Các bà ăn
thịt heo, thịt gà, so với lúc tuổi thơ, tuổi
thiếu niên, thấy có cùng mùi vị hay chăng?” Bà ta suy
nghĩ ba bốn phút, rồi cho biết: “Khác hẳn!” Chúng
ta là người ăn chay, hãy suy nghĩ cẩn thận,
nay chúng ta ăn rau, những thứ rau thường ăn,
cải bẹ trắng cũng vậy, rau giền cũng thế,
củ cải cũng thế, đặc biệt là các loại
nấm, có giống như sáu mươi năm trước
hay không?
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần
3
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
TẬP 06
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ tư, hàng thứ
bảy. Đây là đoạn thứ hai, chúng ta vẫn đọc
từ đầu.
“Vương thị hội kinh, tuy đại hữu
công ư Tịnh Tông, đản sở hội chi bổn phả
đa suyễn ngộ. Bạch khuê chi hà, hiền giả
tích chi. Liên Trì đại sư vị kỳ: Sao tiền trước
hậu, khử thủ vị tận. Bành Thiệu Thăng
cư sĩ xích chi vi: Lăng loạn quai suyễn, bất hợp
viên chỉ” (Họ
Vương hội tập kinh, tuy có công lớn đối
với Tịnh Tông, nhưng bản hội tập của ông
ta có lắm sai lầm. Bạch khuê có vết, người hiền
tiếc nuối. Liên Trì đại sư bảo: “Sao chép kinh
văn trong phần trước, ghép thêm lời văn của
chính mình sáng tác vào sau đó, lấy bỏ chưa trọn hết”.
Cư sĩ Bành Thiệu Thăng chê trách: “Rối ren, sai lạc,
chẳng hợp ý chỉ viên dung”). Chúng ta xem trước chỗ
này. Trong phần trước, tôi đã giới thiệu các
phiên bản kinh Vô Lượng Thọ hiện đang được
lưu thông, ngoài năm bản dịch gốc ra, còn có bốn
bản nữa: Ba bản là bản hội tập, một bản
là bản tiết lục. Nhân tiện, tôi giới thiệu ở
đây. “Vương thị”
(họ Vương) là Vương Long Thư, hay Vương
Nhật Hưu, hội tập kinh Vô Lượng Thọ sớm
nhất. Có thể thấy là từ rất sớm đã có người
chú ý tới vấn đề này. Các phiên bản nhiều lắm,
mà nội dung sai biệt rất lớn. Nếu bảo năm
bản đều cùng đọc, quả thật rất phiền;
đọc một loại, sẽ chẳng thấy những
điều được nói trong bốn bản kia, trong bốn
bản kia có rất nhiều kinh văn không có trong bản này,
rất đáng tiếc! Vì thế, đó là một nhân tố
quan trọng khiến cho những bản này được
lưu thông rất ít. Cư sĩ Vương Long Thư là người
đời Tống, trong phần trên đã giới thiệu:
Ông ta trước tác rất phong phú, niệm Phật thật
sự có công phu, khi vãng sanh là đứng mất. Bộ Tịnh
Độ Văn của ông ta vô cùng hay, cũng có thể dùng
để học Quốc Văn. Trong phần trước,
tôi đã từng giới thiệu với quý vị, Trúc Song
Tùy Bút của Liên Trì đại sư, Linh Phong Tông Luận của
Ngẫu Ích đại sư, và Tịnh Độ Văn của
cư sĩ Vương Long Thư cũng hết sức hay,
văn tự hết sức khá, đều là những tác phẩm
văn chương hay của các bậc đại đức
trong Tịnh Tông. Chúng ta học văn chương Văn Ngôn,
coi những tác phẩm ấy như sách để học Quốc
Văn, rất tốt!
Sau khi bản
hội tập của ông ta ra đời, được
lưu thông rất rộng. Quý vị thấy Đại Chánh
Tạng của Nhật Bản và Long Tạng được
biên tập dưới đời vua Càn Long đều nhập
tạng bản này. Có thể đưa vào Đại Tạng
Kinh tức là được các vị đại đức
thuở ấy chấp nhận. Thế nhưng bản của
ông ta vẫn có sai lầm, “suyễn
ngộ” (舛誤) là sai lầm,
còn có những sai sót. “Bạch
khuê chi hà, hiền giả tích chi” (bạch khuê có vết, người
hiền xót xa), hai câu này thể hiện ý tiếc hận: Đáng
tiếc là ông ta làm chưa viên mãn, còn có khuyết điểm!
Liên Trì đại sư cũng hết sức bội phục
ông Vương. Trong bộ Di Đà Kinh Sớ Sao, đây là một
tác phẩm rất to lớn, kinh văn kinh Vô Lượng
Thọ được trích dẫn trong ấy, quá nửa là
trích từ bản hội tập của cư sĩ Long
Thư, đây cũng là khẳng định [giá trị] của
bản hội tập ấy. Đương nhiên, bản ấy
chẳng thể tận thiện, tận mỹ, nên Liên Trì
đại sư cũng phê bình, bảo bản này của họ
Vương “sao chép kinh văn
trong phần trước, ghép phần trước tác của
chính mình vào phần sau, lấy bỏ chưa trọn vẹn”.
Hai câu này trong phần sau đều có giải thích. Bành Thiệu
Thăng có tiết bổn, chẳng phải là hội tập,
chỉ lấy bản của ngài Khang Tăng Khải. Bản
dịch của ngài Khang Tăng Khải cũng chẳng dễ
đọc cho lắm, ông Bành đem chỉnh lý một lần nữa, soạn thành bản mới,
gạt bỏ những chỗ trúc trắc, thiếu trôi chảy,
cho nên bản dịch này đọc lên rất lưu loát,
coi như là một bản kinh hay, nhưng chẳng thể coi
là bản hội tập, mà coi là tiết bổn (bản
rút gọn, trích yếu, có phân chương đoạn). Ông
ta cũng phê bình bản hội tập của cư sĩ Long
Thư, bảo là “lăng loạn
quai suyễn, bất hợp viên chỉ” (rối ren sai lầm,
chẳng hợp ý chỉ viên dung), cũng là nói bản hội
tập của ông ta chưa hoàn mỹ. Chẳng thể bảo
ông Vương không có công lao gì! Quả thật là công lao
cũng chẳng thể xóa sạch, nhưng chưa phải
là bản hoàn mỹ. Đây là một chuyện rất đáng
tiếc!
Tiếp đó là lời
giải thích của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: “Kim bút giả” (nay người
viết), nói về người cầm bút viết bản
chú giải này, tức là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
“ngưỡng thừa cổ
đức chư thuyết” (kính vâng theo các nhận định
của cổ đức), nói theo cách hiện thời là “căn
cứ trên cách nói của cổ đại đức”, “thiết kê Vương thị
chi thất” (trộm kể ra những khuyết điểm
của họ Vương), “thiết
kê” (竊計) là theo cách so sánh, cách nghĩ của riêng
tôi, bản hội tập của cư sĩ Long Thư tối
thiểu có ba chỗ sai sót. Thứ nhất là: “Vương thị hội tập,
cẩn cứ tứ chủng, vị cập Đường
dịch. Đường dịch danh Vô Lượng Thọ
Như Lai Hội, xuất tự Đại Bảo Tích Kinh,
nãi Bồ Đề Lưu Chí đại sư sở dịch,
đa áo diệu tinh yếu chi văn, vi tha dịch sở vô”
(Bản hội tập của họ Vương chỉ dựa
trên bốn bản dịch, chưa có bản dịch đời
Đường. Bản dịch đời Đường
có tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội trích từ
kinh Đại Bảo Tích do Bồ Đề Lưu Chí đại
sư dịch, kinh văn có nhiều chỗ uyên áo, huyền
diệu, tinh tường, trọng yếu mà những bản
dịch khác không có). “Tha dịch”
là bốn bản dịch gốc kia, trong ấy không có những
điều [được nói trong bản Đường
dịch]; quả thật cư sĩ Long Thư cả đời
chưa thấy bản Như Lai Hội trong kinh Đại
Bảo Tích. Từ chỗ này, chúng ta mới hiểu vào thời
cổ, có được kinh sách đâu phải dễ! Vì
thuở ấy, kinh sách đều vẫn phải chép bằng
tay. Vì thế, trong kinh sách cổ truyền có chữ sai là chuyện
khó tránh. Một bộ kinh phân lượng to như vậy,
khó tránh khỏi chép thiếu, hoặc chép sai một chữ,
hết sức khó tránh chuyện này! Bản này (tức bản
Đường dịch), như lão cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ đã nói: Có nhiều đoạn văn tự “áo diệu tinh yếu” (sâu xa,
huyền nhiệm, tinh tế, quan trọng) chẳng thấy
có trong bốn bản dịch kia, đương nhiên đây
là điều sai sót. Đây là chỗ chẳng viên mãn thứ
nhất, tức là ông Vương chưa đọc trọn
năm bản dịch gốc. Đó là điều thứ
nhất.
Thứ hai, “khử thủ vị tận”
(lấy, bỏ chưa trọn hết). Đây là lời Liên
Trì đại sư phê bình, chê lão nhân gia (ông Vương Nhật
Hưu) chọn và bỏ chưa trọn vẹn, tức là nói
“thủ phồn di yếu, cải
thâm vi thiển” (lấy chỗ rườm rà, bỏ chỗ
quan trọng; sửa chỗ sâu thành cạn), ông ta mắc phải
khuyết điểm này! Những chỗ rườm rà đáng
nên tinh giản, ông ta vẫn cứ chép vào [bản hội tập];
những thứ quan trọng bị bỏ sót, vì sơ ý mà bỏ
sót. Nêu ra thí dụ nhằm chứng tỏ lời [phê phán] này
chẳng phải là nói tùy tiện: “Lệ như Liên Trì đại sư sở trách: Như
tam bối vãng sanh” (Chẳng hạn như Liên Trì đại
sư đã trách: Như trong phần ba bậc vãng sanh), trong
đoạn kinh văn này, “Ngụy
dịch giai viết phát Bồ Đề tâm” (bản dịch
đời Ngụy ghi cả ba bậc đều phát Bồ
Đề tâm), chữ “Ngụy”
chỉ [bản dịch của] ngài Khang Tăng Khải; trong
bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, ba bậc vãng
sanh đều phát Bồ Đề tâm, nhưng trong bản
hội tập của Vương Long Thư, chỉ có bậc
trung là phát Bồ Đề tâm, bậc hạ chẳng phát,
chẳng hề phát Bồ Đề tâm, trong bậc thượng
cũng chẳng nói, không đề cập. “Tắc cao hạ thất thứ, cố vân vị tận”
(tức là thứ bậc cao thấp bị mất, cho nên
bảo là “chưa trọn hết”), đây là nói “khử thủ vị tận”.
Lời Ngài nói có căn cứ, Ngài bảo: “Do thượng lệ khả kiến, thượng
cánh bất ngôn” (Do dựa theo điều này (bậc
trung đã phát Bồ Đề tâm), có thể thấy [bậc
thượng phải phát Bồ Đề tâm], nhưng
[trong bản hội tập] bậc thượng hoàn toàn chẳng
nói [phát Bồ Đề tâm, đó là điều vô lý]), “thượng” là thượng
bối vãng sanh, [bản hội tập của ông Vương]
chẳng nói tới phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề
tâm quan trọng lắm! Đây là “di
yếu”, nghĩa là bỏ sót điều quan trọng! Đối
với bậc Hạ, [chánh kinh] cũng nói là phát Bồ
Đề tâm, nhưng ông ta viết là “chẳng phát”, tức là bậc Hạ có thể chẳng
cần phát Bồ Đề tâm, [đó là] “cải thâm vi thiển” (sửa sâu thành cạn). Đây
là những chỗ Liên Trì đại sư và Bành cư
sĩ chê trách ông Vương, thật sự có căn cứ,
chẳng phải là nói tùy tiện!
Thứ
ba, “suất ý tăng văn,
nghiễm nhược tự trước” (tùy tiện tăng
thêm văn tự, nghiễm nhiên tự soạn thêm), “suất ý” (率意) là tùy ý, tăng thêm văn tự, giống
như chính mình sáng tác, điều này không thể chấp nhận!
Phiên dịch thì được! Nếu quý vị dịch từ
tiếng Phạn sang tiếng Hán thì chấp nhận được,
vì quý vị phải châm chước dùng câu chữ nào [cho lời
văn gãy gọn, dễ hiểu, nhưng không sai ý]! Hội
tập thì không thể, hội tập nhất định
phải dùng nguyên văn [từ các bản dịch gốc], chẳng
thể thay đổi văn tự, Ấn Quang đại
sư hết sức coi trọng chuyện này. Bởi lẽ,
tùy tiện sửa đổi văn tự, tôi nghĩ dùng câu
chữ theo kiểu này mới hay, tôi bèn sửa; quý vị cho
rằng hành văn theo kiểu kia mới hay, quý vị lại
sửa. Sửa tới, sửa lui, đến cuối cùng
chẳng còn cách nào đọc [nguyên dạng] kinh Phật nữa!
Do vậy, phải tôn trọng lời dịch gốc, nhất
định chớ nên sửa đổi. Dẫu nhận thấy
[câu văn hay đoạn văn ấy] có vấn đề,
có thể ghi chú bên cạnh, chẳng thể sửa chữ
của người ta, đây là quy củ. Do vậy, chỗ
này là sơ sót. “Cố Liên Trì
đại sư trách viết” (Vì thế, Liên Trì đại
sư trách rằng), quở trách ông Vương: “Sao tiền trước hậu,
vị thuận dịch pháp” (sao chép kinh văn trong phần
trước, ghép thêm lời văn của chính mình sáng tác vào
sau đó, chưa tuân thủ cách dịch). Ngay sau đó, cụ
Hoàng giảng rõ: “Cái trách kỳ
sao dẫn kinh văn ư tiền” (ấy là chê trách [ông
Vương] đã sao lục kinh văn trong phần trước),
đó là “sao tiền”, “phục hựu tự trước
cú tự ư hậu” (lại đem những câu chữ
do mình đặt ra, ghép vào phía sau), ghép ý kiến của chính
mình vào sau kinh văn, cũng giống như chính mình dịch
vậy, sai lầm rồi! Phía sau [mỗi đoạn kinh],
nếu có kiến giải, có thể dùng chữ nhỏ ghi chú
bên cạnh, nhất định chẳng ghi lẫn lộn
vào kinh văn. Đây là một điều kỵ húy rất
lớn. Đó gọi là “sao tiền,
trước hậu, vị thuận dịch pháp”. Dịch
kinh có quy củ dịch kinh; ở đây là đã vi phạm
quy củ dịch kinh, ông ta cũng chẳng phải là phiên
dịch, mà là hội tập.
Tiếp đó, cụ
Hoàng giảng: “Cái thị hội
tập, tất tu y cứ nguyên kinh, vạn vạn bất
khả ư nguyên dịch ngoại thiện tăng văn cú”
(Đã là hội tập, cần phải dựa theo nguyên văn
của bản dịch, muôn vàn chẳng thể tự tiện
thêm câu văn [do chính mình đặt ra]). Cư sĩ Long
Thư phạm quy củ này: Anh hội tập, chẳng phải
là phiên dịch! Anh phiên dịch thì được, chính anh
châm chước nên dùng chữ gì, dùng từ gì để dịch
ý nghĩa tiếng Phạn này, được phép làm như
thế! Nhưng hội tập thì không được! Bởi
lẽ, anh chẳng dựa trên nguyên văn bằng tiếng
Phạn, mà dùng bản dịch do người khác đã dịch
sang tiếng Hán. Anh nhất định phải tôn trọng, phải tuân theo nguyên văn, chẳng thể
thay đổi, động chạm chữ nào. Đây là quy
củ hội tập. Vậy thì cư sĩ Long Thư
đã sửa đổi, sửa có khéo hay không? Sửa thật
khéo! Tuy sửa thật khéo, nhưng đã phá hoại quy củ,
không được rồi! Quý vị chẳng thể phá hoại
quy củ, chẳng thể tạo ra tiền lệ này!
Quý vị đã sửa được, người khác
cũng có thể sửa. Đối với quý vị thì
không có vấn đề gì, đối với kinh Phật,
sự tu dưỡng của quý vị đã đạt tới
tiêu chuẩn, công phu và cảnh giới tu trì cũng đạt
tới, quý vị có sửa cũng chẳng sao, nhưng hễ
tạo nên tiền lệ này, người đời sau sẽ
như thế nào? Người đời sau tuy chưa có trình
độ như quý vị mà cũng sửa chữa: Cư
sĩ Vương Long Thư đã có thể sửa, lẽ
nào ta chẳng thể sửa? Hễ tiền lệ này được
lập ra, sau này, những tệ đoan sẽ xuất hiện.
Nói thật
ra, [bản hội tập của] Vương Long Thư có
vấn đề, bản của Ngụy Mặc Thâm
cũng có vấn đề. Chúng ta xem kỹ, ông ta sửa có
khéo hay không? Sửa đúng là khéo lắm, nhưng nếu quý
vị nghĩ tới những tác hại về sau, đáng sợ
lắm! Không thể tạo nên tiền lệ này! Chẳng
phải là nói ông ta sửa không hay, mà là nói chẳng thể lập
ra tiền lệ. Phải như thế nào mới trọn
vẹn đôi bề? Tôi vừa mới nói đấy thôi,
dùng chữ nhỏ ghi chú bên cạnh thì được, cách
này có thể tận thiện tận mỹ. Do vậy, đây
là: “Cố trách Vương thị
vị thuận dịch pháp. Do thượng khả kiến
Vương thị chi thất” (vì thế, mới trách là
ông Vương chưa tuân theo cách dịch. Do những điều
trên đây, có thể thấy khuyết điểm của họ
Vương). Do ông ta có những chỗ thiếu sót, bản
hội tập này có những chỗ sai sót, “phi thị bất ưng hội tập, nhi tại
ư hội bổn chi đa tỳ dã” (chẳng phải
là không nên hội tập, mà do trong bản hội tập có
nhiều tỳ vết). Đó là tỳ vết. Do có những
tỳ vết, nên chẳng thể gọi là “tận thiện
tận mỹ”. Đây là kiến thức thông thường,
nhưng là một kiến thức thông thường rất
quan trọng: Chúng ta học Phật, cần phải tôn trọng
kinh điển. Chẳng thể tùy tiện sửa đổi
nguyên văn kinh điển, mà đối với chú giải
của cổ đại đức cũng chớ nên tùy tiện
thêm bớt văn tự. Cổ đức có thể chú giải
bộ kinh này, bản chú giải ấy có thể lưu truyền
cho tới hiện thời, nói chung là mấy trăm năm,
trong mấy trăm năm ấy, người đọc tác
phẩm ấy rất nhiều. Quý vị thấy cổ
nhân đều tôn trọng, cớ sao chúng ta có thể tùy ý sửa
đổi văn tự? Đấy là chuyện rất thiếu
đạo đức. Chúng ta có ý kiến, có thể thêm ghi
chú vào bên cạnh, làm như vậy thì được!
Chúng ta lại
đọc đoạn tiếp theo: “Bành Thiệu Thăng cư sĩ hám ư Vương
bổn chi thất” (cư sĩ Bành Thiệu Thăng tiếc
nuối trước những khuyết điểm trong bản
hội tập của họ Vương). Đây là nói: Rất
đáng tiếc! Cảm thấy bản của ông Vương
là một bản hay, nhưng hết sức đáng tiếc
là có chút tỳ vết này, chưa hoàn mỹ. “Nãi thủ Ngụy dịch bổn
nhi san tiết chi” (bèn lấy bản Ngụy dịch mà gạn
lọc, trích lược), ông ta chỉ lấy một bản.
Chẳng thể coi việc làm này của ông ta là hội tập,
do chỉ lấy bản dịch của ngài Khang Tăng Khải
đời Tào Ngụy. Vào thời đại Tam Quốc, Tào
Tháo cầm quyền, [nên vương triều thời đó
gọi là] Tào Ngụy. Ngài Khang Tăng Khải là người
thuở đó. Bởi lẽ, trong thời đại Tam Quốc,
Phật pháp đã khá hưng thịnh, [trong lãnh thổ của
các vương triều] Ngụy, Thục, Ngô đều có
[Phật giáo], các địa phương đều có đạo
tràng Phật giáo. “Thị Vô
Lượng Thọ kinh chi đệ thất chủng” (là
phiên bản thứ bảy của kinh Vô Lượng Thọ),
bản của ông Vương Long Thư vừa nói trong phần
trên là loại thứ sáu. Năm loại trước là bản
dịch gốc, loại thứ sáu là bản hội tập
của Vương Long Thư, bản của Bành Thiệu Thăng
là loại thứ bảy. Loại thứ bảy là tiết
bổn, cũng được lưu thông, người ta cũng
thích đọc. “Đản thử
cẩn vi Ngụy dịch nhất chủng chi tiết bổn,
nhi phi chư dịch chi hội bổn” (Chỉ là một
bản trích lược của bản Ngụy dịch, chưa
phải là bản hội tập của các bản dịch).
Trong thời đại
hiện tại này, bản tiết bổn này là gì? Được
gọi là “kiến thức bùng nổ”. Quý vị thấy số
lượng sách so với xưa kia nhiều hơn bao nhiêu?
Trước đây, in ra một quyển sách chẳng dễ
dàng; hiện thời, nhất là do computer quá tiến bộ,
xuất bản một quyển sách là chuyện dễ ợt!
Chúng ta vào tiệm sách mà xem, trước kia, vào tiệm sách,
từ trường hết sức tốt đẹp, bước
vào thư viện hay tiệm sách, từ trường đặc
biệt tốt. Nay thì không còn nữa, hiện thời thỉnh
thoảng tôi đến tiệm sách tìm mấy cuốn sách,
vừa bước vào tiệm, [cảm nhận] từ trường
hết sức xấu, vì nguyên nhân gì? Chánh luận chẳng
còn nữa, đều là tà tri tà kiến, nên tạo thành cảm
giác hết sức lớn, hết sức rõ rệt. Lúc tôi còn
trẻ, thường la cà tiệm sách, quả thật là tối
thiểu những sách vở của cổ nhân chiếm phân
nửa, một nửa là của người thời nay, nửa
kia của cổ nhân. Hiện thời, tác phẩm của cổ
nhân ít ỏi. Chúng ta tới tiệm sách, sẽ thấy chỉ
là một góc nhỏ, những tác phẩm khác đều của
con người hiện thời. Vì thế, từ trường
rất bất hảo. Kiếm một nơi có từ trường
thanh tịnh thoải mái, gần như hiện nay tìm không ra,
do nguyên nhân gì? Tôi nghĩ mọi người chúng ta đều
biết: Ai phá hoại từ trường? Khoa học kỹ
thuật! Những thứ vừa mới được phát
minh đã phá hoại từ trường của cả địa
cầu!
Chúng ta hãy
quan sát cẩn thận cuộc sống của chúng ta. Những
thứ người bình thường ăn, đúng như kinh
Vô Lượng Thọ đã nói: “Ẩm
khổ thực độc” (ăn khổ, nuốt độc),
toàn ăn thứ độc địa. Thịt các động
vật, nếu là sáu mươi năm trước, chẳng
nói xa xôi, so với sáu mươi năm trước, người
bảy, tám mươi tuổi có thể nhớ lại, những
món thịt quý vị đã ăn lúc nhỏ có mùi vị giống
với thịt mình ăn trong hiện tại hay không? Tôi từng
hỏi sư mẫu của tôi, tức phu nhân của tiên
sinh Phương Đông Mỹ, tôi nêu ra câu hỏi: “Các bà ăn
thịt heo, thịt gà, so với lúc tuổi thơ, tuổi
thiếu niên, thấy có cùng mùi vị hay chăng?” Bà ta suy
nghĩ ba bốn phút, rồi cho biết: “Khác hẳn!” Chúng
ta là người ăn chay, hãy suy nghĩ cẩn thận,
nay chúng ta ăn rau, những thứ rau thường ăn,
cải bẹ trắng cũng vậy, rau giền cũng thế,
củ cải cũng thế, đặc biệt là các loại
nấm, có giống như sáu mươi năm trước
hay không? Quá khác biệt! Sáu mươi năm trước, vị
nấm đông cô ngon hơn nhiều, tuyệt hơn nhiều!
Hiện thời chẳng có mùi vị gì! Thấy chúng rất
lớn, hình dáng rất dễ ưa, nhưng chẳng có vị
gì hết! Rau dưa cũng chẳng tươi ngon như
trước, đều chẳng còn nữa, do nguyên nhân gì?
Thuốc trừ sâu và phân hóa học đã phá hoại rồi!
Do vậy, đất đai hiện thời có chất độc,
quý vị trồng thứ gì cũng đều có độc,
đây chẳng phải là “thực
độc” (ăn chất độc) ư? Đúng vậy!
Chẳng giả tí nào! Vì thế, người sống trong thế
gian này, càng sống càng vô vị, cuộc sống càng ngày càng
khổ sở. Khoa học hiện thời nói tới gì? Cơ
nhân (genes)! Phá hoại toàn bộ cơ nhân, phá hoại hoàn cảnh
thiên nhiên, phá hoại cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta coi
phần tiếp theo: “Ư thị,
vãn Thanh Ngụy Thừa Quán (tự Mặc Thâm) cư sĩ”
(Do vậy, vào cuối đời Thanh, cư sĩ Ngụy
Thừa Quán, tên tự là Mặc Thâm), chúng ta thường gọi
ông này là Ngụy Mặc Thâm, đáng ra phải
gọi là Ngụy Nguyên[6]. Ngụy cư sĩ là người
đời Thanh. Nói “vãn Thanh”
vì ông ta sống vào thời Hàm Phong. Chúng ta biết Từ Hy
Thái Hậu là phi tử của hoàng đế Hàm Phong[7].
“Vị cứu Long Thư chi thất,
thủ ngũ chủng nguyên dịch, lánh hành hội tập,
biệt thành nhất thư, sơ nhưng danh Vô Lượng
Thọ Kinh, hậu kinh Chánh Định Vương Canh Tâm thị
cải danh vi Ma Ha A Di Đà kinh” (Nhằm cứu chữa khuyết điểm
của ông Long Thư, bèn lấy năm bản dịch gốc,
tiến hành hội tập lần nữa, soạn thành một
bản khác, thoạt đầu vẫn gọi là Vô Lượng
Thọ Kinh; về sau, được ông Chánh Định
Vương Canh Tâm đổi tên thành Ma Ha A Di Đà Kinh). Bản
này hiện thời không được lưu thông, nhưng
trong Đại Tạng kinh thì có. Đây là bản thứ
tám của kinh Vô Lượng Thọ. “Ngụy bổn văn tự giản khiết, tinh
đáng, viễn quá Vương bổn” (bản của
ông Ngụy văn tự đơn giản, trong sáng, tinh vi,
thỏa đáng, vượt xa bản của ông Vương),
hội tập khá lắm, tiến bộ hơn bản của
ông Vương Long Thư. “Đản
suất tự tăng văn chi bệnh, vị năng tận
miễn, cố Ngụy bổn diệc vị tận thiện
dã” (Khuyết điểm tự tiện thêm lời văn
vào vẫn chưa thể hoàn toàn tránh khỏi, cho nên bản
của ông Ngụy cũng chưa phải là hoàn thiện).
Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư phê bình ông Ngụy
đã tùy tiện dựa theo ý mình, sửa chữa văn tự
trong kinh văn. Chuyện này, lúc chúng tôi mới học kinh
giáo với thầy Lý tại Đài Trung, thầy có nêu lên vấn
đề này. Ông ta sửa có khéo hay không? Sửa thật khéo
lắm, nhưng cũng là tạo ra tiền lệ. Quý vị
thấy Vương Long Thư đã lập ra tiền lệ
này, Ngụy Mặc Thâm lại noi theo lệ ấy, đáng
sợ quá! Sợ là sẽ tạo thành [tiền lệ] cho những
kẻ chưa đạt trình độ như vậy, chưa
có cảnh giới này, sẽ mặc sức sửa kinh. Vấn
đề này nghiêm trọng lắm!
Tiết bổn
như chúng tôi vừa mới nói, đối với xã hội
hiện tại rất cần thiết, vì người trong
xã hội hiện tại chuộng đơn giản. Quý vị
có một quyển kinh sách kích thước to như thế,
người ta chẳng muốn đọc, mà cũng chẳng
có thời gian đọc. Càng đơn giản càng hay, người
ta càng ưa thích, đặc biệt là đối với phần
tử tri thức. Do vậy, tôi cũng soạn tiết bổn,
biên soạn tiết bổn cho kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo; đối với Đệ Tử Quy, tôi
cũng soạn tiết bổn. Tiết bổn Thập Thiện
Nghiệp Đạo của tôi đại khái chỉ có sáu
trăm chữ, thuận tiện, mọi người đọc
sẽ vui vẻ, lưu thông dễ dàng. Tôi còn có một tiết
bổn nữa. Đó là tiết bổn cuốn Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông. Cuốn Giảng
Nghĩa phân lượng rất lớn, tôi trích lấy những
điều trọng yếu. Tôi đã từng giảng kinh Kim
Cang một lần, hình như là giảng Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa Tiết Yếu, dùng cuốn tiết bổn này để
giảng. Tiết bổn này cũng được lưu
thông, có thể nói là rất thuận tiện cho người
mới học. Quý vị muốn thâm nhập hãy đọc
nguyên bản. Trong thời đại hiện tại có nhu cầu
này!
Tiếp
theo đó là nói đến bản hội tập này, giới
thiệu nhân duyên khiến cư sĩ Hạ Liên Cư hội
tập. “Tiên sư Hạ Liên
Cư lão cư sĩ”, thầy của lão cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ đã qua đời, đã vãng sanh, nên gọi
là “tiên sư” lão cư sĩ
Hạ Liên Cư. Trước hết, giới thiệu giản
lược đức hạnh của lão cư sĩ. “Bi trí song vận”, cụ thật
sự có lòng từ bi, có trí huệ. Chữ “song” (雙) chỉ từ bi
và trí huệ, tự hành, hóa tha, “vận”
(運) là vận dụng để tự hành,
dạy người. Điều này khá khó khăn! Có những
người sẵn lòng từ bi nhưng thiếu trí huệ;
có kẻ có trí huệ lại thiếu lòng từ bi, không chịu
dạy người khác, đều chẳng hoàn bị. Có trí
huệ lại chịu dạy người khác, Bồ Tát
đấy! “Tông Thuyết câu
thông”, Tông (宗) là Thiền Tông,
Thuyết (說) là Giáo Hạ. Nói đến Đại
Thừa Phật pháp của Trung Quốc thì chính là Tông Môn và
Giáo Hạ. Do vậy, bản thân Phật giáo được
gọi là Tông, Giáo, chẳng liên quan gì đến [từ ngữ]
“tôn giáo” như chúng ta nói trong hiện thời, nhất định
phải biết điều này. Phật pháp tự xưng
là Tông Giáo, Tông ở đây là Thiền Tông, còn gọi là Tông Môn,
chín tông phái ngoài Thiền Tông đều gọi là Giáo Hạ.
Vì sao nói như thế? Phương thức giáo học khác
nhau! Thiền Tông là “ngộ hậu
khởi tu” (sau khi đã ngộ, sẽ tu). Khi chưa khai
ngộ, chẳng xem kinh giáo, chẳng đọc kinh điển.
Sau khi khai ngộ rồi mới xem kinh điển; còn Giáo Hạ
dốc sức nơi kinh điển trước, đến
cuối cùng là khai ngộ. Vì thế, đây là hai con đường
[khác nhau].
Như vậy
thì Thiền Tông thích ứng với căn tánh nào? Bậc
thượng thượng căn, đó là đối tượng
của Thiền, người thường không tu được,
chúng ta phải hiểu điều này. Người tầm
thường không tu Thiền được. Bởi lẽ,
chẳng phải là bậc thượng thượng
căn, nếu quý vị tham Thiền, tham suốt đời,
vẫn gọi là tham uổng công. Quý vị chẳng khai ngộ!
Nếu quý vị chẳng thể khai ngộ, sẽ chẳng
thể liễu sanh tử. Nói cách khác, đáng luân hồi như
thế nào thì vẫn luân hồi như thế ấy. Do vậy,
lúc tôi mới học Phật, ba vị thầy đều cảnh
cáo tôi đừng nên học Thiền Tông, quyết định
không thể học theo Lục Tổ Đàn Kinh, chẳng thể
học đòi ngài Huệ Năng. Họ thẳng thừng bảo
tôi: “Anh không hội đủ điều kiện!” Thầy
Phương giới thiệu Pháp Tướng Duy Thức và
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Thầy Lý
giới thiệu Tịnh Độ và Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm, đó là Giáo Hạ. Đối tượng
của Giáo Hạ là ba căn thượng, trung, hạ, dốc
sức nơi kinh điển, theo thứ tự tiến lên
dần dần, giống như đi học, quý vị học
từ Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, đến
nghiên cứu sinh, từ từ tiến lên. [Đối tượng
của] Thiền Tông là đứa trẻ thiên tài; nó chẳng
cần đến Tiểu Học, Trung Học, Đại Học,
chẳng hề cần, có thể vào ngay ban nghiên cứu sinh,
có bản lãnh này! Vì thế, thiếu bản lãnh này, chẳng
thể học theo họ được! Đúng là chẳng
thể tùy tiện học tập được!
Vì thế,
trong Phật pháp, giữa Thiền và Mật, Mật hay hơn
Thiền một chút; đúng là nếu chẳng phải là bậc
thượng thượng căn, sẽ chẳng đạt
lợi ích nơi Thiền Tông. Mật cũng như vậy,
nhưng Mật còn có thứ tự, trước hết học
Hiển Giáo, Hiển Giáo có trình độ nhất định.
Hiển Giáo là Giáo Hạ, có trình độ nhất định,
phải tham gia khảo thí. Cũng có nghĩa là chưa đại
triệt đại ngộ trong Hiển Giáo [sẽ chẳng
thể học Mật]; đại triệt đại ngộ
kiến tánh rồi, so ra, mức độ đại triệt
đại ngộ thấp nhất phải là đại ngộ.
Có tiểu ngộ, có đại ngộ. Nói cách khác, [người
muốn tu Mật phải] đạt được tâm
thanh tịnh. Đối với đại triệt đại
ngộ, chúng ta dùng ngay tiêu chuẩn trong tựa đề
kinh này: “Thanh tịnh bình đẳng
giác”. Giác là đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh, đó là điều kiện của Thiền
Tông, điều kiện của Tông Môn. Trong Giáo Hạ, quý vị
đắc thanh tịnh tâm, thưa quý vị, đắc
thanh tịnh tâm là buông Kiến Tư phiền não xuống, chẳng
còn chấp trước nữa, đương nhiên trí huệ
mở mang, tâm thanh tịnh sanh trí huệ, đó gọi là “khai
ngộ”. Vẫn chưa phải là đại ngộ, nhưng
nếu đã thật sự đắc thanh tịnh tâm, đoạn
hết Kiến Tư phiền não, có thể học Mật được
hay không? Có thể được! Nhưng vẫn chưa phải
là học sinh chính thức của Mật Tông! Học sinh chính
thức của Mật Tông còn phải nâng [cảnh giới]
lên cao hơn một tầng nữa là đại ngộ, chưa
phải là triệt ngộ, mà là đại ngộ. Đại
ngộ là gì? Vẫn phải buông Trần Sa phiền não xuống,
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng phân biệt, đó là học sinh chính thức
của Mật Tông, quý vị mới có tư cách học tập,
chẳng dễ dàng đâu nhé! Người ấy đã đại
ngộ, nhưng vẫn chưa triệt ngộ. Vì sao? Vẫn
còn khởi tâm động niệm, khởi tâm động
niệm tức là chưa phá vô minh phiền não.
Chúng ta chọn
lựa pháp môn, chính mình hiểu rõ ràng căn tánh của chính
mình. Chọn sai là quý vị đã uống lầm thuốc!
Bị mắc bệnh mà uống lầm thuốc, không chỉ
chẳng trị hết bệnh, mà không chừng bệnh còn
nặng hơn. Quý vị nói có phiền lắm không? Phật
pháp là thuốc. Tám vạn bốn ngàn pháp môn giống như
vào tiệm thuốc, thấy các món thuốc bày la liệt
nhiều ngần ấy, quý vị có thể uống hết
hay chăng? Có dám uống hay chăng? Chúng ta biết: Không có
bác sĩ kê toa, chẳng dám uống, sợ uống vô là rồi
đời! Vậy mà Phật pháp quý vị tùy tiện tu, chẳng
sợ hay sao? Vì thế, trong kinh Đại Thừa, trong
kinh Hoa Nghiêm có nói: “Phật pháp không có ai nói, dẫu là người trí
cũng chẳng thể hiểu”.
Những vị tổ sư đại đức từ
xưa giống như bác sĩ, hay giống như y tá, họ
thông hiểu. Chúng ta muốn học Phật, hãy kiếm những
người ấy. Họ thấy chúng ta thuộc căn
tánh nào, sẽ giới thiệu cho chúng ta kinh điển nào;
đấy là chuyện tất yếu, chính mình chớ nên tùy
tiện mò mẫm. Do vậy, quý vị thấy: Trong sự
học Phật, thầy là mấu chốt quyết định
sự thành bại đối với sự tu học của
quý vị trong một đời này. Nếu quý vị thật
sự gặp được thiện tri thức hay một
vị thầy thật sự tốt đẹp, quý vị sẽ
chiếm tiện nghi rất lớn. Vì sao? Không đi theo đường
vòng! Chính mình mắc bệnh, hãy tìm một bác sĩ giỏi,
bác sĩ khám bệnh, kê toa, quý vị uống thuốc ấy
vào, sẽ khỏi bệnh. Vì thế, thiện hữu trong
Phật môn khó gặp gỡ! Chúng ta đến nơi đâu
để cầu? Bất quá, trong hiện tại cũng chẳng
có ai cầu! Vì sao? Ngay cả đối với cha mẹ mà
cũng không hiếu thảo, chẳng cần đến họ,
còn nói gì đến tôn trọng thầy?
Phật
pháp là giáo dục của thánh hiền, là giáo dục của
bậc đại thánh đại hiền. Nếu quý vị
không biết tôn sư trọng đạo, đến nơi
đâu để cầu? Chẳng có chỗ nào để cầu!
Nhà Phật thường nói: “Phật
độ hữu duyên nhân”, ai là người có duyên? Thưa
chư vị, hiếu thuận phụ mẫu, tôn sư trọng
đạo, kẻ ấy có duyên. Bất hiếu phụ mẫu,
bất kính tôn trưởng, không coi trọng thánh đạo,
vô duyên! Có gặp bậc thiện tri thức chân chánh cũng
vô dụng. Vì sao? Quý vị chẳng thể tiếp nhận!
Quý vị đọc kinh chẳng hiểu, hiểu lệch
lạc ý nghĩa, chính mình suy tưởng kinh có ý nghĩa gì,
nghe kinh cũng không hiểu. Vì thế, bài Khai Kinh Kệ đã
nói rất hay: “Nguyện giải
Như Lai chân thật nghĩa”. Quý vị thiếu tâm tôn
kính, thiếu tâm thành kính, nghe rồi sẽ hiểu vặn
vẹo ý nghĩa, dùng phiền não tập khí của chính mình,
dùng tri kiến bất chánh để giải thích kinh Phật,
giải thích hoàn toàn sai bét. Học được mấy chục
năm, cuối cùng bảo kinh Phật chẳng linh, lại
còn hủy báng. Vì thế, thiện tri thức chân chánh suốt
đời mong kiếm được truyền nhân. Thầy
truyền dạy Phật pháp cho ta, ta phải truyền cho
ai? Nếu không có truyền nhân, quý vị phải soạn sách,
đem sở học và sở ngộ của ta viết thành
sách, hòng lưu truyền sách ấy cho hậu thế, hòng truyền
cho người hữu duyên trong đời sau. Chẳng dễ
dàng! Quá khó khăn!
Thầy Lý
bảo tôi: Học trò kiếm thầy đã khó, mà thầy
kiếm được một học trò để truyền
pháp càng khó hơn, đến đâu để tìm? Chẳng
thể nói học trò của thầy Lý không đông! Đông
lắm! Tính toán dè đặt nhất cũng phải hơn
năm mươi vạn người! Trong số đó, có
mấy ai có thể truyền pháp của cụ? Người
vãng sanh thì có, người vãng sanh không ít, niệm Phật
vãng sanh; kẻ thật sự truyền pháp ít lắm! Khó quá!
Người thật sự truyền pháp phải hội đủ
điều kiện như Ấn Quang đại sư
đã dạy: Đối với thầy, một phần thành
kính, được một phần lợi ích; hai phần
thành kính, được hai phần lợi ích; mười
phần thành kính, quý vị phải mười phần lợi
ích. Chẳng thành kính, quý vị nghe suốt một trăm năm
ở nơi đó cũng chẳng có lợi ích, mấu chốt
ở chỗ này. Thành kính do đâu mà có? Thành kính là Tánh Đức,
từ hiếu dưỡng phụ mẫu sanh ra. Dùng tâm hiếu
dưỡng cha mẹ để đối đãi thầy,
đó là tôn sư trọng đạo. Nếu đối với
cha mẹ cũng chẳng hiếu thuận, vậy là xong luôn!
Học Phật suốt đời này, chẳng có lợi ích
gì, [chỉ là] gieo chủng tử Phật pháp trong A Lại
Da Thức, chẳng thể thành tựu trong một đời
này. Chúng ta nghe lời này, rất kinh sợ, chẳng thể
thành tựu thì làm thế nào đây? Khéo sao có duyên phận đặc
biệt với pháp môn Tịnh Tông! Quý vị phải thật
sự học, sám trừ nghiệp chướng, khi còn có một
hơi thở, tới cuối cùng một niệm hay mười
niệm đều có thể vãng sanh. Đây là chỗ thù thắng
trong Tịnh Tông. Do vậy, tại Đài Trung Liên Xã, chúng tôi
thấy quả thật có không ít liên hữu vãng sanh. Tính toán
dè dặt nhất thì thầy Lý giảng kinh, dạy học
tại Đài Trung ba mươi tám năm, người theo
cụ niệm Phật vãng sanh Cực Lạc thế giới,
thật sự vãng sanh, tôi phỏng đoán phải hơn năm
trăm người! Công đức này thù thắng, thật
sự khó có, khá lắm!
Do vậy,
Phật pháp là sư đạo. Sư đạo nhất
định lấy hiếu đạo làm cơ sở. Quý vị
thấy Tịnh Nghiệp Tam Phước đã nói rất rõ
ràng! Câu đầu tiên là “hiếu
dưỡng phụ mẫu”, câu thứ hai là “phụng sự sư trưởng”,
“từ tâm chẳng giết, tu
Thập Thiện Nghiệp”, đấy là điều kiện
cơ bản để vào Phật môn. Quý vị phải thực
hiện bốn câu này thì mới có thể trở thành một
đệ tử Phật thật sự. Nói cách khác, đối
với kinh Phật, quý vị có thể tin, có thể hiểu,
đó là thiện căn của quý vị. Quý vị có thể
y giáo phụng hành, đó là phước đức. Quý vị
có thể hành, có thể chứng, vãng sanh là chứng quả,
bất luận ba bậc chín phẩm, dẫu là Hạ Hạ
Phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, quý vị
cũng chứng đắc Phật quả viên mãn rốt
ráo. Vì sao? Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, không một ai chẳng viên thành Phật đạo
trong một đời. Chúng ta nghiệp chướng nặng
nề, sám trừ như thế nào? “Sám trừ” là sửa đổi. Kinh điển là
tiêu chuẩn [để biện định] thị phi, thiện
ác, bắt đầu học từ chỗ nào? Đức Thế
Tôn chỉ dạy chúng ta, bắt đầu bằng Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Ngẫu Ích đại sư có
soạn tiết bổn cho Thập Thiện Nghiệp Đạo
Kinh, dài hơn tiết bổn của tôi, hãy dùng [kinh này] để
sửa lỗi, đổi mới, rất thực dụng!
Trên thực tế, trong những năm qua, ba món căn bản
của Nho, Thích, Đạo do chúng tôi đề xướng
là có căn cứ hay không? Có phải là bịa đặt, đồn
thổi hay không? Có căn cứ! Căn cứ gì vậy? Căn
cứ theo điều thứ nhất của Tịnh Nghiệp
Tam Phước. Hiếu dưỡng phụ mẫu bằng
cách nào? Phụng sự sư trưởng bằng cách nào?
Chúng ta thi hành Đệ Tử Quy. Một trăm mười
ba điều trong Đệ Tử Quy đều là hiếu
thân tôn sư (hiếu thảo đối với cha mẹ,
tôn trọng thầy), xuất phát từ Tịnh Nghiệp
Tam Phước. Đối với từ tâm chẳng giết,
chúng ta bèn thực hiện Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
của Đạo Gia, [do sách ấy] giảng nhân quả,
giáo dục. Để thực hiện câu cuối cùng, chúng
ta tu Thập Thiện Nghiệp. Do vậy, chúng ta thi hành ba món
căn bản của Nho, Thích, Đạo, đấy là dựa
trên điều thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước.
Trước hết, quý vị thi hành ba món căn bản,
sau đấy mới có thể nhập Phật môn, mới
có thể thật sự tiếp nhận Tam Quy, Ngũ Giới.
Điều thứ hai là “thọ
trì Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”. Trong điều này, chuyện
rất tuyệt vời là trọn đủ các giới, “trọn đủ” là chẳng
thiếu một điều nào. Trong Tiểu Thừa có bao
nhiêu điều? Ba ngàn oai nghi, tức ba ngàn điều;
Đại Thừa có bao nhiêu điều? Tám vạn bốn
ngàn oai nghi, Bồ Tát mà! Tận thiện, tận mỹ. Nhiều
điều như thế, do đâu mà có? Thưa quý vị, từ
Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp
triển khai. Tám vạn bốn ngàn oai nghi Bồ Tát quy nạp
lại sẽ là ba thứ này, mà triển khai ra sẽ nhiều
như thế đó. Có một lần ở Úc, tôi phỏng
vấn Do Thái Giáo, trưởng lão Do Thái Giáo bảo tôi: Họ
có sáu trăm điều giới luật. Tôi nghe xong rất
hoan hỷ, tôi cũng mời ông ta giới thiệu cho tôi, mời
họ tới học viện của chúng
ta giảng về môn này để chúng ta học tập
khuôn mẫu sống.
Cụ
Hạ “Tông Thuyết câu thông”
tức là Tông Môn lẫn Giáo Hạ đều thông, chữ “thông” này chẳng dễ dàng! Trong
câu trước, “bi trí song vận” là nói đến
đức hạnh của cụ, “Tông Thuyết câu thông” là nói về học vấn. “Viên dung hiển mật, Thiền
Tịnh ư nhất tâm” (viên dung Hiển Mật, Thiền
Tịnh trong một tâm) là nói về công phu và cảnh giới
của cụ. Hiển Giáo, Mật Giáo, Thiền Tông, Tịnh
Độ, bốn chữ này bao quát hết thảy những
pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi
chín năm, chẳng sót thứ gì, viên dung trong nhất tâm. Tuy
là như thế, lão nhân gia “chuyên
hoằng Trì Danh Niệm Phật nhiếp vạn đức”
(chuyên hoằng dương pháp môn Trì Danh Niệm Phật nhiếp
thâu muôn đức), đây là nói cụ phát đại Bồ
Đề tâm phổ độ hết thảy chúng sanh, dùng
phương pháp gì? Dùng Tịnh Độ, dùng phương pháp
Trì Danh Niệm Phật trong Tịnh Độ. Phương
pháp này từ đâu ra? Từ kinh Vô Lượng Thọ, từ
kinh Di Đà, từ phép Quán thứ mười sáu trong kinh Thập
Lục Quán. Phép Quán thứ mười sáu là trì danh niệm
Phật. Những cách khác gồm có Thật Tướng Niệm
Phật, Quán Tượng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm
Phật, đến cuối cùng là nói Trì Danh Niệm Phật,
Trì Danh là phương tiện rốt ráo. Đây là Hạ lão
cư sĩ từ bi đến tột cùng, cụ dùng pháp
môn này để nhiếp vạn đức. Vạn đức
là trí huệ và đức tướng xứng tánh nơi quả
địa Như Lai. “Vị hoằng
Tịnh Tông, cố nguyện thử Tịnh Tông đệ
nhất chi kinh, phá trần sanh quang” (vì hoằng dương
Tịnh Tông, nên nguyện khiến cho bộ kinh đệ
nhất trong Tịnh Tông này được tan bụi, tỏa
sáng). “Phá trần sanh quang” là
tỷ dụ, do mong muốn bộ kinh bậc nhất của
Tịnh Tông nhất định phải có bản tốt nhất,
có một bản tiêu chuẩn, cho nên phải hội tập
lần nữa. Hai lần hội tập trước kia đều
có tỳ vết, có sai lầm, dẫu hay nhưng chưa
viên mãn. Đó là điều đáng tiếc nuối, cho nên
lão nhân gia phát tâm hội tập lần nữa.
“Ký thử vô thượng chi
điển, nhiêu ích đương lai” (mong cho cuốn
kinh vô thượng này lợi lạc mai sau). Trong tương
lai, hãy còn có chín ngàn năm nữa, thời Mạt Pháp là một
vạn năm. Kẻ học Phật chúng ta chẳng thể
không biết pháp vận của đức Phật, rất
nhiều người nói tới ngày tận thế, trong Phật
pháp không có cách nói này. Pháp vận của Phật hãy còn chín ngàn
năm nữa. Những năm qua, tôi đã lớn tuổi,
trí nhớ chẳng tốt lắm; trước kia, tôi nhớ
rất rõ ràng, các vị trẻ tuổi hãy kiểm xem, theo
ghi chép của người Trung Quốc, từ các trước
tác của cổ nhân sẽ có thể tra ra, từ lúc Thích Ca
Mâu Ni Phật diệt độ cho đến hiện tại,
tôi nhớ hình như là ba ngàn ba mươi mấy năm, cụ
thể là ba mươi mấy năm thì các vị hãy kiểm
xem. Trong Niên Phổ của lão hòa thượng Hư Vân có nói
ba ngàn ba mươi mấy năm. Pháp vận của Phật:
Chánh Pháp là một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm,
hiện thời đã qua hai ngàn năm, sau đó, còn có Mạt
Pháp một vạn năm. Một vạn năm mới trải
qua một ngàn lẻ ba mươi mấy năm, cho nên thời
gian về sau vẫn còn dài, lẽ nào có ngày diệt vong? Trong
thời kỳ Mạt Pháp dài như thế, Phật pháp có
hưng, có suy, xưa kia Chương Gia đại sư đã
bảo với tôi chuyện này. Ngài bảo tôi: Hiện tại
Phật pháp đã suy đến chỗ cùng cực, nhưng
chớ sợ, sẽ hưng khởi, Phật pháp sẽ lại
hưng khởi, có hưng, suy, nhưng chẳng diệt. Tới
khi nào sẽ diệt? Chín ngàn năm sau, Phật pháp thật
sự diệt. Chúng ta tin đức Phật chẳng vọng
ngữ, Như Lai là đấng chân ngữ, đấng thật
ngữ, đấng như ngữ, đấng không nói dối,
chúng ta tin tưởng Ngài. Vì thế, cụ Hạ mong bộ
kinh này có được một bản tiêu chuẩn hoàn thiện
vô cùng tốt đẹp. Bản này sẽ lợi lạc tương
lai trong khắp chín ngàn năm sau.
Pháp môn nào,
kinh điển nào khế cơ nhất? Phải là bộ
kinh này. Trong bộ kinh này, từng câu, từng chữ đều
do đức Phật nói, chẳng giả tí nào. Bản dịch
gốc được dịch từ tiếng Phạn,
trong bản tiếng Phạn có rất nhiều chỗ khác
nhau, cho thấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải chỉ
tuyên giảng kinh này một lần, mà là tuyên giảng nhiều
lần. Nhìn từ năm bản dịch gốc, tối thiểu
là ba lần tuyên giảng. Chúng ta bị thất truyền bảy
bản, chẳng thấy nữa. Nếu cả bảy bản
ấy hãy còn, có phải là còn có những chỗ chẳng giống
nhau hay không? Quý vị có thể tìm thấy [bằng cớ
chứng tỏ] kinh này đã được giảng hơn
ba lần. Đây là đức Thế Tôn vô tận từ
bi, chúng ta có hiểu rõ mới có thể sanh tâm cảm ơn.
Chẳng do pháp môn này, chúng ta sẽ chẳng thể đắc
độ, chắc chắn là vậy! Chúng ta có thể sanh lên
trời, nhưng không thoát khỏi lục đạo luân hồi.
Thoát lục đạo luân hồi rất khó, đoạn Kiến
Tư phiền não chẳng dễ dàng [đoạn trừ].
Chẳng đoạn Kiến Tư, quý vị chẳng thoát
khỏi luân hồi. Sanh lên trời thì có ai đã chưa từng
sanh lên trời? Tất cả chúng sanh trên quả địa
cầu này, quý vị nghĩ xem có ai chưa từng sanh lên
trời? Trong quá khứ đều đã ở trên trời,
hưởng hết phước trời, nghiệp chướng
hiện tiền, lại đọa xuống, chuyện là như
thế đó! Lên lên xuống xuống trong lục đạo!
Có người nào chẳng từng đọa địa ngục?
Có chứ, trong các đồng học học Phật của
chúng ta có [người đã đọa địa ngục],
làm sao biết? Do thôi miên nên biết. Người ấy được
chuyên viên thôi miên đến mức độ sâu, rồi hỏi:
“Bạn đang ở đâu?” Trong địa ngục. Trạng
huống của địa ngục khổ vô cùng, chịu
khổ trong địa ngục. Người ấy đi vào
địa ngục, mà cũng lên thiên đường, thật
đấy! Trong lục đạo, đường nào người
ấy cũng đều đã từng trải; cho nên chẳng
có chi là lạ lùng, hiếm có cả!
Liễu
giải chân tướng sự thật này. Quý vị biết
con người có chết hay không? Không chết, mà là luân hồi
trong lục đạo. Cái thân xác thịt sanh tử, nhục
thân có sanh diệt, đây là một hiện tượng bình
thường, linh hồn (thần thức) bất diệt.
Thưa quý vị, linh hồn là mê, khi mê gọi là linh hồn;
hễ giác ngộ chẳng gọi là linh hồn, mà gọi
là “linh tánh”, linh tánh bất diệt. Chưa thoát khỏi lục
đạo thì gọi là linh hồn, vượt thoát lục
đạo bèn gọi là linh tánh, đó là ai? Từ bậc A
La Hán trở lên. Chỉ cần quý vị thoát khỏi lục
đạo luân hồi, bèn là A La Hán. A La Hán được gọi
là linh tánh, chẳng mê; cho nên A La Hán đắc Chánh Giác. A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là mục tiêu chung và
duy nhất của người học Phật chúng ta, học
Phật để mong đạt được gì? Đạt
được điều này. Dịch sang nghĩa tiếng
Hán, [A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề] là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. A La Hán đắc Chánh
Giác, Bồ Tát đắc cao hơn, Chánh Đẳng Chánh
Giác. Sở đắc của Phật có thêm Vô Thượng,
tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác vượt thoát mười pháp giới,
trụ trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như
Lai, chúng ta cũng thường gọi cảnh giới ấy
là Nhất Chân pháp giới. Bồ Tát vẫn thuộc trong tứ
thánh pháp giới của mười pháp giới.
Đây là
nói rõ với chúng ta: Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật hãy
còn chín ngàn năm nữa. Chín ngàn năm sau, khi thế gian này
không còn Phật pháp, thật là khổ! Phật, Bồ Tát chẳng
bỏ chúng sanh khổ nạn, cho đến lúc này, dù Phật,
Bồ Tát chẳng hiện, vẫn có một vị đại
diện. Tôi nghĩ vị này chư vị đều biết:
Địa Tạng Vương Bồ Tát! Ngài thay Phật hóa
độ chúng sanh, đại diện cho Phật, mãi cho
đến khi đức Phật kế tiếp xuất thế.
Đức Phật kế tiếp là Di Lặc Bồ Tát. Hiện
thời có rất nhiều lời đồn đại Di
Lặc Bồ Tát đã giáng hạ. Thưa quý vị, giả
trất, chẳng thể tin tưởng được! Di
Lặc Bồ Tát ứng hóa trong thế gian này là chuyện bình
thường, chẳng hiếm lạ tí nào! Trong các truyện
ký của Phật môn Trung Quốc đã ghi chép rất rõ
ràng, Bố Đại Hòa Thượng là Di Lặc Bồ
Tát hóa thân vào thời Tống. Nay chúng ta thờ tượng
Bố Đại Hòa Thượng chính là thờ hóa thân của
Di Lặc Bồ Tát. Chúng ta thấy Di Lặc Bồ Tát ở
Tây Tạng, hoặc thấy tượng Di Lặc Bồ
Tát của Phật Giáo Nam Truyền (Phật Giáo Nam Tông,
Theravada), Ngài có hình dáng giống như Quán Thế Âm Bồ
Tát, gầy nhom, chẳng phải là dáng vẻ [mập mạp
này]. Do Ngài thị hiện tại Trung Quốc dùng hình dạng
Bố Đại Hòa Thượng, nên dùng hình dáng ấy để
tạc tượng. Theo truyện ký ghi chép, một hóa thân
khác là Phó Đại Sĩ vào đời Đường, hiện
thân cư sĩ, đó là Di Lặc Bồ Tát tái lai. Phật,
Bồ Tát thường đến ứng hóa trong thế
gian, nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện
thân ấy. Nói Di Lặc Bồ Tát chưởng quản thiên
bàn[8], hay Di Lặc Bồ Tát giáng hạ nhân
gian làm Phật, đều là giả. Di Lặc Bồ Tát sẽ
giáng sanh cõi nhân gian làm Phật vào lúc nào? Trong Di Lặc Hạ
Sanh Kinh[9]
đã nói rất rõ ràng: Năm mươi sáu ức bảy
ngàn vạn năm sau. Trong thời gian không có Phật xuất
thế, Địa Tạng Bồ Tát thay mặt. Chúng ta nhất
định phải căn cứ trên những điều
kinh điển đã ghi chép, đó là thật, chẳng phải
giả.
Do Phật
pháp còn có thời gian [tồn tại] dài như thế, trong
thời kỳ Mạt Pháp, pháp môn này sẽ dần dần
biến thành pháp môn chánh yếu. Vì sao? Các pháp môn khác tuy hay,
nhưng chẳng hợp căn tánh, quý vị nương theo
những pháp môn khác tu học hết sức khó khăn, rất
khó thành tựu, nên Tịnh Tông biến thành chủ yếu.
Trở thành chủ yếu mà nếu không có một kinh điển
tiêu chuẩn để chúng ta nương theo, đúng là rất
đáng tiếc. Do vậy, mới có “cảm”, cũng có nghĩa
là nói do người tu hành trong chín ngàn năm của thời
Mạt Pháp có nhu cầu, nhu cầu ấy là cảm, nên Phật,
Bồ Tát có ứng. Sự “ứng” ấy chính là cư
sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trên thế gian. Do
chúng sanh có cảm, Ngài tới ứng hóa. Ngài tới thế
gian này để làm chuyện gì? Để làm chuyện này!
Chúng ta hiểu rất rõ ràng. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
biết, nhưng tôi không biết, tôi thỉnh giáo cụ, tôi
hỏi: “Rốt cuộc cụ Hạ là vị nào tái lai?” Cụ
Hoàng mỉm cười: “Hiện thời phải giữ kín,
hiện thời chẳng thể nói được!” Chẳng
thể nói, hiện thời cụ cũng đã khuất bóng
rồi, tôi chẳng hỏi ai được! Chắc chắn
[cụ Hạ] chẳng phải là phàm nhân. Quý vị hãy nghĩ
xem: Vương Long Thư có phải là phàm nhân hay không? Ngụy
Mặc Thâm có phải là phàm nhân hay không? Phàm nhân không thể
làm được! Cụ Hạ Liên Cư hội tập một
bản viên mãn như vậy, chúng tôi suy đoán: Nếu cụ
chẳng phải là A Di Đà Phật tái lai, nhất định
là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai, mới có trí huệ, mới
có đức năng để làm chuyện to lớn này! Điều
này cũng giống như thầy Lý thường nói với
chúng tôi: Nói theo Lý thì thông suốt, nhưng trên mặt Sự
chưa có chứng cứ, nhưng nói theo Lý thì hợp lý.
Lợi lạc
tương lai, “nãi kế tiền
hiền, trùng hành hội tập” (bèn kế tục tiền
hiền, hội tập lần nữa). “Tiền hiền” là ba vị trước đó, trên
thực tế là hai vị, tức Vương Long Thư và
Ngụy Mặc Thâm, hội tập lần thứ ba. Đây
là phiên bản thứ chín. Đoạn tiếp theo nói rõ tâm
thái và những điều từng trải khi cụ Hạ
hội tập lần nữa, cụ dùng tâm tư thái độ
như thế nào? “Bình khí vạn
duyên” (Ngăn bỏ muôn duyên), chúng ta thường nói là
“buông xuống vạn duyên”, điều gì cũng đều
buông xuống. “Yểm quan tam
tái”, nghĩa là bế quan trong thời gian ba năm, dùng cách
thức này để buông xuống hết thảy những
thứ quấy nhiễu. Một mình, vì trong phần sau, cụ
Hoàng có viết một câu: “Minh
tâm cô nghệ” (lặng lẽ tiến hành một mình), đấy
là chỉ có một người, không có đồng bạn.
“Tịnh đàn kết giới”
là cụ chân thành thực hiện công tác hội tập. Ba
năm sau, hoàn thành bản thảo. Sau khi đã hoàn thành, “cảo kinh thập dịch”,
nghĩa là trải qua mười lần sửa chữa, “phương khánh kinh thành” (mới
mừng kinh đã được hội tập xong), kinh này
mới thành tựu. Chẳng phải là ba năm bèn thành tựu,
ba năm mới hoàn thành bản thảo đầu tiên, mất
mười năm mới hoàn thành bản [hoàn thiện] này.
Quý vị thấy Ngài rất nghiêm túc, đã biểu thị
cho chúng ta thấy, biểu thị ý nghĩa gì vậy? Mười
phần thành kính, bèn được mười phần lợi
ích. Kinh này công đức viên mãn, chẳng thể có mảy
may khinh mạn nào. Dùng cái tâm khinh mạn, chắc chắn quý
vị chẳng thể làm thành công, chắc chắn có tỳ
vết! Cụ Hạ hội tập chân thành như vậy,
nay chúng ta thọ trì, cũng phải dùng tấm lòng chân thành
như cụ Hạ để thọ trì mới đạt
được lợi ích. Nếu chẳng có lòng chân thành như
thế, quyển kinh bày ra trước mặt quý vị, đọc
tụng mỗi ngày, chẳng có lợi ích! Chúng ta nhất
định phải hiểu điều này!
Vì sao chúng
ta học Phật học lâu năm như thế mà vẫn
cứ hời hợt, bộp chộp? Trong tâm lý vẫn đầy
ắp tham, sân, si, mạn, nghi? Học Phật đã lâu năm
như thế mà Ngũ Độc có giảm được
vài phần hay chăng? Không có! Giống hệt như chẳng
học Phật thì kể ra vẫn còn chưa sao, sợ nhất
điều gì? Bản thân ta mỗi năm mỗi lớn tuổi,
càng phiền toái hơn, phiền não tập khí càng ngày càng nặng!
Nếu là tình huống như vậy, chính mình phải hiểu
rõ: Chẳng tránh khỏi luân hồi. Luân hồi vào đâu? Đời
sau ta còn có thể được làm thân người hay không?
Vậy là phải hỏi quý vị, quý vị tu Thập Thiện
Nghiệp ra sao? Trong kinh, đức Phật đã dạy chúng
ta, Trung Phẩm Thập Thiện sẽ được làm
thân người, đời sau vẫn được làm
người. Quý vị hãy tự suy nghĩ: Hãy dựa vào lương
tâm của quý vị để chấm điểm Thập
Thiện Nghiệp Đạo của bản thân, có được
bảy mươi hay tám mươi điểm hay không? Có
thể chấm đến bảy mươi, tám
mươi điểm, đời sau quý vị chẳng mất
thân người. Nếu nói ta chỉ được năm
mươi điểm, chẳng chắc ăn! Cơ duyên đọa
lạc vô cùng nhiều! Nếu đạt điểm trọn
vẹn, sẽ là Dục Giới Thiên, đại đa số
sanh về đâu? Lên trời Đao Lợi. Trời Đao Lợi
thì phải được trọn điểm. Thực hiện
Thập Thiện Nghiệp bằng cách nào? Đệ Tử
Quy! Đệ Tử Quy là bước đầu thực hiện
Thập Thiện Nghiệp. Một trăm mười ba điều
của Đệ Tử Quy, quý vị có làm được hay
không? Từ chỗ này mà suy nghĩ, quý vị sẽ run sợ,
vì sao? Nếu chẳng thể vãng sanh, vẫn phải tiếp
tục luân hồi, cơ duyên tam ác đạo quá nhiều!
Duyên trong ba thiện đạo quá mỏng, làm thế nào đây?
Đáng sợ hay chăng? Đáng sợ! Có thể sửa đổi
hay không? Vẫn chẳng thay đổi thì có sợ cũng
vô dụng!
So với
pháp sư Oánh Kha đời Tống, chúng ta kém xa! Người
ta quả thật là kẻ xuất gia, phá giới, hủy
phạm Thanh Quy, tự biết do khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, hành vi của chính mình chắc chắn sẽ đọa
địa ngục. Sư sợ, biết địa ngục
khổ não, hỏi đồng tham đạo hữu có
phương pháp nào cứu giúp hay không? Bạn đồng học
cũng tuyệt lắm, tặng Sư một quyển Vãng Sanh
Truyện, bảo Sư tự xem. Sư đọc bèn cảm
động, cứ xem một bài, lại đau đớn
khóc ròng, tâm sám hối nẩy sanh, hạ quyết tâm bế
quan niệm Phật, ba ngày ba đêm chẳng ngủ, chẳng
ăn, chẳng nghỉ ngơi, một câu Phật hiệu chân
thành niệm đến cùng. Vì lẽ gì? Sợ nỗi khổ
địa ngục! Cầu cứu mạng nên thật sự
thực hiện. Ba ngày ba đêm niệm được A Di
Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật thật
sự từ bi, quý vị thật sự tu, Ngài sẽ thật
sự quan tâm chăm sóc quý vị. A Di Đà Phật hiện
đến bảo Sư: “Ông còn thọ mười năm nữa,
hãy gắng niệm Phật. Chờ tới khi ông đã hết
tuổi thọ, ta sẽ đến tiếp dẫn ông”.
Oánh Kha nghe xong bèn xin với A Di Đà Phật, Sư nói: “Con
chẳng cần mười năm thọ mạng. Nếu
con sống thêm mười năm nữa, bản thân con không
chống nổi dụ dỗ, mê hoặc, chẳng biết sẽ
tạo bao nhiêu tội nghiệp, con chẳng cần mười
năm thọ mạng, nay con đi theo Ngài”. A Di Đà Phật
thông tình đạt lý, bảo Sư: “Được! Ba ngày
sau ta đến đón ông”. Sư vui sướng, mở toang
cửa phòng, bảo đại chúng: “Tôi niệm A Di Đà
Phật ba ngày, cảm Phật hiện đến. Ba ngày nữa
A Di Đà Phật sẽ tiếp dẫn tôi vãng sanh”. Đồng
tham đạo hữu trong chùa ai nấy đều cảm
thấy rất ngạc nhiên: “Thời gian ba ngày coi bộ chẳng
dài, xem ngươi ba ngày sau có vãng sanh hay không?” Nhưng nghe
ra lời lẽ của ông ta chẳng giống như gạt
người, dường như là thật sự có chuyện
như vậy. Tới ngày thứ ba, Sư yêu cầu đại
chúng niệm Phật đưa Sư vãng sanh;
đương nhiên đại chúng vui vẻ, được
rồi, đều niệm Phật hồi hướng cho ông
ta. Niệm Phật chưa đầy một khắc, Sư
bảo mọi người: “A Di Đà Phật tới rồi,
tôi thấy Ngài đón tôi đi” liền tịch, thật sự
đi. Kinh Di Đà có nói: “Hoặc
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày”, là thật, chẳng
giả. Pháp sư Oánh Kha biểu diễn cho chúng ta xem, thật
sự sợ khổ địa ngục, buông xuống vạn
duyên, nhất tâm niệm Phật, lập tức vãng sanh. Thọ
mạng bao nhiêu cũng chẳng cần, ở trong thế
gian này đều là tạo nghiệp! Chỉ cần bản
thân chúng ta buông xuống, vứt bỏ muôn duyên, thật sự
làm!
Ba năm
trước, có một vị cư sĩ ở Thâm Quyến,
là một người còn trẻ, ba mươi mấy tuổi,
tức ông Hoàng Trung Xương, nghe trong Vãng Sanh Truyện có
nói: “Niệm Phật ba năm bèn có thể vãng sanh”, ông ta bế
quan coi thử ba năm có thể thành tựu hay không? Ở
trong quan phòng hai năm mười tháng, còn thiếu hai tháng
nữa mới mãn thời hạn, ông ta liền biết trước
lúc mất, vãng sanh, cũng không sanh bệnh. Sau khi hỏa táng,
lưu lại xá-lợi, nay đang được thờ
trong một tiểu đạo tràng tại Thâm Quyến, chứng
minh cho chúng ta thấy [ba năm thành tựu] là thật, chẳng
giả! Ba năm trong quan phòng, mỗi ngày ông ta niệm kinh Vô
Lượng Thọ một lần, ngoài ra, Phật hiệu
chẳng gián đoạn. Phương pháp tôi đã dạy ông
ta là phương pháp do pháp sư Đế Nhàn đã dạy
người đồ đệ làm
thợ vá nồi: Niệm mệt bèn nghỉ ngơi, chẳng
phân biệt ngày hay đêm. Tỉnh dậy
sẽ niệm tiếp, thật sự làm được “tâm vô nhị niệm”, chỉ
một câu A Di Đà Phật. Ông ta khác với người
thợ vá nồi ở chỗ mỗi ngày niệm kinh Vô
Lượng Thọ một lần, thêm vào một bộ kinh
Vô Lượng Thọ, nhưng Phật hiệu chẳng
gián đoạn, bèn thành công. Vãng sanh khó hay không? Chẳng
khó! Vấn đề là quý vị có chịu buông xuống
hay không, mấu chốt ở chỗ này! Vứt bỏ vạn
duyên là câu mấu chốt, chỉ cần làm được
câu này là được rồi!
Vì thế,
ở đây, bằng sáu câu, mỗi câu gồm bốn chữ,
giới thiệu tâm thái và sự từng trải trong hội
tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Sau khi kinh này
được hoàn thành, bản [sửa chữa lần] thứ
mười là bản hoàn thành, “thủ
mông Tông Giáo câu triệt chi Huệ Minh lão pháp sư thủ
trì hội bổn nhiếp ảnh ư Phật tiền, vị
tác chứng minh” (trước hết, được lão
pháp sư Huệ Minh là một vị thông triệt Tông lẫn
Giáo, cầm bản hội tập chụp ảnh trước
Phật đài để chứng minh). Lão hòa thượng
Huệ Minh là một vị đại đức trong Phật
môn thuở ấy. Trong bản in này không có [bức hình ấy];
khi tôi in [cuốn chú giải của cụ Hoàng] lần đầu,
phía trước có bức ảnh lão pháp sư Huệ Minh tay
nâng cuốn sách này chụp hình trước Phật đài để
chứng minh. Bức hình này rất dễ tìm, chúng tôi in ra với
số lượng khá nhiều. “Luật
Tông đại đức Từ Châu lão pháp sư kế chi,
chuyên giảng thử kinh ư Tế Nam, tịnh thân vi khoa
phán” (Tiếp đó, bậc đại đức trong Luật
Tông là lão pháp sư Từ Châu chuyên giảng kinh này ở Tế
Nam,
lại còn đích thân viết khoa phán). Khoa phán là phân định
kết cấu, đề cương, và những chủ điểm
trong một bộ kinh, nay chúng ta nói là phân đoạn, chia
thành tầng lớp rõ ràng để giải thích bộ kinh
này. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có tặng tôi bản khoa
phán này của lão pháp sư Từ Châu, chẳng phải là tặng
bản gốc, mà là bản sao chụp, tôi cất giữ tại
Úc. Đọc khoa phán, ta thấy: Thuở ấy, pháp sư
Từ Châu giảng kinh này tại Tế Nam chẳng
phải là giảng bằng bản hiện thời. Bản
hiện tại là bản hoàn thiện đã được
hiệu đính trong lần tu chỉnh thứ mười, [bản
do ngài Từ Châu sử dụng] chính là bản trước
của bản hiện tại. Vì sao? Chúng ta xem bản hiện
thời, cụ Hạ chia ra chương tiết, nhà Phật
gọi là phẩm, [bản hiện thời] có bốn
mươi tám phẩm, còn bản do pháp sư Từ Châu đã
dùng thuở ấy gồm ba mươi bảy phẩm, tức
là toàn bộ bản kinh được chia thành ba
mươi bảy phẩm. Vì vậy, cũng biết đấy
chẳng phải là bản cuối cùng. Tôi dựa theo bản
khoa phán của Ngài, lấy nó làm gốc để soạn một
bản khoa phán rất tỉ mỉ, bản ấy đã được
chỉnh lý hoàn thiện, tức là bản [khoa phán dựa trên
bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ gồm] bốn
mươi tám phẩm. Chúng ta có cuốn Khoa Hội được
lưu thông rất rộng. Sau khi tôi viết xong, đã tặng
một quyển cho lão cư sĩ Triệu Phác Sơ. Cụ
Triệu trông thấy, hết sức vui vẻ, bảo kinh Vô
Lượng Thọ nói chung đã được hoàn thiện.
Quý vị thấy: Có bản hội tập, có chú giải của
cụ Hoàng Niệm Tổ, tôi có giảng ký, vì trong quá khứ,
tôi đã giảng mười lần. Có giảng ký, lại
có khoa phán tỉ mỉ như vậy, cụ nói bộ kinh này
điều gì cũng đều trọn vẹn, vui vẻ
vô hạn!
Chúng ta đọc
tiếp: “Tiên cữu phụ Mai
lão cư sĩ” (người cậu đã khuất của
tôi là Mai lão cư sĩ), tức lão cư sĩ Mai Quang Hy. Mai
lão cư sĩ là thầy của thầy Lý Bỉnh Nam, chúng tôi gọi
cụ là “sư ông”. Cụ Lý
Bỉnh Nam
học Phật pháp với Mai lão cư sĩ, có quan hệ
thầy trò. “Tại trung
ương quảng bá điện đài, bá giảng thử
kinh, xưng chi vi tối thiện chi bổn” (truyền
giảng kinh này trên đài phát thanh Trung Ương, gọi bản
này là bản hoàn thiện nhất). So với hai bản hội
tập trước kia, bản này là hoàn thiện. Nói cách
khác, trong bản này, không tìm được tỳ vết
nào. “Hậu phục ư kinh tự
trung tán viết” (sau đấy, trong phần lời tựa
của kinh này, cụ lại ca ngợi rằng), cụ Mai có
viết một bài tựa rất dài để giới thiệu
bộ kinh này với đại chúng. Bài tựa này hay vô cùng,
trong ấy có những câu như thế này: “Tinh đáng minh xác, tạc nhiên hữu cứ” (tinh
yếu, thỏa đáng, rõ ràng, xác thực, rành rành là có căn
cứ). “Tinh” là tinh yếu, “đáng” là thỏa đáng, “minh” là minh bạch, “xác” là xác thực. Sau khi quý vị
đọc [lời tựa và bản kinh này], từng câu, từng
chữ đều khẳng định, quý vị sẽ
không nghi hoặc. “Tạc nhiên hữu
cứ” là dựa theo năm bản dịch gốc, không hề
sửa đổi mảy may, ngay cả tên kinh cũng chẳng
sửa đổi. Tựa đề của kinh cũng là hội
tập, đến phần sau chúng ta sẽ thấy. “Vô nhất nghĩa bất tại
nguyên dịch chi trung, vô nhất cú dật xuất bổn
kinh chi ngoại” (không nghĩa nào chẳng có trong bản
dịch gốc, không một câu nào vượt ngoài nguyên văn),
hai câu này [cho thấy bản hội này] đã sửa trừ
khuyết điểm trong hai bản hội tập trước
đó, quả thật đã tùy thuận cách dịch, tự
mình chẳng dùng ý kiến của chính mình để sửa
đổi một chữ nào.
“Gian sáp trầm hối” (khó
khăn, trúc trắc, nặng nề, tối nghĩa),
đây là nói về những chỗ trong bản dịch gốc,
“gian” (艱) là gian nan, rất khó đọc, “sáp” (澀) là khó hiểu, “trầm” (沉) là quá
sâu, “hối” (晦) cũng là không dễ gì hiểu rõ, trong
các bản dịch gốc có [những khuyết điểm
này]. Đây là lý do vì sao kinh này chẳng được
lưu thông rộng rãi; đó là vì khi phiên dịch đã dùng
những văn tự như thế, quả thật cụ
Hoàng đã miêu tả khá chính xác, “gian
sáp trầm hối”. Quý vị đọc các bản dịch
gốc sẽ nhận thấy khó hiểu lắm! Còn bản
của cụ Hạ thì sao? “Sử
chi sảng lãng” (khiến cho trôi chảy, rõ ràng), cụ Hạ
gạt bỏ những chỗ [gian, sáp, trầm, hối] này!
Đây là “thủ, xả” (lấy
hay bỏ, tức là chọn phần nào để giữ lại
trong bản hội tập, phần nào bỏ đi), là sự
chọn lựa, cân nhắc trong khi hội tập. Phàm những
chỗ nào khó khăn, tối nghĩa, trúc trắc, cụ không
dùng, cụ chọn lấy những chỗ rất sáng sủa,
trôi chảy, khiến quý vị đọc sẽ thấy rất
thoải mái. Như trong hiện tại, chúng ta đọc bản
này, quý vị đọc thấy thoải mái lắm, không cảm
thấy kinh văn quá sâu, mà cũng chẳng khó hiểu, ý
nghĩa đều rất rõ rệt, không có chỗ nào tối
nghĩa. Điều này khó có lắm! “Phiền phức trầm mạn” (rườm rà,
trùng lặp, lan man), chúng ta gọi điều này là “cà kê, rườm
rà, trùng lặp”, vì người Ấn Độ thích lặp
đi, lặp lại, không như người Hoa, người
Hoa chuộng đơn giản, dễ hiểu, còn người
ngoại quốc chuộng lặp đi, lặp lại. Lặp
đi, lặp lại cũng có lợi, vì sao? Khiến cho quý
vị nhớ sâu hơn; do vậy, nó cũng có lợi. Người
Hoa từ xưa tới nay đòi hỏi “giản yếu tường minh”, tức là ngôn ngữ
văn tự đều phải tuân theo nguyên tắc sau đây:
Phải đơn giản, nêu lên được ý nghĩa
chánh yếu, cốt lõi, lại còn rõ ràng, vừa phải dễ
hiểu. “Giản yếu tường
minh” là vừa chi tiết, vừa rõ ràng, phải hội đủ
bốn tiêu chuẩn này. Vì thế, khi đọc những thứ
của Trung Quốc có thể đọc nhiều, chứ đọc
kinh Phật rất khó. Trong toàn bộ Đại Tạng kinh,
những chỗ “gian sáp trầm
hối, phiền phức trầm mạn” (khó hiểu, trúc
trắc, nặng nề, tối nghĩa, rườm rà, trùng
lặp, lan man) được nhắc đến ở đây
đúng là rất nhiều! Bản hội tập của cụ
Hạ “quy ư giản khiết”
([biến đổi những chỗ nặng nề ấy]
trở nên đơn giản, rõ ràng), “Lăng loạn tỷ thành chỉnh nghiêm”, tức
là cụ Hạ đã điều chỉnh, rút gọn [những
chỗ luộm thuộm, rườm rà]. “Khuyết sơ tất linh viên mãn” (khiến cho những
chỗ thiếu sót được viên mãn): Những chỗ
khiếm khuyết, cụ bèn sắp xếp, bổ sung ý nghĩa,
khiến cho [độc giả] đọc đến sẽ
thấy ý nghĩa viên mãn. Công việc này chẳng dễ thực
hiện, lão nhân gia làm suốt mười năm, chẳng
phải là hội tập cẩu thả, hời hợt, mà
suốt mười năm, mỗi ngày đều nghiên cứu
và tu đính.
“Tất kỳ hữu mỹ giai
bị, vô đế bất thâu... Tuy dục bất vị
chi thiện bổn, bất khả đắc dã” (Ắt
mong cho mọi điều đẹp đẽ đều được
hoàn bị, không điều chân thật nào chẳng bao gồm...
Dù chẳng muốn bảo là bản văn hoàn thiện cũng
không thể được). Đây là lời đại sĩ
Mai Quang Hy đánh giá bản hội tập này. Cụ Hạ
hội tập quá khéo, quả thật là do năm bản dịch
gốc ghép lại; quý vị thấy bản này hay lắm,
mà nay còn có kẻ hoài nghi, đó là gì? Đó là nghiệp
chướng, kẻ ấy có chướng ngại, phiền
não, tập khí, chẳng liễu giải bi trí hoằng nguyện
của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Người ta đến
thế gian này để làm gì? Đến để thị
hiện: Tốn thời gian suốt mười năm nơi
bộ kinh này, để làm chuyện [hội tập] này, đến
để thị hiện. Cụ biết pháp môn này, bộ
kinh này, trong thời gian dài đến chín ngàn năm sau như
thế, sẽ khiến cho vô số chúng sanh do pháp môn này mà đắc
độ. Đây là bản kinh tiêu chuẩn. Cụ vì chúng
ta làm chuyện này, khó có ngần ấy, hy hữu dường
ấy, chúng ta đã biết thì phải tri ân. Có tri ân, quý vị
mới biết báo ân. Chúng ta dùng gì để báo ân? Y giáo phụng
hành, trong một đời này, quyết định vãng sanh
Tịnh Độ, đến thế giới Cực Lạc
gặp cụ Hạ Liên Cư, đó là báo ân cụ đã tiếp
dẫn chúng ta.
“Ư thị, tiên sư hội bổn
vấn thế dĩ lai, bất hĩnh nhi tẩu” (do vậy,
từ khi bản hội tập của tiên sư ra đời,
không chân mà đi khắp chốn), “hĩnh” (脛) là bắp
chân (phần từ đầu gối xuống đến bàn
chân). Không có chân mà đi được, có nghĩa là được
truyền bá rất nhanh. Thật ra, cũng chẳng phải
là chuyện đơn giản như thế. Hoàng lão cư
sĩ bảo tôi: “Thầy tôi là cụ Hạ Liên Cư bảo
trong tương lai, bản hội tập này sẽ từ hải
ngoại truyền vào trong nước”. Trong lúc đó, mọi
người bọn họ đều cảm thấy chẳng
biết nói sao, làm sao có thể như thế được?
Sau này gặp tôi, thật sự là từ hải ngoại truyền
vào trong nước! Chúng tôi là người đầu tiên hoằng
dương tại hải ngoại, chỉ có hai ba bản đưa
về Đài Loan. Thầy tôi là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nhận được,
đọc lời tựa do thầy mình là cụ Mai Quang Hy
viết dài như vậy ở đầu sách, cho nên hết
sức nghiêm túc học tập. Do vậy, cụ bắt đầu
giảng kinh này tại Đài Trung, giảng bằng bản
này, cụ có viết lời mi chú. Khi lão nhân gia bắt đầu
giảng bản này tại Đài Trung, tôi vẫn chưa học
Phật; sau này, tôi đã học Phật, tới Đài Trung
quen biết cụ, cụ tặng cho tôi bản ấy. Tôi đọc
xong, hết sức hoan hỷ, thật đấy! Vì lời
chú giải của cụ rất rõ ràng, phân đoạn rất
rõ rệt, tôi đã toan giảng kinh này, nhưng cụ bảo
thời tiết nhân duyên chưa chín muồi. Nhưng hôm nay đã
hết thời gian rồi, chuyện này để đến
mai tôi kể tiếp. Khó khăn trùng trùng! Hiện thời chẳng
còn nữa. Hiện thời, đối với bản này, mọi
người chẳng còn nghi hoặc nữa, đã được
quốc gia khẳng định. Tại Trung Quốc, cục
tôn giáo nhà nước đã chấp nhận. Nay chẳng còn
ai dị nghị nữa, thật sự trở thành bản
hoàn chỉnh trong Tịnh Tông. À! Hôm nay học tới
đây, cảm ơn mọi người.
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 3
hết
[1] Một mẫu (畝) Trung Hoa bằng
666.67 mét vuông.
[2] “Cấp sáu”
nói ở đây chính là dựa theo cách đánh giá theo tiêu chuẩn
Richter. Quy định này được Charles Francis Richter
và Beto Gutenberg đưa ra vào năm 1935 nhằm đánh giá mức
độ chấn động của các trận động
đất. Tuy báo chí vẫn viết là “một trận
động đất mấy độ Richter”, nhưng thật
ra thang đo hiện thời được sử dụng
là MMS (moment magnitude scale, thường dịch
là Cự Chấn Cấp) căn cứ trên mức năng
lượng do một trận địa chấn phóng thích.
Nói chung, một trận động đất cấp sáu sẽ
phóng thích một năng lượng bằng 15 kilotons, có sức
tiêu hủy trong vòng bán kính 160 km. Cấp tám là rất mạnh,
có thể tàn phá hàng trăm km.
[3] San đính (刪訂): Nói gọn của
“san cải, tu đính” tức
là gạt bỏ những chỗ rườm rà, trùng lặp,
sửa những chữ bị chép lầm. San đính khác với
“san định” (刪定). Khổng Tử san định
Ngũ Kinh của Nho gia chính là hệ thống hóa, gạt bỏ
thẳng thừng những phần được coi là
không đúng với tư tưởng Nho gia, đồng thời
sắp đặt, chỉnh lý, thay đổi kết cấu
của cả một bộ kinh; trong khi san đính chỉ
nhằm mục đích làm cho một văn bản trở
nên mạch lạc, rõ ràng, sửa những chữ sai, lược
bỏ những đoạn văn trùng lặp thường
thấy trong tiếng Phạn, hay những phần khó hiểu,
rườm rà, không ảnh hưởng đến ý
nghĩa chánh yếu của cả bản kinh.
[4] Long Tạng là tên gọi tắt của
Càn Long Đại Tạng Kinh, còn gọi là Càn Long Tạng,
hoặc Thanh Tạng, là Đại Tạng Kinh được
triều đình Thanh chủ trì khắc in. Công trình này
được khởi xướng từ năm Ung Chánh 11
(1733), do Hòa Thạc Thân Vương Doãn Lộc chủ trì,
Hòa Thạc Thân Vương Hoằng Trú và Trụ Trì chùa Hiền
Lương Siêu Thánh phụ tá. Chính thức tiến hành khắc in vào năm Ung Chánh 13 (1735) đến
năm Càn Long thứ ba (1738) mới hoàn thành, gồm 79.036 tấm
ván in, chia thành 724 hòm, dùng những chữ trong bài Thiên Tự
Văn để đánh số thứ tự (tập một
là Thiên, tập hai là Địa, tập ba là Huyền v.v...)
gồm 1.669 bộ kinh sách, 7.168 quyển, trình bày giống
như bộ Vĩnh Lạc Bắc Tạng (Đại Tạng
Kinh đời Minh).
Đại Chánh Tạng gọi đủ
là Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Shinshū Daizōkyō), tức là
Đại Tạng Kinh Nhật Bản được đề
xướng từ năm Đại Chánh 13 (1922). Đại
Chánh (Taishō) là niên hiệu của hoàng
đế Yoshihito (Gia Nhân thiên hoàng, tức ông nội của
Nhật Hoàng Akihito (Minh Nhân Thiên Hoàng) hiện thời).
Công trình này do hai ông Cao Nam Thuận Thứ Lang (Takakusu Junjirō) và Độ Biên Hải
Húc (Watanabe
Umiakira) biên tập, nhóm các ông Tiểu Dã Huyền
Diệu (Ono Genmyo) v.v... giảo chánh, ấn hành
năm 1934. Sách được chia thành 100 tập, chia thành
Chánh Tạng 55 tập, Tục Tạng 33 tập, Biệt
Quyển 15 tập (gồm Đồ Họa, Chiêu Hòa Pháp Bảo
Tổng Mục Lục v.v..)
[5] Khuê (圭) còn gọi là ngọc khuê, vốn là một
vật dụng tượng trưng cho quyền lực vào
thời cổ, thường làm bằng ngọc quý, nhất
là loại ngọc trắng, tạc thành hình thuôn dài, dẹp,
trên đầu khắc thành hình tam giác, phía dưới cắt
thẳng. Quý tộc thường cầm ngọc khuê khi vào
chầu vua, dự tiệc, cúng tế, hoặc trong tang lễ.
Tùy theo địa vị mà kích thước, chất liệu
được quy định chặt chẽ, loại quý
nhất là bạch khuê, nên về sau chữ “bạch khuê”
được dùng với ý nghĩa “trân quý”.
[6] Ngụy Nguyên (1794-1857) vốn có tên là Ngụy
Viễn Đạt, sau đổi thành Ngụy Nguyên, tên tự
là Mặc Thâm, hoặc Mặc Sanh, hiệu Lương Đồ,
pháp danh là Thừa Quán, người huyện Thiệu
Dương, tỉnh Hồ Nam, là bạn thân của Lâm Tắc
Từ. Ông ta được coi là một nhà tư tưởng
lỗi lạc cuối đời Thanh. Khi ông ta thi Cử
Nhân, bài thi đã được vua Đạo Quang rất
tán thưởng, nhưng khi vào thi Hội liền bị rớt.
Chủ khảo Lưu Phùng Lộc rất nuối tiếc.
Mãi cho đến năm Đạo Quang 25 (1845), ông ta mới
đỗ Tiến Sĩ, đỗ hạng ba mươi
chín, làm quan tới chức Tri Châu. Tuổi già, chuyên tâm nghiên
cứu Phật giáo, ẩn cư tại Hàng Châu. Ngoài bản
hội tập kinh Vô Lượng Thọ ra, ông còn có những
tác phẩm biên khảo nổi tiếng như Hải Quốc
Đồ Chí, Thánh Vũ Ký, Hoàng Triều Kinh Thế Văn
Biên. Những trước tác khác của ông được
môn sinh biên tập thành Ngụy Nguyên Toàn Tập.
[7] Sau Hàm Phong chỉ còn ba đời vua là
Đồng Trị, Quang Tự và Phổ Nghi, nhà Thanh bị
lật đổ dưới thời vua Phổ Nghi. Vì thế,
sống vào thời Hàm Phong là sống vào những năm cuối
cùng của nhà Thanh nên mới nói là “vãn Thanh”.
[8] “Chưởng quản thiên bàn” là nắm
quyền cai quản thiên đình, giáng phước phạt tội,
quyết định ai sẽ được cứu.
Đây là một quan điểm rất phổ biến của
các tà phái, chẳng hạn tà giáo Nhất Quán Đạo của
Trung Hoa bịa chuyện lịch sử con người
được chia làm ba thời kỳ: Thanh Dương, Hồng
Dương và Bạch Dương. Trong mỗi thời kỳ,
Minh Minh Lão Mẫu (Thượng Đế) sẽ cử một
người xét đoán tội phước của nhân gian,
giáng tai họa, khuyến thiện, cứu vớt những
người nào thật sự tin theo Nhất Quán Đạo.
Vị đó được gọi là Chưởng Quản
Thiên Bàn, cụ thể là ba vị chưởng quản Thiên
Bàn cho ba thời kỳ theo thứ tự là Nhiên Đăng
Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc Phật. Theo họ,
thế giới đang thuộc vào thời kỳ Bạch
Dương và Di Lặc Bồ Tát đã giáng thế, chưởng
quản thiên bàn. Quan điểm này cũng có thể thấy
rất rõ trong các tà phái Minh Lý, Long Hoa Trai Hội, Minh Sư
Đạo v.v...
[9] Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh
Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ người xứ Nhục Chi dịch
vào đời Tây Tấn, một quyển. Theo kinh này, trong
tương lai, cõi đất đẹp đẽ, bằng
phẳng, sản vật dồi dào, tại đại thành
Sí Đầu, lúc ấy pháp vương Thương Khư
xuất hiện, dùng chánh pháp giáo hóa dân chúng. Vua có một vị
đại thần tên Tu Đạt Ma, vợ là Phạm Ma
Việt, đoan chánh, xinh đẹp như vợ Thiên Đế.
Di Lặc Bồ Tát bèn giáng sanh làm con họ, thị hiện
thành Phật dưới cội Long Hoa, ba lượt chuyển
pháp luân.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment