Bởi lẽ, kẻ được Phật
hóa độ chính là những chúng sanh căn cơ đã chín
muồi, Phật nhất định giúp cho kẻ ấy
thành Phật trong đời này. Chúng sanh căn cơ đã
chín muồi là do đời đời kiếp kiếp trong
quá khứ đã tích lũy các công đức, đến
đời này công đức tu học bèn chín muồi...
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần
4
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin ngồi xuống. Xin xem dòng thứ
tư trong trang bảy của bản kinh.
Chúng ta xem từ chỗ “chí ư khế cơ, tắc
cánh thị bổn kinh chi độc thắng” (còn về
khế cơ thì càng là chỗ thù thắng độc đáo
của kinh này), xem từ chỗ này. “Kinh trung chi trì danh pháp môn, phổ bị tam căn, tề
thâu phàm thánh. Thượng thượng căn giả, chánh
hảo toàn thể thừa đương; hạ hạ
căn giả, diệc khả y chi đắc độ”
(Pháp môn trì danh trong kinh này thích hợp khắp ba căn, thâu
trọn phàm thánh. Bậc thượng thượng căn rất
hợp để gánh vác toàn thể. Kẻ hạ hạ
căn cũng có thể nương theo kinh này mà đắc
độ). Lần trước, chúng ta học tập đến
chỗ này. Tiếp theo đó là: “Thượng
tắc Văn Thù, Phổ Hiền, Pháp Thân đại sĩ,
diệc quân phát nguyện cầu sanh” (trên thì như
Văn Thù, Phổ Hiền, Pháp Thân đại sĩ cũng
đều phát nguyện cầu sanh), đến phần
sau, chúng ta sẽ thấy cụ Niệm Tổ dẫn kinh
văn của kinh Hoa Nghiêm [để làm chứng cho nhận
định trên đây]. “Hạ
chí Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung niệm Phật, diệc
tất tùy nguyện đắc sanh” (dưới thì đến
Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung niệm Phật, ắt
cũng được tùy nguyện vãng sanh), dưới thì
nói đến căn tánh nào? Nói đến kẻ Ngũ Nghịch,
Thập Ác. Ngũ Nghịch là gì? Là kẻ tạo tác tội
nghiệp cực nặng. Trong kinh nói, tội Ngũ Nghịch,
Thập Ác nhất định đọa địa ngục
A Tỳ, vào rất dễ, thoát ra rất tốn sức, quá
khó khăn!
Ngũ Nghịch: Thứ nhất
là “giết cha”, thứ hai là “giết mẹ”. Ân đức
cha mẹ to lớn, trong kinh Phật có một bộ kinh
chuyên giảng về điều này là Phụ Mẫu Ân Trọng
Nan Báo Kinh. Trong Đại Tạng Kinh, kinh này có hai bản dịch,
thứ nhất là bản dịch của ngài An Thế Cao, bản
này chắc chắn không phải là ngụy kinh vì trong Dịch
Kinh Mục Lục có bản này. Bản thứ hai do ngài
Cưu Ma La Thập dịch, bản này không đáng tin, vì
trong mục lục các kinh do La Thập đại sư
phiên dịch không thấy bộ này, rất có thể là do
người đời sau ngụy tạo, mạo nhận
tên La Thập đại sư; nhưng những điều
được giảng trong ấy cũng khá lắm, chúng
ta có thể coi như một loại sách khuyến thiện,
nên Đại Tạng Kinh cũng thâu nhận. Được
thâu nhận là vì có những thứ quả thật là ngụy
tạo, nhưng do nội dung cũng rất tốt, cổ
đại đức cũng đưa vào Đại Tạng,
chúng ta học tập kinh giáo chớ nên không biết. Những
loại này có thể dùng làm tài liệu tham khảo. Nếu
muốn học, muốn giảng giải bên ngoài, tốt nhất
là dùng bản của ngài An Thế Cao, có căn cứ! Giết
cha, giết mẹ, xong luôn!
Thứ ba là “giết A La Hán”. A
La Hán giống như thầy; trong thế gian này, A La Hán giáo
hóa một phương, công đức cũng hết sức
thù thắng, quý vị giết hại Ngài. Hại Ngài là chuyện
nhỏ, Ngài chẳng trách quý vị, người ta đã chứng
quả thành thánh nhân, trọn chẳng ghi nhớ cừu hận.
Kết tội ở chỗ nào? Nhiều người không
có ai giáo hóa! A La Hán vốn giáo hóa cả vùng này, quý vị giết
Ngài đi, duyên nghe pháp của cả vùng này bị đoạn,
kết tội từ chỗ này! Nếu Ngài dạy học
rất rộng, thời gian rất lâu, tội của quý vị
cũng rất sâu, rất nặng, đó gọi là tội
Đẳng Lưu, vẫn là đọa trong địa ngục
A Tỳ.
Thứ tư là “làm thân Phật
chảy máu”. Phật phước báo to lớn, không ai có thể
hại chết Phật, nhưng có thể khiến Phật
chảy một chút máu. Chuyện này xuất phát từ Đề
Bà Đạt Đa, Đề Bà Đạt Đa muốn hại
Thích Ca Mâu Ni Phật, ông ta rất ganh ghét Thích Ca Mâu Ni Phật,
dù là đệ tử Phật, và trong quan hệ thế gian
là anh em họ [của Phật]. Cho nên có quan hệ rất
sâu, anh em họ mà! Ganh ghét vì Thích Ca Mâu Ni Phật sau khi thành
Phật có nhiều tín đồ, được thập
phương cung kính cúng dường. Ông ta thấy vậy,
không chịu được, luôn nghĩ đủ mọi
cách hại Phật. Có một ngày, ông ta tính toán: Mỗi ngày
Thích Ca Mâu Ni Phật đi khất thực phải đi
theo con đường dưới vách núi, Đề Bà
Đạt Đa chuẩn bị sẵn một tảng
đá lớn trên đỉnh vách núi, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật
đi phía dưới, bèn đẩy xuống, nghĩ Phật
sẽ bị đá đè chết. Phật phước báo
to lớn, có thần hộ pháp, thần hộ pháp là Vi
Đà Bồ Tát, ở trên không trung dùng Kim Cang xử ngăn
tảng đá. Bị chặn lại, tảng đá vỡ
thành mảnh nhỏ, sau khi các miểng đá rơi xuống,
một miểng cắt trúng chân Phật, chảy một
chút máu. Chảy một chút máu gọi là “làm thân Phật chảy máu”. Nếu nay chúng ta muốn
làm thân Phật chảy máu, nhưng Phật lại không ở
trên đời, cho nên đây là chuyện không thể
được; nhưng có chuyện giống như thế,
tội nặng bằng, đó là gì? Chính là khởi ác niệm
muốn hủy diệt hình tượng Phật, điều
này cũng giống như làm thân Phật chảy máu!
Do vậy, công đức tạo
tượng chẳng thể nghĩ bàn! Một pho tượng
được đắp tại một nơi nào đó,
bao nhiêu người trông thấy bức tượng Phật
ấy, gieo một chủng tử Phật vào A Lại Da Thức,
họ bèn có duyên với Phật. Trong một đời này,
chủng tử ấy chưa thể nẩy mầm,
chưa thể trưởng thành, chẳng sao cả! Đời
kế tiếp hoặc đời sau nữa, gặp duyên,
chủng tử này bèn khởi hiện hành, sẽ khởi
tác dụng. Bởi lẽ, kẻ được Phật
hóa độ chính là những chúng sanh căn cơ đã chín
muồi, Phật nhất định giúp cho kẻ ấy
thành Phật trong đời này. Chúng sanh căn cơ đã
chín muồi là do đời đời kiếp kiếp trong
quá khứ đã tích lũy các công đức, đến
đời này công đức tu học bèn chín muồi. Trong
Thiền Tông, bậc đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật chính là chúng sanh
căn cơ chín muồi; nếu luận về căn tánh sẽ
được gọi là bậc thượng thượng
căn, họ đều thuộc về hạng thượng
thượng căn. Trong Giáo Hạ, bậc được
gọi là “đại khai viên giải”, thật sự triệt
ngộ sẽ có cảnh giới giống như bậc minh
tâm kiến tánh trong Thiền Tông. Trong pháp môn Niệm Phật,
họ được gọi là “Lý nhất tâm bất loạn”.
Quý vị thấy danh xưng khác nhau, Tịnh Tông là Lý nhất
tâm bất loạn, Giáo Hạ là đại khai viên giải,
Tông Môn là đại triệt đại ngộ, nhưng
đều là minh tâm kiến tánh. Quý vị phải biết:
Mục tiêu chung cực (cuối cùng, rốt ráo) của niệm
Phật vẫn là minh tâm kiến tánh. Cho nên đức Phật
mới nói, như kinh Kim Cang đã chép: “Pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”. Vì
sao bình đẳng? Đạt tới mục tiêu giống
nhau là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh trong Niệm Phật
là Lý nhất tâm bất loạn; chứ Sự nhất tâm bất
loạn vẫn chưa đạt đến [minh tâm kiến
tánh]. Trong mười pháp giới, tứ thánh pháp giới là
Sự nhất tâm bất loạn, công phu ấy coi như
khá lắm, vượt thoát lục đạo luân hồi. Nếu
chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, công phu niệm
Phật ấy là công phu thành phiến. Công phu thành phiến cũng
có chín phẩm, vì trong cõi trời từ Tứ Vương
Thiên cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thiên là hai mươi tám tầng, mỗi tầng khác nhau!
Đây là kiến thức Phật học thông thường,
chúng ta phải biết. Trong Sự nhất tâm bất loạn
có tứ thánh pháp giới, trong Tiểu Thừa là Tứ Quả,
Tứ Hướng, nhưng trong tứ thánh pháp giới,
trên A La Hán còn có Bích Chi Phật, còn có Bồ Tát, còn có Phật,
thảy đều thuộc về Sự nhất tâm bất
loạn. Nếu chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn,
sẽ vượt thoát, không còn thuộc trong mười
pháp giới, đã thành Phật, đạt đến Nhất
Chân pháp giới, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Đây là
chúng sanh hữu duyên với Phật.
Sự thù thắng trong Tịnh
Độ Tông, nói thật ra, vô cùng thù thắng, vì sao? Tịnh
Độ Tông chẳng đoạn một phẩm phiền
não. Đoạn phiền não đúng là chẳng dễ dàng!
Đoạn được một phẩm phiền não sẽ
là thánh nhân, chẳng phải là phàm nhân. Quý vị đoạn
được một phẩm Kiến Tư phiền não, sẽ
chứng đắc quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa,
còn trong Đại Thừa, nói theo kinh Hoa Nghiêm, sẽ là
địa vị Sơ Tín trong Thập Tín. Tuy địa vị
chẳng cao, mới là bậc thánh nhân nhỏ tí, [điều
này] giống như một trường học trong Phật
giáo: Học lớp Một Tiểu Học, quý vị đã
bước vào trường. Sơ Tín Vị Bồ Tát là học
sinh lớp Một Tiểu Học, thật sự là đệ
tử Phật. Công phu đoạn phiền não bình đẳng
và giống như Tu Đà Hoàn; cho nên vị ấy thật sự
là tiểu thánh, chưa rời khỏi lục đạo.
Tuy chưa rời khỏi lục đạo, vị ấy
chắc chắn chẳng đọa trong tam ác đạo.
Do vậy, chứng đắc gì? Vị Bất Thoái trong ba
món Bất Thoái. Vĩnh viễn chẳng đọa làm phàm
phu, chẳng ở trong ác đạo. Dù không có Phật xuất
thế, [nhằm lúc] thế gian không có Phật pháp, vị ấy
vẫn có thể [thành tựu], trong lục đạo có thọ
mạng nhất định, sanh trong nhân gian hoặc cõi trời,
từ nhân gian chết bèn sanh lên trời, thọ mạng
trong cõi trời đã hết bèn sanh xuống nhân gian, bảy
lần qua lại trong nhân gian và cõi trời, sẽ thành
Độc Giác. Đó là khi không có thầy, vị ấy là
Độc Giác. Vì sao có thể thành Độc Giác? Độc
Giác không ai dạy. Chúng ta có thể suy ra Ngài là bậc thiện
căn sâu dầy. Phật, Bồ Tát vẫn chiếu cố
vị ấy, tuy chiếu cố, nhưng không lộ rõ.
Chúng ta là người bình thường không cảm nhận
được, nhưng vị ấy có cảm nhận, thấy
sắc, nghe tiếng đều có lãnh ngộ. Điều
kiện cơ bản để lãnh ngộ là tâm địa
thanh tịnh, điều này rất trọng yếu. Trong Phật
pháp nói “đắc tam-muội”, tâm địa thanh tịnh,
tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Nếu gặp Phật, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh trong thế gian này, vị ấy sẽ trở
thành Thanh Văn, nghe Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết
pháp bèn khai ngộ. Không gặp Phật, Bồ Tát giảng
kinh, thuyết pháp, vẫn có thể khai ngộ, tuy thời
gian lâu hơn một chút, khổ cực hơn một chút,
nhưng năng lực lãnh ngộ của vị ấy rất
mạnh. Nếu chúng ta hỏi: Vị tiểu thánh như vậy,
nếu xét theo điều kiện trong hiện tại là Thập
Tín vị Đại Thừa của Phật, để
được vào học lớp Một Tiểu Học, phải
có đủ những điều kiện nào? Kinh điển
thuộc giáo pháp Đại Thừa thường nói: Quý vị
phải đoạn hết năm thứ Kiến Hoặc.
Đối với Kiến Tư phiền não, Kiến là gì?
Chúng ta gọi nó là “cách nhìn”. Có năm cách nhìn sai lầm to lớn,
quý vị hãy bỏ sạch mới là đúng. Trên nữa là
Tư Hoặc, tức là tư tưởng sai lầm, hay
cách nghĩ sai lầm. Cách nghĩ sai lầm là gì? Tham, sân,
si, mạn, nghi. Quý vị phải biết: Trong tự tánh
không có những thứ ấy, những thứ ấy chẳng
thật! Trong tự tánh không có, nhưng nay quý vị đang
có. Hiện tại, do quý vị có những thứ này bèn có lục
đạo luân hồi, sai lầm nơi tư tưởng!
Sai lầm nơi kiến giải:
Thứ nhất là Thân Kiến, chấp trước thân là
ta, ta ở đâu? Nhất định là ở đây,
đây là ta. Phiền phức to! Quý vị vĩnh viễn chẳng
thể thoát khỏi lục đạo. Chúng ta học Phật,
học đã lâu năm như thế, tuy chưa khế nhập
cảnh giới, nhưng đức Phật đã giảng
quá nhiều, chúng ta cũng nghe và hiểu rõ, biết thân chẳng
phải là ta, thân là gì? Thân là ngã sở, tức là cái mà ta có.
Quần áo ta mặc trên người do ta sở hữu,
nhưng y phục của ta chẳng phải là ta. Chư vị
phải biết, cái mà ta sở hữu sẽ có sanh diệt,
nhưng Ngã bất sanh bất diệt. Thân thể có thể
bất sanh bất diệt hay không? Chẳng thể! Thân có
sanh diệt, nhưng Ngã không có sanh diệt. Các triết gia
ngoại quốc cũng rất thông minh, họ nói Ngã là gì?
Họ không nói tới thân, họ nói: “Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” (Cogito ergo sum)[9], cao minh hơn người bình thường
một chút. Ta có thể suy nghĩ, cái “có thể suy nghĩ”
là ta, cái thân xác thịt này chẳng thể suy nghĩ, nó là vật
chất; cũng có nghĩa là họ nói: Trong thân thể này,
phần tinh thần là ta. Vật chất có sanh diệt, tinh
thần chẳng sanh diệt, [quan điểm này] cao hơn
[cách nhìn của] người bình thường một chút.
Phương Đông chúng ta thường gọi [“tinh thần”]
là “linh hồn”, linh hồn là ta, chấp trước điều
này. [Tuy chúng ta] chấp trước điều này, nhưng
linh hồn tuy bất diệt, nó vẫn bỏ thân trong lục
đạo để đầu thai. Chuyện này là thật,
tuyệt đối chẳng phải giả. Hiện thời,
được coi như có chứng cứ khoa học rõ
ràng là trong thuật thôi miên của phương Tây. Rất
nhiều người đã xem báo cáo bác sĩ Ngụy Tư
(Brian L. Weiss)[10] của Hoa Kỳ; thật ra, theo các
đồng học bên Mỹ đã bảo tôi, còn có rất
nhiều người cao minh hơn ông ta, nhưng họ
chưa in sách. Sau khi sách của ông Weiss ra đời, đã
được dịch thành hơn ba mươi thứ tiếng
khác nhau lưu thông trên cả thế giới, ông ta bèn nổi
danh. Đương nhiên cũng kể như là rất khá,
ông ta là một người rất thành công trong lãnh vực
thôi miên. Mấy bữa gần đây, hình như ông ta
đang ở Úc, các đồng học bên Úc cho biết ông
ta đang ở Úc, tôi vốn muốn mời ông ta đến
báo cáo, nhưng ông ta cũng hết sức bận rộn,
các nơi đều mời ông ta. Qua thôi miên, biết con
người có đời quá khứ, quá khứ không chỉ
là một đời. Có người được thôi miên
đã nói ra mười mấy đời, hai mươi mấy
đời. Tôi đọc báo cáo của ông Weiss, đã có một
người gần như là nhớ mấy chục đời,
tính ngược lại gần như là hơn bốn ngàn
năm trước, nhằm thời thượng cổ, bọn
họ không có nhà ở, sống trong hang hốc, sống
trong thời đại như thế đó! Đấy là
linh hồn chuyển thế.
Lục đạo là thật, chẳng
giả. Tại cổ Ấn Độ, trong thời Thích Ca
Mâu Ni Phật, Ấn Độ là đất nước tôn
giáo, các tín đồ tôn giáo đều có công phu Thiền
Định, trong giới học thuật đều biết
tu Thiền Định. Trong Thiền Định có thể
đột phá chiều không gian, cũng có nghĩa là trong lục
đạo mà họ có thể đột phá chiều không
gian, nhờ Tứ Thiền Bát Định, có thể thấy
được Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, phía
dưới có thể thấy địa ngục A Tỳ.
Chuyện này chẳng giả, ai đắc Định
đều có thể thấy. Quý vị hỏi những
người đắc Định, thưa hỏi về
trạng huống địa ngục và thiên đường
mà họ đã thấy, họ sẽ nói cho quý vị nghe, mọi
người đều nói như nhau, chẳng giả! Họ
chẳng dùng dụng cụ khoa học, mà dùng công phu Thiền
Định để đột phá chiều không gian. Hiện
thời, khoa học biết quả thật có các chiều
không gian tồn tại, nhưng vẫn không biết dùng
phương pháp nào để đột phá, chưa tìm ra
phương pháp. Tại cổ Ấn Độ, những vị
đại đức trong giới tôn giáo, học thuật
từ mấy ngàn năm trước, nếu nói theo Ấn
Độ Giáo, các trưởng lão Ấn Độ Giáo bảo
tôi, họ đã có lịch sử lâu tới một vạn
năm, nhưng hiện thời, giới học thuật
trên thế giới thừa nhận [lịch sử nhân loại]
là tám ngàn năm trăm năm, sớm hơn Phật giáo
năm ngàn năm. Họ (các trưởng lão Ấn Độ
Giáo) tự nói [lịch sử] lâu đến một vạn
năm, tôi tin tưởng, họ không chú trọng ghi chép lịch
sử mà là đời đời truyền cho nhau.
Đột phá chiều không gian là chuyện
khác hẳn, cảnh giới hoàn toàn khác nhau, nhưng đều
không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nói thật
ra, đối với linh hồn, tôi nghĩ thánh nhân Trung Quốc
cũng biết chuyện này, biết nhưng không nói. Vì sao
không nói? Chẳng phải là cảnh giới của quần
chúng thế tục. Không nói tốt hơn! Nói ra sẽ nhiễu
loạn tâm tư của họ, khiến họ suy nghĩ
lung tung, chẳng thà không nói, [đại chúng] chưa đạt
đến trình độ mà! Vì thế, phu tử giảng về
nhân đạo và thiên đạo, rất ít nói tới quỷ
thần. Đây là nói “cơ cảm
bất đồng”, cho nên phương pháp giáo học
khác hẳn. Khi Lục Tổ Huệ Năng đại
sư khai ngộ đã nói Ngã là gì? Tự tánh là Ngã. Đây là
nói theo Phật pháp, tự tánh là Ngã. Nếu nói theo thế tục,
sẽ không thể gọi là linh hồn, mà gọi là linh
tánh. Hồn chẳng linh. Nếu hồn là linh, quý vị
đến đầu thai trong thế gian, nhất định
có thể chọn gia đình đại phú đại quý, cuộc
sống thoải mái hơn! Nếu quý vị đến
đầu thai trong nhà bần cùng, chẳng phải là lầm
lạc hay sao? Mê, chẳng ngộ, bất giác. Vì thế, phu
tử nói rất hay. Trong kinh Dịch, Ngài đã giảng
trong phần Hệ Từ Truyện: “Du hồn vi biến, tinh khí vi vật”[11], hai câu này nói rất hay! Quỷ hồn
có tốc độ rất nhanh, dao động không ngừng,
chẳng thể ở yên, [dao động với] tốc
độ rất nhanh, đúng là “du hồn”, thuyết này rất có lý. Trong Phật
pháp nói đến “mê hồn”, nó đã mê rồi, mê mà chẳng
giác, không biết đó là chính mình; nói thật ra, [thần hồn,
mê hồn, hay du hồn] chính là A Lại Da Thức như
trong nhà Phật đã nói. A Lại Da Thức là mê. Hễ
giác sẽ không gọi là A Lại Da Thức, mà gọi là tự
tánh, gọi là pháp tánh. Cùng một chuyện, nhưng do mê hay
ngộ mà có danh hiệu khác nhau!
Phàm phu chúng ta và Phật có cùng một
tánh, một tự tánh, một linh tánh, chẳng có mảy
may sai biệt nào! Qua bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của
Hiền Thủ quốc sư, chúng ta đã biết thông tin
này. Lão nhân gia đã giảng rất tỉ mỉ, giảng
vô cùng tinh vi tuyệt diệu. Sau khi chúng ta học xong, tuy chẳng
chứng ngộ, nhưng có giải ngộ, chúng ta hiểu
rõ chân tướng sự thật này. Chắc chắn Phật,
Bồ Tát, tổ sư chẳng lừa gạt chúng ta, chúng
ta phải có lòng tin kiên định. Chúng ta học Phật
chẳng có gì khác, chính là nhằm tìm lại diện mục
của chính mình. Vì thế, đề mục bài luận
văn của Ngài (Hiền Thủ quốc sư) là Vọng
Tận Hoàn Nguyên, “hoàn nguyên”
là tìm lại, kiếm lại cái Ngã thật sự. Thân là giả
ngã, ngỡ thân là Ngã, quý vị đã sai mất rồi! Về
trật nhà rồi! Vì thế, trước hết, phải
giác ngộ thân chẳng phải là Ngã, thân là ngã sở hữu
(cái mà ta có). Thật sự hiểu rõ chân tướng sự
thật này, đã thật sự thấu hiểu, quý vị
có sợ chết nữa không? Không sợ! Vì sao? Không có sanh tử,
quý vị sợ cái gì! Bỏ thân mạng giống như
thay quần áo. Cởi bỏ quần áo dơ, vứt bỏ
nó để thay một bộ mới. A Lại Da Thức
là như vậy, Phật pháp gọi A Lại Da Thức là
“thần thức”. Thân thể này già rồi, chẳng tiện
sử dụng nữa, bèn đổi sang cái mới,
nhưng có người càng đổi càng tốt, có kẻ
càng đổi càng tệ. Mối quan hệ này lớn lắm.
Trong lục đạo, nhân thiên là tốt đẹp, súc
sanh, ngạ quỷ, địa ngục rất tệ, quý vị
đổi lấy cái thân nào? Ở đây nói tới nghiệp
nhân quả báo, quý vị tâm thiện, hạnh thiện, tiêu
chuẩn thiện ác là gì? Là tự tánh, Tánh Đức trong tự
tánh. Cốt lõi của Tánh Đức trong tự tánh, nói theo
kiểu thông thường hiện thời là Ái, trong Phật
pháp gọi là “từ bi”, cổ nhân Trung Quốc gọi là
“nhân nghĩa”, trong bản tánh là Ái. Quả thật, sau khi kiến
tánh, lòng Ái trong tự tánh sẽ tự nhiên lưu lộ, chắc
chắn chẳng phân biệt, quyết định chẳng
chấp trước, lòng Ái trọn khắp vũ trụ,
khắp pháp giới, giống như ánh sáng, như sóng
điện từ, trọn pháp giới hư không giới
thảy đều cảm nhận được.
Hiện thời, trong ý niệm
của chúng ta, khởi tâm động niệm rất phi
phàm, bất luận là thiện niệm, hay ác niệm, vừa
dấy động sẽ trọn khắp pháp giới,
nhưng chính chúng ta không biết. Vì sao? Sách Hoàn Nguyên Quán bảo
chúng ta: Bất luận là hiện tượng vật chất
hay hiện tượng tinh thần, các vật chất cũng
có hiện tượng dao động, bất luận vật
chất nào cũng đều có hiện tượng dao
động. Do vậy, các khoa học gia hiện thời bảo
vũ trụ trong tình trạng dao động, trên thực tế
điều gì cũng không có, vật chất do dao động
mà hình thành, tinh thần cũng do dao động mà hình thành.
Nếu không có dao động, tinh thần và vật chất
cũng chẳng tồn tại. Cách nói này cũng rất gần
với cách Phật pháp giảng về căn nguyên của vạn
vật trong vũ trụ. Trong kinh Phật có nói: “Nhất niệm bất giác, nhi hữu
vô minh”, [nghĩa là] từ nhất niệm bất giác mà
sanh khởi vạn vật, nhất niệm là dao động.
Thế nhưng khoa học gia không giảng nhất niệm
rõ ràng, còn kinh Phật giảng rõ ràng. Chúng ta xem cuộc
đối thoại giữa Phật và Di Lặc Bồ Tát
trong Bồ Tát Xử Thai Kinh[12];
trong bộ kinh này có một đoạn đối thoại
như vậy. Đức Phật hỏi Di Lặc Bồ
Tát: “Tâm hữu sở niệm”,
[nghĩa là] bọn phàm phu chúng ta, tức phàm phu trong lục
đạo, trong tâm khởi lên một niệm, đức
Phật bèn hỏi: “Trong một niệm ấy có bao nhiêu niệm?”
Chúng ta nghĩ không ra, trong một niệm lại còn có mấy
niệm nữa ư? Ai có thể nghĩ đến vấn
đề này? Tôi nghĩ khoa học gia thông minh nhất trong
hiện tại cũng không nghĩ đến. Trong một
niệm có mấy niệm? Nói cách khác, nhất niệm này do
bao nhiêu tế niệm hợp thành? Câu hỏi này mới có ý
nghĩa, có bao nhiêu niệm? Tiếp đó, lại hỏi:
Có mấy tướng? Có mấy thức? Tướng là hiện
tượng vật chất, thức là hiện tượng
tinh thần. Đức Phật nêu câu hỏi như thế!
Di Lặc Bồ Tát là một nhà tâm lý học
trong Phật giáo; nếu coi Phật giáo như giáo dục
thì Ngài chuyên môn dạy tâm lý học. Ngài đáp lời đức
Thế Tôn, trên thực tế, hai vị đàm thoại
để bọn chúng ta nghe, chẳng phải là không biết.
Di Lặc Bồ Tát nói một khảy ngón tay, thời gian khảy
ngón tay rất ngắn, người trong thế gian này khởi
lên một niệm ước chừng bằng thời gian
khảy ngón tay. Trong khoảng khảy ngón tay, có bao nhiêu tế
niệm? Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm.
Đơn vị là trăm ngàn, một trăm ngàn là mười
vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn
thành ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, người
Trung Quốc nói là ba trăm hai mươi triệu, một
cái khảy ngón tay đó nghe! Một cái khảy ngón tay là ba
trăm hai mươi triệu. Trong kinh Phật đã nói
[như thế], còn các khoa học gia chưa nói! Di Lặc Bồ
Tát nói: “Niệm niệm thành
hình”, “hình” (形) là vật chất,
Phật gọi nó là tướng, tức Tướng Phần,
Tướng Phần của A Lại Da Thức. “Hình giai hữu thức”, mỗi
hình đều có thức. Đây là nói vật chất và tinh
thần đồng thời sanh ra, không có trước sau.
Trong vật chất nhất định có tinh thần, trong
tinh thần nhất định có vật chất. Đối
với vật chất, trong kinh Phật có một danh từ
là Vô Biểu Sắc. [Những vật chất mà] chúng ta có
thể thấy bằng mắt thường là Hữu Biểu,
đây là hiện tượng vật chất. Chúng ta không thể
thấy Vô Biểu Sắc, nhưng nó thật sự tồn
tại, có thể cảm nhận nó hay không? Có thể!
Vô Biểu Sắc
là gì? Chúng ta đã từng thấy. Giữa Hương Cảng
và Cửu Long là biển[13],
là nước biển, chẳng phải là nước ngọt,
mà là nước biển, chúng ta đều thấy. Nay chúng
ta ngồi trong nhà, chúng ta nghĩ tới nước trong biển,
có thể có khái niệm rõ ràng hay không? Hỏi quý vị có sắc
hay không? Có! Chính quý vị cảm nhận rất rõ ràng,
nhưng người khác không thấy. Đó là vật chất,
điều này cho thấy trong tinh thần có vật chất.
Tinh thần là gì? Tinh thần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Thọ, Tưởng, Hành, Thức do đâu mà có? Từ “thấy,
nghe, hay, biết” vốn sẵn có trong tự tánh. Thấy,
nghe, hay, biết là Tánh Đức. Hễ giác ngộ thì Thọ,
Tưởng, Hành, Thức không còn nữa, chúng chuyển biến
thành thấy, nghe, hay, biết. Nếu mê thì thấy,
nghe, hay, biết biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Chuyện là vậy đó, biến chất rồi! Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là năm thứ cảm nhận[14]
của phàm phu trong lục đạo, chẳng thật! Do vậy,
trong kinh đức Phật đã nói: Thân chúng ta do Ngũ Uẩn
hòa hợp, tạo thành thân thể này. Các duyên hòa hợp [gọi
là] chúng sanh. Mỗi cá nhân được gọi là chúng sanh,
vì do các duyên hòa hợp mà sanh. Trong ấy có sắc pháp, sắc
pháp là vật chất, là hình; có Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là tâm pháp. Thọ là năm thức đầu (nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức),
Tưởng là thức thứ sáu (ý thức), Hành là thức
thứ bảy (Mạt Na, còn gọi là Ý Căn), thức cuối
cùng là A Lại Da, đó là hiện tượng tinh thần.
Vì thế, chúng ta nói duy vật
hay duy tâm đều trật! Tâm và vật có cùng một nguồn,
là một chuyện, quyết định chẳng tách rời.
Chúng ta là động vật có Thọ, Tưởng, Hành, Thức
rất rõ ràng, thực vật có hay không? Có! Khoáng vật có
hay không? Có! Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật
Bản rất hiếm có! Nước là khoáng vật, ông ta
quan sát nước cẩn thận, [nhận thấy] nước
có thể thấy, nghe, hiểu ý nghĩ của con người,
nó có thấy, nghe, hay, biết. Đó là khoáng vật có thấy,
nghe, hay, biết! Tôi bảo ông ta: “Không riêng mình nước
có thấy, nghe, hay, biết; tất cả khoáng vật
đều có thấy, nghe, hay, biết. Hiện thời, ông
chỉ thấy được Sắc của nó, thấy
được sắc tướng, nhưng nó còn có thanh,
hương, vị, ba thứ này, ông vẫn chưa phát hiện
được. Ông hãy gắng tiếp tục nỗ lực,
trong bất luận vật chất nào cũng có
hương, ông có thể ngửi được, nó có vị,
có âm thanh, nay ông chỉ thấy được sắc
tướng của nó”. Từ ba ngàn năm trước,
đức Phật đã nói rõ như thế, nay ông ta làm thí
nghiệm mới thấy được một điều,
ông ta bội phục. Vốn nghĩ Phật giáo là mê tín,
không dám tiếp xúc, nay ông ta đã hiểu rõ, tin tưởng.
Chúng tôi giảng kèm thêm một đoạn dông dài vào phần
“làm thân Phật ra máu” như
thế, những điều này đều thuộc loại
kiến thức Phật học thông thường.
Điều cuối cùng trong Ngũ
Nghịch là “phá hòa hợp
Tăng”, cũng đọa địa ngục A Tỳ.
Thuở tôi còn trẻ, giảng kinh tại Đài Bắc,
tôi nhớ lúc đó đã bốn mươi mấy tuổi,
có một vị lão cư sĩ là bạn cũ của lão
cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy chúng tôi. Vị này tuổi
nhỏ hơn thầy Lý một chút, khi ấy, cụ cũng
ngoài sáu mươi tuổi, tôi mới vừa bốn
mươi mấy tuổi, cụ hơn tôi nhiều lắm
là hai mươi tuổi. Có một hôm cụ mời tôi dùng
cơm, cạnh trạm xe lửa có một tiệm cơm
chay tên là Công Đức Lâm, thuộc thành phố Đài Bắc.
Tôi tới Công Đức Lâm thì cụ đã đến rồi,
đến nơi thấy chỉ có hai người chúng tôi,
cụ chẳng mời ai khác, chỉ mời
một mình tôi! Chọn món ăn xong, khi đang ăn, cụ
hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không, thầy có biết vì sao
hôm nay tôi mời thầy dùng cơm hay không?” Tôi nói: “Tôi không
biết”. Cụ bảo: “Có một chuyện tôi muốn hỏi
ý thầy”. Tôi hỏi: “Chuyện gì vậy?” Cụ nói:
“Chuyện này nghiêm trọng lắm! Trong Ngũ Nghịch, tội
giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật
chảy máu, rất ư là ít!” Khi ấy, đúng là ít, chứ
nay thì chẳng ít! Quý vị đọc báo, đọc tạp
chí, sẽ thấy giết cha, giết mẹ, anh em giết
nhau, giết thầy, giết bạn học là chuyện
thường nghe nói tới. Thưa quý vị, năm
mươi năm trước không có hiện tượng
này, rất ít thấy chuyện này xảy ra, “chỉ có một
điều là phá hòa hợp Tăng, điều này nghiêm trọng
lắm”. Tôi hiểu ý cụ, các đồng học học
Phật, bất luận tại gia hay xuất gia, ganh ghét,
chướng ngại, hủy báng lẫn nhau là phá hòa hợp
Tăng. Cụ nói chuyện này nghiêm trọng, tạo tội
này sẽ đọa địa ngục A Tỳ. Tôi cười
nói: “Chúng ta hãy ăn cơm, không có chuyện gì đâu!” Cụ
thấy tôi rất thong dong, cảm thấy rất lạ,
sao lại không có chuyện gì? Ta hỏi ngược lại:
“Thưa lão cư sĩ! Cụ học Phật sớm
hơn tôi”. Cụ học Phật với Ấn Quang đại
sư, là bạn học của thầy Lý, lúc đó, tôi học
Phật đại khái cũng được mười mấy
năm. Tôi nói: “Tôi không chỉ chưa được thấy
hòa hợp Tăng, mà còn chưa hề nghe nói tới, cụ
thấy ở đâu có Tăng đoàn hòa hợp?” Tôi vừa
hỏi, cụ cũng cười theo. Hai người xuất
gia ở cùng một chỗ luôn cãi nhau, Tăng đoàn hòa hợp
từ đâu mà có? Chưa hề thấy! Cụ bận lòng
chuyện này làm gì? Hiện thời không có Tăng đoàn hòa
hợp, chúng ta dùng cơm là được rồi. Thật
đấy!
Kinh nói rất hay, nếu ở
nơi đây xuất hiện một Tăng đoàn hòa hợp,
bốn người trở lên ở cùng một chỗ cộng
tu, thật sự thực hiện Lục Hòa Kính, kiến
hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa
đồng trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt,
lợi hòa đồng quân, làm được sáu điều
này, sẽ thật sự là đạo tràng của Thích Ca
Mâu Ni Phật, nhất định cảm hết thảy
chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng
hộ, nơi này sẽ không có tai nạn. Thật đấy,
chẳng giả đâu! Trong đời này, từ lúc tôi bắt
đầu học Phật, biết chuyện này, bèn lưu
ý, mong có được một Tăng đoàn hòa hợp
như thế xuất hiện, nhưng tìm không ra. Ba
mươi năm trước, tức năm 1977, tôi đến
Hương Cảng lần đầu tiên để giảng
kinh, bên Hương Cảng các đại đức pháp
sư không ít, từ các nơi trong đại lục vân tập
về cuộc đất ấy. Trong số đó, cũng
có một pháp sư trẻ tuổi, đại khái chừng
bốn mươi mấy tuổi, tuổi tác chẳng chênh
lệch với tôi cho mấy, lớn hơn tôi mấy tuổi
là pháp sư Tẩy Trần. Ở Hương Cảng, mọi
người đều biết pháp sư Giác Quang và pháp
sư Tẩy Trần, hai vị này là lãnh tụ của giới
Phật giáo Hương Cảng. Sư Tẩy
Trần là người Đông Bắc, sư Giác Quang cũng
là người Đông Bắc, chúng tôi nói chuyện rất hợp
ý. Đặc biệt là pháp sư Tẩy Trần, tôi
đã từng thỉnh cầu Sư vài lần, tôi nói: “Thầy
có thể tìm năm người xuất gia hay không? Tôi sẽ
tham gia. Tôi ghi danh, thầy là người cầm đầu.
Năm người chúng ta thi hành Lục Hòa Kính. Chúng ta thành
lập Tăng đoàn này”. Lần đầu tiên tôi đến
Hương Cảng giảng kinh suốt bốn tháng, giảng
kinh Lăng Nghiêm. Giảng xong đã hết thời gian
lưu trú, tôi trở về Đài Loan, tôi nói thầy hãy tiếp
tục nỗ lực để chúng ta cùng làm, Sư cũng
rất hoan hỷ. Không làm thành công! Chẳng dễ dàng, tìm
không ra!
Phải thực hiện Lục
Hòa Kính ra sao? Thưa quý vị, thực hiện ba căn bản
của Nho, Thích, Đạo thì Lục Hòa Kính sẽ thực
hiện được! Quý vị nghĩ coi có đúng hay
không? Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện
Nghiệp, Sa Di Luật Nghi của người xuất gia,
chỉ cần làm được một trăm phần
trăm bốn món căn bản này, đoàn thể ấy sẽ
là Lục Hòa Kính, là một Tăng đoàn danh phù hợp thực
chất. Chẳng tu Lục Hòa Kính, chẳng đạt
được tiêu chuẩn Lục Hòa Kính, chẳng thể
xưng là Tăng đoàn! Khi chúng ta niệm Tam Quy Y, “quy y Tăng, chúng trung tôn”, “Chúng” là đoàn thể, là tổ
chức xã hội. Trong tất cả các đoàn thể xã hội, đoàn thể của
đệ tử Phật tôn quý nhất, vì sao? Hòa thuận.
Tổ tiên Trung Quốc bảo: “Hòa
vi quý” (hòa là quý), họ thực hiện chữ Hòa.
Trong đoàn thể ấy, chắc chắn chẳng thấy
có tranh chấp, chắc chắn chẳng thấy nổi
nóng. Hiện thời, chúng ta có thể thấy hay không?
Đi tìm khắp nơi [vẫn chẳng thấy]! Vì sao Phật
pháp suy? Không có Tăng đoàn! Tăng đoàn hình thức thì
có, Tăng đoàn thực chất không có! Hiện thời
phiền phức lắm! Tai nạn nhiều quá, làm thế
nào để hóa giải tai nạn? Có một Tăng
đoàn xuất hiện trong thế gian này, địa cầu
sẽ được cứu, chư Phật hộ niệm,
long thiên thiện thần ủng hộ, tai nạn gì cũng
đều không có. Có ai chịu phát tâm hay không? Không ai hết.
Vì sao? Tự tư, tự lợi không buông xuống
được, tiếng tăm, lợi dưỡng không
buông xuống được, hưởng thụ ngũ dục
lục trần không buông xuống được. Vậy là
không có cách nào cả! Cùng nhau chịu nạn, không có
đường nào để đi được nữa!
Vì thế, quý vị có chịu buông xuống, bỏ mình vì
người khác hay không? Nói thật ra, vì người khác thật
ra là vì chính mình; vì chính mình thì thật ra là tự mình hại
mình.
Phật, Bồ Tát, thánh hiền
biết chuyện này, nhưng phàm phu mê hoặc, điên
đảo không biết, trước mắt niệm niệm
đều mong chiếm được một chút tiện
nghi. Có tiện nghi chiếm được, nhưng cũng
có những điều chẳng chiếm được, vì
sao chiếm được? Do trong mạng có [nên quý vị
mới chiếm được], quý vị nói xem có phải
là oan uổng hay không? Trong mạng có, bèn đạt
được! Trong mạng không có, dùng cách nào cũng đều
chiếm không được. Cổ nhân Trung Quốc nói rất
hay: “Nhất sanh giai thị mạng,
bán điểm bất do nhân” (Cả đời đều
do số mạng, chẳng có được nửa điểm
do con người quyết định). Mạng do đâu mà
có? Mạng là do quý vị tạo nghiệp trong đời
trước. Trong đời quá khứ tạo thiện nghiệp,
quý vị đến [thế giới này để] hưởng
phước, trong mạng quý vị có [phước báo ấy].
Trong đời quá khứ tạo tác nghiệp bất thiện,
quý vị hứng chịu khổ báo, chẳng do người
khác ban cho, tự làm, tự chịu! Nhất định phải
hiểu đạo lý này, quyết định chớ nên oán
trời, hờn người! Oán trời hờn người
là tội lại chồng thêm tội. Đây là chân tướng
sự thật. Trước khi chúng ta chưa học Phật,
chưa tiếp xúc Phật pháp thì không biết. Sau khi tiếp
xúc Phật pháp, vui thích học tập, càng ngày càng hiểu
rõ, càng ngày càng minh bạch, tai họa vì sao mà có ? Hạnh
phúc vì sao mà có? Rõ ràng, rành rẽ. Đoạn ác, tu thiện,
sám trừ nghiệp chướng, tích công lũy đức,
hạnh phúc sẽ đưa đến. Hạnh phúc thật
sự là gì? Phước báo thế gian là giả, chẳng
thật, giống như hoa Đàm thoáng hiện! Phước
báo cõi trời cũng chẳng thật, tuy thời gian dài
hơn nhân gian một chút, nhưng vẫn là hữu hạn.
Nay chúng ta biết, với thân phận của chúng ta, với
trình độ của chúng ta, vãng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới là đệ nhất phước,
đệ nhất đức, có thể hay không? Thật sự
có thể!
Nếu đã xác định một
phương hướng, một mục tiêu như vậy,
quý vị sẽ dám buông xuống, buông tự tư tự lợi
xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống,
buông ngũ dục lục trần xuống, buông tham, sân, si,
mạn xuống, Tăng đoàn hòa hợp sẽ xuất hiện
chẳng khó. Cổ nhân có thể làm được,
nhưng người thời nay không làm được. Vì
sao cổ nhân có thể làm được? Giác ngộ sẽ
làm được! Vì sao người thời nay không làm
được? Chẳng giác ngộ, bị tiếng
tăm, lợi dưỡng dụ dỗ, mê hoặc, đọa
lạc trong ấy, không thể tự dẹp trừ, cho nên
làm không được. Làm không được là do chưa
giác ngộ, hễ giác ngộ bèn làm được. Do vậy,
khi tôi mới học Phật, Chương Gia đại
sư thường bảo tôi: “Phật
pháp là chuyện biết khó, hành dễ”. Đúng vậy!
Hành rất dễ, mê hay ngộ đúng là trong một niệm,
chẳng khó, nhưng biết chuyển mê thành ngộ, khó lắm!
Quý vị thật sự nhận rõ cái gì là thật, cái gì là
giả, khó lắm, chẳng dễ dàng! Đúng là cần phải
giống như Phật, Bồ Tát nhận biết như thế
này: Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng!
Xa lìa hiện tượng vật chất và hiện tượng
tinh thần chẳng phải là chuyện khó, vấn đề
là quý vị có thật sự hiểu rõ hay không? Giảng rõ
ràng, đơn giản nhất là bài luận văn Vọng
Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư,
bài này chẳng dài. Chẳng dài mà mọi người chúng ta
cùng nhau học tập cũng gần như mất cả một
hai trăm giờ, hết sức hữu ích!
Chúng ta đã hiểu rõ Ngũ
Nghịch, năm thứ này hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức,
chẳng phải do ai khác trừng phạt quý vị, địa
ngục cũng do chính quý vị biến hiện, chẳng
do người khác tạo, đó là đọa
địa ngục A Tỳ. Thập Ác là trái nghịch với
Thập Thiện, tạo tác sát sanh, tà dâm, trộm cắp.
Giết, trộm, dâm là thân nghiệp. Giết, trộm, dâm
là gì? Kẻ bình thường chúng ta chỉ thấy thô
tướng, không biết đến [tướng] vi tế,
kinh Phật giảng rất tỉ mỉ, chẳng thể
không biết. Sát là giết hại, ta không giết, nhưng
ta tổn hại chúng sanh, đó là một phần của
Sát! Bất cứ khi nào, hễ có thể được, nhất
định đừng tổn hại một chúng sanh nào thì
quý vị mới thực hiện viên mãn điều này. Hễ
quý vị còn có ý niệm và hành vi tổn hại chúng sanh, tức
là quý vị chưa làm được điều này.
Đúng vậy, chẳng dùng dao giết chúng sanh, nhưng lời
lẽ gây tổn thương, khởi tâm động niệm
gây tổn thương, đều tính là sát! Đối với
trộm cắp thì trộm cắp vi tế là gì? Chiếm tiện
nghi. Chiếm một chút ít tiện nghi từ người
khác là nghiệp trộm, giới “chẳng trộm cắp”
sẽ chẳng tinh sạch! Chiếm tiện nghi nơi
người khác, chiếm tiện nghi của quốc gia,
làm thế nào để nạp thuế cho quốc gia ít
hơn một chút, tìm kẽ hở trong luật lệ. Hoàn
toàn hợp pháp, nhưng quý vị có ý niệm: Nay ta tìm
được điều này trong luật pháp, có thể
đóng thuế ít hơn một chút, đó là cái tâm trộm
cắp, tâm trộm cắp chưa dứt! Lại mở rộng
ra, đối hoa, cỏ, cây cối, có tâm trộm cắp,
đối với núi, sông, đại địa cũng có
tâm trộm cắp. Cứ nghĩ chiếm một chút tiện
nghi, luôn mong hưởng thụ khá hơn người khác một
chút, hễ có ý niệm này tức là tâm trộm cắp
chưa đoạn, rất vi tế!
Do mười điều này
tương phản với Thập Thiện nên gọi là Thập
Ác. Triển khai ra, trong Tiểu Thừa sẽ biến thành
ba ngàn điều, từ mười điều biến
thành ba ngàn điều. Nói như thế nào? Thí dụ
như sát sanh. Trong điều sát sanh này, có chứa đựng
chín điều kia, mười nhân với mười thành
một trăm; mỗi điều trong một trăm
điều ấy lại có mười điều, bèn biến
thành một ngàn; trong mỗi điều của một ngàn
điều lại có mười điều, càng nói càng vi
tế, ba ngàn oai nghi của Tiểu Thừa do đây mà ra.
Đại Thừa lại càng nhiều! Đại Thừa
Bồ Tát đem Thập Thiện Nghiệp triển khai
thành tám vạn bốn ngàn oai nghi, tám vạn bốn ngàn
điều! Vì thế, Thập Thiện Nghiệp đạo
viên mãn, tám vạn bốn ngàn cũng không phạm một
điều nào, người ấy bèn thành Phật. Chúng ta
chẳng phạm mười điều này, mười
điều rất thô, sẽ là người lương thiện,
là người tốt. “Thiện
nam tử, thiện nữ nhân” trong kinh Phật được
dùng theo tiêu chuẩn này. Thập Thiện chưa làm
được, sẽ chẳng phải là thiện nam tử,
thiện nữ nhân. Làm được Thập Thiện mới
gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhân. Mở kinh
điển ra, quý vị thấy “thiện
nam tử, thiện nữ nhân”, ta có thuộc trong số
đó hay không? Ta có thể được coi là thiện nam
tử, thiện nữ nhân hay không? Tiêu chuẩn là có làm
được mười điều này hay không? Lấy
chuyện này làm tiêu chuẩn, chẳng phải là nói tùy tiện!
Đối nghịch của Thập
Thiện là Thập Ác. Chúng ta quan sát cẩn thận xã hội
hiện tại, chẳng phải là xã hội Thập Thiện,
mà là xã hội Thập Ác. Quý vị thấy ba nghiệp
nơi thân là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, miệng nói dối,
nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt; ý tham, sân, si,
ai nấy đều trọn đủ, xã hội này phiền
quá, chắc chắn có tai nạn. Vì thế, đối với
bộ phim “2012” do người Mỹ thực hiện, mấy
chục năm qua tôi chưa từng xem phim, mà cũng không
xem TV, một đồng tu trong Phật môn mua vé dẫn tôi
đi xem. Xem xong, tôi nói chuyện với mọi người,
mới biết phim này được cùng lúc chiếu trên
toàn cầu. Đây là chuyện lớn, chẳng phải là
chuyện nhỏ, đây là cõi trời cảnh cáo chúng ta. Nếu
chúng ta vẫn tiếp tục tạo Ngũ Nghịch, Thập
Ác, tai nạn sẽ diễn ra giống như trong phim. Vì thế,
có rất nhiều người hỏi tôi về cách nhìn này,
tôi nói: Chúng tôi nhìn từ nhân quả. Hiện thời, cư
dân trên địa cầu nghĩ gì, nói gì, làm gì? Quý vị
triển khai tiêu chuẩn Thập Thiện để xét, liền
biết toàn bộ là Thập Ác, chẳng có một điều
thiện nào! Tai nạn là thật, chẳng giả chút nào.
Có thể cứu vãn tai nạn hay không? Câu trả lời là
khẳng định! Chỉ cần cư dân trên địa
cầu hồi tâm chuyển ý: “Ta hiểu rõ rồi, ta biết
làm như vậy thì sau này, quả địa cầu sẽ
chẳng còn nữa! Tất cả tai nạn sẽ đều
xuất hiện”. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật
bảo chúng ta: Tâm tham cảm Thủy Tai, trong tương
lai nước biển dâng lên nhấn chìm toàn bộ lục
địa là do tâm tham cảm ứng. Cái gì cũng đều
tham, ngay cả học Phật cũng tham. Học Phật
còn phải đốt một nén hương, đấy là
tâm tham. Phật bảo chúng ta buông xuống tâm tham, chẳng
phải là thay đổi đối tượng tham! Phải
diệt trừ tâm tham, phải hiểu đạo lý này. Sân
khuể cảm ứng Hỏa Tai. Hiện thời, nhiệt
độ địa cầu tăng lên, chuyện này thuộc
về sân khuể. Do vậy, chính chúng ta phải có cảnh
giác cao độ! Gặp chuyện chẳng vừa ý, trong
tâm cảm thấy khó chịu, phẫn hận, chính là quý vị
đã thêm dầu vào lửa khiến cho nhiệt độ
địa cầu tăng cao hơn, quý vị có trách nhiệm!
Ngu si cảm Phong Tai, ngạo mạn cảm động
đất. [Các tai nạn] đều có nhân: Khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác cảm vời
những tai nạn ấy. Vì thế, đức Phật dạy
chúng ta một câu về bí quyết tiêu tai miễn nạn,
đó chính là: “Cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si),
tai nạn sẽ bị hóa giải. Chúng ta yêu cầu mọi
người trên toàn thế giới thực hiện [bí quyết
trên đây] sẽ là chuyện không thể xảy ra
được, làm không được, chúng ta chỉ có thể
yêu cầu Phật môn đệ tử. Người học
Phật chúng ta có chung một vị thầy là Thích Ca Mâu Ni
Phật, chúng ta đều là đệ tử của Thích
Ca Mâu Ni Phật, hãy nên tiếp nhận lời giáo huấn của
Thích Ca Mâu Ni Phật, nghiêm túc tu hành, đoạn ác, tu thiện,
sám hối, sửa lỗi. Nếu đệ tử Phật
trên toàn thế giới đều có thể làm như vậy,
có cứu được quả địa cầu này hay
không? Có chứ! Cứu được!
Trên thế giới này, tôi nghe rất nhiều
người bảo tôi, [so với] các tôn giáo trên toàn thế
giới, rốt cuộc Phật giáo vẫn kể như có
tín đồ rất đông, ước tính chừng bảy
ức người. Số người trên cả thế giới
hiện thời là sáu mươi bảy ức người,
tính ra [Phật giáo] là một phần bảy, con số này rất
đáng kể, giữa bảy người có một người
quay đầu, sáu người kia sẽ được
hưởng lây. Trong kinh, đức Phật đã giảng
rất rõ ràng, chúng sanh tạo nghiệp có cộng nghiệp
và biệt nghiệp; đối với các đệ tử
chúng ta, điều này là một sự cổ vũ hết
sức to lớn, trong cộng nghiệp có biệt nghiệp,
phải nhớ câu này! Cộng nghiệp bất thiện,
chúng ta chuyên tu thiện nghiệp, do vậy, đòi hỏi
chính mình phải nghiêm túc thi hành viên mãn ba món căn bản,
người xuất gia còn phải thực hiện Sa Di Luật
Nghi. [Người xuất gia] có ba món căn bản ấy kể
ra cũng khá lắm, nhưng thiếu Sa Di Luật Nghi thì
không được, vì sao? Có lỗi với Phật, Bồ
Tát! Nếu quý vị xuất gia thì phải thật sự
thực hiện. Không xuất gia thì còn được, tu tốt
đẹp Thập Thiện Nghiệp đạo là
được rồi, Phật cũng thừa nhận quý
vị là đệ tử Phật. Trên thực tế, trọn
đủ ba món căn bản thì mới có thể trọn
đủ điều kiện học Phật. Trong Tịnh
Nghiệp Tam Phước đã nói rõ ràng, quý vị mới
có thể tiếp nhận Tam Quy Ngũ Giới. Bởi lẽ,
Tam Quy Ngũ Giới chẳng phải là vô điều kiện,
phải có điều kiện nào mới có thể tiếp
nhận Tam Quy Ngũ Giới? Thiện nam tử, thiện nữ
nhân mới có thể tiếp nhận phép “rửa tội”
này! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ắt phải
làm được điều đầu tiên trong Tịnh
Nghiệp Tam Phước: “Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”,
bốn câu này! Thi hành “hiếu thân, tôn sư” (hiếu thảo
cha mẹ, tôn trọng thầy) bằng Đệ Tử
Quy; bởi lẽ, làm được Đệ Tử Quy
thì “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng” sẽ làm được. Thi hành Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên thì “từ tâm chẳng giết”
sẽ làm được. Cuối cùng là Thập Thiện
Nghiệp Đạo thì mới có thể trở thành Phật
môn đệ tử. Ngày nay Phật pháp suy vi, vì sao suy? Chúng
ta coi nhẹ cơ sở giáo dục này, cho nên Phật pháp
suy đồi. Vấn đề không xuất pháp từ Phật
pháp, mà xuất phát từ bản thân các đồng học
học Phật chúng ta trong một đời này, chúng ta chẳng
học nghiêm túc! Thích Ca Mâu Ni Phật đã không còn trụ thế,
bản thân chúng ta tuyên bố là đệ tử của
Ngài, nhưng lão nhân gia có thừa nhận hay không, chúng ta
không biết, tự cho là đã được Ngài thừa
nhận; thật ra, chẳng phải!
Kinh này giảng rất hay, dẫu
trót tạo nghiệp Ngũ Nghịch, Thập Ác, nhất
định đọa địa ngục A Tỳ, gặp
pháp môn này cũng được cứu, “lâm chung niệm Phật, diệc tất tùy nguyện
đắc sanh” (lâm chung niệm Phật, ắt cũng
được vãng sanh theo ý nguyện). Tạo tội nghiệp
nặng nề dường ấy có cứu được
hay không? Cứu được! Một niệm hồi
đầu! Cổ nhân Trung Quốc thường nói: “Lãng tử hồi đầu kim
bất hoán” (lãng tử quay đầu, vàng chẳng đổi).
Đừng nghĩ hắn tạo lắm điều ác nghiệp,
hễ hắn quay đầu bèn là đại thiện nhân.
Thiện hay ác chỉ trong một niệm, hắn có thể
quay đầu lại, chẳng dễ dàng! Cho thấy
điều gì? Chứng tỏ hắn có thiện căn rất
sâu dầy. Trong một đời này, không có ai dạy hắn,
nên hắn mê, tạo ác nghiệp nhiều ngần ấy, hễ
có người cảnh tỉnh hắn, hắn sẽ ngay lập
tức quay đầu. Chẳng phải là không có đạo
lý. Do điều này có thể biết: Giáo dục trọng
yếu lắm! Thế gian có người xấu hay
chăng? Không có người xấu. Trong mắt Phật, chẳng
có ai xấu! Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
chúng sanh vốn là Phật”, những kẻ tạo tác Ngũ
Nghịch Thập Ác có là Phật hay không? Họ vốn là Phật.
Yêu ma quỷ quái có là Phật hay không? Vốn là Phật.
Không ai chẳng phải là Phật, Phật thấy toàn bộ
hết thảy chúng sanh đều là chư Phật Như
Lai. Nhưng trong lục đạo, những vị Phật
này có vị mê, có vị ngộ, có vị mê rất sâu, có vị
mê cạn hơn một chút, căn tánh mỗi người
khác nhau, thiện căn, phước đức, nhân duyên
không giống nhau, chẳng thể không biết [điều
này]!
Đối với bốn câu tiếp
theo, nếu quý vị thật sự giác ngộ, tiếp xúc
pháp môn này, thật sự có thể tin tưởng, lý giải,
thật sự làm, khó lắm, đáng quý thay! Pháp môn này gọi
là “pháp khó tin”, mọi người quý vị vừa tiếp
xúc bèn tin tưởng, tôi rất bội phục, tôi chẳng
bằng quý vị. Phải mất một thời gian dài
mười mấy năm, tôi mới thật sự tiếp
nhận pháp môn này. Thuở còn trẻ, đi học trong
trường chịu ảnh hưởng của giáo viên, chịu
ảnh hưởng giáo dục của đạo Tin Lành,
nghĩ các tôn giáo khác đều là mê tín, Phật giáo là mê tín
nhất, các tôn giáo khác chỉ thờ một vị thần,
một vị chân thần duy nhất, đó là tôn giáo cao cấp,
Phật giáo thần nào cũng đều thờ, là đa
thần giáo, phiếm thần giáo, là tôn giáo thuộc cấp
thấp, làm sao có thể tiếp nhận [Phật giáo]
được? Cũng may là thuở trẻ tôi rất
ưa thích Triết Học, tìm được một vị
thầy là tiên sinh Phương Đông Mỹ, theo học Triết
Học với cụ. Trong khóa học khái luận Triết
Học cuối cùng, cụ giới thiệu Triết Học
trong kinh Phật, tôi được nhập môn như thế.
Trong kinh điển Phật giáo, lão nhân gia đặc biệt
ưa thích kinh Hoa Nghiêm, bảo tôi: Đây là “khái luận của
Triết Học trong kinh Phật”, cụ dùng danh từ này
để giới thiệu kinh Hoa Nghiêm. Cụ nói trong kinh ấy
có lý luận hoàn mỹ, có phương pháp tinh tế, cuối
cùng lại còn kèm theo biểu diễn. Tìm không ra một bộ
sách giáo khoa thứ hai nào giống như vậy trên khắp
thế giới. Đó là thật, chẳng giả. Có kèm theo
biểu diễn, phần sau là năm mươi ba lần
tham học của Thiện Tài để biểu diễn
cho quý vị xem. Do vậy, tôi cũng đặc biệt yêu
thích bộ kinh này, hết sức hữu duyên, nhưng đối
với Tịnh Tông đúng là có bài xích, thoạt đầu
cho rằng: Nói chung, pháp môn này do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
cho các bà già, chẳng dành cho phần tử tri thức. Pháp
sư Sám Vân[15] giúp đỡ tôi, tôi ở thảo am của
Ngài nửa năm, làm công quả tại thảo am. Thời
gian rảnh rỗi, Ngài muốn tôi đọc Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao, đọc Di Đà Kinh Yếu Giải,
Sớ Sao, Viên Trung Sao. Do vậy, tôi có ấn tượng rất
sâu đối với ba bản này, cũng hết sức
ưa thích, không phản đối Tịnh Độ Tông, cũng
rất tôn trọng, nhưng không muốn học, có hứng
thú rất sâu đối với kinh điển Đại
Thừa. Thầy Lý khuyên tôi tu Tịnh Độ, tôi theo cụ
học Giáo, đương nhiên chẳng thể phản
đối, nhưng chẳng phải là thật tâm học,
tu cho có lệ, thầy cũng nhìn thấy điều này!
Khi nào mới thật sự nhận
thức Tịnh Độ? Giảng kinh Hoa Nghiêm, lúc ấy
tôi ở Đài Loan. Tôi nhớ là năm
tôi hai mươi sáu tuổi, quen biết tiên sinh
Phương Đông Mỹ. Năm tôi hai mươi sáu tuổi
vẫn còn đi làm, ba mươi tuổi nghỉ việc,
một lòng mong học Phật pháp. Do Chương Gia đại
sư chỉ dạy, Ngài khuyên tôi xuất gia, muốn tôi học
theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Tôi rất vâng lời, quả thật
là thật thà, nghe theo, cũng thật sự làm. Tôi theo thầy
Lý mười năm để học kinh giáo, theo lão nhân
gia đến năm thứ hai bèn xuất gia, duyên xuất
gia chín muồi! Sau khi xuất gia, tôi giảng kinh dạy học
các nơi. Năm Dân Quốc 60 (1971), tôi bắt đầu
giảng Hoa Nghiêm kinh lần đầu tiên, Thầy Lý giảng
tại Đài Trung, tôi đến nghe [thầy giảng] quyển
thứ nhất để nghe kinh này bắt đầu
như thế nào, nghe xong một quyển này, tôi có khả
năng giảng một bộ Bát Thập Hoa Nghiêm. Tôi giảng
ở Đài Bắc, tôi nhớ đã giảng hình như hai
năm, chưa đầy ba năm đã giảng đuổi
kịp tiến độ của thầy, vì cụ mỗi
tuần chỉ giảng một giờ; cụ giảng kinh
hai tiếng, nhưng có phiên dịch sang Đài ngữ[16], nên trên thực tế là mỗi tuần
giảng một giờ. Khi ấy, mỗi tuần tôi giảng
ba lần, mỗi lần là một tiếng rưỡi, nên
mỗi tuần giảng bốn giờ rưỡi, bằng
với cụ giảng cả tháng. Vì thế, tôi đuổi
kịp cụ rất nhanh, tiến độ đuổi kịp
cụ, sau đấy, bèn vượt lên trước.
Phải biết cũng mất
mười năm, giảng kinh Hoa Nghiêm được phân
nửa, khi ấy là Bát Thập và Tứ Thập Hoa Nghiêm
cùng giảng, mỗi tuần tôi giảng Bát Thập Hoa
Nghiêm hai ngày, giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm một ngày. Giảng
được phân nửa, có một hôm, đột nhiên nghĩ
Văn Thù, Phổ Hiền tu pháp môn gì? Thiện Tài đồng
tử học pháp môn gì? Kinh Hoa Nghiêm giảng được
phân nửa, còn có nửa sau, lật phần
sau ra xem, lật xem tới phần sau, tới quyển ba
mươi chín trong bản Tứ Thập Hoa Nghiêm, thấy
Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát thảy đều
phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, điều này
khiến tôi hết sức chấn động. Hơn nữa,
thấy không riêng gì Văn Thù, Phổ Hiền tự mình phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ, mà còn suất lãnh bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ
trong hội Hoa Nghiêm sang thế giới Cực Lạc gặp
A Di Đà Phật. Ngạc nhiên quá! Hai vị đại Bồ
Tát này trợ thủ của Tỳ Lô Giá Na Phật, hai vị
đại trợ thủ đem toàn bộ học trò của
Tỳ Lô Giá Na Phật sang thế giới Cực Lạc, Tỳ
Lô Giá Na Phật chẳng tức giận ư? Đem toàn bộ
học trò của ta đi? Tỳ Lô Giá Na Phật không chỉ
chẳng giận, mà còn hết sức hoan hỷ.
Sau đấy, tôi đọc kỹ,
môn sinh đắc ý, đệ tử truyền pháp của
Văn Thù Bồ Tát là Thiện Tài đồng tử, lại
coi xem Ngài học gì? Trước kia, đúng là hời hợt,
vô ý, giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm đến phân nửa
mà chẳng nhìn ra vấn đề này, phải dụng tâm mới
thấy được, mới nhận ra: Thiện Tài và thầy
của Ngài vốn tu pháp môn Tịnh Độ. Nhìn từ chỗ
nào? Từ lần tham phỏng thứ nhất, do thầy giới
thiệu, Văn Thù Bồ Tát giới thiệu Thiện Tài
đi tham phỏng tỳ-kheo Cát Tường Vân. Tỳ-kheo
Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội. Ban Châu tam-muội là
gì? Còn gọi là Phật Lập tam-muội, chuyên tu trì danh niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Lúc ấy mới biết,
người Trung Quốc thường bảo vị thiện
tri thức (thầy) thứ nhất là “tiên nhập vi chủ” (điều gì tiếp xúc
đầu tiên sẽ là chánh yếu), Ngài tu môn này! Sau đó
nhìn vào quá trình tham học, đối với mỗi một
vị thầy, Thiện Tài đều luyến đức
lễ từ (hâm mộ đức hạnh, kính lễ, từ
tạ), quý vị hãy chú ý quan sát, Thiện Tài tham học
điều gì cũng đều thấy, đều học,
đều hiểu, nhưng chẳng tu, Ngài tu gì? Niệm Phật.
Nhìn đến cuối cùng, mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc, một vị đầu, một vị cuối
[đều tu Tịnh Độ], chẳng phải là rõ rệt
ư? Ngài môn nào cũng học, môn nào cũng đều hiểu,
nhưng chính Ngài chuyên dốc công sức nơi pháp môn Niệm
Phật. Từ chỗ này, tôi mới tiếp nhận Tịnh
Độ, thật sự hiểu rõ ràng, minh bạch, thầy
khuyên tôi, tôi chẳng có lòng tin sâu xa như thế. Lại từ
Hoa Nghiêm, từ Pháp Hoa, từ Lăng Nghiêm tổng kết,
tôi mới biết cái hay của Tịnh Độ, Tịnh
Độ thù thắng. Thật không dễ dàng! Tôi thấy
quý vị chỉ vừa nghe bèn tiếp nhận, tôi rất
bội phục, sao tôi lại khó khăn như thế? Mất
mười mấy năm mới thật sự tiếp nhận
pháp này!
Pháp môn này “hoành xuất tam giới, viên đăng tứ độ,
đốn dữ Quán Âm, Thế Chí tịnh kiên, khả kiến
thử pháp môn chi cứu cánh phương tiện, thiện ứng
quần cơ dã” (vượt khỏi tam giới theo chiều
ngang, lên trọn vẹn bốn cõi, nhanh chóng cùng Quán Âm, Thế
Chí sánh vai, đủ thấy pháp môn này là phương tiện
rốt ráo đến tột cùng, khéo thích ứng mọi
căn cơ), đây là nói thật, chẳng giả! “Hoành xuất”
còn gọi là “hoành siêu”, vì tám vạn bốn
ngàn pháp môn đều là tiến lên từng bậc, đó là
thụ xuất (thoát tam giới theo chiều dọc), chẳng
phải là hoành xuất (vượt thoát tam giới theo chiều
ngang). Kinh Hoa Nghiêm chẳng phải là một ví dụ rất
hay ư? Quý vị thấy địa vị Thập Tín,
trên Thập Tín là Thập Trụ, trên Thập Trụ là Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, Diệu Giác, giống như chúng ta đi học,
Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, Nghiên Cứu
Sinh, đó gọi là thụ xuất. Pháp môn Tịnh Tông không
cần, ngay từ nhân đạo bèn vượt ngang ra,
không cần phiền phức như thế! Từng bước
một như vậy thì đến bao giờ quý vị mới
có thể thoát ra? Vượt ngang ra, sang thế giới Cực
Lạc, A Di Đà Phật tiếp dẫn quý vị. Sau khi
đến bên ấy, bèn lên trọn bốn cõi, đây là
điều đặc biệt. Thích Ca Mâu Ni Phật có bốn
cõi Tịnh Độ hay không? Có, nhưng theo chiều dọc,
không phải là “viên đăng”.
Quý vị phải trèo từng bước một. Lục
đạo là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tứ thánh pháp
giới là cõi Phương Tiện, thế giới Hoa Tạng
là Nhất Chân pháp giới, là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của
Tỳ Lô Giá Na Phật, tiến lên nữa là Thường Tịch
Quang Tịnh Độ, trong thế giới Hoa Tạng vẫn
phải tiến lên từng bước một! Tịnh
Độ khác hẳn, bốn cõi của A Di Đà Phật
không có giới hạn. Nói cách khác, nói theo các khoa học gia
hiện tại, Tịnh Độ không có các chiều không
gian. Thập phương thế giới thảy đều
không có hiện tượng này, chỉ có thế giới Cực
Lạc đặc biệt, không có các chiều không gian, bốn
cõi ở cùng một chỗ. Vì thế, một sanh, hết
thảy sanh!
Quý vị hãy xem ví dụ do cụ
Hoàng nêu tiếp theo đó. Quán Âm, Thế Chí đang ở
nơi đâu? Các Ngài ở trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Nay
chúng ta niệm Phật vãng sanh là sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng
Cư. Trong thế giới này, cõi Phàm Thánh Đồng Cư
không thấy cõi Phương Tiện Hữu Dư, có giới
hạn, có chướng ngại; chúng ta sanh trong nhân đạo
của lục đạo, chẳng thể thấy thiên
đạo. Cõi trời có hai mươi tám tầng, tầng
dưới không thể thấy tầng trên, nhưng tầng
trên có thể trông thấy tầng dưới. Nhưng cái
hay của thế giới Cực Lạc là do so với
điều gì? Thập phương thế giới chư
Phật Như Lai dạy học đều là từ Tiểu
Học, Trung Học, đến Đại Học, đều
theo cách như vậy. Hơn nữa, lớp Một và lớp
Hai Tiểu Học mỗi lớp có phòng học riêng, chẳng
ở cùng một chỗ. Phòng học của A Di Đà Phật
to lớn, từ Tiểu Học, Trung Học cho đến
lớp Tiến Sĩ đều ở cùng một chỗ,
lên lớp trong cùng một phòng học, tình hình là như vậy
đó, thảy đều ở cùng một chỗ, điều
này rất đặc thù. Do vậy, nói: “Sanh về một là sanh về hết thảy”.
Chúng ta là hạ hạ phẩm vãng sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng
Cư, quý vị đến thế giới Cực Lạc,
có thể thấy Quán Âm, Thế Chí, có thể thấy
Văn Thù, Phổ Hiền, đều ở nơi đó.
Thường cùng những vị này ở cùng một chỗ,
như vậy là quý vị may mắn quá! Họ là Pháp Thân
đại sĩ, quý vị không hiểu, các Ngài sẽ dạy
quý vị. Ngoại trừ Phật dạy bảo ra, các Bồ
Tát nhiều ngần ấy giúp đỡ quý vị, nâng
đỡ quý vị, quý vị cũng thành tựu rất
nhanh. Đây là chỗ thù thắng khôn sánh của thế giới
Cực Lạc; cho nên cảm được thập
phương chư Phật tán thán. Nói “viên đăng tứ độ” là không có cấp
bậc. “Đốn” có nghĩa
là ngay lập tức, quý vị lập tức sánh vai cùng
Quán Âm Bồ Tát, Thế Chí Bồ Tát, đều là học
trò của A Di Đà Phật, các Ngài biến thành lớp
đàn anh của chúng ta.
“Khả
kiến thử pháp môn chi cứu cánh phương tiện,
thiện ứng quần cơ” (có thể pháp môn này là
phương tiện rốt ráo đến tột cùng, thích ứng
mọi căn cơ), căn tánh nào gặp pháp môn này thảy
đều đắc độ, vấn đề là quý vị
có tin hay không, quý vị nghe có hiểu hay không? Thật sự
tin tưởng, nghe chẳng hiểu cũng không sao, một
câu A Di Đà Phật thật thà niệm, niệm đến
công phu thành phiến sẽ tự tại vãng sanh, biết
trước lúc mất. Rất nhiều người suốt
đời chưa hề nghe kinh, không biết chữ, niệm
một câu A Di Đà Phật, niệm ba năm công phu thành tựu,
có người đứng mất, có người ngồi mất,
chẳng ngã bệnh, nói đi là đi, chẳng khó khăn
gì! Mấy năm trước, cư sĩ Hoàng Trung
Xương ở Thâm Quyến đã làm mẫu cho chúng ta
xem. Ông ta nghe nói về pháp môn này, bèn tự mình phát tâm làm thí
nghiệm, thử coi có đúng là ba năm có thể vãng sanh
hay không. Ông ta bế quan tại Thâm Quyến, cư sĩ
Hướng Tiểu Lỵ hộ quan, hai năm mười
tháng bèn biết trước lúc mất, Phật tiếp dẫn
ông ta, còn thiếu hai tháng mới đủ ba năm, thật
đấy, chẳng giả đâu! Chúng tôi khuyên mọi
người ở chỗ này, ông ta tạo chứng minh, thực
hiện Tác Chứng Chuyển trong Tam Chuyển Pháp Luân, chứng
minh chuyện này là thật, chẳng giả. Chúng ta có muốn
vãng sanh hay không? Muốn vãng sanh thì dùng cách của ông ta là
được. Mấu chốt là gì? Triệt để
buông xuống! Sở dĩ quý vị chẳng đi
được là vì quý vị chưa buông xuống, còn tham
luyến thế gian này, mê hoặc, điên đảo. Thật
sự giác ngộ thì cái gì cũng chẳng cần, trong tâm
chỉ có A Di Đà Phật, không có chuyện nào khác. Quý vị
thấy trường thời huân tu mất bao lâu? Ba năm,
một ngàn ngày! Huân tu một ngàn ngày quý vị bèn đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thiện
Đạo đại sư nói rất hay: “Vạn tu, vạn nhân khứ” (vạn người
tu, vạn người đến), pháp môn này chẳng sót một
ai. Tu hành mà bị bỏ sót, nguyên nhân do chính quý vị, chính
quý vị phải chịu trách nhiệm, không thể trách A
Di Đà Phật, không thể trách kinh Vô Lượng Thọ,
không thể trách ai hết, chỉ trách chính mình chẳng
đúng pháp. Mỗi ngày nghe kinh mà chẳng hiểu, thật
đấy, vì sao nghe không hiểu? Bộp chộp, hời hợt!
Quý vị hoài nghi pháp môn này, đối với kinh giáo này,
quý vị tin chẳng sâu, không hiểu thấu triệt, cho
nên có chướng ngại.
Đoạn tiếp theo vẫn
giảng về khế cơ, đoạn này có ngụ ý sâu
xa, chúng ta hãy đọc kinh văn: “Hựu khế cơ giả, diệc ngụ khế
hợp thời cơ chi nghĩa” (lại nữa, khế
cơ bao hàm ý nghĩa khế hợp thời cơ). Đoạn
này giảng rất hay, cho thấy trí huệ chân thật của
cụ Hoàng Niệm Tổ, rất trọng yếu. Phù hợp
gì? Phù hợp thời cơ trong xã hội hiện thời. “Như Lai thùy từ, độc
lưu thử kinh, ư chư kinh diệt tận chi tối
hậu bách niên” (Đức Như Lai rủ lòng Từ,
riêng lưu lại kinh này một trăm năm cuối sau
khi các kinh đã bị diệt hết). Trong tương lai,
Phật pháp sẽ tiêu mất trên thế gian này, bị tiêu
diệt, vì sao? Pháp là duyên sanh, duyên không còn, pháp sẽ diệt,
duyên sanh, duyên diệt; chẳng phải là bất diệt,
nó là pháp được sanh bởi nhân duyên, cho nên cũng chẳng
phải là thật. Trong kinh Bát Nhã, đức Phật bảo
chúng ta: “Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống
gì phi pháp). Giảng rất thấu triệt! Phật pháp tốt
đẹp, đừng nên tham, chớ nên khởi tâm tham, khởi
tâm tham là sai! Trong kinh Kim Cang, đức Phật có nêu tỷ
dụ, Ngài dùng thuyền bè vượt sông làm tỷ dụ.
Vượt sông cần phải có chiếc thuyền nhỏ,
hoặc là bè kết bằng gỗ hay bằng thân tre, dùng
để vượt sông. Ngài nói pháp giống như thuyền
để vượt sông, giúp quý vị từ bờ này
vượt sang bờ kia, đến bờ kia, quý vị phải
bỏ, bỏ thì mới lên bờ được. Nếu
quý vị chẳng bỏ thì sai mất rồi, vĩnh viễn
không thể lên bờ được. Vì thế, Phật dạy
chúng ta: “Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn phải bỏ,
huống gì phi pháp). “Bỏ”
có nghĩa là quý vị đừng chấp trước,
đừng ghim trong lòng, ghim trong lòng là trật! Vì sao? Nó là
pháp hữu vi, nó là pháp duyên sanh, chẳng phải là tự
tánh. Quý vị có thể buông xuống hết thảy sẽ
kiến tánh, tánh mới là pháp chân thật duy nhất, bất
sanh bất diệt, thứ gì cũng trọn đủ, thứ
gì cũng viên mãn; trí huệ trọn đủ, đức
năng trọn đủ, tướng hảo trọn
đủ! Nay ta gọi tướng hảo là phước
báo, là thứ quý vị vốn sẵn có trong tự tánh, chẳng
phải tìm từ bên ngoài, bên ngoài không có, lại còn vĩnh
viễn hưởng thụ bất tận. Đó mới gọi
là Bảo! Thật sự là bảo, Tự Tánh Tam Bảo.
Đây là thứ mà Phật dạy chúng ta hãy thật sự
mong đạt được, tìm lại, nay đã mê mất,
hãy tìm về!
Do vậy, quý vị nhất
định phải biết, trí huệ do đâu mà có? Chính
mình vốn sẵn có. Quý vị cầu trí huệ, chẳng
có chuyện này! Cái mà quý vị cầu được là tri
thức, tri thức và trí huệ là hai chuyện [khác nhau]. Cầu
trí huệ bằng cách nào? Phải định cái tâm, tâm
thanh tịnh sanh ra trí huệ. Tâm chúng ta bất định,
trong tâm có cả đống thứ lộn xộn, vì vậy,
trí huệ chẳng sanh, mà sanh phiền não. Tâm thanh tịnh
sanh trí huệ. Bởi lẽ, trí huệ phát xuất từ
buông xuống, [hễ buông xuống] trí huệ bèn xuất hiện;
không buông xuống, sẽ vĩnh viễn chẳng có trí huệ,
cái mà quý vị học được toàn là tri thức. Tri
thức có thể giải quyết vấn đề nhỏ
nhặt; nhưng giải quyết vấn đề vẫn
còn có những rắc rối về sau. Khi khoa học kỹ
thuật giải quyết vấn đề, nếu giải
quyết vấn đề lớn sẽ có những hậu
quả to lớn, vấn đề nhỏ sẽ có hậu
quả nhỏ. Giải quyết vấn đề nhỏ
còn được, chứ giải quyết vấn đề
lớn sẽ gây ra tai nạn cho cả thế giới, cuối
cùng là địa cầu có ngày diệt vong là do khoa học kỹ
thuật gây ra! Người Trung Quốc thông minh. Năm
1982, tôi đến Mỹ lần đầu, lần thứ
hai là năm 1983, cư sĩ Trầm Gia Trinh mời tôi tới
giảng kinh tại Nữu Ước. Đến Nữu
Ước, có một bữa, ông ta mời tôi dùng cơm,
khách mời cũng rất nhiều, có rất
nhiều người Mỹ tại địa
phương, tôi nghĩ họ đều là bạn thân của
Trầm lão cư sĩ. Có một người hỏi tôi:
“Hiện thời người Tây Phương chúng tôi đối
với người Hoa có cách nhìn khác với thuở xưa.
Trong quá khứ, nói chung là coi thường người Hoa,
nghĩ người Hoa thiếu văn hóa, là lũ người
dã man. Nay chúng tôi biết: Trên cả thế giới, nếu
một chọi một, người Hoa là hạng nhất,
có trí huệ, rất có khả năng. Một chọi
một, người Hoa là bậc nhất. Nhưng đem hai
người so với hai người, người Do Thái bậc
nhất; đem so từng ba người một, người
Nhật Bản bậc nhất”. Cuối cùng, hỏi tôi một
câu: “Vì sao người Hoa các ông thiếu đoàn kết?” Tôi
nghe xong, bèn cười, tôi biết họ đều tin theo
Cơ Đốc Giáo hay Thiên Chúa Giáo, bèn nói: “Đấy là do
Thượng Đế an bài”. Ông ta rất kinh ngạc, lẽ
nào là do Thượng Đế an bài? Tôi nói: “Nếu người
Hoa đoàn kết, quý vị còn có cơm ăn nữa hay
chăng?” Mọi người đều cười xòa. Thật
ra, ông ta chê cười chúng ta chẳng đoàn kết; họ
biết người Hoa thật sự thông minh, nhưng thiếu
đoàn kết, vẫn còn may, họ còn có cơm ăn. Gặp
chuyện như thế. Ở Mỹ, tôi gặp chuyện
như vậy rất nhiều.
Hiện tại, do khoa học kỹ
thuật đổi mới mỗi ngày, đã phá hoại
sinh thái (ecological environment) của địa cầu đến
mức nghiêm trọng, nên trên địa cầu có lắm
tai nạn như thế, chẳng phải
là không có nguyên nhân, mà do con người gây ra! Chúng ta nhất
định phải hiểu, nếu tiếp tục phá hoại
như vậy, tôi ước đoán, tối đa mười
năm nữa sẽ tận thế. Hiện thời, các
nơi bị tai nạn, đó là gì? Đó là điềm báo
trước đại tai nạn, chúng ta đã thấy, mà
nếu chẳng nghiêm túc nỗ lực, chắc chắn sẽ
không thể tránh khỏi tai nạn này! Do vậy, chúng ta chẳng
thể không biết, không thể chẳng sốt sắng nỗ
lực học Phật. Hóa giải tai nạn không có gì khác,
hãy khuyên lơn, hướng dẫn mọi người hồi
tâm chuyển ý, đoạn ác tu thiện, tích công lũy
đức hòng giải trừ tai nạn. Hôm nay đã hết
thời gian, chúng ta học tập tới chỗ này!
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 4
hết
[1] “Cải cách khai phóng” là danh từ do
đảng Cộng Sản Trung Quốc đặt ra để
gọi cuộc cải tổ kinh tế dưới sự
lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình vào năm
1978, theo khẩu hiệu: “Đối
nội cải cách, đối ngoại khai phóng” (đối
nội: cải tổ; đối ngoại: mở cửa).
Đây là một bước nhượng bộ nhằm vực
dậy nền kinh tế suy yếu, rệu rã, mọi
cơ cấu bị phá nát bởi cuộc cách mạng
Văn Hóa dưới thời Mao Trạch Đông. Nói cách
khác, đây là công cuộc tư bản hóa, tư nhân hóa, khuyến
khích ngoại quốc đầu tư, mạnh dạn tiếp
thu tư tưởng quản trị kinh tế và khoa học
kỹ thuật của Tây Phương, đúng như Đặng
Tiểu Bình đã trào phúng nói: “Mèo
trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn bắt
được chuột là được rồi!”
[2] Triệp điệp (摺疊) là in các trang thành một tờ giấy
dài, rồi xếp lại thành sách, không đóng gáy, chỉ
dán bìa cứng vào trang đầu và trang cuối. Trang
đính (裝訂)
bản là in thành sách như ta thường thấy, thường
có bìa cứng.
[3] Khải Thư (楷書) còn gọi là Chánh Khải, Khải Thể,
Chánh Thư, hoặc Chân Thư)
là lối viết chữ mực thước, ngay ngắn,
cân đối, đầy đủ nét, không hoa dạng, bay
bướm. Chữ Khải có nghĩa gốc là “khuôn mẫu,
mực thước”. Tiểu Khải là loại chữ Khải
nhỏ từ 5cm trở xuống, lớn hơn 5cm sẽ gọi
là Đại Khải. Bốn nhân vật viết chữ Khải
đẹp nhất được xưng tụng từ
trước đến giờ là Âu Dương Tuân, Nhan Chân
Khanh, Liễu Công Quyền (ba người này sống vào
đời Đường) và Triệu Mạnh Phủ
(đời Nguyên) hình thành bốn phong cách viết chữ Khải
riêng biệt, thường được gọi là Âu Thể,
Nhan Thể v.v...
Hành Thư (行書) còn gọi là Hành Khải,
được hình thành vào cuối đời Hậu Hán.
Hành Thư thường được dùng để viết
cho nhanh, nét viết mềm mại, tròn trịa hơn Khải
Thư, chủ yếu dùng trong thư tín hay ghi chép cho nhanh,
có thể ghi tắt vài nét, nhưng không quá phóng túng, tung hoành
như lối chữ Thảo. Những người nổi
tiếng về thư pháp theo kiểu Hành Thư là
Vương Hy Chi, Phùng Thừa Tố...
[4] Nguyên văn là “văn hóa đại cách
mạng”, đây là một phong trào vận động quần
chúng do đảng Cộng Sản Trung Quốc tiến hành
từ năm 1966 dưới sự chỉ đạo của
Mao Trạch Đông nhằm quét sạch những tư
tưởng truyền thống của Trung Hoa và mọi ý niệm
bị đảng Cộng Sản Trung Quốc quy chụp
là “phản động, lạc hậu” trong mọi tầng
lớp xã hội, với mục đích suy tôn chủ nghĩa
Mao, tiêu trừ các thành phần đối lập, củng cố
địa vị độc tôn của Mao, trấn áp những
dư luận chỉ trích trong xã hội sau các thất bại
thê thảm của các phong trào Đại Nhảy Vọt
(Đại Dược Tiến) cũng như các hệ lụy
do các kế hoạch năm năm, ba năm, Chỉnh Phong,
Chỉnh Đảng trước đó. Họ Mao lợi dụng
lực lượng Hồng Vệ Binh tấn công các đối
thủ, triệt hạ những lãnh tụ có uy tín như
Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Niếp Vinh
Trăn, Từ Hướng Tiền v.v... Hồng Vệ Binh
tấn công bất cứ ai chống đối hay bị
nghi ngờ là phản động, chống Mao, đập
phá các cơ sở thừa tự, chùa miếu, hủy diệt
các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật cổ truyền.
Tuy về sau, chính quyền Mao Trạch Đông đã kiểm
soát được sự hoành hành của Hồng Vệ
Binh, Cách Mạng Văn Hóa thật sự chỉ chấm dứt
vào năm 1976 sau khi Mao Trạch Đông chết và tân chủ
tịch Hoa Quốc Phong hạ bệ Tứ Nhân Bang (Giang
Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều,
và Diêu Văn Nguyên), tức bốn tên hung thần thừa
cơ kéo bè kéo đảng khuấy nát tình hình chính trị tại
Hoa Lục bấy giờ.
[5] Nguyên văn “tín tức” (信息). Đây là
cách người Hoa dịch chữ Information. Theo Wikipedia,
Information hiểu theo nghĩa hạn chế nhất sẽ
là tập hợp các thông điệp chứa đựng các
ký hiệu được sắp xếp theo một trình tự
nhất định, có thể thâu nhận hoặc chuyển
tải. Theo nghĩa rộng, Information là bất cứ sự
kiện nào có thể ảnh hưởng đến trạng
thái của một hệ thống. Nó có thể bao gồm tất
cả những ý nghĩa như dữ liệu, điều
kiện hạn chế, kiến thức, những hướng
dẫn, nhân tố kích thích tinh thần, mô thức, sự tiếp
nhận v.v... Chúng tôi tạm dịch Information thành “thông tin”
theo cách dịch phổ biến hiện thời tuy vẫn
không cảm thấy thỏa đáng lắm.
[6] Thật Tế Thiền
Tự thuộc huyện Lô Giang, tỉnh An Huy, nằm ở
phía Đông Bắc rặng núi Dã Phụ. Chùa do thiền
sư Phục Hổ khai sơn vào đời Đường.
Chùa nhiều lần hưng thịnh rồi suy vong, có lúc bỏ
hoang. Chùa được xây dựng lại vào năm 1993.
[7] Nha chu gọi đầy đủ
là nha chu viêm (periodontitis) là một
bệnh viêm (inflamation) các mô quanh nướu và chân răng,
khiến răng lỏng lẻo và rụng dần. Nếu
không chữa trị, người bệnh sẽ không còn cái
răng nào.
[8] Phiếm thần giáo (Pantheism), đúng ra
phải dịch là Phiếm Thần Luận, là quan điểm
cho rằng vũ trụ và thiên nhiên cùng thần (Chúa, Thượng
Đế, thần linh v.v...) đồng nhất. Để
nhận thức Thượng Đế, tốt nhất là
quan sát từ thiên nhiên. Theo đó, vũ trụ là biểu hiện
hoàn mỹ thánh khiết của thánh linh. Để nhận
biết chân thiện mỹ thật sự, con người
phải hòa nhập với thiên nhiên, cảm nhận sự
hiện diện của Thượng Đế trong từng
sự vật của vũ trụ. Quan điểm này
đã có từ thời cổ Hy Lạp bắt nguồn từ
luận thuyết của triết gia Heraclitus, Zeno v.v...,
được kế thừa bởi những nhà tư
tưởng sau này như Giordano Bruno, Baruch Spinoza, John Toland,
Hegel, Watl Whitman, Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Albert Einstein,
Arnold Toynbee... Do Đại Thừa Phật giáo thường
nhấn mạnh Tánh và Tướng bất nhị, từ
Tướng phải thấy được Tánh, Tánh lại
được thường diễn tả bằng danh từ
Chân Như, Như Lai Tạng v.v... nên các triết gia Tây
Phương thường hiểu lầm Phật giáo là Phiếm
Thần Luận.
[9] Đây là một câu nói nổi tiếng của
triết gia René Descartes của Pháp. Câu nói này được
tìm thấy trong hai tác phẩm Discourse of Method và Principles of
Philosophy của ông.
[10] Brian Leslie Weiss (sinh năm 1944) là một
bác sĩ tâm lý, tốt nghiệp tiến sĩ Y Khoa từ
đại học Yale. Ông làm chủ nhiệm khoa Tâm Lý tại
Mount Sinai Medical Center ở Miami, Florida.
Năm 1980, khi thực hiện thôi miên một nữ bệnh
nhân, ông đã kinh ngạc khi nghe bà ta kể chuyện đời
quá khứ, và những dữ kiện này được kiểm
chứng khi tra cứu các hồ sơ lưu trữ tại
các nơi đã được bệnh nhân nhắc đến.
[11] Hai câu này đã được cư sĩ
Từ Tỉnh Dân giảng trong tác phẩm Độc Dịch
Giản Thuyết như sau: “Sinh
mạng chúng ta do âm dương của cha mẹ giao hội
mà sinh thành, thần hồn của chính mình nhập vào thai mẹ,
nhờ vào tinh khí của cha mẹ mà thành thân thể, đó
là ý nghĩa của câu ‘tinh khí vi vật’. Đó gọi là
sanh. Thân mạng của ta rốt cuộc già suy, âm
dương tách lìa nhau; do vậy, thần hồn mất
nơi nương cậy, đó gọi là chết. Thần
hồn đã mất nơi nương tựa nên gọi là
Du Hồn (hồn lang thang), cho đến khi gặp âm
dương giao hợp, cảm lấy tướng khí phận
để nương vào, lại bắt đầu một
cuộc sống mới, nên nói ‘du hồn vi biến”.
[12] Bồ Tát Xử Thai Kinh do ngài Trúc Phật
Niệm dịch vào thời Diêu Tần, gồm năm quyển,
chia thành ba mươi sáu phẩm, nội dung vô cùng phong phú,
giảng về hạnh đức, tánh đức của
Phật trước khi giáng sanh thị hiện thành Phật.
Đức Phật giảng kinh này tại Sa La Song Thụ
Lâm trước khi nhập Niết Bàn.
[13] Hương Cảng (Hong
Kong) gồm ba khu vực chính: Cửu Long (Kowloon, nằm trên
đất liền, thuộc tỉnh Quảng Đông),
đảo Hương Cảng và đảo Lạn Đầu
(Lantau, Đại Dự Sơn). Lãnh thổ Hương Cảng
có hơn 200 hòn đảo lớn nhỏ. Ở đây, hòa
thượng Tịnh Không nói đến cái eo biển
thường gọi là vịnh Victoria nằm giữa bán đảo
Cửu Long và đảo Hương Cảng.
[14] Vì sao nói Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là năm thứ cảm nhận? Năm thứ cảm nhận
chính là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Năm thứ
cảm nhận này do quá trình tâm lý Thọ, Tưởng, Hành,
Thức sanh khởi.
[15] Pháp sư Sám Vân
(1915-2009), họ Tào, pháp danh Thành Không. Sư được
sinh ra tại một tiểu trấn bên bờ sông Áp Lục,
thuộc địa phận tỉnh An Đông, gần biên
giới Đại Hàn. Sư từng sang Nhật du học
về ngành Mỹ Thuật. Năm hai mươi bốn tuổi
bắt đầu học Phật, thọ Cụ Túc Giới
năm ba mươi tuổi tại chùa Quảng Tế, Bắc
Kinh, từng theo học tại Bắc Bình Phật Giáo Học
Viện. Năm 1948, Sư đến Phước Châu theo học
với pháp sư Từ Châu. Năm 1949, Sư rời Hoa Lục
sang Đài Loan. Năm 1956, Sư lập Ấn Hoằng Mao Bồng
(thảo am Ấn Hoằng) tại núi Quán Âm, thuộc trấn
Bồ Lý, huyện Nam
Đầu, Đài Loan. Ngôi chùa này bị thủy tai phá hủy
vào ngày Bảy tháng Tám năm 1959. Năm 1963, Sư dựng
chùa Liên Nhân tại làng Thủy Lý huyện Nam Đầu.
Năm 1966, sáng lập Đại Chuyên Thanh Niên Trai Giới
Học Hội. Pháp sư Sám Vân giữ luật rất
nghiêm, không ăn quá Ngọ, mỗi ngày sau bốn giờ
chiều, nữ chúng không được ở lại chùa,
cũng không cho phép ai ở lại qua đêm. Sư rất
chú tâm hoằng truyền Tịnh Tông, Ngài được coi
là một trong số các vị pháp sư đóng góp rất
nhiều trong việc truyền bá pháp môn Tịnh Độ
tại Đài Loan.
[16] Đài ngữ gọi đầy đủ
là Đài Loan Ngữ, là một ngôn ngữ được
coi như tiếng mẹ đẻ của đại bộ
phận dân chúng Đài Loan, tuy trong công sở và trường
học, tiếng Quan Thoại được dùng như ngôn
ngữ chính thức. Đài ngữ thật ra là một thứ
tiếng địa phương thuộc ngữ hệ Mân Nam (ngôn ngữ
của tỉnh Phước Kiến). Do thời Trịnh
Thành Công chiếm đóng Đài Loan và sau khi Khang Hy tái chiếm
Đài Loan, đa phần di dân đến Đài Loan từ
vùng Chương Châu và Tuyền Châu cũng như một số
huyện ở phía Nam
tỉnh Phước Kiến chiếm đa số, nên tiếng
nói của họ dần dần chiếm ưu thế.
Đặc biệt là khi Quốc Tánh Gia Trịnh Thành Công
đuổi quân xâm lăng khỏi Đài Loan, thành lập
căn cứ chống nhà Thanh, quân sư Trần Vĩnh Hoa
chịu trách nhiệm giáo dục, do họ Trịnh lẫn
Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam) đều là người
Tuyền Châu, binh lính đa số tuyển mộ từ Tuyền
Châu, nên giọng Tuyền Châu (Phước Kiến) trở
thành ngôn ngữ chính thức của đảo Đài Loan thời
đó. Đài Ngữ gần với tiếng Phước Kiến
vùng Hạ Môn nhất, nhưng có những đặc thù
riêng và những từ ngữ đặc biệt của
Đài Loan, cũng như một số từ ngữ vay
mượn từ tiếng Nhật và ngôn ngữ của thổ
dân Đài Loan. Ở đây, do cụ Lý Bỉnh Nam thường
nói bằng giọng Sơn Đông, nên phải có người
dịch sang Đài Ngữ để thính giả hiểu cụ
đang nói gì.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment