Vì sao
người tu Tịnh Độ đông như thế,
người vãng sanh ít như vậy? Có mâu thuẫn với [lời
nhận định của] Thiện Đạo đại
sư hay không? Thưa quý vị, không! Do nguyên nhân nào? Quý vị
tu hành chẳng đúng pháp, đúng lý! Lỗi tại quý vị,
chẳng phải do pháp môn, không do kinh điển.
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần
2
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
TẬP 03
Thưa chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem Đại Kinh Giải, hàng thứ hai từ
dưới đếm lên.
Chúng ta từ
“nhi kỳ trung chi Vô
Lượng Thọ Kinh giả, nãi Tịnh Độ quần
kinh chi thủ yếu, Tịnh Tông đại
đức thường xưng vi Tịnh Độ
đệ nhất kinh giả dã” (nhưng trong ấy,
kinh Vô Lượng Thọ chính là kinh đứng đầu,
chủ yếu trong các kinh Tịnh Độ; các bậc
đại đức trong Tịnh Tông thường gọi
kinh này là kinh Tịnh Độ bậc nhất). Trong phần
trước, tôi đã nói với quý vị, câu này là do lão
cư sĩ từ bi vô tận, trí huệ chân thật, vừa
mở đầu, trong đoạn ngắn thứ nhất
này, đã giới thiệu bộ kinh điển hy hữu
này với chúng ta. Trong đời này, chúng ta may mắn có thể
nghe, có thể đọc, có thể y giáo phụng hành, chúng
ta có thể nói giống như ông Bành Tế Thanh: “Một ngày hiếm có khó gặp từ
vô lượng kiếp đến nay”, ông ta nói nguyên
văn như thế. Một ngày như vậy quá khó có! Nói “một ngày” thì chúng ta phải
nắm chắc ngày ấy, ngày ấy không chỉ là vĩnh
viễn thoát ly luân hồi lục đạo, mà thưa cùng
quý vị, còn là vĩnh viễn thoát ly mười pháp giới.
Thoát ly lục đạo luân hồi, nhưng chưa thoát ly
mười pháp giới, do thoát ly mười pháp giới khá
khó khăn. Sau khi có được pháp môn này, sẽ thoát ly mười
pháp giới. Ở đây nói là “Tịnh
Độ quần kinh chi thủ yếu” (đứng
đầu, trọng yếu nhất trong các kinh Tịnh
Độ); theo tôi thấy, không chỉ là Tịnh Độ,
mà còn là đứng đầu, trọng yếu nhất
trong các kinh thuộc Đại Tạng Kinh! Quý vị đều
biết: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là kinh đứng
đầu, trọng yếu nhất của Bát Nhã bộ[1], chẳng dài, hai trăm sáu mươi chữ.
Đức Phật nói kinh Đại Bát Nhã suốt hai
mươi hai năm, hai mươi hai năm giảng những
gì? Tâm Kinh triển khai thành bộ Đại Bát Nhã sáu
trăm quyển, quy nạp lại, bèn thành hai trăm sáu
mươi chữ này, bất tăng, bất giảm; nhưng
Tịnh Độ Tông cũng có tâm kinh, tâm kinh là gì vậy?
Kinh cuối cùng trong Tịnh Độ Ngũ Kinh là do Ấn
Quang đại sư đề xuất, ghép vào sau Tịnh
Độ Tứ Kinh, trở thành Tịnh Độ Ngũ Kinh.
Tôi thấy cử chỉ này, kinh ngạc khôn cùng, thật sự
rất tuyệt, đấy chính là Đại Thế Chí Bồ
Tát Niệm Phật Viên Thông Chương trong kinh Lăng
Nghiêm. Kinh văn của chương này là bao nhiêu? Còn ít
hơn Bát Nhã Tâm Kinh, hai trăm bốn mươi bốn chữ.
Bát Nhã Tâm Kinh có hai trăm sáu mươi chữ; chương
này có hai trăm bốn mươi bốn chữ, là Tâm Kinh
của Tịnh Tông. Tịnh Tông là phần quan trọng hàng
đầu trong giáo pháp của cả Đại Tạng
Kinh. Nói cách khác, Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương
có thể nhiếp trọn vẹn hết thảy kinh giáo và
vô lượng pháp môn do thập phương tam thế hết
thảy Như Lai đã nói, thật đấy, chẳng giả
đâu! Viên Thông Chương dạy chúng ta: “Bất giả phương tiện tự đắc
tâm khai” (chẳng nhờ vào phương tiện, tâm tự
khai ngộ), “đô nhiếp lục
căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối) bèn thành công, bèn
viên mãn. Đây là chỗ chẳng thể nghĩ bàn trong Phật
pháp, trong một đời này chúng ta được gặp
gỡ, may mắn khôn sánh, phải giữ chắc. Nếu
chẳng giữ lấy, đáng tiếc quá! Quý vị luân hồi
trong lục đạo, ngày nào mới có thể gặp
được những thứ này?
Chúng ta lại
đọc tiếp, “chí ư Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác
Kinh giả, nãi tiên sư Hạ Liên Cư lão cư
sĩ, hội tập Vô Lượng Thọ Kinh, Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống, ngũ chủng nguyên dịch,
quảng hiệt tinh yếu, viên nhiếp chúng diệu,
hội thành kim kinh, hiện thôi vi Vô Lượng Thọ
Kinh chi thiện bổn giả dã” (Còn như Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang
Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh là do tiên
sư là lão cư sĩ Liên Cư, hội tập năm bản
dịch kinh Vô Lượng Thọ trong các đời Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống, chọn rộng rãi những
chỗ tinh yếu, thâu tóm trọn vẹn các chỗ hay, hội
tập thành bản kinh này, nay được tôn là bản
hoàn thiện nhất của kinh Vô Lượng Thọ). Chuyện
này không dễ dàng! Thầy của lão cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ là cụ Hạ Liên Cư, cụ Hoàng sanh trưởng
trong một gia đình tin Phật pháp, cậu của cụ
Hoàng là cư sĩ Mai Quang Hy. Trong thuở ấy, Phật
môn có câu “Nam Mai, Bắc Hạ”,
[nghĩa là] trong giới tại gia học Phật, ở phía
Nam, người bậc nhất là cụ Mai Quang Hy; ở
phương Bắc, người bậc nhất là cụ Hạ
Liên Cư. Câu “Nam Mai, Bắc Hạ”
chỉ hai vị đại đức này. Hai người
họ là đồng sự bao nhiêu năm, là đồng
tham đạo hữu, quan hệ vô cùng thân thiết. Hoàng Niệm
Tổ là cháu được gởi sang bên cụ Hạ, theo
cụ Hạ học Phật. Theo học hơn hai
mươi năm, trở thành truyền nhân, là đệ tử
truyền pháp của cụ Hạ, trong Phật môn chúng ta gọi
là “pháp tử”. Bộ kinh này
do lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập dựa trên
năm bản dịch gốc trong các đời Hán, Ngụy,
Ngô, Đường, Tống được bảo tồn
trong Đại Tạng Kinh. Nói về triều đại, Ngụy
là nhà Tào Ngụy[2] thuộc thời đại
Tam Quốc, triều Ngô cũng thuộc thời Tam Quốc.
Ngụy và Ngô đều thuộc thời đại Tam Quốc,
cùng với [các bản dịch thời] Đường và Tống,
tổng cộng là năm bản dịch gốc. Sự
phiên dịch này sẽ được nói trong phần sau. Với
kỹ thuật ấn loát phát triển hiện tại, tìm năm
bản dịch gốc chẳng khó khăn gì!
Đừng nói chi thời
cổ, ngay trong lúc tôi học Phật, tức sáu mươi
năm trước. Vào sáu mươi năm trước đây,
ấn loát vẫn dùng chữ đúc bằng kim loại
để sắp chữ, kể như đã tiến bộ
lắm rồi, nhưng vẫn chẳng sánh bằng lối
in bằng cách chụp ấn bản như hiện thời,
hết sức thuận tiện! Thuở ấy, thư tịch
cũng chẳng dễ gì tìm được, rất khó tìm
năm bản dịch này. Bản thường thấy nhất
là bản dịch đời Ngô, tức bản của ngài Khang
Tăng Khải[3];
kinh Vô Lượng Thọ chỉ có bản này lưu thông bên
ngoài nên [hành nhân Tịnh Độ] có thể đọc
được, bốn bản kia rất ít lưu truyền.
Chúng ta rất khó đọc được cả năm bản
dịch gốc, trừ phi tìm trong Đại Tạng Kinh,
chứ không có bản lưu thông riêng! Theo cổ đại
đức, năm bản dịch có nội dung sai khác rất
lớn, có những điều được bản dịch
này nói tới, bản dịch kia chẳng có. Do vậy, cổ
đại đức đã căn cứ trên chân tướng
sự thật này để phán đoán: Đúng là trong thuở
ấy, đức Thế Tôn đã nhiều lần tuyên giảng
kinh Vô Lượng Thọ, nên mới có tình hình này. Nếu chỉ
tuyên đọc một lần, người phiên dịch dẫu
nhiều, nói chung, [nội dung các bản dịch] sẽ là
đại đồng tiểu dị, chẳng sai biệt
rất lớn. Cách suy đoán này rất hợp với lý luận,
chúng ta thừa nhận cách suy đoán ấy chính xác. Nhiều
lần tuyên giảng, tỏ rõ pháp môn này trọng yếu. Thật
đấy! Đặc biệt là trong thời kỳ Mạt
Pháp, hết thảy chúng sanh có thể đắc độ
trong một đời, có thể nói là [chỉ có] pháp môn này.
Chúng ta có thể nói: Về sau, cụ Hoàng Niệm Tổ niệm
Phật vãng sanh. Lúc cụ bệnh nặng, đã cậy bạn
bè bảo cho tôi biết: Mỗi ngày cụ niệm Phật
mười bốn vạn tiếng, niệm Phật viên tịch.
Cụ là Kim Cang Thượng Sư bên Mật Tông, nhưng
chẳng tu Mật pháp, mà niệm Phật qua đời. Lão
cư sĩ Hạ Liên Cư cũng là Hiển Mật viên
dung, cuối cùng vãng sanh cũng là niệm Phật qua đời.
Những vị này đều là biểu diễn cho chúng ta
xem.
Hai câu kế
đó gồm tám chữ nhằm giới thiệu đơn
giản ưu điểm của bản hội tập này.
“Quảng hiệt tinh yếu” nghĩa
là toàn bộ những tinh hoa và phần khai thị quan trọng
nhất trong năm bản dịch gốc đều thuộc
trong bản hội tập này. Do vậy, chúng ta có thể
nói: Bản hội tập này là bản tổng hợp hoàn
chỉnh của năm bản dịch gốc, cụ Hạ
đã thực hiện công tác này. “Viên
nhiếp chúng diệu”, “viên”
(圓) là viên mãn, Lý, Sự tinh diệu nhất
trong năm bản dịch gốc đều được
gom vào bộ kinh này. “Hiện thôi vi Vô Lượng Thọ kinh chi thiện
bổn giả dã” (được đề cao là bản
kinh Vô Lượng Thọ hoàn thiện nhất), ai đề
cao? Lão cư sĩ Hạ Liên Cư rất khiêm hư, đương
nhiên cụ sẽ ngượng ngùng, chẳng tự nói. Quả
thật là so với ba bản hội tập trong quá khứ,
cả ba bản hội tập ấy đều có tỳ vết,
còn bản này chẳng tìm được một khuyết
điểm nào, khó có lắm! Người đề cao
đầu tiên là lão pháp sư Huệ Minh, tức vị thầy
quy y của cụ Hạ Liên Cư. Đây là một vị xuất
gia, là một vị lão pháp sư thông Tông lẫn thông Giáo, Hiển
Mật viên dung. Trong giới cư sĩ, người đầu
tiên đề cao là đại sĩ Mai Quang Hy. Bản này
truyền sang Đài Loan, cũng do một lão cư sĩ từ
Sơn Đông mang sang Đài Loan. Phía trước bản này
có một bài tựa rất dài; chư vị thấy trong bản
in hiện thời, bài ấy được in kèm vào phía sau
kinh. Thầy Lý thấy đây là lời tựa do thầy của
mình viết để giới thiệu, bèn hoan hỷ khôn
sánh! Khi đó, thầy Lý mới ngoài sáu mươi, đại
khái khoảng sáu mươi lăm tuổi, thấy bản
này, bèn giảng tại Đài Trung một lần. Bản
này vừa mới được hội tập xong,
được lưu thông với số ấn bản không
nhiều lắm, đại khái chỉ in ba ngàn bản, số
lượng không nhiều! Sau khi bản này ra đời, đương
nhiên chưa có ai viết chú giải. Về sau này, chỉ
nghe nói có pháp sư Từ Châu là một vị trưởng
lão bên Luật Tông, Sư là một vị đại đức
trong Phật môn vào đầu thời Dân Quốc, giảng
bản này một lần tại Sơn Đông, lại còn
viết khoa phán. Hoàng lão cư sĩ đã photocopy bản khoa
phán này tặng cho tôi một quyển; tôi dựa theo bản
khoa phán của Ngài, viết một bản khoa phán tỉ mỉ
hơn, tôi có bản khoa hội này. Bản này được
nhiều người tôn sùng như thế. Thầy Lý giảng
bộ kinh này, tự viết lời mi chú; đọc lời
mi chú của thầy, tôi có thể hiểu [nội dung của
kinh]. Cụ phân chia [kinh văn thành] từng đoạn, nêu
đại ý mỗi đoạn, đó chính là “khoa đề”
(tựa đề của từng khoa) nhằm nêu rõ nội
dung. Vì thế, lần đầu tôi giảng bộ kinh này
tại Mỹ, đã dựa theo lời mi chú của thầy.
Hình như đã giảng chừng hai ba lần rồi mới
gặp lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cụ tặng
tôi bản chú giải này. Trong phần trước, tôi
đã thưa cùng quý vị, cụ tặng tôi bản in bằng
ronéo, in trên giấy thường, chữ in trong ấy lờ
mờ, bản in như vậy đó. Khi ấy, cụ Hoàng
trở về Bắc Kinh, tôi bèn cậy người thỉnh
giáo lão nhân gia xem cụ có giữ bản quyền hay không. Nếu
cụ giữ bản quyền, chúng tôi rất tôn trọng cụ.
Nếu không giữ bản quyền, tôi chuẩn bị in
thành sách, chính thức lưu thông tại Đài Loan. Cụ
phúc đáp: “Không giữ bản quyền”, lại muốn
tôi viết lời tựa, muốn tôi ghi tựa đề
cho tác phẩm này[4]. Vì thế, chúng tôi in lần đầu một
vạn bộ tại Đài Loan, bản này bèn được
lưu thông tại hải ngoại.
Tịnh
Tông Học Hội do cụ Hạ đề xướng. Phật
pháp muốn hoằng dương trong xã hội hiện đại,
cần phải có chánh danh (danh xưng chính đáng) như
câu nói: “Danh bất chánh, tắc
ngôn bất thuận” (Danh chẳng chính đáng, chẳng
thể nói lọt tai). Trong quá khứ, vào thời cổ, đạo
tràng nhà Phật đều gọi là “tự viện, am, đường”, dùng danh
xưng này; người hiện thời thấy danh xưng
ấy bèn ngỡ là tôn giáo, cho là mê tín. Do vậy, cụ Hạ
đề ra “chánh danh”, “danh bất chánh, tắc ngôn bất
thuận” rất có lý; tôi nghe xong, hoan hỷ, hết sức
tán thành. Cụ nói: Đạo tràng là nơi đại chúng cùng
nhau tu hành, hãy nên gọi là Học Hội. Tịnh Độ
Tông thì Tịnh Tông Học Hội, Hoa Nghiêm Tông thì gọi là Hoa
Nghiêm Học Hội, [tông Thiên Thai dùng danh xưng] Thiên Thai Học
Hội, dùng chữ Học Hội. Cơ cấu giáo học
dùng chữ Học Viện, tuyệt lắm! Người ta
vừa nhìn, liền biết đây là cơ cấu giáo dục,
chẳng đến nỗi dính dáng mê tín, đề nghị
này hết sức hay! Nhưng sau khi đề ra, chưa từng
thiết lập trong nước, chẳng chính thức thành
lập. Vì thế, cụ Niệm Tổ dặn tôi hãy thành lập
tại hải ngoại: “Ông giảng kinh, hoằng pháp các
nơi, hy vọng ông có thể thành lập bộ môn Tịnh
Tông Học Hội ở các nơi”. Tịnh Tông Học Hội
đầu tiên được thành lập ở Vancouver là Gia
Nã Đại Tịnh Tông Học Hội, hiện thời vẫn
còn. Thứ hai là Mỹ Quốc Tịnh Tông Học Hội
được thành lập tại Sunnyvale, San Jose, California,
hiện vẫn còn tồn tại, do cư sĩ Dương
Nhất Hoa chủ trì. Sau đấy, tại Mỹ và Gia Nã
Đại, tôi thành lập tổng cộng hơn ba
mươi hội, chắc là hiện thời vẫn còn,
cũng có nơi chẳng còn. Tôi nghĩ là phải có mười
mấy hội tại Mỹ và Canada. Thành lập nhiều nhất
là ở Malaysia. Quốc gia Malaysia không lớn, nay sợ rằng
có hơn một trăm Tịnh Tông Học Hội, gần
tới hai trăm hội, nơi ấy có nhiều nhất!
Một nơi khác nữa là Âu Châu. Tôi biết ở Âu Châu, tại
các quốc gia chủ yếu, gần như đều có [học
hội], chẳng hạn như Anh, Pháp, Đức, Tây Ban
Nha đều có. Tại Úc Châu hình như có mười mấy
chỗ. Trên thực tế, Tịnh Tông Học Hội có tánh
chất không khác gì liên xã thuở xưa, chỉ là thay đổi
tên gọi. Học hội không có tổ chức, không có quyền
quản trị theo hàng dọc; cho nên nhân sự, kinh tế,
hành chánh [của các học hội] hoàn toàn độc lập.
Phàm là Tịnh Tông Học Hội,
chúng ta đều là đồng đạo, đồng môn
hữu nghị, quan hệ hữu nghị; các hoạt động
theo quy mô lớn khi được yêu cầu, chúng ta đều
góp sức, hỗ trợ hợp tác, không giống những
giáo hội thông thường! Họ có tổng hội, phân
hội, chúng ta không có! Chúng ta không có hội nào là tổng hội,
hay hội nào là phân hội, không có! Mỗi hội đều
lớn như nhau, đều là bậc nhất, không có bậc
nhì. Thuở đức Thế Tôn tại thế, dạy học
bốn mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
lập một tổ chức nào, thậm chí một trường
học cũng chẳng mở, cũng chẳng có lớp học
nào! Tinh thần này tốt đẹp, thật sự “thanh tịnh,
bình đẳng, giác”, chúng ta phải biết vĩnh viễn
gìn giữ, phát dương quang đại, hòng hoàn toàn
tương ứng với Tánh Đức. Đây là nói thêm về
lòng yêu thương của các vị lão nhân đối với
hậu thế, chỉ dạy chúng ta nên làm như thế
nào trong thời đại này.
Ấn Quang
đại sư nói càng hay hơn nữa. Tổ Ấn Quang
nói: Trong thời kỳ Mạt Pháp, cũng là nói trong thời
đại hiện tại này, đạo tràng không nên quá lớn,
đồng học chớ nên quá đông. Ngài dạy chúng ta:
Tốt nhất là đồng học đừng nhiều hơn
hai mươi người. Đúng thế, trong xã hội hiện
thời, cách này hay lắm, chi tiêu ít, hai ba vị hộ pháp
khá giả sẽ có thể chiếu cố
[đạo tràng]! Điều kiện đầu tiên của
người tu hành là: Thân an ổn, đạo mới
hưng thịnh. Quý vị muốn thân và tâm yên ổn, hết
thảy đều phải đơn giản hóa. Nếu đơn
giản, sẽ chẳng cầu cạnh ai, không sợ khổ.
Đức Phật dạy chúng ta hai điều kiện. Lúc
sắp viên tịch, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy các đệ
tử hai điều kiện từ nay trở đi:
- Thứ nhất
là phải trì giới, lấy Giới làm thầy.
- Thứ hai là lấy khổ làm thầy.
Quý vị không thể chịu
khổ, chẳng thể trì giới, sẽ chẳng đạt
được gì, [nếu có đạt được điều
gì], đó là giả, chẳng thật! Hai câu khai thị này
quan trọng hơn bất cứ điều gì khác, chúng ta có
làm được hay không? Vì lẽ gì người thuở
trước có thể làm được? Cuối đời
Thanh, đầu thời Dân Quốc, mọi người đều
có thể làm được, vì sao người hiện thời
không thể làm được? Tôi suy nghĩ vấn đề
này rất lâu, tôi đã tới rất nhiều nơi, gặp
rất nhiều bạn học Phật trong nhà Phật chúng
ta, kẻ tại gia không hành Thập Thiện Nghiệp, hàng
xuất gia không hành Sa Di Luật Nghi, chúng tôi cảm thấy
rất tiếc nuối. Chúng ta truy tìm nguyên nhân vì đâu? Truy
tới cuối cùng, tìm ra căn nguyên: Thiếu giáo dục!
Vào cuối
đời Thanh, đầu thời Dân Quốc, tức là
khoảng từ năm Dân Quốc 20 (1931) trở về
trước, tuy truyền thống văn hóa đã suy vi, ít
người nói tới, nhưng vẫn có người nhắc
tới, vẫn có người làm chuyện này, nên còn có cội
rễ! Cũng có thể nói là gia giáo[5] chưa hoàn toàn đoạn tuyệt, gia
giáo tại Trung Quốc là giáo dục tư thục. Quê chúng
tôi là đất văn hóa thịnh vượng vào thời
cổ, phái văn học Đồng Thành[6] thuộc quê hương chúng tôi, trong hai
thời Minh và Thanh đã xuất hiện rất nhiều
người tài năng. Tại nông thôn, trong các thôn trang, trẻ
nhỏ đều đi học, gần như không có trẻ
nhỏ thất học, trường học mở trong các
từ đường. Do có căn bản này, nên từ nhỏ
đã học biết quy củ, đọc các sách cổ, có
căn bản, tức là có căn bản về Nho học,
có căn bản đạo đức. “Đạo” [ở
đây] chính Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. Đạo
tràng phổ biến nhất của Đạo gia là miếu
Thành Hoàng, sự giáo dục quan trọng nhất trong ấy
là Thập Vương Điện, [tức điện thờ]
Thập Điện Diêm Vương, dạy điều gì? Dạy
nhân quả. Phụ nữ ở nông thôn mỗi năm đến
miếu Thành Hoàng dâng hương cũng phải bốn
năm lượt. Thuở nhỏ, tôi theo mẹ, khi đó,
hãy còn rất bé, độ năm sáu tuổi, tới miếu
Thành Hoàng thắp hương, cha mẹ có cơ hội giáo
dục, bảo chúng tôi: “Khởi tâm động niệm, lời
nói, việc làm, cử chỉ đều đừng nên phạm
tội. Phạm tội thì con thấy hình phạt là núi
đao, vạc dầu. Nói dối bị rút lưỡi”. Ấn
tượng này rất sâu, suốt đời cũng không thể quên! Lớn lên, khởi tâm động
niệm bèn nghĩ đến miếu Thành Hoàng, có những
chuyện quý vị chẳng dám làm. Cổ nhân Trung Quốc nói:
“Thiểu thành nhược thiên
tánh, tập quán thành tự nhiên” (Tập luyện từ
nhỏ sẽ trở thành tánh tình giống như bẩm
sinh, do thói quen trở thành tự nhiên). Giáo dục được
dưỡng thành từ nhỏ, sanh hiệu quả rất
lớn. Gặp chuyện, quý vị sẽ suy nghĩ xem chuyện
này có nên làm hay không, sau này còn có nhân quả ra sao, cho nên kinh sợ!
Vì vậy, học Phật, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện
rất dễ tiếp nhận, rất dễ làm được!
Hiện thời vì sao khó khăn dường ấy? Giáo dục
cơ sở truyền thống, giáo dục đặt nền
tảng căn bản đã bị vứt bỏ. Chúng ta
đánh nhau với Nhật Bản tám năm, [sự giáo dục
căn bản này bị bỏ mất], tôi cảm thấy tổn
thất khôn sánh. Sau này, chúng tôi dần dần tiếp xúc Phật
pháp, quay trở về truyền thống văn hóa, [nhận
biết] mối quan hệ giữa Nho, Thích và Đạo hết
sức mật thiết, vĩnh viễn chẳng có cách nào
tách rời! Sau khi tiếp xúc bèn hiểu rõ, [biết truyền
thống văn hóa] thật tốt đẹp! Trên khắp thế
giới không tìm đâu ra! Sau khi quý vị học rồi, mới
thật sự yêu thương đất nước, yêu
thương dân tộc, khắp thế giới không tìm
đâu ra được [nơi nào có mối quan hệ này].
....Nhiều
năm qua, chúng tôi tới nhiều quốc gia, qua lại với
người ngoại quốc, biết mình, biết người,
chúng ta hiểu ưu điểm lẫn nhược điểm
của họ. Họ biết nhược điểm của
người Trung Quốc, nhưng không biết ưu điểm,
trừ một số ít nghiên cứu văn hóa và lịch sử
Trung Quốc là hiểu được, không ai chẳng bội
phục. Đó là [truyền thống văn hóa giáo dục]
nhân tánh, họ bội phục. Như học giả Thang Ân
Tỷ (Arnold J. Toynbee) đã nói rành rẽ: “Giải quyết vấn đề xã hội trong thế
kỷ hai mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng
Mạnh và Đại Thừa Phật pháp”, người
Anh đã nói như thế đó. Đúng vậy, chẳng giả
tí nào! Tôi tham dự hội nghị hòa bình do Liên Hợp Quốc
chủ trì mười mấy lần; hiện thời, quốc
tế và xã hội quá rối ren, gần như đã tới
tình trạng không thể vãn hồi, làm thế nào đây? Do
vậy, khi tôi giảng diễn tại Kiếm Kiều
(Cambridge), đã hỏi các đồng học: “Người
Anh nói như thế đó, những thứ trong Nho gia và Đại
Thừa Phật pháp thật sự có thể giải quyết
vấn đề hay chăng?” Các đồng học cười,
không ai trả lời! Tôi lại hỏi: “Hóa ra tiến
sĩ Thang Ân Tỷ nói trật lất rồi sao?” Cũng chẳng
có ai nói gì! Cuối cùng, tôi nêu quan điểm của mình, tôi
nói: “Ông Thang Ân Tỷ nói không sai, đại khái là do chúng ta đã
đọc và hiểu sai!” Vì sao? Đối tượng nghe
tôi nói chuyện đều là sinh viên ngành Hán học, đều
nghiên cứu văn hóa truyền thống của Trung Quốc,
nghiên cứu rất nghiêm túc, chúng ta chẳng thể không bội
phục. Rất nhiều sinh viên thuộc lòng Luận Ngữ,
tôi không thuộc Luận Ngữ, hoàn toàn thua họ. Họ
dùng kinh điển Nho gia hay kinh Phật để viết luận
án Tiến Sĩ. Trong đó, có một sinh viên cho tôi biết
anh ta dùng kinh Vô Lượng Thọ để viết luận
án Tiến Sĩ. Tôi nói: “Kinh Vô Lượng Thọ có chín phiên
bản khác nhau, anh dùng bản nào?” Anh ta dùng bản hội tập
của cụ Hạ Liên Cư, cùng một bản như chúng
ta đang học. Tôi nói: “Ngày hôm nay chúng tôi nhắc tới Khổng
Mạnh, ngay lập tức quý vị nghĩ đến Tứ
Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, nghĩ đến những
sách ấy. Nói đến Đại Thừa Phật học,
nhất định sẽ nghĩ đến Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, Bát Nhã. Những kinh điển Đại Thừa ấy
đối với các vị rất quen thuộc, chúng có thể
giải quyết vấn đề xã hội trong hiện tại
hay không?” Không ai dám nói gì. Tôi bảo họ, [nghĩ như vậy]
là hiểu lầm!
Nhắc
tới văn hóa truyền thống của Trung Quốc, quý
vị đều nghĩ tới những sách vở mang tánh
chất đại biểu, không sai! Tứ Thư, Ngũ Kinh,
mười ba kinh là đại biểu cho Nho gia. Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, Bát Nhã, Pháp Tướng là đại biểu của Đại
Thừa Phật pháp, đúng vậy. Những thứ ấy
là hoa quả, thật đẹp, thật ưa nhìn, hoa quả
từ đâu ra? Mọc trên cành nhánh. Cành nhánh do đâu mà có? Cành
nhánh có cội rễ; cội rễ là gì? Cội rễ của
Phật pháp là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo chẳng dài; trong kinh, đức
Phật đã giảng rất rõ ràng: Thập Thiện Nghiệp
Đạo giống như đại địa, cây cối,
hoa, cỏ, đều sanh từ mặt đất. Như
vậy mới là đã tìm được cội rễ. Đức
Phật dùng điều này làm tỷ dụ. Pháp nhân thiên, Thanh
Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, cho đến
Vô Thượng Bồ Đề, đều sanh từ
đại địa này, tìm được cội rễ rồi.
Cội rễ của Khổng Mạnh là gì? Cội rễ của
Khổng Mạnh là Đệ Tử Quy. Cội rễ của
Đạo Giáo là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên; ba thứ
này không ai nghĩ đến! Những thứ này có thể
sanh ra Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, có thể
sanh ra hết thảy các pháp Đại Thừa, sanh từ
đây. Quý vị tìm những thứ này, học từ đây,
hạ công phu là được, thật sự cứu được.
Để cứu xã hội hiện thời, ba loại cội
rễ này sẽ hữu dụng.
Hiện
thời, chúng tôi nghĩ tai nạn rất nhiều, trong kinh
luận, đức Phật đã dạy chúng ta: Nếu một
địa phương có đạo tràng, một đạo
tràng thật sự, chẳng giả. Đạo tràng thật
sự là gì? Là Lục Hòa Kính. Quý vị thấy khi chúng ta thọ
trì Tam Quy, “quy y Tăng, chúng
trung tôn”, phải đọc lời thề này, câu này có
nghĩa là gì? Tăng là tăng đoàn, là đoàn thể. Đoàn
thể như thế nào sẽ được gọi là Tăng
đoàn? Tăng đoàn không nhất định là người
xuất gia! Mọi người học Phật nhất
định phải hiểu rõ điều này. Từ bốn
người trở lên, sống cùng một chỗ, đều
tu Lục Hòa Kính thì gọi là Tăng đoàn, hay Hòa Hợp Chúng.
“Chúng” (眾) là từ bốn người trở
lên, người Trung Quốc gọi ba người là “chúng”,
nhưng trong Phật pháp, bốn người gọi là “chúng”.
Bốn người ấy nếu là gia đình của quý vị,
gia đình quý vị có bốn người, trong gia đình tu
Lục Hòa Kính thì gia đình quý vị là Tăng Đoàn.
Tăng Đoàn sanh ra hiệu quả gì? Thập
phương chư Phật hộ niệm, hết thảy long
thiên thiện thần ủng hộ. Nơi nào có đoàn thể
này, nơi ấy không có tai nạn, thật đấy, chẳng
giả đâu! Do vậy, “Tăng” không phải chỉ riêng người
xuất gia! Chư vị phải biết: Xuất gia và tại
gia đều như nhau, bốn người cùng tu hành một
chỗ [là Tăng đoàn]. Lục Hòa Kính là gì? Chúng ta cũng
treo những điều này phía ngoài lầu mười, quý
vị vào đó sẽ thấy: “Kiến
hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng
trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi
hòa đồng quân”, sáu điều ấy. Phải làm thế
nào mới có thể thực hiện những điều ấy?
Thưa quý vị, thực hiện ba món căn bản [của
Nho, Thích, Đạo như đã nói trên], sẽ thực hiện
được [Lục Hòa Kính]. Nếu trong đoàn thể
nhỏ này, chúng ta thực hiện Đệ Tử Quy, thực
hành Cảm Ứng Thiên, thực hành Thập Thiện Nghiệp,
sẽ là Tăng đoàn hòa hợp. Đoàn thể nhỏ
này có số lượng từ bốn người trở
lên; nếu nhiều thì chẳng hạn chế số lượng,
tu hành trong đạo tràng này, đạo tràng này được
thập phương chư Phật hộ niệm, tất
cả long thiên thiện thần phù hộ. Có đạo
tràng như vậy hay không? Tôi học Phật năm
mươi chín năm rồi mà chưa hề thấy! Không
chỉ là chưa thấy, mà cũng chưa nghe nói tới! Tôi
chỉ nghe nói hai người xuất gia ở cùng một
chỗ hằng ngày đều cãi nhau, đau buồn thay! Hiện
nay lắm tai nạn như thế, nếu
xuất hiện một Tăng đoàn như vậy, Hương
Cảng có một Tăng đoàn như vậy xuất
hiện, cả khu Hương Cảng này sẽ chẳng có
tai nạn. Quý vị có chịu phát tâm hay không? Chúng tôi đề
nghị: Người thật sự phát tâm hãy ghi danh, ký tên.
Trước đó, phải suy nghĩ cẩn thận, thật
sự thực hiện. Nếu không làm, đừng bỡn
cợt. Đùa bỡn tội rất nặng. Chúng ta chẳng
thể đòi hỏi người khác, phải từ chính
mình làm, từ bản thân làm, làm từ đạo tràng nhỏ
này của chúng ta. Tôn trọng đạo tràng của người
khác, quyết định chẳng phê bình, quyết định
không can thiệp, quyết định chẳng nói người
khác là sai, hết thảy hãy từ chính mình mà làm, từ đạo
tràng nhỏ của chúng ta mà làm. Hãy xem đạo tràng nhỏ
của chúng ta có ai ghi tên hay không? Có người phát tâm thật
sự làm hay không? Tai nạn lắm như vậy, làm thế
nào để cứu khu vực Hương Cảng? [Nếu]
Hương Cảng không có tai nạn, tôi tin tưởng vùng
duyên hải Trung Quốc sẽ không có tai nạn. Hướng
ra ngoài, từ Nhật Bản, Hàn Quốc tới Đài Loan,
Phi Luật Tân, dưới là đến Việt Nam, những
khu vực này cũng chẳng có tai nạn, quý vị nói xem:
Công đức này nhiều lắm! Hoàn toàn do chính mình có chịu
phát tâm hay không, chịu thật sự làm hay không? Lão cư
sĩ Hạ Liên Cư suốt đời thường nói hai
chữ này, “chân cán” (thật
sự làm).
Thật
sự thực hành ba thứ căn bản ấy, chúng ta quy
y kinh Vô Lượng Thọ. Quy (皈) là quay đầu, Y (依) là dựa vào, dựa vào đạo lý được
giảng trong kinh Vô Lượng Thọ, nương theo phương
pháp giảng trong kinh Vô Lượng Thọ, nghiêm túc tu hành,
không ai chẳng sanh Tịnh Độ. Sanh vào Tịnh Độ
là thành Phật trong một đời. Nói cách khác, quý vị
thành Phật trong đời này, công đức viên mãn;
nhưng quý vị phải ghi nhớ: Muốn thật sự
viên mãn, ba món căn bản này rất trọng yếu. Có
người cho tôi biết dường như người
chẳng có ba căn bản này, nghe nói cũng vãng sanh, có tình
hình này hay không? Có! Nhưng ba căn bản của người
ấy chẳng lộ rõ! Người ấy có hay không? Chắc
chắn là có; nếu không, làm sao có thể vãng sanh, đâu có
lẽ này? Nói tới một bà cụ già niệm Phật
vãng sanh, suốt đời cũng chưa hề học Phật,
cũng chẳng hề học Đạo, mà cũng chẳng
hề học Nho, chuyện gì cũng chẳng biết. Quý vị
lấy tiêu chuẩn của Đệ Tử Quy để
xem xét, bà cụ có phạm một điều nào hay chăng?
Quý vị nghiêm túc kiểm tra, bà cụ chẳng phạm một
điều nào, tuy chưa từng học! Thập Thiện
Nghiệp chưa hề học, nhưng người này đúng
là thiện nhân, trọn đủ! Quý vị quan sát cẩn
thận, mới phát hiện: Người vãng sanh, người
niệm Phật vãng sanh, bất luận có học hay không, biết
chữ hay không, đều là người rất có đức
hạnh, đều thật sự là thiện nhân mới có
thể vãng sanh. Kẻ tâm hạnh chẳng lành, lắm
mưu mô, rất khó vãng sanh. Vì sao? Quý vị chẳng thể
đến thế giới Cực Lạc là nơi chư
thượng thiện nhân hội họp. Quý vị vẫn
dấy lòng tính toán, làm sao có thể vãng sanh cho được?
Quý vị khởi tâm động niệm, Phật, Bồ
Tát biết ngay, chư thượng thiện nhân ai nấy đều
biết. Thật à? Thật đấy! Sách Hoàn Nguyên Quán dạy
chúng ta thế này: Trong tâm của hết thảy chúng sanh vừa
mới dấy một niệm, niệm ấy bèn trọn khắp
pháp giới. Tốc độ quá nhanh, xứng tánh, nhưng
bản thân chúng ta không biết! Bất luận niệm gì,
chỉ cần niệm vừa dấy lên, sẽ có ba thứ
trọn khắp:
- Thứ nhất là tin
tức này trọn khắp pháp giới.
- Thứ hai là xuất
sanh vô tận.
- Thứ ba là chứa
đựng cả Không lẫn Có.
Trong một niệm bèn
có ba thứ trọn khắp. Quý vị không có cách nào tưởng
tượng phạm vi trọn khắp ấy, người
Trung Quốc có hai câu nói hình dung hết sức hay: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ
tiểu vô nội” (không có gì lớn mà ra ngoài, không có gì nhỏ
mà chẳng lọt vào trong). Hai câu này rất nhiều người
nghe đã quen tai, cũng đều có thể nói, nhưng
trên thực tế, rất khó nói rõ ý nghĩa! “Kỳ đại vô ngoại”
là không có ngằn mé, nhưng “kỳ
tiểu vô nội” khó hiểu! Kinh Hoa Nghiêm đã giảng
rất hay, thế nào là “vô nội?”
Trong một hạt vi trần có thế giới, thế giới
như thế nào? To như thế giới bên ngoài! Trong vi trần
có thế giới, thế giới trọn chẳng rút nhỏ,
vi trần chẳng phình to, vẫn như vậy, chẳng lớn
hay nhỏ! Thế giới trong vi trần lại có vi trần,
trong vi trần lại có thế giới, trùng trùng vô tận,
gọi là “kỳ tiểu vô nội”.
Quý vị truy tìm đến tột cùng được
chăng? Tìm không được, cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn! Đức Phật chẳng nói dối, vì
sao? Quý vị kiến tánh sẽ thấy được, bèn
hiểu rõ. Quý vị chưa kiến tánh, nghĩ cách nào
cũng nghĩ không ra, đều chẳng thể tư duy
được! Do vậy, gọi là chẳng thể
nghĩ bàn, [tức là] chẳng thể nghĩ, chẳng thể
tưởng, cũng chẳng có cách nào bàn luận, xứng tánh
mà! Thứ gì chẳng xứng tánh? Thứ nào cũng đều
xứng tánh, chỉ là do chúng ta mê, nên bất giác!
Ở
đây nói tới bản hay nhất, bản tiêu chuẩn tốt
nhất, trong bản này không có chữ sai. Sợ nhất là sách
bị sai chữ, trong bản này không có chữ sai, đó
chính là bản tốt nhất. Nghĩa lý chẳng bị khiếm
khuyết, lớp lang hoàn chỉnh, phương pháp tinh tế.
Chiếu theo lý luận và phương pháp này tu hành, quý vị
có thể đạt được lợi ích chân thật.
Lợi ích chân thật quan trọng nhất là: Quý vị liễu
giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, buông
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống,
liền khế nhập cảnh giới, đó gọi là “liễu nghĩa rốt ráo”. Chúng
ta thường gọi khế nhập cảnh giới là “chứng quả” hay “thành Phật”, có ý nghĩa
như vậy!
Chúng ta xem
câu tiếp theo. “Vô Lượng
Thọ kinh nãi Tịnh Tông chi tổng cương” (kinh Vô
Lượng Thọ là tổng cương lãnh của Tịnh
Tông): “Cương” (綱) là cương lãnh, [tổng
cương] là tổng cương lãnh; do vậy, được
gọi là “Tịnh Tông đệ
nhất kinh”. Kinh Tịnh Tông không nhiều lắm. Trong tất
cả các tông phái, chỉ có Tịnh Độ Tông là kinh
điển ít nhất, chỉ có ba bộ kinh, một bộ
luận, đó là [nói về] lúc xưa. Ba bộ kinh, thứ
nhất là kinh Vô Lượng Thọ, thứ nhì là Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh, còn gọi là Thập Lục Quán Kinh, thứ
ba là A Di Đà Kinh, phân lượng đều rất ít; một
luận là Vãng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát, tam kinh
nhất luận! Một luận chính là báo cáo tâm đắc
về việc tu Tịnh Độ, vãng sanh thế giới
Cực Lạc của Thiên Thân Bồ Tát để chúng ta
tham khảo. Hiện thời thì sao? Hiện thời là
ngũ kinh nhất luận, ngũ kinh do đâu mà có? Ba kinh
là do Phật nói, ngũ kinh là trong niên hiệu Hàm Phong nhà
Thanh; vợ vua Hàm Phong là Từ Hy Thái Hậu mọi người
đều biết, nói đến Hàm Phong thì chẳng mấy
ai biết đến! Nói Từ Hy Thái Hậu rất nhiều
người biết, chồng Từ Hi Thái Hậu là Hàm Phong.
Trong niên hiệu Hàm Phong, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm, trong
phần sau sẽ giới thiệu, vị lão cư sĩ này
cũng rất giỏi, đem quyển cuối cùng của
kinh Hoa Nghiêm, không phải là một phẩm, quyển cuối
cùng [của kinh Hoa Nghiêm] là mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc, đem quyển cuối cùng này của kinh Hoa
Nghiêm, tức là rút ra một chương trong một phẩm
này, ghép vào sau Tịnh Độ Tam Kinh, trở thành Tịnh
Độ Tứ Kinh. Do vậy, nếu sau này, quý vị thấy
trong Phật môn có Tịnh Độ Tứ Kinh, quý vị biết
đó là do ông Ngụy Mặc Thâm thêm vào. Thêm hay lắm! Vì
sao thêm vào rất hay? Trong kinh Vô Lượng Thọ, đặc
biệt là trong bản hội tập của cụ Hạ, chúng
ta thấy phẩm thứ hai là Đức Tuân Phổ Hiền,
một chương ấy. Quả thật kinh Hoa Nghiêm
đến cuối cùng trở về Tịnh Độ, trở
về kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy, ông ta thêm thiên ấy
vào hay lắm. Đó là Tịnh Độ Tứ Kinh.
Ngũ
kinh là do Ấn Quang đại sư [đề xướng],
vị này thuộc thời cận đại, Ấn Quang
đại sư cách chúng ta không xa, năm Dân Quốc hai
mươi mấy Ngài mới vãng sanh[7]
trong thời gian Kháng Chiến. Ngài đem chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương
trong phần Hai Mươi Lăm Pháp Viên Thông của kinh Lăng
Nghiêm, đem đoạn kinh văn ngắn này ghép vào sau Tịnh
Độ Tứ Kinh, biến thành Tịnh Độ Ngũ
Kinh. Cách làm này chẳng thể nghĩ bàn! Tịnh Độ
có cần thêm kinh điển nào khác nữa hay không? Không cần!
Đến đây là đã viên mãn. Vì sao? Hai trăm bốn
mươi bốn chữ, tôi đã nói với quý vị, đó
là Tâm Kinh của Tịnh Độ Tông, mà cũng là Tâm Kinh của
toàn bộ giáo pháp trong Đại Tạng Kinh. Đấy
cũng là như Thiện Đạo đại sư lão
nhân gia thường nói: “Chư
Phật sở dĩ xuất hiện trong thế gian chỉ
vì để nói biển bổn nguyện của Phật Di
Đà”. Cách làm này của Ấn Quang đại sư
đã khiến cho chúng ta hoàn toàn hiểu rõ câu nói ấy của
Thiện Đạo đại sư. Phương pháp bậc
nhất của hết thảy chư Phật ứng hóa trong
mười pháp giới, phổ độ chúng sanh trong
mười pháp giới của hết thảy các cõi Phật
là gì? Là trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
thích hợp khắp ba căn, gồm thâu độn căn
lẫn lợi căn, đó là pháp môn tuyệt diệu! Cực
đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng,
ai cũng có thể tu, ai cũng đều có thể thành tựu.
Thiện Đạo đại sư nói pháp môn này “vạn tu, vạn người đến”,
chẳng sót một ai!
Vì sao
người tu Tịnh Độ đông như thế,
người vãng sanh ít như vậy? Có mâu thuẫn với [lời
nhận định của] Thiện Đạo đại
sư hay không? Thưa quý vị, không! Do nguyên nhân nào? Quý vị
tu hành chẳng đúng pháp, đúng lý! Lỗi tại quý vị,
chẳng phải do pháp môn, không do kinh điển. Nếu quý
vị tu đúng pháp, đúng lý, thật sự là “vạn người tu, vạn người
đến” chẳng sót một ai! Kinh Di Đà đã dạy
rất rõ ràng: “Không thể dùng
chút thiện căn, phước đức, nhân duyên để
sanh về cõi ấy”. Thiện căn là gì? Phước
đức là gì? Nhân duyên là gì? Nay chúng ta trọn đủ
nhân duyên, được làm thân người là nhân duyên, gặp Phật pháp là nhân duyên, gặp Đại
Thừa là nhân duyên, gặp kinh Hoa Nghiêm, gặp Tịnh
Độ là nhân duyên phi phàm, duyên trọn đủ. Vấn
đề ở đâu? Thiện căn, phước đức.
Thiện căn là gì? Tín giải. Quý vị có thật sự
tin tưởng hay không? Đối với pháp này, quý vị
còn có vấn đề nào hay không? Nếu còn có hoài nghi, thiện
căn của quý vị có vấn đề. Quý vị có hiểu
rõ đạo lý Tịnh Tông hay không? Không thấu triệt,
hiểu rõ; hiểu rõ sẽ giúp quý vị tin tưởng. Sở
dĩ quý vị có hoài nghi là do chưa lý giải thấu triệt.
Thật sự hiểu rõ, minh bạch, sẽ chẳng hoài
nghi. Quý vị có tín giải, tín giải là thiện căn.
Phước đức là gì? Thật sự hành! Người
thật sự hành có phước đức. Quý vị chẳng
thật sự hành, vẫn chưa buông thế gian này xuống
được, còn lưu luyến, vậy là xong luôn! Quý vị
cũng rất khó thành tựu. Vì thế, kinh không có khuyết
điểm, lý luận và phương pháp đều không có
khuyết điểm. Khuyết điểm là do phiền
não và tập khí của chính mình. Nếu buông những thứ
ấy xuống, chắc chắn quý vị đạt
được Tịnh Độ ngay trong một đời
này!
Tiếp đó,
cụ Hoàng Niệm Tổ trích dẫn lời ông Bành Thiệu
Thăng (Bành Tế Thanh): “Ngã quốc
Thanh đại Bành Thiệu Thăng cư sĩ tán viết:
Vô Lượng Thọ kinh giả, Như Lai xứng tánh chi Viên
Giáo, chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi” (vào đời Thanh,
cư sĩ Bành Thiệu Tăng của nước ta đã
ca ngợi: “Kinh Vô Lượng Thọ là Viên Giáo xứng tánh
của Như Lai, là cơ nghi hóa độ chúng sanh sẵn
có”). Mấy câu này hết sức quan trọng! “Như Lai” là những vị minh
tâm kiến tánh trong mười phương, đó là chư
Phật Như Lai. Kinh Vô Lượng Thọ là lời bàn luận
xứng tánh, từng câu, từng chữ đều từ tự
tánh lưu lộ, từng câu, từng chữ đều
viên mãn, nên gọi là Viên Giáo. Tự tánh của hết thảy
chư Phật Như Lai và tự tánh của hết thảy
chúng sanh là một tánh, chẳng phải hai tánh. Do vậy, trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Phật nói đến
tự tánh thường thường dùng biển làm tỷ
dụ, [chẳng hạn như] “tánh
hải”. Mỗi một chúng sanh khác nhau giống như một
bọt nước trong biển cả, bọt nước
do đâu mà sanh ra? Từ biển sanh ra. Từng bọt
nước nếu không bị vỡ tan, dường
như có đối lập. Chỗ này là một bọt, chỗ
kia là một bọt khác. Sau khi bọt nước vỡ
tan, tất cả đều là biển cả. Người
thông minh chẳng cần chờ [đến lúc] bọt nước
vỡ, toàn là nước biển, mỗi bọt nước
đều là nước biển, nước biển là tự
tánh. Do vậy, trong kinh, đức Phật thường nói:
“Thập phương tam thế
Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất
trí huệ, lực, vô úy diệc nhiên” (mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân,
một tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế),
không có gì chẳng giống nhau, vì sao? Quý vị chẳng lìa
tự tánh. Câu này đã đem Thật Tướng của
các pháp nói huỵch toẹt trong một lời, chúng ta và hết
thảy chúng sanh có quan hệ gì? Một Thể, một tự
tánh! Quý vị nói xem: Quan hệ này có mật thiết lắm
hay không? Vì sao có sai biệt nhiều như thế? Do mê hay ngộ
khác nhau! Ngộ bèn biết chúng ta là một Thể, còn thân
thiết hơn người một nhà, một Thể mà!
Khi mê mới chia ra ta, ra người, mới có phân biệt,
mới có chấp trước, mới tạo nghiệp, mới
chuốc lấy những quả báo oan uổng. Oan uổng
luân hồi trong lục đạo, là cảnh giới trong mộng,
chúng chẳng thật. Thật sự tham thấu thì giấc
mộng ấy cũng chẳng rời khỏi tự tánh. Do
vậy, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
chẳng lìa tự tánh, đều do tự tánh hiện.
Do vậy,
ông ta (Bành Tế Thanh) nói: “Chúng
sanh bổn cụ chi hóa nghi”, nay ta gọi “nghi” (儀) là phương thức hay hình thức.
Nay chúng ta dạy bảo học trò, dùng hình thức như
thế nào. Nay chúng ta biết: Đối với trẻ nhỏ,
trẻ thơ, chúng ta lập ra vườn trẻ, mở
trường Tiểu Học, tùy theo độ tuổi của
chúng, rồi lại mở trường Trung Học, mở
Đại Học, rất giống phương thức ấy.
Đó gọi là “hóa nghi”. Trừ
hóa nghi ra, còn có “hóa pháp”, “pháp” là phương pháp dạy
học. Chúng sanh căn tánh khác nhau; đối với
căn tánh khác nhau, dùng phương pháp gì để dạy
họ? Vì thế, nhà Phật nói tới hóa nghi và hóa pháp. Thích
Ca Mâu Ni Phật bốn mươi chín năm
dạy học trò, xét theo phương diện hóa nghi:
Trước hết, sau khi khai ngộ, Ngài giảng A Hàm
mười hai năm. A Hàm giống như Tiểu Học của
Phật giáo, giảng điều gì? Giảng pháp nhân thiên,
giảng cách làm người như thế nào, cũng
như ngày nay chúng ta nói là giảng luân lý, giảng đạo
đức, giảng nhân quả. Trong kinh A Hàm, những thứ
giáo học này rất nhiều, chú trọng những điều
đó. Đến thời kỳ Đại Thừa, dần
dần thảo luận vũ trụ và nhân sinh, nay chúng ta gọi
là Triết Học và khoa học, đều giảng đến
viên mãn rốt ráo. Vũ trụ do đâu mà có? Vạn pháp từ
đâu ra? Ta từ đâu đến? Giảng thật rõ
ràng, minh bạch, quả thật chẳng dễ dàng! Cho tới
hiện thời, bao nhiêu khoa học gia, triết học gia,
tôn giáo gia trên thế giới đang nghiên cứu vấn
đề này, đều chẳng tìm được câu trả
lời, vẫn là có những vấn đề tồn đọng,
chỉ riêng Đại Thừa Phật pháp giảng rõ ràng,
giảng minh bạch, chẳng có nghi hoặc!
Bởi lẽ,
thuở ấy tôi học Triết Học, Phương tiên
sinh giảng Triết Học trong kinh Phật cho tôi nghe, cụ
bảo tôi, theo cách nhìn của cụ: “Thích Ca Mâu Ni Phật là triết gia vĩ đại
nhất trên thế giới; kinh Phật là đỉnh cao nhất
của Triết Học trên cả thế giới”. Đây
là nguyên văn lời cụ nói, cụ bảo tôi như thế
này: “Học Phật là hưởng
thụ tối cao trong đời người”, cụ dẫn
tôi tiến vào Phật môn. Lại còn đặc biệt bảo
tôi, câu nói này rất trọng yếu. Nếu không, tôi sẽ
mê hoặc, sẽ hoài nghi, sẽ nhìn những kẻ học
Phật học như thế nào, chân tướng có đúng
như Phương tiên sinh nói hay chăng? Vì thế, câu nói
sau đây của Phương tiên sinh quan trọng lắm, cụ
bảo: “Triết Học trong
kinh Phật ở trong kinh điển, không ở trong chùa
chiền”! Câu này hết sức trọng yếu. Vì sao không
ở trong chùa chiền? Người trong chùa chẳng học!
Xưa kia, cổ đại đức trong chùa chiền thật
sự rất phi phàm, vì sao? Họ học thật sự. Nay
thì sao? Người xuất gia trong chùa chiền hiện thời
chẳng học, biến [Phật giáo] thành tôn giáo. Xuất
gia để làm gì? Xuất gia để giao tiếp quỷ
thần, lo siêu độ, làm Phật sự, pháp hội, làm
những chuyện này. Những chuyện này có cần phải
làm hay không? Cần chứ! Nhưng phải nên làm như thế
nào? Vào trong quỷ đạo để làm, còn trong nhân
đạo hãy lo dạy con người. Quỷ đạo có
hay không? Có! Phật, Bồ Tát ở trong quỷ đạo;
quý vị thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát:
“Địa ngục bất không,
thệ bất thành Phật” (Địa ngục chẳng
trống, thề chẳng thành Phật). Quý vị thấy
làm lễ Diệm Khẩu, Tiêu Diện Đại Sĩ
đối diện với Diệm Khẩu là ai? Là Quán Thế
Âm Bồ Tát, hiện thân quỷ trong quỷ đạo
để độ quỷ đạo. Nên hiện thân gì
để đắc độ, bèn hiện thân ấy, thân đang
ở trong nhân gian thì phải dạy con người, sao lại
dùng thân người để dạy quỷ? Đâu có lẽ
ấy! Dùng thân quỷ cũng chẳng thể dạy
người.
Do vậy,
Phật, Bồ Tát ứng hóa chẳng thể nghĩ bàn, nên
dùng thân gì để đắc độ bèn hiện thân ấy,
nên dạy họ điều gì sẽ dạy họ điều
ấy! Phải biết điều này không do chính các Ngài quyết
định, mà do người ấy cảm, Phật bèn ứng,
tự nhiên cảm ứng đạo giao. Giống như tiến
sĩ Giang Bổn Thắng (Masaru Emoto) của Nhật Bản làm
thí nghiệm với nước, chúng ta dùng thiện tâm để
cảm, quý vị thấy nước đáp ứng bằng
kết tinh đẹp nhất. Chúng ta dùng ác niệm để
cảm, nó đáp ứng bằng hình thái rất khó coi. Chư Phật, Bồ Tát đối
với tất cả chúng sanh cũng như vậy! Họ
dấy lên niệm gì để cảm các Ngài, các Ngài bèn ứng
như thế. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế
gian, tuyệt đối chẳng có cách suy tưởng hay
nghĩ ngợi nào. Nếu có cách suy tưởng hay nghĩ
ngợi, sẽ là phàm phu. Phàm phu mới có cách suy tưởng
và nghĩ ngợi, Pháp Thân Bồ Tát là bậc kiến tánh, chắc
chắn không có, vì sao? Kiến tánh thì điều kiện
đầu tiên là đoạn trừ khởi tâm động
niệm. Không khởi tâm, chẳng động niệm, còn
có cách suy tưởng hay cách nhìn gì nữa đây? Không có!
Đó gọi là “thanh tịnh,
bình đẳng, giác”. Do vậy, chúng sanh có tâm cảm, Phật
vô tâm ứng, nên gọi là “xứng
tánh”, tự tánh tự nhiên sẽ có ứng. Vì thế,
chúng ta phải hiểu ý nghĩa hóa nghi và hóa pháp này. Nói thông
thường, trong khi học tập, chúng ta cũng thường
nói “hóa ác thành lành”. Nay chúng ta
giúp đỡ người khác, bước đầu tiên
là dạy kẻ ấy, giúp kẻ ấy sửa đổi.
“Hóa” (化) ở đây là biến hóa khí chất,
là giáo học nói theo mặt quả. Mục tiêu cuối cùng
của giáo học là biến hóa khí chất của người
được dạy. Nói cụ thể, biến hóa ác niệm,
lời nói ác và hành vi ác thành thiện niệm, thiện hạnh,
tức là chúng ta dạy học thành công! Đấy là bước
đầu tiên. Tiến thêm bước nữa, chính là hóa mê
thành ngộ, đấy mới thật sự là Phật
pháp. Hóa ác thành thiện là thế gian pháp, hóa mê thành ngộ mới
có thể xuất thế gian, thật sự giác ngộ. Cuối
cùng là hóa phàm thành thánh, tiến lên cao hơn từng bước
một!
Xét về
phần tài liệu, có thể nói là Hoàng lão cư sĩ rất
dụng tâm, hết sức phong phú, tận tâm tận lực
sưu tập. Tiếp theo đó, cụ trích dẫn lời
pháp sư Đạo Ẩn của Nhật Bản tán thán kinh
Vô Lượng Thọ: “Như
Lai hưng thế chi chánh thuyết” (là chánh thuyết do
đức Như Lai xuất hiện trong cõi đời [nhằm
nói ra]), “hưng” (興) là hưng khởi (興起), ý nghĩa tương đồng với
lời Thiện Đạo đại sư. Thiện Đạo
đại sư nói: “Như Lai
sở dĩ hưng xuất thế”. Chữ “hưng” này là “hưng khởi”, xuất hiện trên thế gian, “duy thuyết Di Đà bổn nguyện
hải” (chỉ để nói biển bổn nguyện của
Phật Di Đà), bốn mươi tám nguyện của A
Di Đà Phật phổ độ chúng sanh. Tôi không tra tài liệu
xem vị Đạo Ẩn này là người thời nào, vì
Tịnh Độ Tông Nhật Bản là từ Thiện
Đạo đại sư truyền sang. Vào thời Đường,
có nhiều cao tăng Nhật Bản sang Trung Quốc du học;
lúc ấy, Thiện Đạo đại sư còn tại
thế. Do vậy, tại Nhật Bản, Thiện Đạo
đại sư rất nổi danh. Ngài chẳng nổi tiếng
tại Trung Quốc, chứ ở Nhật Bản, Ngài rất
nổi tiếng. Nhật Bản có rất nhiều ngôi chùa
mang tên Thiện Đạo Tự. Quý vị thấy Thiện
Đạo Tự, biết đó là Tịnh Độ Tông.
Đài Bắc còn có một ngôi Thiện Đạo Tự, được
thành lập vào thời Nhật Bản thống trị
[Đài Loan], đấy là đạo tràng Tịnh Độ
Tông. Do vậy, câu nói này có lẽ phỏng theo Thiện Đạo
đại sư. Sư nói: “Như
Lai hưng thế chi chánh thuyết” thì nói cách khác, hết
thảy các kinh khác do đức Phật đã nói, hết thảy
các kinh trong bốn mươi chín năm đều là “bàng thuyết” (nói kèm thêm), kinh
này mới là chánh tông. Kinh Vô Lượng Thọ là chánh tông, những
kinh khác đều nhằm phù trợ kinh Vô Lượng Thọ,
có ý nghĩa này, đây mới là chánh thuyết. Vì thế, quả
thật qua lời tựa của đại sĩ Mai Quang Hy,
chúng ta thấy các vị đại đức thời Tùy -
Đường đều thừa nhận: Ngay cả kinh Pháp
Hoa và kinh Hoa Nghiêm đều nhằm dẫn dắt chúng ta
quy hướng Tịnh Độ. Quý vị đọc phần
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài
đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm, mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn
về Cực Lạc. Vì vậy, ông Ngụy Mặc Thâm ghép
quyển cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm vào cuối tam kinh,
gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh là có lý, chẳng phải
bàn cãi gì nữa, chúng ta hai tay tán thành hành động này! Kinh
Hoa Nghiêm quy vào kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh Pháp Hoa, long
nữ tám tuổi thành Phật, cũng do nghe Văn Thù Bồ Tát giảng kinh, Cô ta nghe hiểu rồi,
cũng cầu sanh Tịnh Độ. Đây là như Ấn
Quang đại sư đã nói: “Ngàn
kinh vạn luận, chỗ nào cũng chỉ quy”. Do vậy,
nói kinh này là chánh thuyết, xác thực là có căn cứ.
“Kỳ đặc tối thắng
chi diệu điển” (bộ kinh điển mầu nhiệm lạ lùng, đặc
biệt, thù thắng nhất). “Kỳ
đặc”, tối thắng là thù thắng khôn sánh, hết
thảy các kinh chẳng thể sánh bằng, kể cả
kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, tuy [hai kinh ấy] đều là Đại
Thừa, đều là kinh Nhất Thừa, nhưng đâu có
thù thắng như pháp môn này! “Nhất
Thừa cứu cánh chi cực thuyết” (giảng về
Nhất Thừa rốt ráo đến tột cùng), nói rõ chỗ
lạ lùng đặc biệt ở nơi nào, thù thắng
nhất ở chỗ nào. Kinh này đúng giáo pháp Nhất Thừa.
Giáo pháp Nhất Thừa là thành Phật trong một đời,
được kinh này giảng đến chỗ viên mãn rốt
ráo. “Tốc tật” (速疾) là nhanh chóng. Trong các pháp môn, tức là các
pháp môn của các tông phái thông thường, thời gian tu học
đều phải rất lâu, chỉ riêng pháp môn này chẳng
cần một thời gian rất dài. Trong các pháp môn khác, tu
hành phải mất vô lượng kiếp mới có thể
đào thải hết sạch phiền não tập khí, Kiến
Tư phiền não, Trần Sa phiền não, Vô Minh phiền
não. Quý vị chẳng đoạn hết phiền não, làm sao
có thể hoàn nguyên? Hết vọng mới hoàn nguyên. Kinh Hoa
Nghiêm gọi những phiền não ấy là “vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước”, dùng những danh từ
này. Vọng tưởng là Vô Minh phiền não, phân biệt là
Trần Sa phiền não, chấp trước là Kiến
Tư phiền não. Những danh từ này đều có thể
tra trong Phật Học Đại Từ Điển.
Đào thải hết sạch, đoạn hết Kiến
Tư phiền não, bèn chứng A La Hán, vượt thoát lục
đạo. Ngoài lục đạo là tứ thánh pháp giới,
lục đạo là giới hạn, ở trong lục
đạo thì gọi là nội phàm, là phàm phu, [nội phàm] tức
là phàm phu trong lục đạo. Tứ thánh pháp giới gọi
là ngoại phàm, ở ngoài lục đạo, nhưng vẫn
phàm phu, chưa phải là thánh nhân. Phàm và thánh sai biệt ở
chỗ nào? Một đằng dùng chân tâm thì là thánh nhân, [một
đằng] dùng vọng tâm là phàm phu. Vọng
tâm là dùng A Lại Da Thức. Phải biết: Trong tứ
thánh pháp giới, ngoài A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, còn
có Phật, [tức là] trên đó còn có Phật, [nhưng Phật
trong tứ thánh pháp giới] hoàn toàn dùng A Lại Da. Vì
thế, gọi là “ngoại phàm”, tức phàm phu ở ngoài lục
đạo! Tuy họ dùng vọng tâm, vọng tâm này được
dùng rất chánh đáng, rất giống chân tâm. Vì sao dùng rất
chánh đáng, rất giống chân tâm? Đều do học Phật,
dung hội lý luận được giảng trong kinh Phật
vào nội tâm của chính mình, tức là vào trong A Lại Da, biến
[những lý luận ấy] thành những chủng tử
trong A Lại Da, nên khi thực hiện, từng điều
trong Giới Luật đều được thực hiện
rõ rệt, đều làm rất khá, hết sức giống
Phật. Do vậy, tứ thánh pháp giới được gọi
là “tương tự tức”,
[nghĩa là] rất giống, làm rất giống, nhưng
chưa phải là thật sự. Vì sao chưa phải là thật
sự? Chưa chuyển Thức thành Trí, chưa chuyển được! Đấy chính là
như kinh Bát Nhã đã dạy: “Pháp
thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn
nên bỏ, huống chi phi pháp). Giáo lý giảng trong kinh quý vị
làm được, làm tốt đẹp, nhưng vẫn là
phàm phu, có thể ra ngoài lục đạo, nhưng chưa
ra khỏi mười pháp giới. Nếu muốn ra khỏi
mười pháp giới, phải buông những thứ này xuống.
Pháp còn nên bỏ, hà huống phi pháp! Phật pháp cũng bỏ
luôn, sẽ thoát khỏi mười pháp giới, phải biết
điều này!
Vì thế,
quý vị thấy kinh này tuyệt lắm! Phương pháp
tu hành trong kinh này, đầu tiên là như trong tựa đề
kinh này, nửa đầu là quả báo, nửa sau là tu nhân. Nửa
đầu là “Đại Thừa”,
Đại Thừa là gì? Đại Thừa là trí huệ, tức
trí huệ Bát Nhã sẵn có trong tự tánh. “Vô lượng thọ” là đức, “trang nghiêm” là tướng. Kinh
Hoa Nghiêm dạy: “Tất cả
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, trí huệ là Đại Thừa, đức là
vô lượng thọ, tướng là trang nghiêm. Đây là
trên mặt quả, hết thảy chúng sanh đều có.
Chúng ta khôi phục chúng như thế nào? “Thanh tịnh, bình đẳng, giác”, đó là Tu Đức.
Chúng ta tu hành là tu gì? Tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thành tựu
bằng giới luật. Tâm bình đẳng thành tựu bằng
Thiền Định. Giác thành tựu từ Bồ Đề.
Giác là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh. Vì vậy, tu “thanh tịnh,
bình đẳng, giác”, chứng “Đại Thừa vô lượng thọ trang nghiêm”,
ngay trong tựa đề kinh [đã nêu ra cương lãnh tu
hành và thành tựu nơi quả địa].
Bởi lẽ
đó, tại Trung Quốc lẫn ngoại quốc, các tổ
sư đại đức đã nói rất tuyệt, nói thật
hay: “Nhất Thừa cứu
cánh chi cực thuyết, tốc tật viên dung chi kim ngôn”
(Lời giảng về Nhất Thừa rốt ráo đến
tột bậc, là lời vàng viên dung nhanh chóng). Chữ “kim” này được dùng rất
nhiều trong kinh Phật, quý vị phải hiểu ý nghĩa.
Kim có nghĩa là gì? Vàng chẳng thay đổi. Kim loại
đều bị oxide hóa, đều bị đổi màu,
chỉ mình hoàng kim không thay đổi, quý ở chỗ này. Vì
thế, Phật pháp dùng “kim”
theo ý nghĩa “không thay đổi”. “Kim thân” vĩnh hằng bất hoại, là chân thân, dùng
theo ý nghĩa này; chứ không phải là thật sự
sơn thành màu vàng ròng. Hiện thời, trong chùa chiền,
tượng Phật mạ vàng, nhằm biểu thị pháp.
[Da] Phật có thật sự giống như màu vàng mạ
hay không? Màu ấy cũng trọn chẳng dễ coi! Phải
hiểu đó là biểu thị pháp, vĩnh hằng không
thay đổi, là xứng tánh. Thân ấy có hay không có? Có!
Trong cõi Thật Báo thì có, trong cõi Thật Báo của chư Phật
Như Lai, cõi Thật Báo trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thân tướng của quý vị vĩnh viễn
không thay đổi. [Nhân dân trong] Tây Phương Cực Lạc
thế giới chẳng sanh từ bào thai, chẳng phải
là từ trẻ nhỏ dần dần trưởng thành. Chẳng
phải! Họ là hóa sanh, hóa sanh đến nơi ấy trong
hoa sen. Hóa thân có hình dáng như thế nào? Dáng vẻ chẳng
khác A Di Đà Phật cho mấy, chỗ này là pháp bình đẳng.
Hiện thời, chúng ta vẽ Tây Phương Cực Lạc
thế giới, vẽ A Di Đà Phật đặc biệt
to, vẽ Bồ Tát nhỏ hơn một chút, người vãng
sanh lại vẽ nhỏ hơn chút nữa. Điều này
cũng không đúng pháp, to như nhau! Đâu có to hay nhỏ
như vậy! Thật sự có to hay nhỏ, sẽ chẳng
bình đẳng, to như nhau! Vĩnh hằng không thay đổi,
họ là hóa sanh. Do những điều này,
quý vị đọc kinh giáo nhiều hơn, sẽ dần
dần hiểu rõ, sẽ thấy ý nghĩa được
thật sự bao hàm ở đây.
Vì sao
không bị biến hóa? Vì chẳng có ý niệm, đạo
lý ở chỗ này! Quý vị hiểu đạo lý này, sẽ
tin tưởng. Biến hóa do đâu mà có? Biến hóa là “duy thức sở biến, duy tâm
sở hiện”. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm chỉ có duy tâm
sở hiện, không có duy thức sở biến, đã chuyển
Thức thành Trí, cho nên chẳng biến. Quý vị không có ý
niệm, sẽ chẳng khởi tâm động niệm. Khởi
tâm động niệm sẽ biến; chẳng khởi tâm,
không động niệm, làm sao biến? Sẽ chẳng biến,
vĩnh hằng không thay đổi. Hoa, cỏ, cây cối
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vĩnh
viễn chẳng điêu tàn, vĩnh viễn chẳng biến
chất, đạo lý ở chỗ này! Cư dân nơi ấy
vẫn chưa phải là cảnh chuyển theo tâm ư? Cư
dân nơi ấy mỗi người đều minh tâm kiến
tánh. Nói “minh tâm kiến tánh” là đã đoạn vọng
tưởng, vọng tưởng là khởi tâm động
niệm, mọi người chẳng khởi tâm, chẳng
động niệm. Khởi tâm động niệm còn không
có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Đạo
lý là như thế đó! Chúng ta hiểu rõ rồi, bèn thừa
nhận chuyện này là thật, chẳng giả!
Chúng ta muốn
bất biến trong thế giới này có được hay
chăng? Được! Quý vị chẳng
khởi tâm, không động niệm là được, cảnh
giới như vậy đấy! Làm không được là
vì ý niệm quá vi tế. Quý vị thấy đức Phật
hỏi Di Lặc Bồ Tát, Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi ngài
Di Lặc, vẫn chưa phải là nói cho chúng ta nghe! Một
niệm của bọn phàm phu chúng ta dấy lên, tức là
trong tâm có ý niệm, một niệm của chúng ta dấy
lên, trong một niệm này có bao nhiêu tế niệm hợp
thành một niệm? Đức Phật hỏi mấy niệm,
mấy tướng, mấy thức? Di Lặc Bồ Tát trả
lời “trong khoảng khảy
ngón tay”. Chúng ta nói tới một niệm và một cái khảy
ngón tay; chúng ta khảy nhanh thì ước chừng trong một
giây khảy được bốn lần. Nếu khảy
rất nhanh, chắc là có thể khảy tới năm lần,
trong một giây có thể khảy tới năm lần. Ngài
nói trong một khảy ngón tay có ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm. Trăm ngàn là đơn vị; một
trăm ngàn là mười vạn. Ba mươi hai ức nhân
với mười vạn thành ba trăm hai mươi triệu.
Quý vị thấy trong một khảy ngón tay có ba trăm hai
mươi triệu; trong một giây, chúng ta khảy bốn
lần, sẽ là một ngàn hai trăm tám mươi triệu.
Nếu khảy năm lần sẽ là một ngàn sáu
trăm triệu. Một niệm quá vi tế, làm sao chúng ta có
thể cảm thấy? Di Lặc Bồ Tát nói: “Niệm niệm thành hình”, “hình” (形) là vật chất, là tướng cảnh
giới của A Lại Da, “hình
giai hữu thức” (hình đều có thức), đấy
là Chuyển Tướng của A Lại Da.
Ở chỗ
này, quý vị nhất định phải
hiểu: Trong tự tánh cái gì cũng đều có, chẳng
thiếu gì! Nó có thể hiện, có thể sanh, có thể
hiện. Niệm có thể biến, thức
có thể biến. Không có thức thì nó có thể hiện, có
thể sanh, có thể hiện. Thế giới Cực
Lạc có thể sanh, có thể hiện, chẳng có biến,
người bên ấy hoàn toàn dùng chân tâm, chẳng có vọng
tâm, đều là chuyển Thức thành Trí. Do vậy, thế
giới của họ vĩnh hằng không thay đổi.
Vô lượng trí huệ, vô lượng thần thông, vô
lượng đức năng, đều có sẵn trong tự
tánh, chẳng do học được, mà là những thứ
ta có sẵn từ lâu. Có phải là đã đạt đến
rốt ráo hay chưa? Chưa, thật sự hoàn nguyên là cõi Thường
Tịch Quang. Trong cõi Thường Tịch Quang, hiện
tượng vật chất và hiện tượng tinh thần
đều không có, đấy mới gọi là “trở về
tự tánh”. Làm như thế nào mới trở về tự
tánh? Do trong cõi Thật Báo tuy đã đoạn vọng
tưởng, nhưng tập khí vọng tưởng chưa
đoạn; do có tập khí vọng tưởng, nên mới
có cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Tập khí vọng tưởng
cũng đã đoạn, chẳng còn nữa, cõi Thật
Báo cũng sẽ không có. Bởi lẽ, “phàm những gì có hình tướng đều là hư
vọng”, ngay cả cõi Thật Báo Trang Nghiêm cũng không phải
là ngoại lệ. Trong kinh, đức Phật chẳng nói cõi
Thật Báo Trang Nghiêm là ngoại lệ, không nói lời này!
Cõi Thật Báo cũng chẳng phải là cảnh giới thật.
Cảnh giới thật sự là Thường Tịch Quang.
Huệ Năng đại sư thốt ra năm câu, năm
câu ấy nói về Thường Tịch Quang. Câu cuối cùng
là “có thể sanh vạn pháp”.
Vạn pháp sanh từ Thường Tịch Quang, Thường
Tịch Quang có thể sanh, có thể hiện. “Phàm cái gì có hình tướng” đều
thuộc về cõi Thật Báo, cõi Phương Tiện, hay cõi
Phàm Thánh Đồng Cư. Tứ thánh pháp giới là cõi Phương
Tiện, lục đạo luân hồi là cõi Đồng Cư,
chẳng có gì là chân thật. Phải hiểu: Hư không
cũng là giả, chẳng thật. Thời gian và không gian
đều là giả. Trong cõi Thường Tịch Quang, không
có thời gian, chẳng có không gian. Chẳng có thời gian, sẽ
chẳng có trước sau. Chẳng có không gian, sẽ không
có khoảng cách; đấy mới là thật sự trở
về tự tánh.
Do vậy,
cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh.
Thưa quý vị, không chỗ nào chẳng hiện thân, không
lúc nào chẳng hiện thân. Hiện thân dài hay ngắn là do nghiệp
cảm của chúng sanh. Chúng sanh vẫn còn cảm thì tướng
ấy vẫn còn. Chúng sanh chẳng còn cảm, tướng ấy
chẳng còn nữa! Cái thân này của chúng ta là thân nghiệp
báo, cũng có tánh thời gian, tức là có thời gian [tồn
tại] dài hay ngắn, nghiệp báo mà! Phật, Bồ Tát chẳng
phải là nghiệp báo; Phật, Bồ Tát là ứng hóa, ứng
theo sự cảm của chúng sanh mà hiện thân tướng.
Không chỉ là hiện thân tướng loài người, mà còn
có thể hiện tướng cây cối, hoa, cỏ, có thể
hiện tướng núi, sông, đại địa, tướng
gì các Ngài cũng đều có thể hiện. Vì vậy, chúng
ta đọc những câu chuyện xưa hay công án trong Thiền
Tông, có những người tham Thiền thấy cây cối,
hoa, cỏ bèn khai ngộ, thấy mưa rơi trên tàu chuối
bèn hoát nhiên khai ngộ. Đó là gì? Nói như chúng ta hiện
nay, đấy chính là Phật gia trì. Trong khoảnh khắc ấy,
những thứ vô tình ấy là Phật, người ấy
có cảm, Phật bèn ứng hiện, khiến cho người
ấy do cảnh giới đó mà hoát nhiên khai ngộ. Chẳng
có chuyện nào chẳng do Phật lực gia trì. Phật lực
gia trì là tác dụng của tự tánh, là tự tánh khởi
tác dụng. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, cũng chẳng
hoài nghi tí nào! Vì thế, đối với Phật, dẫu
Phật hiện thân Phật đến gia trì, chúng ta
cũng chẳng sanh tâm hoan hỷ, cũng chẳng bị kích
động, bị kích động là hỏng rồi! Vì sao?
A Di Đà Phật là tự tánh Di Đà của quý vị, do tự
tánh của chính quý vị biến hiện, chẳng ở bên
ngoài. Thế giới Cực Lạc là duy tâm Tịnh Độ,
chỗ nào là bên ngoài? Toàn là Tánh Đức, tự tánh lưu
lộ. Quý vị hiểu đạo lý này, sẽ vĩnh viễn
tâm bình, khí hòa, vĩnh viễn là như như bất động.
Huệ Năng đại sư nói rất tuyệt: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng
lay động”. Quý vị vĩnh viễn giữ được
“thanh tịnh, bình đẳng, giác”, chẳng để cho tâm
dấy lên chút sóng mòi nào trong cảnh giới; như thế
là đúng.
“Thập phương xưng tán
chi thành ngôn” (là lời khen ngợi chân thành trong mười
phương), câu này dễ hiểu. Lời lẽ chân thành, chắc
chắn chẳng nói dối. “Chúng
sanh bổn cụ chi hóa nghi, Nhất Thừa chi liễu
nghĩa, vạn thiện chi tổng môn” (là hóa nghi sẵn
có của chúng sanh, là liễu nghĩa Nhất Thừa, là môn
tổng quát của muôn điều thiện), những điều
này đều đã nói trong phần trước. “Tịnh Độ quần kinh
bách sổ thập bộ chi cương yếu, nhất Đại
Tạng giáo chi chỉ quy dã” (là cương yếu của
một trăm mấy chục bộ kinh giảng về Tịnh
Độ, là chỗ chỉ về của các giáo pháp trong Đại
Tạng Kinh), ở đây cụ cũng nói đến giáo
pháp trong cả Đại Tạng Kinh, xác thực là như
vậy. “Như thượng
chư hiền sở dĩ thịnh tán thử kinh giả”
(sở dĩ, các vị hiền nhân nồng nhiệt khen ngợi
kinh này như trên): Xưa nay các đại đức tán
thán bộ kinh này, “cái dĩ bổn
kinh trì danh Niệm Phật pháp môn” (là vì pháp môn trì danh niệm
Phật trong kinh này), mấy câu tiếp theo quan trọng lắm!
“Viên mãn”, quá khó có! Pháp môn nào có
thể giảng đến viên mãn rốt ráo? Viên mãn là gì? Mảy
may khiếm khuyết cũng chẳng có, pháp môn này viên mãn. Hoa
Nghiêm là viên mãn, Pháp Hoa là viên mãn, nhưng quá dài, không như
kinh này. Kinh này phân lượng ít dường ấy, nhưng
viên mãn như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, hiếm có lắm! “Trực tiệp” (thẳng thừng,
nhanh chóng), thẳng thừng, thỏa đáng. “Phương tiện”: Pháp môn
này thuận tiện nhất trong hết thảy các pháp môn.
Các pháp môn đều gọi là phương tiện, pháp môn
này là pháp môn thuận tiện nhất trong các phương tiện.
“Cứu cánh” (rốt ráo): Phương
tiện nào giúp quý vị thành Phật, phương tiện ấy
là rốt ráo. Phương tiện nào giúp quý vị thành Bồ
Tát, tuyệt lắm, nhưng chưa rốt ráo. Phương
tiện nào giúp quý vị thành A La Hán, lại càng chẳng phải
là rốt ráo! Do vậy, nay chúng tôi dạy quý vị, giúp quý
vị chuyển ác thành thiện, quý vị biến thành
người tốt, vẫn chưa phải là rốt ráo! Phải
là thành Phật thì mới là rốt ráo; chưa thành Phật thì
chưa rốt ráo. Giúp quý vị chứng Đẳng Giác Bồ
Tát như Quán Thế Âm vẫn chưa rốt ráo, bởi lẽ,
quý vị chưa thành Phật! Pháp môn này giúp chúng ta rốt
ráo thành Phật. “Nhất siêu trực
nhập, tối cực viên đốn” (hễ vượt
thoát bèn vào thẳng Phật quả, viên đốn tột cùng),
cực viên, cực đốn, “đốn”
là đốn siêu.
Dùng
phương pháp gì? “Di Đà Nhất
Thừa nguyện hải, lục tự hồng danh chi cứu cánh quả giác, tác ngã chúng sanh chi nhân
tâm” (Dùng biển nguyện Nhất
Thừa của Phật Di Đà, sáu chữ hồng danh
nơi quả giác rốt ráo, làm cái tâm cho lũ chúng sanh chúng
ta trong khi tu nhân), đây là nói rõ ra! Cụ Hoàng nói “nhất siêu trực nhập, tối
cực viên đốn” là nói gì vậy? Là sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”. Đơn
giản như thế đó, dễ dàng như thế đó,
sanh ra hiệu quả to dường ấy, ai tin tưởng?
Vì thế gọi là “phương
pháp khó tin”. Trong kinh, đức Phật nói: “Duy Phật dữ Phật, phương
năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật mới
có thể thấu hiểu rốt ráo). Đẳng Giác Bồ
Tát đối với pháp môn này giống như nhìn trăng
qua một lớp the. Đây là lời ví von; giống như
chúng ta ngắm mặt trăng, trăng Trung Thu [chẳng hạn],
cách một lớp the, the rất mịn, “the” là một loại
sa rất mịn, the như trong “the, lụa, sa, đoạn”,
cách một lớp the ngắm trăng, còn cách một tầng.
Đẳng Giác Bồ Tát đối với pháp môn này giống
như cách một lớp the ngắm trăng; Phật chẳng
có lớp the hay sa này, Đẳng Giác Bồ Tát còn bị ngăn
cách bởi một lớp the hay sa. Quá sâu! Đạo lý quá
sâu, nhưng sự tình quá đơn giản, do sáu chữ bèn
thành công! Thật vậy ư? Thật đấy! Nay tôi nói
về cư sĩ Tiểu Lỵ ở nơi đây, quý vị
thấy cư sĩ Hoàng Trung Xương làm thí nghiệm coi
sáu chữ [hồng danh] có hiệu quả hay không, ông ta thí
nghiệm. Nghe nói cổ nhân niệm Phật ba năm có thể
vãng sanh, ông ta bèn thí nghiệm. Ông ta mới ba mươi mấy
tuổi, là một người rất trẻ, bế quan tại
Thâm Quyến, nhờ cư sĩ Tiểu Lỵ hộ trì,
hai năm mười tháng, ông Xương bèn biết trước
lúc mất. Thật đấy, chẳng giả đâu! Pháp
môn dễ dàng như thế đó!
Trong quá
khứ, chúng tôi nghe lão pháp sư Đàm Hư báo cáo. Tôi không
có duyên phận này, thiếu phước phận, chẳng được
gặp lão pháp sư. Tôi đến Hương Cảng, Ngài
đã vãng sanh hai, ba năm rồi! Nhưng tôi nghe từ băng
thâu âm, Sư giảng khai thị trong Phật Thất, có đồng
tu đem cuốn băng thâu âm đến [cho tôi nghe]. Sư
nói bằng giọng địa phương miền Bắc,
tôi nghe chẳng hiểu lắm, tôi nghe liên tục không ngừng
ba mươi lượt, đại khái có thể nghe hiểu
chín phần. Cuối cùng, tôi rốt cuộc tìm được
một đồng tu ở phương Bắc, nhờ chép
toàn bộ băng thâu âm thành văn tự, in ra một cuốn
sách nhỏ. A! Sư giảng thật hay! Quý vị thấy
Sư kể chuyện người thợ vá nồi là đồng
tham đạo hữu của Sư, là người quen, tại
gia niệm Phật, một câu A Di Đà Phật thôi! Ông thợ
vá nồi không biết chữ, chưa từng đi học,
ngoài bốn mươi tuổi mới xuất gia, điều
gì cũng chẳng biết, là bạn chơi đùa hồi
nhỏ của lão hòa thượng Đế Nhàn, cùng ở trong
một thôn trang. Ông ta đến tìm pháp sư Đế Nhàn,
cuộc sống của ông ta thật sự khổ sở
quá, thấy pháp sư Đế Nhàn làm pháp sư xuất gia
cũng thoải mái lắm, rất hâm mộ, bèn muốn
theo Ngài xuất gia. Lão pháp sư Đế Nhàn cũng hết
sức từ bi, gặp người bạn chơi đùa
thuở ấy, bảo ông ta: “Xuất gia phải học
kinh giáo. Ông lớn tuổi như thế, mà cũng chẳng
biết chữ, xem ra học kinh giáo chẳng thành công!” Thuở
ấy trong nhà chùa, chẳng học kinh giáo thì phải học
kinh sám Phật sự. Kinh sám Phật sự là ngũ
đường công khóa[8], thấy ông ta đầu óc chậm lụt,
ông học cũng chẳng thành công. Có nghĩa là “ông xuất
gia làm sao được?” Nhưng người bạn ấy
cứ nhất định muốn nương cậy Ngài, cuối
cùng không có cách nào, Ngài bèn nói: “Tôi có điều kiện, ông
có thể chấp nhận hay không?” Ông ta nói: “Sư cứ nói
đi, hết thảy tôi đều nghe theo lời Sư”. Với
điều kiện như thế, ông ta nói: “Được”,
Sư bèn cho ông ta xuống tóc. Sau khi xuống tóc, Sư nói: “Ông
không cần thọ giới. Nghi thức thọ giới ông
cũng chẳng hiểu, ông cũng chẳng thọ được”.
Tại vùng quê ở Ninh Ba có một ngôi miếu nát, không ai ở,
cho một mình ông ta ở nơi đó, dạy ông ta một
câu “Nam-mô A Di Đà Phật” sáu chữ. Sư dặn dò: “Ông ở nơi đó, niệm một
câu này, niệm mệt bèn nghỉ. Nghỉ ngơi khỏe
khoắn rồi lại niệm tiếp, sau này chắc có lợi
lạc”.
Bí quyết
thành công của người này chẳng có gì khác: Thật thà,
vâng lời, thật sự làm, ông ta bèn thành công! Quý vị thấy
người ta niệm Phật ba năm bèn đứng vãng
sanh. Tại vùng quê thuở ấy, giao thông chẳng thuận
tiện, một bà cụ già trong thôn phát hiện: “Sư phụ
đã đứng vãng sanh”. Quá sức lạ lùng, hiếm có,
trước nay chưa hề thấy ai đứng mất!
Còn có những vị lão cư sĩ niệm Phật báo cho mọi
người đến xem; xem xong, sai người sang chùa Quán
Tông báo tin, báo với lão hòa thượng Đế Nhàn. Lão
hòa thượng nghe tin này, vội vã đến xem, đi về
mất ba ngày. Thấy tình hình này, lão hòa thượng Đế
Nhàn rất hoan hỷ, tán thán: “Ông
xuất gia chẳng uổng, khá lắm, ông mất như thế
đó”. Sư tán thán: “Đại
pháp sư giảng kinh thuyết pháp chẳng bằng ông,
phương trượng, chủ tịch tùng lâm cũng
không bằng ông! Ông đúng là giỏi lắm!” Niệm một
câu sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”
ba năm, thù thắng lắm! Đó là chuyện trước
mắt, không xa mấy! Trong phần trước, tôi đã kể
với mọi người chuyện một bà cụ tại
làng Tướng Quân ở Đài Nam, cũng là niệm Phật
ba năm rồi đứng mất. Lời tán thán này chẳng
hư giả mảy may nào, vấn đề là chúng ta phải
thật sự làm thì mới được.
Nhưng
trong thời đại hiện tại, quý vị phải
nhớ: Tịnh Tông là Đại Thừa, chẳng phải
là Tiểu Thừa, người Đại Thừa phải
giúp hết thảy chúng sanh khổ nạn, nhất là trong
thời đại hiện tại. Chính quý vị thành tựu,
nhưng không có duyên phận giáo hóa chúng sanh, bèn có thể thị
hiện giống như vậy. Nếu có duyên phận giáo
hóa chúng sanh, quý vị còn trụ thêm mấy năm nữa. Trụ
thêm mấy năm nữa, chẳng trở ngại. Do vậy,
nếu muốn đến chỗ hết thảy chư Phật
Như Lai, nhất là muốn đến chỗ A Di Đà Phật,
nguyện vọng của A Di Đà Phật là gì? Phổ
độ hết thảy chúng sanh khổ nạn trong mười
pháp giới. Chúng ta hiểu ý A Di Đà Phật, chúng ta
cũng khiến cho A Di Đà Phật hoan hỷ, mang thêm nhiều
người đi. Quý vị mang thêm càng nhiều càng hay, đây
là chuyện tốt. Vì thế, chớ nên làm kẻ tự giải
thoát cho riêng mình như trong Tiểu Thừa, tức là vừa
thành tựu đã ra đi ngay lập tức, chẳng đúng!
Vì sao người thợ vá nồi đi ngay lập tức?
Người thợ vá nồi ra đi là có lý, ông ta thị hiện,
đó là Tác Chứng Chuyển. Cư sĩ Hoàng Trung Xương
cũng là thị hiện, chứng minh cho người niệm
Phật chúng ta. Tôi giảng kinh tại Hương Cảng,
chúng tôi ở đây rất gần, ông ta mỗi ngày nghe CD của
tôi. Tôi ở đây là Khuyến Chuyển, Thị Chuyển,
ông ta Tác Chứng Chuyển bên ấy, chứng minh những điều
kinh nói chẳng giả, mà là chuyện thật, quyết
định [thành tựu] trong một đời! Hơn nữa,
trong ba năm ngắn ngủi, quý vị có thể vượt
thoát lục đạo luân hồi, có thể vượt thoát
mười pháp giới. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn,
pháp môn nào có thể làm được? Chỉ có pháp môn này!
Chúng ta phải hiểu rõ chuyện này, “Viên mãn trực tiệp, phương tiện cứu
cánh” là thật, chẳng giả chút nào! Do vậy, pháp môn
này đơn giản nhất, dễ dàng nhất, ổn thỏa,
thích đáng nhất, đáng tin cậy nhất, lại còn
nhanh chóng nhất. Điểm mấu chốt là quý vị có
thể buông những thứ vặt vãnh trong thế gian xuống
hay không? Những kẻ chẳng thể vãng sanh vốn là vì
lý do này: Quý vị vẫn còn tham luyến thế gian này, vẫn
muốn tiếp tục luân hồi trong lục đạo,
vậy là hết cách! A Di Đà Phật chẳng thể lôi
quý vị đi theo, vì quý vị chẳng bỏ thế gian
này được! A Di Đà Phật gật đầu, bỏ
đi, đợi lần sau vậy! Khi
nào quý vị buông hết xuống, A Di Đà Phật sẽ
đến, chúng ta chẳng thể không biết điều
này! Thời gian đã hết rồi mà tôi không thấy. Hôm
nay chúng ta học tới đây, cảm ơn mọi người.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment