian quá ngắn
ngủi, tạm bợ. Kinh thường nói là một “sát-na”
là thời gian cực ngắn, nhưng ngắn đến mức
nào, sẽ nói mơ hồ, chẳng rõ ràng. Di Lặc Bồ
Tát giảng rõ ràng chuyện này, chẳng mơ hồ tí nào: “Một cái khảy ngón tay có ba
mươi hai ức trăm ngàn niệm”. Chúng ta khảy
ngón tay lẹ làng, có thể là tôi khảy nhanh hơn, được
năm lần, nói chung khảy chừng bốn lần. Nếu
khảy năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu,
tức là năm nhân với ba trăm hai mươi triệu,
quý vị thấy tốc độ lẹ như thế, làm
sao có thể nói nó có sanh diệt? Vì thế, chẳng thể
nói nó sanh diệt, tính không kịp! Do vậy, kinh Phật bảo
là “sanh diệt đồng thời”.
Chữ “đồng thời”
có thể giảng theo cách này. Bất sanh bất diệt chỉ
có thể nói theo cách này. Quý vị phải thật sự hiểu
ý nghĩa của cách nói này. Nếu thật sự chẳng sanh
diệt, nói “bất sanh bất diệt” chẳng phải là
nói nhảm, nói dư thừa hay sao? Xác thực có sanh diệt,
nhưng sanh diệt với tốc độ quá nhanh, quý vị
không có cách nào quan sát, mắt chẳng thể thấy được,
ý niệm nghĩ không ra; cho nên chỉ nói sự sanh diệt
ấy là bất sanh bất diệt. Trong bất sanh bất
diệt có sanh diệt, sanh diệt chính là bất sanh diệt,
bất sanh diệt chính là sanh diệt, quý vị mới hiểu
chân tướng sự thật rõ ràng, minh bạch. Chúng ta hiểu
rõ ràng, minh bạch thì nói thật ra, vẫn là phân biệt, chấp
trước; chẳng dùng đến phân biệt, chấp
trước, vẫn không hiểu rõ lắm, chẳng hiểu
rõ rệt! Vì sao? Chưa biết dùng chân tâm, mà chính là dùng vọng
tâm. Thật sự chưa hiểu rõ lắm thì quý vị
đừng cố nữa, hãy cứ thật thà niệm A Di
Đà Phật, về thế giới Cực Lạc sẽ chẳng
hiểu rõ ràng ư? Đây là biện pháp tốt đẹp,
cần gì phải chuốc lấy phiền phức? Cung kính
niệm kinh Đại Thừa một biến, đấy là
công đức; nhưng quý vị khởi tâm động niệm
suy nghĩ “kinh có ý nghĩa gì”, công đức bị phá sạch!
Công đức chẳng còn nữa, biến thành phước
đức. Phước đức khác công đức. Vì
sao chúng ta vẫn phải niệm? Niệm nhằm tu Định,
dùng phương pháp đọc kinh để nhiếp tâm, buông
tất cả vọng tưởng, chấp trước xuống.
Đọc kinh cũng chẳng dấy vọng tưởng,
cũng không khởi chấp trước, đọc kinh là
tu Định. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, đây
cũng là một pháp môn, vấn đề là chính mình có biết
sử dụng hay không.
Mấy câu
tiếp theo có thể nói là rất trọng yếu đối
với Tịnh Tông! “Kim dĩ
thử quả giác toàn thể thọ dữ trược ác
chúng sanh” (nay đem toàn thể quả
giác này trao cho chúng sanh trược ác). “Trược” là ngũ trược ác thế. Lúc
tôi mới học Phật, vào sáu mươi năm
trước, thấy kinh nói đến ngũ trược
ác thế, chúng tôi thường cảm thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật nói hơi quá lố! Thế giới này dù trược
ác, vẫn chưa trược ác đến mức ấy.
Nhưng nay nhìn lại chữ này, Ngài nói đúng quá, chẳng
quá lố tí nào! Sở dĩ thế giới hiện tại
có tai nạn, tai nạn vì sao mà có? Do dính dáng đến
trược ác. “Trược”
(濁) là hỗn trược (dơ bẩn, đục
ngầu), “ác” (惡) là Thập Ác. Quý vị thấy chúng sanh
trong thế gian này khởi tâm động niệm
tương ứng với Thập Ác, chẳng có Thập Thiện.
Tương ứng với Thập Ác, đúng là đại
tai nạn sẽ xảy ra! Nay chúng ta suy nghĩ: Thật sự
có tai nạn hay không? Có rất nhiều người
hỏi tôi, tôi nói “hãy nên biết là thật đấy”, vì
sao? Chúng ta nhìn từ nhân quả, thiện nhân cảm thiện
quả, ác nhân cảm thọ ác quả. Trước hết,
hãy nhìn từ tướng hảo của chính mình, tướng
chuyển theo tâm. Tâm địa thiện lương, tướng
mạo sẽ thiện lương; tâm địa thiện
lương, thân sẽ khỏe mạnh. Thầy lang Bành Hâm[9] nói rất hay: “Bất
thiện, quý vị sẽ nhiễm bệnh”. Trong bản
báo cáo, ông ta đã nói như thế. Bất nhân, “nhân” (仁) là thương yêu con người.
Kẻ bất nhân dễ bị bệnh gan. Kẻ bất
nghĩa, dễ mắc bệnh phổi, nó có cảm ứng
với phổi. Vô lễ, dễ mắc bệnh tim. Vô trí là
hồ đồ, thiếu trí huệ, dễ mắc bệnh
thận. Bất tín, thiếu tín
nhiệm, thường mong lừa gạt kẻ khác, dễ
mắc bệnh tỳ vị (lá lách và bao tử). Phải làm
như thế nào để thân thể khỏe mạnh? Phải
thực hiện Ngũ Thường, tức là nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, quý vị đều làm được.
Ngũ Thường chính là Ngũ Giới trong Phật pháp. Chẳng
sát sanh là nhân, không trộm cắp là nghĩa, chẳng tà dâm
là lễ, chẳng uống rượu là trí, chẳng nói dối
là tín; nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Quý vị có thể giữ
vẹn Ngũ Giới, nội tạng sẽ chẳng sanh bệnh.
Chỗ nào bị bệnh, nhất định quý vị thiếu
đạo đức, Ngũ Thường là năm đức,
[do thiếu đức nào] nên quý vị mới bị bệnh
ấy. Bị bệnh mà quý vị hiểu đạo lý này,
ta khéo tu đức, khiến cho ngũ tạng lục phủ[10] khôi phục bình thường, chẳng còn
bệnh nữa! Trung Y dùng thuốc men để chữa bệnh,
hiệu quả chỉ được ba phần, sửa đổi
tâm tư thái độ chiếm mất bảy phần! Nếu
biết thay đổi tâm tư, thái độ, lại dùng
một chút thuốc men để phụ trợ, sẽ trị
bệnh hết sức hữu hiệu.
Do Phật
đã chứng đắc viên mãn quả giác, tức là đã
trở về tự tánh viên mãn, đem điều này giáo
hóa chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh. Đấy là “chư Phật sở hành cảnh
giới”. Ở đây, câu này bảo rõ với chúng ta: Hết
thảy chư Phật đều là niệm A Di Đà Phật
mà thành Phật, không có ngoại lệ! Quý vị tin được
không? Tôi đọc kinh Hoa Nghiêm, trong lần tham học thứ
nhất của phần năm mươi ba lần tham học,
tỳ-kheo Cát Tường Vân dạy Thiện Tài đồng
tử hai mươi mốt pháp môn Niệm Phật, tôi đã
giảng rồi, nhưng suy nghĩ vẫn chưa thấu
triệt, vì sao? Lúc ấy, chưa đạt tới cảnh
giới như hiện thời, nhưng tôi nói hai
mươi mốt pháp môn Niệm Phật bao quát tất cả
các pháp môn do thập phương tam thế hết thảy chư
Phật, Bồ Tát đã nói, hễ triển khai thì môn nào cũng
đều là pháp môn Niệm Phật. Cổ đại
đức nói: Đúng thế, mỗi pháp môn đều là
pháp môn Niệm Phật; nhưng pháp môn niệm A Di Đà Phật
là pháp môn nói thẳng thừng, ổn thỏa, thích đáng, nhanh
chóng, dễ dàng, thành công cao, là quả giác rốt ráo viên mãn,
“duy Phật dữ Phật năng
cứu tận” (chỉ có Phật với Phật mới
có thể thấu hiểu tột cùng), “cứu tận” là hiểu rõ triệt để. Tánh,
Tướng, Sự, Lý, nhân quả, tới khi thành Phật quý
vị mới hiểu rõ. Bồ Tát chưa được,
đối với chuyện này, Bồ Tát có thể liễu
giải, nhưng trong kinh, đức Phật có nêu một tỷ
dụ, tức là “ngắm
trăng qua một lớp the”.
“The” là gì? The là lượt là, rất mịn, the, sa, nhiễu,
đoạn, rất mịn, trong suốt, giống như sa,
nhưng trong suốt, còn mịn hơn sa nữa! Quý vị
có thể nhìn thấy bên ngoài qua lớp the, ngắm trăng
qua sự ngăn cách này. Bồ Tát đối với pháp này
có thể lý giải [nhưng vẫn chưa hoàn toàn thấy
tường tận]; cho nên nói: “Phi
cửu giới tự lực” (chẳng phải do chính sức
lực của chúng sanh trong chín pháp giới). Chín pháp giới
đặc biệt dùng sức của chính mình, nếu được
Phật gia trì, quý vị sẽ có thể tin, có thể hiểu.
Chẳng có Phật lực gia trì, dựa vào sức của chính
mình, chắc chắn quý vị chẳng có cách nào cả! Tại
đây cũng là hé lộ một tin tức: Nay chúng ta có thể
tin, có thể hiểu pháp môn này, lại còn muốn thật
sự hành; quý vị phải nghĩ chính mình đã được
Phật lực gia trì. Không có Phật lực gia trì, sẽ làm
không được! Nay chúng ta gặp pháp môn này là có duyên với
Phật, là có cảm. Chúng ta muốn học, Phật sẽ
có ứng, Phật sẽ gia trì chúng ta, giúp chúng ta có tín tâm, giúp
chúng ta có thể lý giải, giúp chúng ta tu hành chứng quả.
Tới lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn,
đó chính là Chứng. Hoàn thành “tín,
giải, hành, chứng” trong một đời.
“Hựu viết” (lại nói), đây
vẫn là điều được viết trong Di Đà Yếu
Giải, “cử thử Thể”
(toàn bộ cái Thể này), Thể là gì? Thể là pháp giới
Thể, là tự tánh. Trong sách Hoàn Nguyên Quán có câu: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”
chính là nói về điều này. Câu nói này của quốc sư
Hiền Thủ và câu “tất cả
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai” trong kinh [Hoa Nghiêm] là cùng một câu nói, có cùng một
ý nghĩa. “Tự tánh, thanh tịnh,
viên minh”, nói thành ba chuyện, nhưng ba chuyện này là Pháp
Thân, Bát Nhã, và Giải Thoát. Minh là trí huệ, thanh tịnh là
đức hạnh, viên mãn là tướng hảo. Tự
tánh thanh tịnh viên minh thể. Toàn bộ Pháp Thân, Bát Nhã, Giải
Thoát được bao gồm trong Tánh Đức. “Tác Di Đà thân độ” (làm
thân và cõi nước của Di Đà), thân Di Đà được
gọi là Pháp Thân, cõi nước Phật Di Đà ngự được
gọi là Tịnh Độ. Pháp giới
Thể là tự tánh, thân và cõi nước đều do Tánh Đức
tự nhiên lưu lộ. Kinh Phật dạy: “Pháp nhĩ như thị” (pháp vốn là như thế).
Đó là “cử thử Thể
tác Di Đà danh hiệu” (dùng toàn bộ cái Thể này để
làm danh hiệu Di Đà). Danh hiệu của cái Thể ấy
là A Di Đà Phật. “Thị cố,
Di Đà danh hiệu tức chúng sanh Bổn Giác lý tánh” (vì
thế, danh hiệu Di Đà là lý tánh Bổn Giác của chúng
sanh). Bổn Giác là trí huệ Bát Nhã sẵn có trong tự
tánh. Lý là lý tánh, tác dụng của Lý là Sự, tác dụng của
Tánh là Tướng. Tánh, Tướng, Sự, Lý sẵn có
trong tự tánh của chúng sanh, chẳng phải do bên ngoài mà
có! Đây là nói rõ mối quan hệ giữa danh hiệu A Di
Đà Phật và hết thảy chúng sanh: A Di Đà Phật chẳng
phải là ai khác, mà thật sự là chính mình, chớ nên hiểu
lầm! Chính mình vốn là Phật! Trong kinh Hoa Nghiêm, đức
Phật nói [chuyện này] bao nhiêu lần. Chính mình vốn là
Phật, nay niệm A Di Đà Phật tức là muốn
thành Phật. Quý vị suy nghĩ coi: Có thể nào chẳng
thành Phật ư? Chính mình vốn là Phật, nay lại muốn
làm Phật, niệm Phật chính là muốn làm Phật, chúng
ta chẳng còn hoài nghi nữa. Đây là hai đoạn trích dẫn
từ sách Di Đà Yếu Giải.
Tiếp
theo đó, Hoàng lão cư sĩ nói: “Khả kiến thử kinh thật thị đại
bi từ phụ Như Lai Thế Tôn xứng tánh cực
đàm” (Có thể thấy kinh này thật là lời bàn luận
xứng tánh đến tột bậc của đức đại
bi từ phụ Như Lai Thế Tôn). Kinh này quả thật
là như vậy, đại từ bi phụ là A Di Đà Phật,
tức vị Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Như Lai Thế Tôn là [nêu đại lược
hai thứ trong] mười thứ đức hiệu của
Phật. Như Lai có nghĩa là gì? Kinh Kim Cang giảng rất
khéo: “Như Lai giả, chư
pháp Như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của
các pháp). Câu này giảng khéo lắm! Hết thảy các pháp
đều do tự tánh biến, hết thảy các Pháp
Tướng giống như Pháp Tánh. Hoặc là chúng ta nói như
thế này: Hết thảy Pháp Tướng đều là tự
tánh, quý vị càng dễ hiểu hơn! Tự tánh của chúng
ta ở chỗ nào? Bất luận pháp nào cũng đều
là tự tánh. Do vậy, đối với người đại
triệt đại ngộ trong Tông Môn, tổ sư bèn khảo
nghiệm, trắc nghiệm kẻ ấy: [Tự tánh] ở
đâu? Tùy tiện lấy một pháp đều là [tự tánh],
pháp nào cũng đều Như, chẳng có một pháp nào chẳng
Như. Phàm và thánh sai khác ở chỗ mê hay ngộ. Người
ngộ rồi sẽ được gọi là Phật hay Bồ
Tát; kẻ mê bất giác, chẳng biết hết thảy các
pháp đều là tự tánh, cho nên gọi kẻ ấy là
phàm phu. Trong pháp môn Bất Nhị, phàm và thánh chẳng hai, thật
đấy. Nói thật với quý vị: “Sanh Phật bất nhị”, [nghĩa là] chúng sanh và
Phật là một, không hai, đều là nói thật, nhưng
quý vị chẳng thừa nhận. Quý vị chẳng dám nhận,
đó là gì? Quý vị mê rồi! Khi nào quý vị giác ngộ,
tự tánh vốn ở ngay đây, vấn đề gì cũng
đều được giải quyết! Vì thế, kinh
này là đức Thế Tôn xứng tánh cực đàm. Cực
là tột cùng, nay chúng ta gọi là “đỉnh cao nhất”
không có gì cao hơn được, viên mãn đến rốt
ráo, không còn gì viên mãn hơn. Bộ kinh này đúng là như vậy,
chẳng giả. “Chư Phật
bí tạng”, chữ “bí” (祕) này chẳng phải là bí mật, quý vị
phải hiểu: Trong Phật pháp không có bí mật. Có bí mật,
sẽ chẳng thể nói với người khác, trong Phật
pháp không có [điều ấy]. “Bí”
trong Phật pháp là nói đến sự sâu xa, kín nhiệm, Sự
lẫn Lý đều quá sâu, chẳng dễ liễu giải,
ẩn kín. Đây là nói thập phương tam thế hết
thảy chư Phật Như Lai trong không ngằn mé thế
giới, trong mười pháp giới của các thế giới
chư Phật, giáo hóa chúng sanh trong lục đạo, giảng
kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh. Bốn chữ “chư Phật bí tạng” có ý
nghĩa này.
Lại nói
là “hòa bàn thác xuất” (和盤托出: giãi bày trọn hết), chẳng giữ lại! Giống
như chúng ta đãi khách, dọn thức ăn đầy mâm,
toàn bộ dọn ra hết. Cái mâm (bàn tử: 盤子) ấy chính là bộ kinh này, trong bộ
kinh này có nội dung gì? Bí tạng của thập
phương tam thế hết thảy chư Phật đều
ở trong đây, tuyệt diệu thay! Vì thế, cổ
đại đức nói: Mọi người tán thán hai bộ
kinh lớn là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa khôn cùng, đại kinh Nhất
Thừa mà! Cổ đại đức bảo [hai kinh ấy]
đều nhằm dẫn đường cho kinh Vô Lượng
Thọ. Nếu tôi chấp nhận cách nói này, tôi tin tưởng
Tịnh Độ. Quý vị thấy thầy Lý khuyên tôi như
vậy, nhưng tôi chẳng tiếp nhận. Tôi tiếp nhận
Tịnh Độ là do giảng kinh Hoa Nghiêm, phải biết
cũng là giảng được bảy, tám năm rồi,
có một hôm, bỗng nhiên dấy lên ý niệm: Nghĩ coi Văn
Thù, Phổ Hiền tu pháp môn gì? Thiện Tài đồng tử
tu pháp môn gì? Giảng kinh chưa đến phần sau, lật
phần sau ra. Giở phần sau ra [mới thấy] khi kinh
này sắp giảng xong, hình như là trong quyển ba
mươi chín, quyển bốn mươi là chấm dứt
kinh. Trong quyển thứ ba mươi chín, Văn Thù Bồ
Tát, trong sách Chú Giải này, cụ Hoàng cũng trích dẫn,
trong phần sau sẽ nói đến, Văn Thù Bồ Tát
phát nguyện vãng sanh Tịnh Độ, Phổ Hiền Bồ
Tát cũng phát nguyện vãng sanh Tịnh Độ. Lại
xem kỹ, năm mươi ba lần tham học của Thiện
Tài đồng tử chứng tỏ, [giống như] người
Hoa nói “tiên nhập vi chủ”
(điều gì tiếp xúc đầu tiên sẽ là chánh yếu),
Thiện Tài đồng tử tham phỏng vị [thiện
hữu] thứ nhất là tỳ-kheo Cát Tường Vân, Ngài
niệm A Di Đà Phật, tu Ban Châu tam-muội, chuyên tu niệm
Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ngài giảng cho Thiện
Tài hai mươi mốt pháp môn Niệm Phật. Tôi vừa
mới nói với quý vị, hai mươi mốt môn này triển
khai thành vô lượng vô biên pháp môn, chẳng có một pháp
môn nào chẳng phải là pháp môn Niệm Phật, tương
ứng với “chư Phật
bí tạng, hòa bàn thác xuất”.
“Thả thử niệm Phật
pháp môn, diệc tức chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi” (Hơn
nữa, pháp môn Niệm Phật này cũng chính là hóa nghi sẵn
có của chúng sanh). Trong phần trước, chúng tôi đã từng
nói: “Hóa” (化) là giáo hóa, “nghi” (儀) là nghi thức. Đây là phương thức
giáo hóa, phương thức này do đâu mà có? Chúng sanh có sẵn,
cho nên nó thuộc về Tánh Đức. Chúng ta mê mất, Phật,
Bồ Tát lấy ra [dùng điều này để giáo hóa
chúng sanh], nó là cái bản thân chúng ta vốn sẵn có. Nghi thức
này giống như cách chúng ta học tập trong các trường
học hiện thời, Tiểu Học, Trung Học, Đại
Học, nghiên cứu sinh, chúng ta tu học cũng giống như
vậy. Thời gian mê trong lục đạo quá lâu, mê quá
sâu, chẳng thể quay lại ngay được, phải
làm từ từ! Trước hết là buông xuống phiền
não nghiêm trọng nhất, buông xuống chấp trước
nghiêm trọng nhất, chẳng hề chấp trước
hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian,
thưa quý vị, lục đạo sẽ chẳng còn nữa,
chúng đều là giả. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
nói: “Hết thảy pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, do quý vị có chấp
trước, nên bèn hiện tướng này, đấy là mộng
cảnh. Khi tỉnh khỏi chấp trước, tỉnh rồi,
lục đạo không còn nữa, quý vị sẽ tìm không ra
lục đạo! Tỉnh lại, sẽ là cảnh giới
nào? Là tứ thánh pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật, cảnh giới này xuất hiện. Cảnh giới
này vẫn là một mộng cảnh; vì thế, lục
đạo là “mộng trong mộng”.
Tứ thánh do đâu có? Tứ thánh do phân biệt và vọng
tưởng mà có. Có vọng tưởng, có phân biệt, sẽ
có tứ thánh pháp giới. Trong tứ thánh pháp giới, Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát là phân biệt, sau khi đoạn sạch
[phân biệt] bèn thành Phật. Phật [trong tứ thánh pháp
giới] chưa đoạn vọng tưởng, có khởi
tâm động niệm, tức là Vô Minh phiền não chưa đoạn.
Nếu đối với pháp thế gian và xuất thế gian
chẳng khởi tâm, không động niệm, thật sự
tỉnh, mười pháp giới sẽ không có! Do vậy, thưa
với quý vị: “Phàm những
gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, là thật, chẳng
giả. Đây là sau khi tỉnh lại, bèn thoát khỏi mười
pháp giới, cảnh giới ấy sẽ gọi là Nhất
Chân pháp giới. “Chân” là gì? “Chân” là vĩnh hằng không thay
đổi! Quý vị thấy trong thế gian này, động
vật có sanh, lão, bệnh, tử, thực vật có sanh, trụ,
dị, diệt, khoáng vật như núi, sông, đại
địa, kể cả tinh cầu, có thành,
trụ, hoại, không, biến đổi trong từng
sát-na, vô thường. Người trong cõi Thật Báo Trang
Nghiêm của chư Phật Như Lai đều chẳng khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, cho nên thế giới ấy không biến
hóa. Quý vị sanh vào thế giới ấy là hóa sanh, chẳng
sanh bằng bào thai, đều là thân kim cang bất hoại,
thân tướng sẽ không già yếu, sẽ không sanh bệnh,
trên thân sạch sẽ, không cần phải tắm táp, rửa
ráy, không cần thiết, hóa sanh mà! Cây cối, hoa cỏ
vĩnh viễn như trong mùa Xuân, chẳng biến đổi,
không có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông biến hóa. Do vậy,
gọi là Nhất Chân.
Tu gì trong
cảnh giới ấy? Phải đoạn trừ tập
khí vô thỉ vô minh. Đoạn tập khí bằng cách nào?
Không có cách nào hết! Không để ý tới nữa, nó sẽ
đoạn, tự nhiên đoạn. Cổ nhân dùng tỷ dụ
bình rượu để nói về tập khí, phương
pháp này rất hay! Bình rượu chứa rượu, đổ
sạch sành sanh rượu, chùi sạch bong, quả thật
là một giọt cũng chẳng còn, nhưng vẫn ngửi
thấy mùi, đó là “tập khí”, không có cách nào diệt trừ!
Không thể làm gì khác hơn là mở toang nắp bình, bỏ
ở đó, để một năm hay nửa năm, ngửi
thử sẽ không thấy mùi nữa! Do vậy, sự tu
hành của người ấy trong cõi ấy được
gọi là “vô công dụng đạo”, căn bản là không màng
tới, mặc cho nó biến mất. Nhưng ở trong ấy,
Pháp Thân Bồ Tát thần thông quảng đại, chúng sanh
trong mười phương thế giới có cảm, Ngài
lập tức có ứng, sẽ làm những chuyện ấy.
Có cảm bèn có ứng, cảm ứng hết sức rất
nhanh. Đấy là như sách Hoàn Nguyên Quán đã nói, một
niệm vừa động, bèn trọn khắp pháp giới,
bất luận quý vị động niệm nào! Vì thế,
sau khi đọc bộ luận này, chính mình phải hiểu:
Chúng ta khởi tâm động niệm, dấy lên thiện
niệm, những người tâm địa thanh tịnh trọn
khắp pháp giới hư không giới đều thu
được, đều nhận được tin tức
ấy. Giống như chúng ta đang ở trên màn hình TV, toàn
bộ hoạt động của quý vị họ thấy
hết. Quý vị có thể gạt gẫm được người
nào hay chăng? Quý vị khởi lên ác niệm, họ cũng
biết hết, chẳng thể giấu diếm mảy may
nào! Đừng tưởng người ta không biết, biết
toàn bộ! Quý vị chỉ có thể giấu diếm chúng
sanh mê hoặc, điên đảo, họ không biết; chứ
không gạt được người giác ngộ! Đây
là chân tướng sự thật. Một niệm trọn
khắp pháp giới, một niệm sanh ra vô tận, đó
tức là nói: Nó biến huyễn vô cùng, chứa đựng
cả Không lẫn Có. Trong giáo pháp Đại Thừa thường
nói: “Tâm bao thái hư, lượng
châu sa giới” (tâm bao trùm hư không, lượng trọn
khắp các cõi nhiều như cát), thật đấy! Một
niệm là như vậy, một hạt vi trần cũng
là như vậy, bất luận là hiện tượng vật
chất hay tinh thần, toàn bộ đều là như vậy.
Hơn nữa, vật chất và tinh thần là một, không
hai. Nếu quý vị đã học ba tế tướng của
A Lại Da Thức, quý vị sẽ biết. Trong Đại
Thừa Phật giáo dùng ba tế tướng của A Lại
Da Thức để giải thích duyên khởi của vũ
trụ, vũ trụ do đâu mà có? Vạn vật do đâu
mà có? Sanh mạng do đâu mà có? Ta từ đâu đến?
Giải thích hết sức rõ ràng. Vì sao có thể hiểu rõ
như thế? Đó là cảnh giới do chính những
người đó giác ngộ, chứng đắc, chẳng
phải do nghiên cứu, quan sát, suy đoán như trong khoa học,
chẳng phải, mà do họ đích thân thấy. Họ trở
về tự tánh, thật sự hiểu rõ toàn bộ Tánh, Tướng,
Sự, Lý, nhân quả trong tự tánh.
Vì sao địa
cầu ngày nay biến thành tình trạng như vậy? Vì sao
nhiệt độ địa cầu tăng lên? Vì sao băng
ở Nam Cực và Bắc Cực tan chảy? Vì sao các nơi
bị động đất nhiều như thế? Kinh Phật
giảng rõ ràng! Mà cũng có [biện pháp] để giải
quyết vấn đề này ra sao, chỉ cần quý vị
tin tưởng, địa cầu sẽ có thể lập
tức khôi phục bình thường. Không chỉ hữu dụng
đối với địa cầu, ngay cả các tinh cầu,
tinh hệ trong vũ trụ cũng sẽ vận hành theo đúng
quỹ đạo bình thường, chẳng đến nỗi
rối loạn, chúng ta đều có thể làm được,
chứ các khoa học gia chẳng có cách nào. Vì sao có thể
làm được? Vì hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng,
Thái Dương Hệ sanh từ tâm tưởng, Ngân Hà Hệ
sanh từ tâm tưởng, chỉ cần quý vị chẳng
có quan niệm sai lầm, chúng bèn bình thường. Nếu quý
vị muốn thay đổi chúng, chúng sẽ biến thành
dị thường. Các nhà khoa học làm chuyện dị
thường, muốn nhân định thắng thiên, muốn
sửa đổi hoàn cảnh thiên nhiên, vấn đề sẽ
nẩy sanh. Vì sao có những hiện tượng này? Vì chúng
từ tâm tưởng của quý vị sanh ra. Hiện thời,
quý vị có tâm tưởng chẳng bình thường, chúng
liền biến thành bất thường, chuyện là như
vậy đó! Vì sao trước kia bình thường như
vậy? Không ai nghĩ đến chuyện thay đổi
hoàn cảnh tự nhiên, không ai có ý niệm này, cho nên địa
cầu rất bình thường. Hiện tại, các khoa học
gia mỗi ngày động niệm, phá hoại môi trường
sống và hoàn cảnh tự nhiên, phiền phức dấy
lên. Sau khi vấn đề nẩy sanh, bèn bó tay, không có cách
nào, đáng thương quá!
Sách Hoàn Nguyên Quán đúng là tuyệt
diệu! Thầy Hồ Tiểu Lâm xem từ đầu đến
cuối ba lần, gọi điện thoại cho tôi biết,
hoan hỷ khôn sánh. Khi xem, thầy quên cả ăn cơm, uống
nước, đi vệ sinh, hễ xem là xem mười mấy
tiếng. Ông ta gọi điện thoại, hỏi tôi: “Có
phải là con đang mê hay không? Có vấn đề gì hay không?”
Tôi bảo ông ta: “Ông chẳng có vấn đề gì, bình
thường! Pháp hỷ sung mãn đấy mà! Quên ăn cơm,
lại chẳng cảm thấy đói, Thiền duyệt làm
thức ăn. Tuy ông chưa chứng đắc cảnh giới
này, ông đã có chút mon men hưởng thụ”. Lần này [ông
ta] sang đây, vốn định báo cáo chuyện này, sau khi đã
tới đây, vẫn cảm thấy chưa đủ, vẫn
phải thâm nhập một tầng nữa rồi mới báo
cáo, tôi nói “được!” Bài luận văn này của quốc
sư Hiền Thủ chẳng dài, nhưng thật là phi phàm.
Toàn bộ những lý luận và phương pháp tu hành trong
kinh Hoa Nghiêm đều được viết ra trong bài văn
ngắn ngủi này! Chúng ta học Hoa Nghiêm mười
năm, dùng hơn bốn ngàn giờ, mà phần sau [của
kinh Hoa Nghiêm chưa được giảng] còn rất dài,
do vậy, đem bài luận văn này của quốc sư
Hiền Thủ ghép vào học tập giữa chừng, học
tập hai lượt. Sau đấy, học tiếp kinh Hoa
Nghiêm sẽ có ý vị khác hẳn, cảnh giới khác hẳn.
Nay chúng ta coi lại kinh Vô Lượng Thọ, sẽ lại
khác hẳn! Lẽ nào ông ta chẳng vui mừng! Pháp hỷ
sung mãn, thường sanh tâm vui vẻ. Do vậy, đây là hóa
nghi sẵn có trong tự tánh của chúng sanh.
“Thử nhất cú Phật hiệu,
chánh như Yếu Giải sở thị, ký thị chúng sanh
Bổn Giác Lý tánh, cố tri thử giới nhĩ năng niệm
chi tâm tức thị Như Lai quả giác” (Một câu Phật
hiệu này, đúng như sách Yếu Giải đã chỉ
ra, đã là Lý tánh Bổn Giác của chúng sanh, cho nên biết
cái tâm niệm Phật nhỏ nhoi này chính là quả giác của
Như Lai). Chúng ta phải chú tâm thấu hiểu: Câu Phật
hiệu ấy là sáu chữ hồng danh “Nam-mô A Di Đà Phật” như trong sách Yếu Giải
của Ngẫu Ích đại sư đã giảng, nó chính là
Lý tánh Bổn Giác của chúng sanh, Lý tánh là tự tánh. Nhằm
dạy học thuận tiện, đức Phật lập
ra sáu chữ để đại diện cho muôn sự muôn
vật trong vũ trụ. Tánh Tướng: Tánh có thể
sanh, có thể hiện; Tướng là cái được sanh,
cái được hiện. Đây là tầng cao nhất, tức
duyên khởi của vũ trụ. Tầng thứ hai là Lý, Sự;
Lý Sự là A Lại Da Thức, Lý là chủ thể có thể
biến, Sự là cái được biến (sở biến),
y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là cái được
biến. Trong “cái có thể biến” (năng biến) có nhân
và quả; trong sở biến cũng có nhân và quả. Quý vị
thấy: Dùng sáu chữ “Tánh,
Tướng, Lý, Sự, nhân, quả” bao quát trọn hết
toàn bộ. Ở đây, quan trọng nhất là phải biết:
Tự tánh có thể sanh, có thể hiện, nhưng chẳng
biến. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như
Lai là cảnh giới này. Do vậy, nó được gọi
là Nhất Chân pháp giới. Đến tầng Lý Sự, Năng
Biến biến thành A Lại Da Thức, hiện tướng
vô lượng vô biên ở trong ấy, chẳng phải là bất
biến, mà là biến hóa khôn lường, biến đổi
trong từng sát-na. Khi chúng ta học những điều này,
cũng không có cách nào để diễn tả, nói không được!
Do vậy, tôi đã nghĩ tới thuở nhỏ, chơi ống
kính vạn hoa, đơn giản như vậy đó. Quý vị
thấy kết cấu của ống kính vạn hoa là ba mảnh
gương, ở giữa bỏ mấy mảnh giấy màu
khác nhau. Quý vị xoay nó, sẽ thấy những thứ biến
hóa bên trong. Quý vị xoay cách nào cũng chẳng tìm được
một mô thức (pattern) giống nhau. Có cùng một đạo
lý như vậy, A Lại Da Thức khởi tác dụng, biến
thành y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới giống
như ống kính vạn hoa, kính vạn hoa chuyển động
không ngừng. Niệm này khởi lên, niệm kia diệt mất,
tiền niệm diệt, hậu niệm khởi. Vì thế,
chúng ta thấy tướng được hiện là hiện
tượng gì? Là một thứ gần như là tướng
liên tục, chẳng phải là hai tướng giống
nhau, chẳng có! Về căn bản, chẳng giống hệt
nhau mà là tương tự.
Giống
như chúng ta coi phim, dùng dụng cụ sau đây: Cuộn
phim, tức là phim điện ảnh. Quý vị thấy phim
bỏ vào máy chiếu phim, một giây chiếu được
hai mươi bốn tấm, ống kính đóng hay mở, tức
là đối với tấm phim dùng để rọi, hễ
ống kính mở, tấm phim ấy bèn được chiếu
lên màn bạc, [ống kính] đóng lại, đổi sang tấm
kế tiếp. Tốc độ quá nhanh, trong một giây là
hai mươi bốn tấm, chúng ta thấy dường như
hình ảnh cử động trên màn bạc; thật ra, chúng
bất động, đâu có động! Từng tấm khác
nhau. Do vậy, quý vị biết, sau khi lật ngửa con bài,
[mới biết] thế giới này là tướng liên tục
tương tự. Quý vị thấy: Trong điện ảnh,
hai mươi bốn tấm phim [trong một giây] đã gạt
được mắt ta, chúng ta ngỡ là thật. Đức
Phật nói hiện thời [sự tướng biến hóa
trong thế gian] theo tốc độ nào? Trong một giây là
một ngàn hai trăm tám mươi triệu tấm, tốc
độ chuyển động như vậy, làm sao chúng ta
biết nổi? Hai mươi bốn tấm đã gạt chúng
ta được rồi! Nay tôi cho quý vị biết, trong một
giây có bao nhiêu tấm? Một ngàn hai trăm tám mươi
triệu! Nói với chúng ta chân tướng sự thật này.
Vì thế, có những thứ ấy tồn tại hay không?
Không có, vạn pháp đều là Không.
Chúng ta
thường nói nhân quả chẳng không, “nhân quả chẳng
không” là so với gì để nói? So với tương tục
mà nói, nói đối với tướng tương tự
liên tục, trong ấy có nhân quả, bảo quý vị phải
dè chừng, cẩn thận. Lên cao hơn nữa thì sao? Lên
cao hơn nữa thì nhân quả cũng không. Tới Thường
Tịch Quang, nhân quả chẳng có, hoàn toàn trở về tự
tánh, nhân quả do đâu mà còn nữa? Trong Thường Tịch
Quang, ngay cả hiện tượng vật chất lẫn
hiện tượng tinh thần đều không có, nhưng
có kiến văn giác tri, bởi lẽ, kiến văn giác
tri là Tánh Đức. Biến thành A Lại Da Thức là khi nhất
niệm vọng động, bèn biến thành A Lại Da Thức,
kiến văn giác tri trong A Lại Da biến thành Thọ, Tưởng,
Hành, Thức; khi mê sẽ là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Giống như tiến sĩ Giang Bổn Thắng dùng nước
làm thí nghiệm. Nước có thể thấy, nghe, đó là
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Cội nguồn của
Thọ, Tưởng, Hành, Thức là gì? Cội nguồn là kiến
văn giác tri. Kiến văn giác tri trong tự tánh là trí huệ
và đức năng sẵn có trong tự tánh. Đức Phật
nói rõ ràng như thế, nói minh bạch như thế, các nhà
khoa học chẳng nói đến.
Chánh báo
như tóc, lông của chúng ta, y báo như vi trần, đều
là tướng được hiện. Chúng ta thường
nói “sanh diệt trong từng sát-na”, thật sự quý vị
không có cách nào hiểu được khái niệm này, hiểu
lời Di Lặc Bồ Tát nói: “Trong
một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn
niệm”, từ đây chúng ta mới có khái niệm. Bất
luận là đầu lông hay vi trần, đều thuộc
về vật chất, trong hiện tượng vật chất
có kiến văn giác tri. Nay chúng ta đã mê, nói cách khác, có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, trong một đầu lông đều
có, hết thảy các sợi lông, hết thảy các vi trần
thảy đều có. Trong Phật pháp nói vi trần, các nhà khoa
học hiện thời dùng danh từ “nguyên tử, điện tử, hạt căn bản,
khoa-khắc (quark)”, đều
gọi là “vi trần”, là hiện
tượng vật chất, có tinh thần hay không? Có! Có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Trong hạt cơ bản có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, nó biến hóa, nghe theo ai chỉ
huy? Ai đang biến hóa nó? Ý niệm. Chúng ta khởi tâm
động niệm, nó bèn thuận theo ý niệm của chúng
ta mà biến hóa. Ý niệm của chúng ta
là thiện, sẽ chẳng có thứ gì bất thiện; ý
niệm của chúng ta là bất thiện, sẽ chẳng
có gì là thiện.
Nếu
chúng ta đều là thiện niệm, cho nên đức Phật
mong chúng ta, mong các đệ tử Phật nêu gương tốt
cho hết thảy chúng sanh, thực hiện từ nơi đâu?
Thực hiện từ Lục Hòa Kính. Vì thế, đoàn thể
trong Phật môn được gọi là Tăng đoàn. Quý
vị thấy khi chúng tôi thuyết Tam Quy Y: “Quy y Tăng, chúng trung
tôn”, “Chúng” là đoàn thể.
Trong Phật pháp, Chúng là nói từ bốn người trở
lên, ở cùng một chỗ chung sống,
tu hành chung với nhau, một đoàn thể như vậy tu
Lục Hòa Kính. “Kiến hòa
đồng giải”: Cách nhìn, cách nghĩ của ta và cách
nhìn của mọi người như nhau, gọi là kiến
hòa đồng giải. “Giới
hòa đồng tu”, mọi
người ở cùng một chỗ tuân thủ quy củ.
Chẳng tuân thủ quy củ sẽ loạn. Giới luật
là quy củ. Sau đấy là “thân
đồng trụ, khẩu vô tránh, ý đồng duyệt” (thân
cùng ở, miệng chẳng tranh cãi, cùng vui vẻ chia sẻ
ý kiến), đó là vui vẻ ở cùng một chỗ. “Lợi đồng quân”: Đây
là nói bình đẳng hưởng thụ hết thảy các
thứ cúng dường, không có đặc quyền. Đấy
là Lục Hòa Kính. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
mọi người khất thực, tôi đi khất thực,
khất thực được cúng dường kha khá, cơm
và thức ăn ngon lành, người kia khất thực, nhà
người ta nghèo khổ, cúng thí khác hẳn. Ngày hôm nay chúng
ta được món lợi này thì làm sao? Chẳng phải là
xin xong bèn ăn ngay, không thể! Khất thực xong, quay về,
trở về Tăng đoàn, đem cơm xin được
trộn lẫn với nhau, rồi lại phân chia, ăn
theo cách như vậy, cho nên nói “nhất
bát thiên gia phạn” (một bát, cơm ngàn nhà). Đúng vậy,
chẳng giả! Tăng đoàn một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người, ra bên ngoài khất thực, chẳng
phải là cơm ngàn nhà hay sao? Trộn lẫn lại để
ăn, quý vị thấy đó: Lợi hòa đồng quân
(chia sẻ lợi lạc bình đẳng). Quý vị ra ngoài
khất thực, khất thực chẳng được,
không sao cả! Biết về nhà sẽ được ăn,
được mọi người chia phần, lợi hòa
đồng quân.
Trong đây,
quan trọng nhất là kiến hòa đồng giải, chúng
ta làm sao để có thể có cách nghĩ và cách nhìn chung? Khi
chúng ta mê, bất giác, chưa đại triệt đại
ngộ, chúng ta phải nương theo Phật, nương
tựa thầy, nương theo kinh giáo của thầy. Lấy
những thứ ấy làm căn cứ cho tư tưởng,
kiến giải, tương ứng với kinh giáo là chánh
tri chánh kiến. Trái phạm kinh giáo là tà tri tà kiến. Chúng
ta phải chuyển tà thành chánh. Chánh - tà có rất nhiều
tiêu chuẩn, mỗi kinh điển khác nhau; vì vậy, các
tông, các phái đều khác nhau, nhưng là đại đồng
tiểu dị, đều là chánh tri chánh kiến. Thậm
chí nay chúng ta mở rộng tầm mắt, thấy trên thế
giới này có nhiều tôn giáo khác nhau, chỉ cần chính phủ
công nhận tôn giáo ấy là tôn giáo chính đáng, chúng ta cũng
tôn trọng và thừa nhận kiến giải của họ
cũng là chánh tri chánh kiến. Như vậy thì chúng ta mới
có thể chung sống hòa thuận, mới có thể đối
đãi bình đẳng, mới mang lại hòa bình, yên ổn cho
thế giới. Đó là trong nhân gian và trong lục đạo.
Nếu là trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, cảnh
giới ấy được nâng cao hơn, tiêu chuẩn khác
hẳn. Đến địa vị Bồ Tát, tiêu chuẩn
là tự tánh: Tương ứng với Tánh Đức thì là
chánh tri chánh kiến; trái nghịch Tánh Đức của tự
tánh sẽ là tà tri tà kiến, khác hẳn [nhân gian và lục
đạo]. Do vậy, tiêu chuẩn rốt ráo, tiêu chuẩn
tuyệt đối là tự tánh; khi quý vị minh tâm kiến
tánh, quý vị sẽ chứng đắc.
Khi chưa
chứng đắc, quý vị học tập những người
đã chứng đắc, người chứng đắc
cho chúng ta biết: Đó là Tánh Đức. Đó là gì? Thưa
quý vị, Thập Thiện Nghiệp Đạo là Tánh Đức,
Tam Quy Ngũ Giới là Tánh Đức, Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên của Đạo gia là Tánh Đức, Âm Chất
Văn của Văn Xương Đế Quân cũng là Tánh
Đức, Đệ Tử Quy của Nho gia cũng là Tánh Đức,
giảng ngũ luân, ngũ thường, tứ duy bát đức[11] là Tánh Đức, là chứng đắc
của chư Phật, Bồ Tát. Chúng ta chưa chứng
đắc, phải nương theo giáo huấn của các
Ngài để hành, tùy thuận Tánh Đức, kiến lập
chánh tri chánh kiến và kiến hòa đồng giải. Tu Lục
Hòa Kính như thế nào? Thực hiện ba thứ căn bản
của Nho, Thích, Đạo là thật sự tu Lục Hòa
Kính, Lục Hòa Kính sẽ được thực hiện! Thật
sự làm! Bắt đầu làm từ đâu? Làm từ chính
mình, đừng đòi hỏi người khác, quý vị sẽ
là đệ tử thật sự của đức Phật.
Chỉ đòi hỏi chính mình, đừng đòi hỏi ai khác,
kiến lập hòa hợp tăng đoàn như thế đó!
Tuyệt đối chớ nên đem ni tấc của chính
mình xét đoán người khác, đến mọi nơi phê
bình người ta. [Làm như vậy] quý vị sẽ phạm
lỗi to lớn quá đỗi! Phải hiểu đạo
lý này! Chính quý vị làm được thì sẽ thành tựu.
Quý vị thành tựu, chắc chắn sẽ cảm hóa
người khác. Một người chịu làm, có thể
cảm hóa cả nhà; một nhà đều làm, chắc chắn
cảm hóa xóm giềng, cảm hóa thân thích, bằng hữu. Vì
thế, sách Đệ Tử Quy có nói: “Thế phục nhân” (dùng uy thế khuất phục
người khác), chưa chắc người ta đã tiếp
nhận, “Lý phục nhân” (dùng
lý khuất phục người khác), người ta tự
nhiên bị cảm hóa. Phải làm từ chính bản thân mình
mới là đúng.
Đã là Lý
tánh trong Bổn Giác của chúng sanh thì là chính mình, chính mình là
chúng sanh. Hai chữ “chúng sanh”
có nghĩa là các duyên hòa hợp sanh ra hiện tượng thì
gọi là chúng sanh. Con người chúng ta, thân thể này do các
duyên hòa hợp; cái thân vật chất là Tứ Đại, đất,
nước, lửa, gió, Tứ Đại, Tứ Đại
là gì? Nói theo danh từ khoa học hiện thời, Tứ Đại
là nguyên tử hay điện tử. Các nhà khoa học cho biết:
Một nguyên tử, một điện tử, hoặc một
hạt cơ bản đều có bốn đặc tánh. Thứ
nhất là vật chất, nhìn bằng kính hiển vi cao cấp,
quý vị có thể thấy được, nó là vật thể
quá nhỏ, quý vị chẳng thể đụng tới, nhưng
có thể thấy nó. Nhà Phật gọi tánh chất này là Địa
Đại, Địa tượng trưng cho vật chất.
Một vật thể bé như thế có mang điện tích,
chứa âm điện hay dương điện.
Dương điện được gọi là Hỏa Đại,
âm điện là Thủy Đại. Nó có độ ẩm và
nhiệt độ, độ ẩm là Thủy Đại,
nhiệt độ là Hỏa Đại. Nó chuyển động,
chứ không tĩnh lặng, [chuyển động với] tốc
độ rất nhanh, sự chuyển động ấy gọi
là Phong, dùng Phong để tượng trưng, nên gọi
là Phong Đại. “Địa, thủy, hỏa, phong” là nói
về vật chất cơ bản hay hạt căn bản.
Di Lặc Bồ Tát dạy chúng ta: “Niệm niệm thành hình”, thì “hình” là Tứ Đại, chúng có bốn hiện
tượng này. “Hình giai hữu
thức” (hình đều có thức), câu này quan trọng.
Thức là gì? Thức là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Chỉ cần là vật chất, chắc chắn có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Nước là vật chất, tiến
sĩ Giang Bổn Thắng đã làm thí nghiệm với nước,
chứng minh vật chất có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Tôi bốn
lần sang Nhật Bản tham dự hội nghị quốc
tế, có hai lần đi phỏng vấn, tôi sang Nhật Bản
sáu lần. Trong sáu lần này, tôi đã hai lần tới thăm
phòng thí nghiệm của tiến sĩ Giang Bổn Thắng,
tôi tới thăm, ông ta đã giảng giải cặn kẽ.
Ông ta làm thí nghiệm mấy chục vạn lần, chứng
minh nước thật sự có kiến văn giác tri. Tôi bảo
ông ta: “Vẫn chẳng phải chỉ có hiện tượng
này, nay quý vị đã thấy nó có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Đối với những thí nghiệm này, nước
bộc lộ sắc tướng cho quý vị thấy, nhưng
trong kinh Phật nói Sắc, Thanh, Hương, Vị, có bốn
loại hiện tượng, quý vị chỉ mới thấy
Sắc, vẫn chưa phát hiện Thanh, Hương, Vị”.
Tôi nói: “Quý vị phải tiếp tục nỗ lực, tôi mong
quý vị dùng phương pháp khoa học, nước có âm
thanh, có hương, vị, quý vị có thể làm thí nghiệm
để xem xét, công đức vô lượng. Đấy
là như kinh Phật đã nói: Bất luận vật chất
gì cũng đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
đều có Sắc, Thanh, Hương, Vị. Hãy dùng một
phương pháp trắc nghiệm khác, chẳng dùng nước
nữa”. Quý vị thấy hôm qua, mấy người bọn
họ báo cáo ở nơi đây: Họ dùng cơm, lấy
ba chén cơm. Một nồi cơm nấu xong, xới ra ba
chén, để hai mươi ngày. Một chén thì mỗi ngày
tán thán, ca ngợi nó. Chén khác, chán ghét, oán hận nó. Còn một
chén nữa, về căn bản là mặc kệ, không màng tới.
Hai mươi ngày sau, chén được tán thán mỗi ngày,
cơm biến thành màu vàng, có mùi thơm, chén bị oán hận
trở nên hết sức khó ngửi, biến thành đen
thui; chén không được để ý cũng bị hư,
nó thật sự hiểu được ý nghĩ của
con người. Đó là gì? Đó là thị hiện có Sắc,
Hương, Vị, còn âm thanh chưa có cách để làm thí
nghiệm. Đối với lời đức Phật dạy,
hoàn toàn làm thí nghiệm [sẽ thấy] hết thảy vật
chất đều có Sắc, Thanh, Hương, Vị,
đều có bốn hiện tượng này xuất hiện.
Phật pháp kỳ diệu khiến cho các nhà khoa học phải
gắng công chứng thực.
Vì thế,
ý niệm của chúng ta có mối quan hệ với tướng
mạo. Muốn đẹp đẽ, ngàn muôn phần đừng
tới thẩm mỹ viện. Theo như họ đã tường
trình trong ngày hôm qua, thẩm mỹ viện khổ lắm! Tốn
cả đống tiền để đày đọa bản
thân, chịu bao nhiêu đày đọa, gần như mất
mạng, lầm lạc quá! Chỉ cần quý vị có tâm tốt,
tướng mạo sẽ đẹp đẽ, tướng
chuyển theo tâm. Vì sao quý vị không tin chuyện này? Tâm tốt,
tướng sẽ tốt đẹp; tâm tánh tốt, thân sẽ
khỏe khoắn, thân lẫn tâm khỏe mạnh. Đừng
bị kẻ khác lừa gạt! Phật, Bồ Tát chẳng
lừa ai, luôn nói lời chân thật, mà quý vị chẳng
nghe! Quý vị nghe lời chuyên viên thẩm mỹ, chẳng
phải là tự chuốc khổ đó sao? Chúng ta muốn
thân lẫn tâm khỏe mạnh, phải tin vào chính mình, tâm niệm
phải lành, tư tưởng phải lành. Trong kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật bảo long
vương: “Bồ Tát hữu
nhất pháp, năng ly nhất thiết thế gian khổ”
(Bồ Tát có một pháp có thể lìa hết thảy nỗi
khổ trong thế gian), pháp gì vậy? Là thiện pháp, tức
là Thập Thiện nghiệp đạo. Tư tưởng
của quý vị tương ứng với Thập Thiện
nghiệp, kiến giải của quý vị tương ứng
với Thập Thiện nghiệp, ngôn ngữ, hành vi của
quý vị tương ứng với Thập Thiện nghiệp,
chẳng có điều gì bất thiện, thân và tâm khỏe
mạnh, hạnh phúc mỹ mãn sẽ thật sự đạt
được! Do vậy, đừng nên cầu bên ngoài.
Tiếp
theo đó, sách viết: “Cố
tri thử giới nhĩ năng niệm chi tâm tức thị
Như Lai quả giác” (cho nên biết cái tâm năng niệm
nhỏ nhoi chính là quả giác của Như Lai). Như Lai quả
giác là tự tánh, quả giác nơi tự tánh. Chữ “giới nhĩ” thường
thấy trong kinh Phật, nhằm hình dung một niệm vô
cùng vi tế. Nói thật ra, vi tế đến cùng cực
là như Di Lặc Bồ Tát đã nói: “Trong một cái khảy ngón tay, có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm”, đó là “giới
nhĩ”, tức một niệm tâm, chúng ta không có cách nào phát
hiện điều này. Nay chúng ta chỉ nhận biết một
cái khảy ngón tay là một phần tư giây. Chúng ta có thể
cảm nhận được, đó là nhất niệm của
bọn phàm phu chúng ta; còn một niệm tâm ở đây thuộc
về quả giác của Như Lai, là Tánh Đức, là tự
tánh giác. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng ta học
tới chỗ này. Cảm ơn mọi người!
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 2
hết
[1] Đây là cách phân chia các kinh trong Đại
Tạng theo hệ thống tư tưởng, chẳng hạn
như Niết Bàn bộ, Hoa Nghiêm bộ, Phương Đẳng
bộ v.v... Bát Nhã bộ bao gồm toàn bộ các kinh đặc
biệt giảng giải giáo nghĩa Bát Nhã như kinh Đại
Bát Nhã Ba La Mật, Kim Cang, Nhân Vương Hộ Quốc,
Phóng Quang Bát Nhã, Lý Thú Bát Nhã, Đạo Hành Bát Nhã, Đại
Minh Độ, Thắng Thiên Vương Bát Nhã v.v... Bộ
Đại Bát Nhã Kinh sáu trăm quyển do ngài Huyền Trang
dịch bao gồm toàn bộ các bản kinh Bát Nhã đã
được dịch trước đó.
[2] Nhà Tào Ngụy (220-266) do Tào Phi (con trai Tào
Tháo) sáng lập. Năm 220, Tào Phi bắt Hán Hiến Đế
(Lưu Hiệp) nhường ngôi, xưng đế, lập
ra nhà Ngụy. Lãnh thổ nước Ngụy bao gồm phần
lớn phía Bắc sông Trường Giang, kinh đô là Lạc
Dương. Do Tào Tháo được nhà Hán phong thái ấp
thuộc vùng lãnh thổ nước Ngụy thời Chiến
Quốc, nên có hiệu là Ngụy Công; vì thế, Tào Phi mới
xưng quốc hiệu là Ngụy. Tuy Tào Tháo chưa bao giờ
xưng đế, Tào Phi đã truy tặng cha mình là Ngụy
Thái Tổ Vũ Đế, cũng như tôn xưng ông cố
và ông nội là Cao Hoàng Đế và Thái Hoàng Đế, còn tự
mình xưng là Văn Hoàng Đế, truyền được
năm đời. Về sau, Tư Mã Viêm soán ngôi của Ngụy
Nguyên Hoàng Đế (Tào Hoán), lập ra nhà Tấn.
Nhà Ngô (222-280) còn gọi là Đông Ngô hoặc
Tôn Ngô, do Tôn Quyền (Ngô Thái Tổ) sáng lập, truyền
được bốn đời, đóng đô tại Kiến
Nghiệp (Nam Kinh). Đến đời Tôn Hạo, Tấn
Vũ Đế (Tư Mã Viêm) diệt Đông Ngô, Tôn Hạo
bị giải về Lạc Dương. Do Tôn Hạo quá
nhu nhược, hèn nhát, ngây ngô, nên Tấn Vũ Đế
tha không giết, phong cho một tước hữu danh vô thực
là Quy Mạng Hầu.
[3] Do Đông Ngô và Tào Ngụy tồn tại
song hành, nên nói là ngài Khang Tăng Khải sống vào đời
Ngô cũng được.
[4] Đây là một vinh dự. Người
Hoa in sách thường nhờ một người viết
chữ đẹp mà mình tôn trọng, quý mến nhất,
dùng bút lông viết tên sách, chụp lại, in làm bìa. Cụ
Hoàng Niệm Tổ cũng là một tay thư pháp lỗi lạc
vùng Hoa Bắc, nhưng không tự đề tên sách, mà nhờ
hòa thượng Tịnh Không viết tựa sách nhằm tỏ
lòng kính mến sâu đậm.
[5] Chữ “gia giáo” ở đây bao gồm
giáo dục trong gia đình lẫn sự giáo dục truyền
thống do cộng đồng, địa phương duy
trì. Có thể hiểu “gia giáo” là lối giáo dục theo truyền
thống cổ, chưa học theo phương Tây.
[6] Đồng Thành phái
là một trường phái chuyên viết văn xuôi đời
Thanh do Phương Bao khởi xướng; cùng với
Phương Bao, Lưu Đại Khôi và Diêu Nãi được
gọi là Đồng Thành Tam Tổ, tức ba người
hoàn thành lý luận và tông chỉ của học phái này. Do cả
ba người này đều quê ở huyện Đồng
Thành, tỉnh An Huy, nên trường phái này được gọi
là Đồng Thành Phái. Họ chủ trương nghiên cứu
những tác phẩm như Tả Truyện, Sử Ký để
tìm ra ý nghĩa chân chính hòng tu thân lập đức. Năm
Khang Hy 50, vì đã viết lời tựa cho bộ Nam
Sơn Tập của Đới Danh Thế, Phương
Bao bị liên lụy, phải hạ ngục. Về sau,
được Lý Quang Địa phát hiện, tiến cử
lên Khang Hy. Vua Khang Hy hết sức ngưỡng mộ, biết
ông Phương không thích làm quan, bèn mời Phương Bao
dùng thân phận áo vải để làm bạn văn
chương của hoàng đế, thật ra là cố vấn
riêng cho nhà vua tại Nam Thư Phòng. Ông trở thành “trí nang”
(cái túi kiến thức) của ba đời vua Khang Hy, Ung
Chánh và Càn Long. Dưới thời Ung Chánh, nghe theo lời
nhà vua thuyết phục, ông đã chấp nhận giữ chức
Tả Trung Doãn của Tả Xuân Phường Chiêm Sự Phủ,
thăng Nội Các Học Sĩ, rồi Lễ Bộ Thị
Lang, làm tổng biên tập bộ Đại Thanh Nhất Thống
Chí cũng như làm phó tổng biên tập bộ Tam Lễ
Thư thời Càn Long.
[7] Ấn Quang đại sư viên tịch
năm Dân Quốc 29 (1940).
[8] Theo quy chế tùng lâm, tăng chúng phải
tham dự năm thời khóa tụng niệm, ba thời
khóa trên Phật đường, hai thời khóa trong trai
đường, nên gọi là “ngũ
đường công khóa”, tức tảo khóa (khóa tụng
kinh sáng), tảo xan quá đường (tụng niệm khi
ăn cơm sáng), cúng Ngọ, ngọ xan quá đường
(tụng niệm khi ăn cơm trưa), và vãn khóa (khóa tụng
kinh tối). Trừ các pháp sư chuyên giảng kinh pháp, các
pháp sư khác phải thuộc nghi thức và biết sử
dụng pháp khí để thay phiên nhau dẫn chúng trong các
khóa tụng niệm này.
[9] Bành Hâm là Trung y sĩ (thầy thuốc Bắc)
là chuyên viên nghiên cứu tại Sở
Nghiên Cứu Lý luận trực thuộc Trung Quốc Trung Y
Đại Học Viện, tốt nghiệp từ Bắc
Kinh Trung Y Dược Đại Học, chuyên nghiên cứu
châm cứu, và các lý luận ứng dụng chữa trị,
chẩn đoán và phòng bệnh trong Đông Y, chủ
trương đường lối dưỡng sinh bằng
tu đức.
[10] Ngũ tạng lục phủ là danh từ
phiếm chỉ tất cả cơ quan nội tạng
trong thân thể con người. Tâm, can, tỳ, phế, thận
(tim, gan, lá lách, phổi, thận) là Ngũ Tạng. Tiểu
Trường, Đảm, Vị, Đại Trường,
Bàng Quang (ruột non, mật, bao tử, ruột già, bàng
quang) kèm thêm Tam Tiêu thành Lục Phủ. Tam Tiêu là khoảng trống
giữa ngực và bụng được chia thành ba phần
gọi là Thượng Tiêu, Trung Tiêu và Hạ Tiêu.
0 Kommentare:
Post a Comment