Giả sử bạn
trúng một mũi tên tẩm độc, một y sỹ đến nhổ mũi tên ra khỏi thân thể bạn để trị
liệu vết thương, trước tiên bạn có hỏi ông ta những vấn đề như mũi tên được làm
bằng thứ gì, thuốc độc được chế bằng thứ gì, ai bắn mũi tên đó, và nếu y sĩ
không trị vết thương, cái gì sẽ phải xảy ra, và những vấn đề đại loại như vậy;
và từ chối chữa trị, trừ phi y sĩ trả lời tất cả những vấn đề đó để thoả mãn
bạn?
Thích Thanh Hương
Với bản năng sinh
tồn thuần tuý, loài vật mới sinh ra đã biết truyền cho nhau những tập quán để
kiếm ăn, những kinh nghiệm nhận biết kẻ thù, và những tín hiệu để giúp cho
chúng có thể sống thành bầy đàn. Tách hẳn ra khỏi những sinh loại tồn tại trên
địa cầu trong lịch sử tiến hóa dài lâu của nó, loài người được coi là thành
phần tiến hóa bậc cao nhất. Như đạo Nho nói: "Tính của trời đất, loài
người là quý nhất." Đạo Phật cũng cho rằng, được làm thân người là điều
rất khó, bởi trong tiến trình của sự sống, các hành nghiệp của một chúng sanh,
nếu không được giáo dục hướng thiện, phần nhiều đều dẫn người ta đến những cảnh
giới đọa lạc và khó có cơ hội trở lại làm người.
Về mặt khoa học,
trong quá trình tiến hóa của loài người, khởi thủy, để truyền đạt những thông
tin, những nguyên tắc quy ước trong một cộng đồng với nhau, con người có ngôn
ngữ, có chữ viết, và để vấn đề truyền đạt trên xảy ra có hiệu quả, vấn đề giáo
dục phải được đặt ra. Người ta không thể sống chung nếu không có những quy ước
ràng buộc các sinh hoạt. Anh phải gọi vật này là cái 'cột' chứ không phải là
cái 'cây', vật này là cái 'ghế' chứ không phải là cái 'bàn'…. Rồi vì quan hệ
giữa người này với người khác, quan hệ với thế hệ này thế hệ khác, để cho có
trật tự, có ổn định, vấn đề đạo đức cũng được đặt ra… tất cả đề nhằm giải quyết
vấn đề sinh sống với nhau cho có an ổn, có trật tự.
Đứng về bản chất mà nói, cũng như
mọi sinh loại khác, là con người, ai cũng mong muốn có hạnh phúc, an vui, và xu
hướng tránh những bức xúc, khổ đau. Vì thế Giáo dục là cách mà người ta có thể
tìm đến những giải pháp cho hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng. Cũng vì vậy,
con người luôn ao ước có được một sự hiểu biết rộng lớn, phá trừ ít nhiều cái
mông muội của mình. Vì càng sống trong cuộc đời, người ta càng thấy hình như
việc đi tìm hạnh phúc, một thứ hạnh phúc thường hằng vĩnh cữu như mong ước là
không thể được vì luôn luôn nó có đó rồi mất đó. Đó là bởi sự chấp trước của
con người về những gì mình mong muốn. Mà tất cả những khổ đau trong cõi đời,
không gì ngoài cái màn ngăn che chúng sanh không thấy được cái Thực của vạn
pháp. Đó là vô minh. Đạo Phật ra đời nhằm giải quyết vấn đề cốt tuỷ này của đời
sống con người.
Tuỳ thuận theo những quy ước của
thế gian, nên đức Phật đã coi trọng vấn đề giáo dục, ngôn ngữ thường dùng trong
kinh điển là giáo hoá. Cả cuộc đời đức Phật là một mẫu mực sư phạm bậc
nhất cho cả loài người và thiên giới, Bậc Thầy của trời người.
Ở đây, chúng ta thử tìm hiểu một
vài nét về Giáo dục trong đạo Phật: Chủ trương như thế nào, mục đích như thế
nào, phương tiện giáo dục như thế nào? Nhưng trước khi bàn đến vấn đề này chúng
ta thử lướt qua một vài quan niệm về Giáo dục của một số trí thức Đông, Tây.
Đạo Nho nói: "Nhân bất học
bất tri lý, ấu bất học lão hà vi." Nghĩa là, người không học thời không
biết điều hay lẽ phải, nếu tuổi trẻ không biết học hành thì làm sao có thể đối
đãi, sống đúng với đời. Sự rèn luyện học tập từ bé là nền tảng cho một xã hội
có trật tự, có nề nếp về sau. ‘Biết làm gì’ có nghĩa là biết xử sự theo những
quy ước của xã hội về mặt tổ chức cũng như đạo đức. Nho giáo rất coi trọng vấn
đề giáo dục vì nó có tầm quan trọng rất lớn đối với việc tổ chức và ổn định xã
hội. Những mối quan hệ tạo nên trật tự xã hội được Khổng Tử chủ trương như 'tam
tòng tứ đức', 'tam cương ngũ thường', 'chính danh', v.v., được coi là khuôn mẫu
đạo đức tồn tại hàng ngàn năm trong nền văn hoá Đông phương thời phong kiến.
Cho đến nay những quan điểm như vậy vẫn có nhiều giá trị chân, thiện, mỹ nhất
định của nó.
Có người đề cập đến việc hình
thành một nhân cách toàn diện như nhà giáo dục học E.F. Schumacher phát biểu:
"Giáo dục chỉ có thể giúp chúng ta nếu giáo dục đào tạo con người toàn
diện.” Một người được giáo dục đúng không phải là người biết mỗi thứ một ít,
cũng không phải là người biết rõ mọi chi tiết của mọi vấn đề. 'Con người toàn
diện' thực sự, có thể có ít kiến thức sâu vào các sự kiện và các lý thuyết, hoặc
có thể chứa cả Bách khoa từ điển, nhưng là người thực sự biết đích điểm của vấn
đề; người đó sẽ không có nghi ngờ về các niềm tin cơ bản của mình, về quan điểm
của mình, về ý nghĩa và mục đích của đời sống, người ấy có thể không cắt nghĩa
được các vấn đề đó bằng lời, nhưng cách hướng dẫn cuộc sống tự thân, sẽ chắc
chắn rằng, người đó đã thấu đáo vấn đề do sự thông sáng của nội tâm."[1]
Cùng quan điểm đó, Albert
Einstein, nhà bác học vĩ đại nhất của thế kỷ XX, nói: "Dạy con người về
chuyên môn chưa đủ. Qua khả năng chuyên môn, con người trở thành một thứ máy
móc, một công cụ hữu ích mà không phải là một nhân cách được phát triển một
cách hoà điệu. Rất căn bản rằng, người học viên nắm được sự hiểu biết và cảm
nhận sinh động về các giá trị…. Người học viên phải học hiểu các động cơ của
con người, vô minh và nỗi khổ đau của con người để nắm được sự liên hệ rõ ràng
đối với các cá nhân đồng loại và đối với cộng đồng của mình."[2]
Ông không nhấn mạnh đến vấn đề phát triển truyền thống, mà chọn lựa những gì
truyền thống cần được duy trì, những gì cần xét lại giá trị bởi vì mục tiêu của
cuộc đời là để sống với hạnh phúc chứ không phải là sống với truyền thống.
Theo đó, trăn trở của những thiện
tri thức xưa nay là làm sao để có được một nền giáo dục toàn diện, nhằm giúp
con người xây dựng cho mình một cuộc sống hạnh phúc thực sự. Giáo dục đúng
nghĩa, đúng hướng, do đó, là hết sức quan trọng. Nó quan trọng đến mức có người
nói: “Làm chính trị mà lầm thì hại một thế hệ, làm văn hóa giáo dục mà lầm thì
hại muôn đời.” Trong Phật giáo có vị Luật sư đã từng nói, cái tai hại của một
người làm thầy mà không biết truyền dạy và khuyến khích người học trò học và
hành trì giới, còn lớn hơn cả một tay đao phủ. Bởi lẽ, tay đao phủ chỉ giết
chết thân mạng của chúng sinh trong một kiếp, nhưng nếu vị thầy không làm đúng
bổn phận giáo dục của mình thì cái hại là giết chết giới thân huệ mạng, giết
chết bồ đề tâm của người đệ tử cả ngàn đời.
Đức Phật, khi ngộ được lý duyên
khởi, thấy được sự thực của thế gian một cách tường tận, đoạn trừ hết thảy
những chướng ngại của phiền não và vô minh, tâm tư bừng sáng như mặt trời giữa
hư không, cảm nghiệm được cái tịch tịnh an lạc của sự thể nhập với thực tại,
Ngài đã thốt lên: "Kỳ thay, kỳ thay! Tất cả chúng sanh đều có đức tính trí
tuệ của Như lai, chỉ vì vọng tưởng che lấp.” Và ngay sau đó, Ngài đã nghĩ đến
việc sẽ đem sự giác ngộ, sự chứng nghiệm của mình chia sẻ với mọi người, giúp
họ thực hiện được sự vượt thoát như Ngài. Nhưng đức Phật đã không vội đi truyền
dạy Đạo lý ngay mà ở lại trong rừng thêm ít lâu để chiêm nghiệm về cách sẽ
trình bày sự giáo hoá cho chúng sanh một cách toàn vẹn. Bởi vì chính ngài biết
rằng, trên mặt sự tướng, tùy theo nghiệp chủng mà chúng sanh có nhiều hạng, căn
cơ và trình độ tiếp thụ không đồng nhau, cho nên cần phải vận dụng phương tiện
phù hợp.
Không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ
trong khoảnh khắc đầu tiên ngay sau khi giác ngộ của đức Phật đã cho chúng ta
một nhận định về tính cách giáo dục nơi ngài. Đức Phật là một người mà nhân
cách và trí tuệ đã đạt đến sự viên mãn nhưng mục đích của sự giáo hoá của ngài
là mong cho chúng sanh thoát khỏi khổ đau và đạt đến sự thành tựu viên mãn như
ngài. Kinh Pháp Hoa nói: "Chư Phật Như lai chỉ vì một sự kiện nhân duyên
lớn mới hiện ra nơi đời, đó là giúp chúng sanh khai mở Tri kiến Phật, chỉ cho
thấy Tri kiến Phật, ngộ được Tri kiến Phật và thể nhập được Tri kiến
Phật." (Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến - phẩm Phương Tiện).
Chỉ cho thấy chứ không phải là ban cho, bởi tính Giác ngộ đó có sẵn trong mỗi
chúng sanh. Đó là quá trình khai phóng nội tâm. Và phương cách giáo hoá của đức
Phật ở đây cũng cho ta thấy được những yếu tố căn bản mà suốt gần năm mươi năm
tận tuỵ sống giữa thế gian, ngài đã áp dụng và để lại trong toàn bộ giáo điển.
Lần đầu tiên chuyển vận bánh xe
Pháp, đức Phật đã nói đến giáo lý tứ diệu đế, bốn sự thật của cuộc đời. Ngài
trình bày sự thực đầu tiên là Khổ, rồi nguyên nhân của khổ - Tập, Kết quả hay
các tình trạng thực của sự chấm dứt nguyên nhân khổ đau như những bằng chứng
thiết thực – Diệt, và cuối cùng là diễn giải con đường đưa đến sự chấm dứt khổ
đau đạt đến an lạc – Đạo. Rất hợp lý và đầy tính khoa học thực nghiệm. Muốn
chữa bệnh thì điều trước hết là phải nhận thấy được tịnh trạng bệnh tật, đang
trong tình trạng bệnh tật, từ đó mới mong muốn truy tìm phương pháp chữa lành
bệnh tật. Tiến trình từ nhận diện đến chuyển hoá hoàn toàn khổ đau không khác
nào tiến trình chữa lành một căn bệnh tận gốc trong y khoa.
Đức Phật nhắm ngay vào việc chữa
lành khổ đau cho chúng sanh, cho nên Ngài không bao giờ đưa ra học thuyết này
học thuyết nọ, những thuyết minh viễn vông về nguyên nhân đầu tiên và sau cùng,
những câu hỏi vu vơ về vũ trụ, về thế giới siêu hình. Bởi theo ngài, những băn
khoăn như thế không có tác dụng gì cho đời sống của con người. Dù họ có chất
chứa được bao nhiêu điều về những vấn đề như thế thì họ vẫn là những con mồi
của dục vọng và là nạn nhân của khổ đau mà thôi.
Có người muốn đến học với Phật,
một hôm ông nói với Phật, y sẽ nhập bọn các đệ tử của ngài, nếu ngài đưa ra
được những giải đáp sáng tỏ cho các vấn đề: Phật sống mãi hay không, nếu thế
thì cái gì sẽ xảy ra sau khi ngài chết? Nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ là gì
và vũ trụ rồi sẽ giống như cái gì trong vị lai? Tại sao loài người sống và cái gì
xảy ra sau khi chúng chết? Giải đáp của đức Phật có hiệu quả như sau: Giả sử bạn
trúng một mũi tên tẩm độc, một y sỹ đến nhổ mũi tên ra khỏi thân thể bạn để trị
liệu vết thương, trước tiên bạn có hỏi ông ta những vấn đề như mũi tên được làm
bằng thứ gì, thuốc độc được chế bằng thứ gì, ai bắn mũi tên đó, và nếu y sĩ
không trị vết thương, cái gì sẽ phải xảy ra, và những vấn đề đại loại như vậy;
và từ chối chữa trị, trừ phi y sĩ trả lời tất cả những vấn đề đó để thoả mãn
bạn? Bạn sẽ chết trước khi nhận được những giải đáp.[3]
Vì những lý do như thế, chữa tận nguồn
gốc khổ đau là sự quan tâm của đạo Phật. Bởi khổ đau là có thực, Khổ Đế, và tùy
theo mỗi trường hợp mỗi căn bệnh mà giáo lý được trình bày. Phù hợp, khế hợp
với Chân Lý, căn cơ trình độ của mỗi người là phương tiện tư duy của người phật
tử đối với vấn đề giáo dục. Đó là những khái niệm giáo dục cơ bản mà ta gọi là
Khế Lý, Khế cơ.
Chữ khế ở đây có nghĩa là phù hợp.
Lý lẽ, lý luận phải đúng với chân lý, đúng sự thật, đứng vững vàng trên Chân lý.
Không vì một lý do nào khác mà nói sai đi với Chân lý. Nghĩa là phải tôn trọng
sự thật trong bất cứ hoàn cảnh nào, và Chân lý hay sự thật đó phải được trình
bày phù hợp như thế nào. Đó là ý nghĩa của chữ Khế Lý.
Khế Cơ là biết quán sát để thấy được căn cơ của đối
tượng muốn truyền đạt. Mỗi người có một khả năng tiếp nhận giáo pháp khác nhau,
ngàn sai muôn biệt. Người nói pháp phải biết nói những pháp nào phù hợp với trình
độ nhận thức và nhân duyên nào. Trong khi đó, người nghe pháp phải biết lựa
chọn cho mình một phương pháp tu tập thích hợp nhằm chuyển hoá tình trạng khó
khăn của mình. Rõ ràng không có sự áp đặt một lý thuyết, một tư kiến lên người
học, mà luôn tôn trọng tự do tư duy nơi người học và luôn có sự tương tác, sự
liên hệ mật thiết giữa thầy và trò. Việc truyền dạy giáo lý không đơn thuần như
việc truyền dạy cho người nghe một số kiến thức rồi thôi, mà giáo lý phải luôn
luôn nhằm vào việc chuyển hoá trình trạng khổ đau của người nghe. Đây là phương
pháp dạy và học của phật giáo.
Giáo
dục Phật giáo không lập cước trên niềm tin mù quáng hay sự cuồng tín, để hình
thành những con người chỉ biết nhắm mắt tin và làm theo các tín điều được đặt
ra mà gieo rắc bao nỗi khổ đau cho những người khác. Cuồng tín và mê tín là một
trong những vấn nạn lớn nhất đối với các nhà giáo dục học và xã hội học trong
thời đại ngày nay, nhất là khi những tiến bộ khoa học kỹ thuật, khoa học quân
sự lại đi kèm với những con người đầy tham vọng mà cuồng tín điên đảo. Phật
giáo hoàn toàn chỉ trích lối truyền thụ cuồng tín. Trái lại, giáo dục phật giáo là tự do suy tư vì hạnh phúc của số
đông.[4]
Đem ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho nhận thức của mỗi người và làm tăng trưởng
lòng Từ Bi, đem lại niềm vui và chia sẻ làm vơi bớt nỗi khổ niềm đau của mọi
người và mọi loài.
Người được hưởng sự giáo dục của
Phật Giáo phải nói năng, hành động và suy nghĩ chỉ mang đến niềm hạnh phúc bình
an, sự tin cậy và chia sẻ, mà không gây tác hại và di hại đến với mọi người
cũng như vạn loại chúng sanh, kể cả môi trường nhiên giới cho thế hệ mai sau.
Người chịu sự giáo hóa của phật giáo phải làm cho
tâm Bồ đề lớn mạnh. Đó là tâm nguyện “trên cầu sự thành tựu trí tuệ tuyệt vời
của Phật, dưới giúp đỡ cứu độ chúng sanh,” hoài bão trau dồi trí tuệ, lấy việc
phụng sự chúng sanh là đích thực cúng dường chư Phật.
Người có
sự giáo dục của Phật Giáo phải lấy Thân giáo làm trọng, “tri hành hợp nhất.” Người Phật tử
phải nhớ rằng, không nên chỉ có mong muốn chia sẻ với mọi người bằng những hiểu
biết của mình về giáo pháp, kiến thức Phật học, mà ý thức rằng tự thân là bài
học sống động nhất cho sự thực hành giáo pháp đức Phật. Càng nỗ lực thanh tịnh
hoá thân tâm thì khả năng làm lợi ích cho chúng sanh càng nhiều. Nỗ lực thực hành
giáo pháp để tạo nên nguồn cảm hứng cho sự thực hành Phật pháp đối với nhiều
người.
Đạo Phật không chú trọng đến thần
thông biến hoá, các phép mầu mang tính siêu hình, các sự cầu đảo, chiêm tinh,
toán số, bói hỏi, phong thủy. Có khi đức Phật còn chỉ trích các đệ tử thực hành
thần thông và các thuật số trên, dù chỉ dùng như phương tiện. Bởi vì những
phương tiện này rất dễ bị lạm dụng và đưa cả người nghiên cứu vận dụng lẫn
người tin theo đó rơi vào hố sâu của sự sai lạc trong nhận thức và mê muội
trong tâm hồn. Cả đời ngài là sự thể hiện giáo hóa vĩ đại, không lợi dùng khả
năng phi thường của mình mà chú trọng đến "thần thông giáo hoá,"[5]
giáo dục. Chỉ có sự giáo hoá mới mong đem lại cho người những nhận thức đúng
đắn sáng tỏ nhằm làm cho họ trở về nhận diện được bản chất của chính mình và
thực hiện sự chuyển hoá thực sự từ bên trong.
Giáo dục phật giáo là một quá
trình khái phóng nội tâm toàn diện. Nó đánh thức tất cả những hạt giống tốt
lành, những hạt giống của Từ Bi, Trí Tuệ, An lạc, Hạnh phúc…, trong tâm thức
của mỗi chúng sanh. Sự thực hành đạo phật là tưới tẩm, chăm sóc cho những hạt
giống đó được phát triển liên tục hệt như người làm vườn chăm sóc khu vườn của
mình không để cho hoang dại mà sản sinh những hoa trái tốt lành lợi ích.
Do đó, Giáo dục phật giáo không
đơn thuần là sự truyền dạy lý thuyết. Nó là sự tìm tòi học hỏi, học hỏi từ các
bậc thầy, từ những người bạn, những người xung quanh thậm chí là từ những người
học trò, những người đối nghịch với quan điểm của chính mình dưới nhận thức
rằng ai cũng có tánh tuệ giác viên mãn tiềm ẩn chưa được khai mở và ai cũng có
thể là thầy của mình. Và sự học hỏi theo đạo phật, như thế, là con đường của sự
tìm về và khai mở những tuệ giác siêu việt trong chính bản thân mỗi người. Đó
chính là sự tự soi chiếu bản thân và truyền trao kiến thức, truyền cảm hứng cho
người nghe để thực hành theo những lời giáo huấn dựa trên những thực nghiệm của
người truyền dạy và người học. Nó thực sự thiết thực để phát triển, hoàn thiện
bản thân và đem lại sự phát triển tốt đẹp cho mọi người, cho xã hội mà cứu cánh
là sự đạt đến Giác ngộ và Giải thoát.
[1] E.F. Schumacher, Small is Beautiful, An Abacus book, Little Brown
& Company (UK), Limited, London, 1993, p. 77. Trích theo Thích chơn thiện, Giáo
Dục Phật Giáo Trong Thời Hiện Đại, nxb TP. Hồ Chí Minh, 2001, tr.63
[2] sđd, tr.64
[3] Trung A Hàm 60, số 221, Kinh Tiễn Dụ (Chú thích của Tuệ Sỹ, Tinh
Hoa Triết Học Phật Giáo, Ban Tu Thư Phật Học, PL. 2548-2004, tr. 63)
[4] Này các
Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có
tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin
vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời
hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất
từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này
các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này là bất thiện;
Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp
này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà,
hãy từ bỏ chúng! - Tăng Chi Bộ III.65, Kinh
Kàlàma, HT THích Minh Châu dịch
[5] Ba thứ
thần thông: Thần túc thần thông, tri tha tâm thần thông, giáo giới thần thông
(phương pháp giáo dục).
0 Kommentare:
Post a Comment