Sở dĩ, thuở còn tại thế, đức Phật đã tuyên
giảng bộ kinh này nhiều lần, vì đây là một bộ kinh vô cùng trọng yếu. Nhất là chúng ta thấy Thiện Đạo đại sư đã nói hai câu, ngài Thiện Đạo là người
đời Đường, theo truyền thuyết Ngài là A Di Đà Phật tái lai, lời ngài Thiện
Đạo nói chính là lời A Di Đà Phật nói! Ngài dạy: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế,
duy thuyết Di Đà bổn nguyện
hải” (Sở dĩ đức Như Lai xuất hiện trong
thế
gian chỉ vì muốn nói
biển bổn nguyện của Phật Di Đà)
|
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
PHẦN MỘT
Tập 01
Thưa chư vị pháp sư, chư vị đại đức, chư vị đồng học, xin hãy ngồi
xuống.
Ngày hôm nay nhằm tiết Thanh Minh Âm lịch, chúng tôi chọn ngày hôm
nay để bắt đầu giảng Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa. Đối với mọi
người, danh xưng này dường như rất xa lạ, nhưng các vị đồng tu đã lâu trong nhà Phật biết Tịnh Độ Đại Kinh là kinh Vô Lượng Thọ.
Kinh Vô Lượng Thọ hiện thời có chín phiên bản khác nhau, bản được chúng tôi chọn lựa chính là bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Sắp theo thứ tự triều đại trước sau, bản này là bản cuối cùng, là bản thứ chín. “Giải” (解) là chú giải, do đệ tử cụ Hạ là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải. Duyên khởi này cũng rất chẳng thể nghĩ bàn! Trong giáo pháp Đại Thừa, cũng như trong Phật môn, [mọi người] đều cảm thấy kinh Vô Lượng Thọ rất hy hữu. Vì sao? Vì thuở đức Thế Tôn tại thế, giảng kinh, dạy học suốt bốn mươi chín năm; trong bốn mươi chín năm, Ngài đã giảng khá nhiều kinh luận, [các kinh luận khác] lão nhân gia chỉ giảng một lần, chẳng hề giảng trùng lặp, chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được giảng trùng lặp mấy lượt. Đối với sự phiên dịch tại Trung Quốc, từ Dịch Kinh Mục Lục, chúng ta thấy kinh này có mười hai bản dịch, được phiên dịch nhiều lần nhất. Từ triều Hán cho đến triều Tống, trong vòng tám trăm năm, dịch mười hai lần. Lẽ đương nhiên, nếu cùng một bản gốc, tuy có nhiều bản dịch, đương nhiên văn tự trong các bản dịch ấy khác nhau, nhưng nội dung chắc chắn là đại đồng tiểu dị. Như kinh Kim Cang có sáu bản dịch, từ Đại Tạng Kinh, chúng ta có thể thấy sáu bản dịch ấy có cùng một nguyên bản (bản gốc), cũng có nghĩa là đức Thế Tôn chỉ giảng [kinh Kim Cang] một lần. Kinh Vô Lượng Thọ rất lạ lùng, những bản dịch sai biệt rất lớn. Chỗ rõ ràng nhất, mà cũng là phần trọng yếu nhất trong kinh này, chính là bổn nguyện của A Di Đà Phật. Hiện tại, chỉ còn lại năm bản trong mười hai bản dịch, đã thất truyền bảy bản. Hiện thời, trong Đại Tạng Kinh có mục lục [ghi tựa đề của các bản dịch ấy], nhưng không có văn bản. Đây là chuyện rất đáng tiếc nuối!
Kinh Vô Lượng Thọ hiện thời có chín phiên bản khác nhau, bản được chúng tôi chọn lựa chính là bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Sắp theo thứ tự triều đại trước sau, bản này là bản cuối cùng, là bản thứ chín. “Giải” (解) là chú giải, do đệ tử cụ Hạ là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ chú giải. Duyên khởi này cũng rất chẳng thể nghĩ bàn! Trong giáo pháp Đại Thừa, cũng như trong Phật môn, [mọi người] đều cảm thấy kinh Vô Lượng Thọ rất hy hữu. Vì sao? Vì thuở đức Thế Tôn tại thế, giảng kinh, dạy học suốt bốn mươi chín năm; trong bốn mươi chín năm, Ngài đã giảng khá nhiều kinh luận, [các kinh luận khác] lão nhân gia chỉ giảng một lần, chẳng hề giảng trùng lặp, chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được giảng trùng lặp mấy lượt. Đối với sự phiên dịch tại Trung Quốc, từ Dịch Kinh Mục Lục, chúng ta thấy kinh này có mười hai bản dịch, được phiên dịch nhiều lần nhất. Từ triều Hán cho đến triều Tống, trong vòng tám trăm năm, dịch mười hai lần. Lẽ đương nhiên, nếu cùng một bản gốc, tuy có nhiều bản dịch, đương nhiên văn tự trong các bản dịch ấy khác nhau, nhưng nội dung chắc chắn là đại đồng tiểu dị. Như kinh Kim Cang có sáu bản dịch, từ Đại Tạng Kinh, chúng ta có thể thấy sáu bản dịch ấy có cùng một nguyên bản (bản gốc), cũng có nghĩa là đức Thế Tôn chỉ giảng [kinh Kim Cang] một lần. Kinh Vô Lượng Thọ rất lạ lùng, những bản dịch sai biệt rất lớn. Chỗ rõ ràng nhất, mà cũng là phần trọng yếu nhất trong kinh này, chính là bổn nguyện của A Di Đà Phật. Hiện tại, chỉ còn lại năm bản trong mười hai bản dịch, đã thất truyền bảy bản. Hiện thời, trong Đại Tạng Kinh có mục lục [ghi tựa đề của các bản dịch ấy], nhưng không có văn bản. Đây là chuyện rất đáng tiếc nuối!
Trong năm
bản dịch gốc còn được lưu truyền, hai bản ghi bốn mươi
tám
nguyện, hai mươi bốn nguyện cũng được ghi trong hai bản, còn bản
dịch đời Tống
chép ba mươi
sáu
nguyện, sai biệt quá lớn! Nếu bảo nguyên
bản chỉ có một loại, chắc chắn không thể nào có sự sai biệt này. Đó là chuyện chẳng thể xảy ra được! Do vậy, từ chỗ có ba loại bổn nguyện sai biệt, cổ đại đức phán đoán: Đối với bảy bản dịch đã thất truyền, do không biết nội dung [nên chẳng dám bàn tới], từ năm bản dịch này, khẳng định đức
Thế Tôn tối thiểu giảng [kinh Vô Lượng Thọ] ba lần. Ba lượt nói bổn nguyện
của A Di Đà Phật, đức Thế Tôn nói các điều nguyện không giống nhau, nên mới có sai biệt. Dự đoán này rất hợp la-tập (logic), bọn chúng
ta cũng đều có thể chấp nhận. Nhiều lần tuyên giảng
đâu phải dễ! Nếu không phải là hết sức trọng yếu, đức Thế Tôn chẳng thể tuyên giảng nhiều lượt.
Trong Đại Tạng Kinh, gần như chẳng tìm được dấu vết [những bộ kinh
khác] được tuyên giảng nhiều lần. Sở dĩ, thuở còn tại thế, đức Phật đã tuyên
giảng bộ kinh này nhiều lần, vì đây là một bộ kinh vô cùng trọng yếu. Nhất là chúng ta thấy Thiện Đạo đại sư đã nói hai câu, ngài Thiện Đạo là người
đời Đường, theo truyền thuyết Ngài là A Di Đà Phật tái lai, lời ngài Thiện
Đạo nói chính là lời A Di Đà Phật nói! Ngài dạy: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế,
duy thuyết Di Đà bổn nguyện
hải” (Sở dĩ đức Như Lai xuất hiện trong
thế
gian chỉ vì muốn nói
biển bổn nguyện của Phật Di Đà), có nghĩa là nói:
Thập phương chư Phật thị hiện trong thế gian [chỉ vì nguyên nhân này]. Qua
phẩm
Hoa Tạng Thế Giới và phẩm Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta thấy vũ trụ quan của nhà Phật (Triết Học hiện đại bảo [nội dung những điều được nói trong hai phẩm kinh trên đây] là vũ trụ quan nhà Phật) quá lớn! Các nhà thiên văn học hiện thời chưa đạt tới cảnh giới này.
Nói theo Phật giáo, sự
quan sát và lý giải của các nhà thiên văn học vẫn chưa
thể thoát khỏi thế
giới Sa Bà.
Chúng tôi học kinh giáo nhiều năm như thế, thấy hầu hết các vị đại đức tiền bối đã sớm
cho
rằng một đơn vị thế giới nói trong kinh Phật là địa
cầu.
[Kinh nói] mặt trời xoay vòng quanh núi Tu Di (Sumeru), rất nhiều người hiểu lầm, nghĩ núi Hỷ Mã Lạp Nhã (Himalaya) là Tu Di Sơn. Sau này, khoa học chứng minh địa cầu hình tròn nên gọi là “địa cầu”, chẳng khác gì các ngôi sao trên trời, cũng không thể coi là quá lớn được! Địa cầu xoay quanh mặt trời, chứ không phải mặt trời xoay quanh địa cầu. Họ biết có Thái
Dương Hệ (Solar system), mặt trời xoay quanh hệ
Ngân Hà (Galaxy), nhưng chúng
ta không có cách nào xoay chuyển quan niệm
này! Tu Di Sơn ở đâu? Chắc chắn Tu Di Sơn chẳng
ở trên địa cầu. Phật pháp hình dung Tu Di Sơn bằng danh xưng Diệu Cao, chúng ta có thể hiểu chữ Cao, nhưng Diệu rất
khó
hiểu. Chúng tôi vốn nghĩ [một đơn vị thế giới trong kinh Phật] là một cõi Phật, tức là phạm vi giáo hóa của một vị Phật, giống như các khoa học gia hiện thời bảo là một “hệ Ngân Hà”. Kể từ năm 1986, tôi kết duyên, quen
biết lão cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ. Thuở ấy, hai người chúng tôi vô cùng vui sướng, vì hoằng dương
bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư vốn chỉ có hai người bọn tôi. Cụ giảng bộ kinh này trong nước, tôi giảng bộ kinh này tại hải ngoại. Chúng tôi gặp mặt, cụ Hoàng nêu lên vấn đề này, cho tôi biết:
Một đơn vị thế giới trong
kinh
Phật chẳng phải là Thái Dương Hệ, mà là hệ Ngân Hà. Trung tâm của hệ Ngân Hà là “hắc động” (black hole), Tu Di Sơn
phải là hắc động. Sự cao lớn của hắc động chúng ta có thể hiểu được, nhưng cho đến hiện thời, vẫn chưa có ai có thể lý giải tình trạng thật sự của hắc
động, chỉ biết là nó có sức hút rất lớn, ngay cả ánh sáng cũng không
có cách nào xuyên qua, đều
bị
nó hút mất. Nó là cốt lõi của hệ Ngân Hà, tất cả các
tinh cầu đều xoay quanh
cái
lõi này. Cổ nhân Trung Quốc gọi nó là Hoàng Cực (Ecliptic Pole), hệ Ngân Hà mới là một đơn vị thế giới. Một ngàn đơn vị thế giới gọi là một “tiểu thiên thế giới”. Đó chính là một ngàn hệ Ngân
Hà,
một tiểu thiên
thế giới đấy! Lại lấy tiểu thiên thế giới làm đơn vị, một
ngàn tiểu thiên thế giới gọi là “trung thiên thế giới”, một ngàn trung thiên
thế
giới gọi là một “đại thiên thế giới”. Một đại thiên thế giới có bao nhiêu
hệ
Ngân Hà? Mười ức hệ Ngân Hà. Các nhà thiên văn học hiện
tại
chưa thể quan sát [điều này]; đây là khu vực giáo hóa của một đức Phật. Kinh Hoa
Nghiêm nói có vô lượng vô biên thế giới như vậy trong vũ trụ. Nói đến “thế giới Hoa Tạng” thì thế giới
Hoa Tạng giống như một cao ốc có hai mươi tầng, thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc đều thuộc tầng thứ mười
ba. Lại chẳng biết có bao nhiêu thế giới giống như thế giới Hoa Tạng! Đấy là thế
giới quan của Phật pháp, thế giới đồ sộ, quả thật chẳng thể
nghĩ bàn được!
Đức Phật xuất hiện trong thế gian, khu vực giáo hóa của mỗi vị Phật nhỏ nhất là một đại thiên thế giới. Có trường hợp là hai, ba đại thiên thế giới,
hay năm, sáu đại thiên thế giới, mười mấy đại thiên thế giới cũng có; Phật cũng có phước báo to hay nhỏ khác nhau! Nguyên nhân do đâu? Trong khi
tu nhân, tâm lượng khác nhau, cho nên [khi thành Phật] cảm quả cũng chẳng
giống
nhau. Trừ điều này ra, chẳng có gì khác biệt. Đây là nói “duyên hóa độ chúng sanh” không giống nhau. Vì vậy, người học Phật phải rộng kết pháp duyên với hết thảy chúng sanh; trong tương lai, quý vị thành Phật sẽ độ người khác đông đảo. Rộng kết pháp duyên rất quan trọng! Đức Phật thị
hiện trong các cõi Phật khác nhau đều do có duyên, chẳng thể nói là “không có duyên”, đều có duyên, duyên ấy rất phức tạp. Dùng phương pháp ổn thỏa, thích đáng, đơn giản, dễ dàng, nhanh chóng nào để giúp người khác có thể
trở về
tự tánh? Trở về tự tánh là thành Phật viên mãn, trở về nguồn cội, dùng phương pháp nào? Dùng phương pháp Niệm Phật của Tịnh Độ; do vậy, ngài Thiện
Đạo nói: “Duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải” (chỉ để nói bổn nguyện
của
Phật Di Đà). Kinh
ấy là kinh gì? Kinh Vô Lượng Thọ. Vì thế, kinh Vô Lượng Thọ được gọi kinh bậc nhất trong Tịnh Tông. Tịnh Độ Tông thật đơn giản, kinh điển để làm căn cứ gồm năm thứ. Thuở ấy, đức Thế Tôn giảng ba
thứ, tức là ba bộ kinh, [thường gọi là] Tịnh Độ Tam Kinh:
Vô Lượng Thọ Kinh, A Di Đà Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Phân lượng
cũng
chẳng lớn. Nếu chỉ là kinh văn của ba bộ kinh, tức là chánh
kinh
không có phần chú giải, in chung lại thành một quyển mỏng tanh, phân lượng rất ít, đơn giản, dễ dàng, nhưng thành tựu vô cùng thù thắng. Thiện Đạo đại sư cho
chúng ta biết điều này.
Chúng ta phải tin tưởng, gặp được pháp môn này chính là cơ duyên hy
hữu
trong một đời này! Quý vị có được cơ hội này, có thể trở về tự tánh, có thể viên thành Phật đạo, khó thể gặp gỡ cơ hội này. Bởi lẽ, “thân người khó được, Phật
pháp khó gặp”.
Chúng ta được làm thân người, gặp gỡ Phật
pháp, lại gặp được pháp môn thù thắng khôn sánh trong Phật pháp, phải trân
quý cơ duyên
này. Pháp môn này còn gọi là “pháp khó tin”, do phương pháp quá đơn giản, quá dễ dàng, nên rất nhiều vị Bồ Tát chẳng tin!
Nói
theo Lý, phải hết vọng mới có thể quay về nguồn
được, tám vạn bốn ngàn pháp môn
đều chẳng tách lìa nguyên tắc này. “Vọng” là phiền não. Ba loại phiền não tỉnh, từ trong lục đạo
tỉnh giấc mộng lớn bèn là A La Hán, lục đạo
chẳng còn
nữa!
Lục đạo chẳng còn, đã tỉnh; vì sao quý vị vẫn còn ở trong mộng? Quý vị còn có phân
biệt, còn có vọng
tưởng, [những thứ này] vẫn là phiền não,
nhẹ
hơn Kiến Tư phiền não một tí, nhưng vẫn còn. Nếu phân biệt cũng buông xuống, chẳng
còn
phân biệt nữa, không chỉ là chẳng
phân biệt, mà vọng tưởng cũng buông xuống. Vọng tưởng là gì? Tôi thường gọi nó là
“khởi tâm, động niệm”. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, chẳng khởi tâm,
chẳng động niệm. Khởi tâm động niệm đều không có, đương
nhiên chẳng có phân biệt, chấp trước, quý vị thật sự tỉnh mộng. Hễ tỉnh thì tứ thánh pháp
giới đều không có,
tức
là mười pháp giới chẳng có. Mười pháp giới bao gồm
lục
đạo, dưới là lục đạo, trên là tứ thánh, tứ thánh là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật; Phật [trong tứ thánh pháp giới] cũng chẳng thật! Phải
biết điều này! Đừng nên chấp trước, chớ nên phân biệt! Sau khi buông
xuống những điều này, chẳng thấy tứ thánh pháp giới nữa, quý vị thật sự
tỉnh khỏi mộng cảnh. Khi tỉnh ấy, vẫn còn có tướng cảnh giới, vẫn còn có tướng, tướng gì vậy? Chúng
ta thường gọi nó là Nhất Chân pháp giới, là cõi
Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Chúng ta nói thế giới Cực
Lạc, kinh Hoa Nghiêm
nói
thế giới Hoa Tạng, chúng đều là những cõi Thật
Báo
của Như Lai. Nói tới cõi Thật Báo của Như Lai, quý vị phải nhớ: Nó là
cõi Thật Báo của chính mình, Tự - Tha bất nhị, Tha là chư Phật Như Lai, thật sự chẳng hai!
Do vậy, trong mấy năm gần đây, chúng tôi cực lực đề xướng: Phật sự
sử dụng trong Tịnh Tông là Tam Thời Hệ Niệm do thiền sư Trung Phong
biên soạn, Ngài là bậc đại đức trong Thiền Tông. Quý vị thấy Ngài biên soạn
nghi thức Hệ Niệm hoàn toàn dùng [giáo nghĩa] Tịnh Độ, cõi âm lẫn dương
gian đều được lợi ích. Lão nhân gia nói rất rõ ràng: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh
Độ”, Di Đà ở đâu? Di Đà là tự tánh, Tịnh Độ cũng là tự tánh; tâm và
tánh là một, chẳng hai. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ, sẽ biết chư Phật Như Lai và hết thảy
chúng
sanh có mối quan hệ mật thiết với bản thân
chúng
ta. Nói tới “quan hệ” thì mối
quan hệ ấy thuộc loại luân lý, tức là quan hệ nói theo phương diện luân lý. Kinh giáo Đại Thừa giảng quan hệ rất thấu triệt, giảng
đến mức viên mãn rốt ráo: Trọn
khắp pháp giới hư không giới, trên là chư Phật, dưới là chúng sanh, có cùng một Thể với chính mình, chẳng phải là
“một nhà”, mà là “một Thể”. Nói tới mối quan hệ này. Do vậy, lòng yêu
thương ấy được gọi là Vô Duyên Đại Từ, Từ là lòng yêu thương, quan tâm,
Vô Duyên là chẳng có
điều kiện; Đồng Thể Đại Bi, Bi
là thương xót, thương
xót hết thảy chúng sanh mê mất tự tánh. Phải biết: Họ và chúng ta là một
Thể, chẳng phải là người ngoài, mà là Đồng Thể. Vô Duyên là giúp đỡ họ vô
điều kiện. Vì thế, trong nhân gian có lòng Chân Ái (lòng yêu thương chân
thật), Chân Ái là lòng yêu thương của Phật, Bồ Tát, là đại từ đại bi. Thật
đấy!
Bậc
giác ngộ thì có, còn kẻ mê mất tự tánh chẳng phải là không
có, nhưng kẻ ấy bị mê, do mê nên lòng Chân Ái bị biến chất. Do vậy, trong kinh đức Phật gọi lòng yêu thương ấy (lòng yêu thương của kẻ mê mất chân tánh)
là
Hữu Ái Duyên Từ, như trong thế gian hiện thời, lòng thương yêu của cha mẹ đối với con cái gọi là Ái Duyên, có lòng từ bi, nhưng
từ bi đối với kẻ có
quan hệ máu mủ, ruột thịt, bị chi phối
bởi mối quan hệ này. Lại có Chúng
Sanh Duyên Từ
Bi,
tâm lượng lớn hơn một chút, yêu thương chính
mình, mà cũng
có thể yêu thương người khác. Câu “phàm thị nhân, giai tu ái” (phàm
là
người, đều phải yêu) trong Đệ Tử Quy chính
là
Chúng Sanh Duyên Từ Bi. Bồ Tát có Pháp Duyên
Từ Bi, lại cao hơn một tầng nữa, các Ngài liễu giải chân tướng
sự thật. Thật sự đạt đến minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, đó
là
lòng từ bi của Phật. [Lòng từ bi ấy] chẳng
có điều kiện, đấy mới là Chân
Ái.
Những lòng Ái khác có điều kiện, còn lòng Ái này chẳng có điều kiện.
Chúng ta hiểu rõ đạo lý này thì học Phật mới tìm được người thân thật sự!
Chúng ta giống trẻ nhỏ mê mất phương hướng, thật sự tìm được cha mẹ, tìm
được người quan tâm, yêu thương chúng
ta rồi. Những người ấy là chư Phật, Pháp Thân Bồ Tát, các Ngài thật sự có thể giúp chúng ta phá mê khai ngộ, trở
về tự tánh, công đức viên mãn. Bởi lẽ, chỗ khác nhau giữa chúng sanh và Phật là mê hay ngộ; trừ mê và ngộ ra, chẳng có gì khác nhau! Trong giáo
pháp Đại Thừa, quý vị càng đọc, càng hiểu rõ,
càng minh
bạch, đọc đến cuối cùng, quý vị hoát nhiên hiểu rõ, “nguyên
lai đương hạ”, tức là ở ngay nơi này, ngay trong lúc này!
Tịnh Tông thật sự khó tin, đặc biệt là đối với những phần tử tri thức. Tôi học Phật là do tiên sinh Phương
Đông
Mỹ giới thiệu. Lúc trẻ cũng theo
học
trong nhà trường, chịu ảnh hưởng của các giáo viên, nghĩ Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, lại còn là đa thần giáo (polytheism),
phiếm thần giáo (pantheism) trong các tôn giáo, là một tôn giáo thuộc loại thấp. Tôn giáo bậc cao chỉ nói tới một vị chân
thần. Qua biểu hiện, Phật giáo thật sự là mê tín, thuở ấy, tôi chẳng liễu giải. Trong xã hội hiện thời, kẻ chẳng liễu giải càng
nhiều! Tôi học Triết Học với thầy Phương. Trong khóa học cuối cùng, thầy giảng Triết Học trong
kinh
Phật, tôi nói: “Phật giáo là tôn giáo, mê tín, là phiếm thần giáo, kiếm đâu ra Triết Học?” Thầy bảo tôi: “Anh không
biết, tuổi anh còn trẻ, Thích
Ca Mâu Ni Phật là một triết gia vĩ đại nhất trên thế
giới. Triết Học trong kinh Phật là đỉnh cao nhất trong Triết Học trên toàn thể thế giới”. Lúc ấy, thầy bảo tôi như thế này: “Học Phật là sự hưởng thụ tối
cao trong đời người”. Trong khóa học ấy, tôi tiếp nhận Triết Học từ kinh
Phật như vậy, mới thay đổi quan niệm sai lầm trong quá khứ, nhận thức Phật giáo bằng nhãn quan mới. Duyên của tôi rất thù thắng, sau khi thầy Phương giới thiệu Phật giáo cho tôi biết, không đầy hai tháng sau, tôi có cơ hội quen biết Chương Gia đại sư, do một thân vương Mông Cổ cuối đời Thanh giới
thiệu cho tôi quen biết Chương Gia đại sư. Khi đó, tôi vừa tiếp xúc Phật pháp, đây cũng là do thầy Phương từ bi, chỉ cho tôi đường lối học tập. Thầy
nói Phật pháp chẳng ở trong chùa chiền, ở đâu? Trong kinh điển. Anh muốn thật sự tìm được Phật giáo, phải tìm từ kinh điển. Sự hướng dẫn này vô cùng
quan trọng, do vậy, tôi thủy chung cảm
tạ ân đức thầy; bởi lẽ, không có sự
chỉ điểm ấy, chúng tôi sẽ thỉnh giáo người xuất gia. Nhiều kẻ xuất gia vứt bỏ kinh
giáo, chẳng học tập, chẳng thể thuyết pháp, trong tình hình ấy, chắc
chắn chúng tôi sẽ hoài nghi, lòng tin chẳng còn nữa! Do cụ Phương biết [Phật pháp] ở trong kinh điển, cụ nói thuở xưa, người xuất gia và tại gia học Phật đều những bậc học vấn lỗi lạc, thật sự là đại đức, đại triết, hiện nay rất hiếm [những người như vậy].
Sau khi tôi tiếp xúc Chương Gia đại sư, Ngài dạy tôi học về Thích Ca Mâu
Ni Phật, bảo tôi hãy xem hai tài liệu. Hai tài liệu ấy ở trong Đại Tạng Kinh, thuở ấy chưa có bản lưu hành riêng, đó là Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí1. Lão nhân gia rất từ bi: “Anh muốn học Phật, trước hết, anh
phải nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật, sẽ chẳng đi lòng vòng”. Sau khi đọc xong hai tài liệu ấy, tôi mới biết Thích Ca Mâu Ni Phật quả thật rất vĩ đại. Nói theo cách bây giờ, Ngài là nhà giáo dục, chẳng vướng mắc trong tôn
giáo. Xuất thân từ dòng dõi vua chúa, phụ thân Ngài là quốc vương. Cổ Ấn
Độ thuở ấy chẳng khác thời Xuân Thu Chiến Quốc của Trung
Hoa
cho mấy,
đều là có rất nhiều quốc gia nhỏ. Ngài là vương tử, mười chín tuổi rời khỏi
gia
đình, đi tham học. Do vậy, chúng ta biết Thích Ca Mâu Ni Phật tuổi
thanh niên vô cùng hiếu học, rời khỏi gia đình để cầu học, cuộc sống rất khổ
sở,
giống như vị Tăng khổ hạnh. Ấn Độ [thuở ấy] quả thật là một nơi tốt đẹp.
Thuở ấy, học thuật trên địa cầu này, đặc biệt là Triết Học, có thể coi như Ấn
Độ đứng đầu thế giới. Tôn giáo cũng giống như thế, Ấn
Độ là xứ sở
tôn
giáo, tất cả các bậc đại đức trong tôn giáo Ngài đều gặp gỡ, học tập; lại
còn học hết sức nghiêm túc, tất cả các học phái Ngài cũng đều học qua. Khi ấy, phong
khí
Thiền Định
ở Ấn Độ rất thịnh, bất luận tôn giáo hay học thuật đều coi trọng Thiền Định. Tứ
Thiền Bát Định nói trong kinh Phật chẳng phải
do Thích Ca Mâu Ni Phật đề xướng. Chẳng phải vậy! Tôn giáo lẫn học thuật
của
Cổ Ấn Độ đều học những môn này, đương nhiên, chàng thanh niên Thích Ca Mâu Ni cũng không ra ngoài lệ ấy.
Thiền Định có thể đột phá các chiều không gian (spatial dimensions), cho nên phát hiện lục đạo. Lục đạo là thật, chẳng giả. Quý vị tu Định đến
một trình độ nhất định, sẽ thấy giống như họ đã thấy: “Hoàn
toàn
giống như các vị đã nói!” Người thấy [những điều này] nhiều lắm! Phía trên là từ hai mươi
tám tầng trời, phía dưới đến A Tỳ địa ngục, họ hiểu rành rẽ tình trạng
trong toàn thể lục đạo,
nhưng nếu hỏi: “Lục đạo do đâu mà có? Vì sao có lục đạo? Ngoài lục đạo ở ngoài
còn
có thế giới hay chăng?” Vấn đề này, không
chỉ hết thảy các tôn giáo của Ấn Độ chẳng có cách nào trả lời, mà những
triết gia Ấn Độ cũng chẳng thể giải đáp. Thích
Ca Mâu Ni Phật tu mười hai năm, đến năm ba mươi
tuổi, thôi học tập, học mười hai năm, rốt cuộc đã tốt
nghiệp, buông bỏ, tịnh tọa dưới
cội
cây Tất Bát La (Pippala) bên bờ sông Hằng, khai ngộ. Cây ấy về sau được gọi là “Bồ Đề thụ”. Bồ Đề (Boddhi) có nghĩa
là “giác ngộ”. Ngài đại
triệt đại ngộ ở nơi
ấy. Nhập Thiền Định càng sâu hơn, Thiền
Định
gì vậy? Trong
kinh
Lăng Nghiêm, Định
ấy được gọi là Thủ Lăng Nghiêm
Đại
Định, kinh Hoa Nghiêm
gọi Định ấy là Sư Tử Phấn Tấn tam-muội, đó là kiến tánh; đó cũng là nói: Thật sự buông
“khởi tâm, động
niệm” xuống. Chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn khôi phục tự
tánh, mới thật sự hiểu rõ ràng, rành rẽ chân tướng của vũ trụ và nhân sinh.
Lục đạo luân hồi là chuyện nhỏ nhặt, quá nhỏ bé, thảy
đều
hiểu rõ ràng,
đương
nhiên hết sức vui sướng, Ngài bèn tường thuật, báo cáo tỉ mỉ cảnh giới này. Nói với ai? Nói với con người, người ta nghe chẳng hiểu! Đừng nói người thế gian chúng
ta nghe không hiểu, chư thiên trong hai mươi tám tầng
trời
nghe cũng không
hiểu; bởi lẽ, Ngài giảng trong Định. Chúng
ta thấy
Thích Ca Mâu Ni Phật tịnh tọa dưới cội Bồ Đề, đâu biết Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm
nơi ấy. Kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới khai ngộ của đức Thế Tôn. Ngài nói cặn kẽ, nêu bày toàn bộ.
Nói
trong bao nhiêu ngày? Theo kinh chép thì là “hai thất”, tức mười bốn ngày, cũng có kinh bảo là giảng trong hai mươi mốt ngày. Chúng ta có thể không cần quan tâm đến chuyện này,
cũng không cần phải khảo chứng, đừng phân biệt, chấp trước chuyện này. Tối đa là hai mươi mốt ngày, giảng trong Định!
(còn tiếp)
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment