Làm thế nào mới có thể
thực hiện? Đạt đến vô ngã sẽ thực
hiện được! Khởi tâm động niệm nghĩ
đến người khác. Nếu khởi tâm động
niệm, ý niệm thứ nhất bèn nghĩ đến
chính mình, sẽ không thể thực hiện được!
Vào Phật môn, ải thứ nhất là phá Ngã Chấp.
Tịnh Độ
Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần
4
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
TẬP 7
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hãy ngồi xuống. Xin xem trang thứ sáu, hàng thứ
ba trong bản kinh, xem từ câu cuối cùng.
“Ư
thị, tiên sư hội bổn vấn thế dĩ lai, bất
hĩnh nhi tẩu” (do vậy, từ khi bản hội tập
của tiên sư được ra đời đến
nay, không chân mà đi khắp nơi), xem từ câu này. Cụ
Hoàng nói bản hội tập này của cụ Hạ, sau
khi in ra, bèn được lưu thông rất
nhanh, cho nên không có chân mà đi khắp nơi. “Hĩnh” (脛) là bắp
chân (phần từ đầu gối đến bàn chân). “Bất hĩnh”: Mặc dù nó
không có chân, nhưng đi rất nhanh, truyền bá rất lẹ,
[hàm ý bản hội tập này được] truyền bá
rất nhanh chóng. Đấy là tình hình lúc đó. Vì xã hội
chẳng an định, chiến tranh Trung Nhật bùng nổ;
đây là chuyện trước khi chiến tranh nổ ra. Cả
một giải Sơn Đông cũng bị người Nhật chiếm đóng, nên công tác hoằng
pháp của cụ Hạ Liên Cư đương nhiên gặp
trở ngại. Mãi cho đến nay, xã hội cũng không ổn
định, sau khi cả nước thoát khỏi ngoại
xâm, lại trải qua nhiều tai nạn, trong phần sau,
cụ Hoàng sẽ nói đến điều này. Sau cuộc
cải cách khai phóng[1] mới kể như yên ổn, hoạt
động tôn giáo dần dần khôi phục. Vì thế, Hạ
lão cư sĩ bảo cụ Hoàng Niệm Tổ: “Trong tương lai, bản hội
tập này sẽ từ hải ngoại truyền về
Trung Quốc”. Cụ Hạ nói những lời này, các
đồng học nghe xong, đều chẳng nghĩ là
đúng, cảm thấy rất kỳ quái. Mãi sau này, mấy
chục năm sau, quả nhiên như thế. Do vậy biết:
Pháp vận hưng hay suy, lão nhân gia đã thấy hết sức
rõ ràng. Do vậy, thuở ấy, lúc ban đầu in ra không
nhiều lắm. Lần trước tôi đã nói, pháp sư
Từ Châu tại Tế Nam đã giảng bản hội
tập này. Trong lần trước, tôi đã thưa cùng quý
vị, [lúc ấy] bản hội tập này nói chung chưa
có phiên bản cố định, lão nhân gia (cụ Hạ
Liên Cư) đã sửa chữa cả mười lần.
Bản mà pháp sư Từ Châu đã dùng chưa phải là bản
tu đính cuối cùng, chưa phải là bản hoàn chỉnh
cuối cùng. Vì từ bản khoa
phán của Ngài, tôi thấy: Bản hội tập mà lão nhân
đã dùng, toàn bộ kinh văn được chia thành ba
mươi bảy phẩm, có lẽ là dùng ý nghĩa Ba
Mươi Bảy Đạo Phẩm. Tôi có một quyển
khoa phán gồm ba mươi bảy phẩm này. [Bản khoa
phán ấy] chẳng dựa trên bản hiện thời chúng
ta đang dùng. Bản hiện tại là bản hoàn chỉnh
cuối cùng, tổng cộng gồm bốn mươi tám
phẩm; nhưng đối với Đại Kinh, pháp
sư Từ Châu được coi như là người
đã lập ra tiền lệ đầu tiên, đem phần
khoa phán ghép thêm vào cuối kinh. Tôi dựa theo bản khoa phán
của lão nhân gia, nhưng dùng [chánh kinh theo] bản [hội
tập] hiện tại, để viết khoa phán tỉ mỉ
hơn, chia đoạn rất chi tiết. Chúng ta có Khoa Hội,
[tức là] khoa phán và kinh được xếp chung một
chỗ. Bản khoa hội này cũng được lưu
thông với số lượng rất lớn. Phải biết
là ở nơi đây chúng ta không có triệp điệp bản,
mà có trang đính bản[2],
có khoa hội. Còn có một bản in chung kinh văn và lời
mi chú của cụ Lý, khoa hội và mi chú được in
chung thành một bản, bản này cũng in rất nhiều,
có thể giúp [học nhân] học tập, nghiên cứu Đại
Kinh.
“Phật
giới tôn túc đa dĩ hội bổn văn giản, nghĩa
phong” (Các bậc tôn túc trong giới Phật giáo đa số
công nhận bản hội tập văn từ giản dị,
nghĩa lý phong phú). Quả thật, so với các bản dịch
gốc và hai bản hội tập trong quá khứ, văn tự
của bản hội tập này đơn giản và dễ
hơn rất nhiều, ý nghĩa lại còn hết sức
viên mãn. Những điều thiếu sót trong hai bản hội
tập trước đã được cụ Hạ bổ
sung toàn bộ, điều này rất khó có. “Từ sướng, Lý viên” (Từ ngữ lưu
loát, Lý viên mãn): Lý viên mãn chẳng khiếm khuyết, văn
tự hết sức trôi chảy, khiến người
đọc rất thoải mái. “Giảng,
thuyết, tán dương, lưu bá trung ngoại” (giảng,
nói, tán dương, lưu truyền trong ngoài nước),
dùng bản này để giảng kinh Vô Lượng Thọ,
giảng thuật, tán thán, tuyên dương, lưu truyền
trong ngoài nước, chúng tôi rất nỗ lực thực
hiện công tác này, bắt đầu từ lúc nào? Sau khi cụ
Lý Bỉnh Nam
vãng sanh. Khi lão nhân gia còn sống, chúng tôi muốn làm,
nhưng thầy không đồng ý, nói bản này có những
điều bị tranh luận, quả thật có những
điều bị chướng ngại trong Phật môn. Khi
ấy, tôi muốn giảng kinh này, thầy nói: “Chưa
được! Tuổi anh quá trẻ, chưa đủ uy
tín. Nếu giảng kinh này, người khác phê bình, anh sẽ
chống đỡ không nổi”. Vì thế, khi tôi đem bản
này in một ngàn cuốn, tôi nhớ là vào dịp sinh nhật
năm mươi tuổi của Hàn Quán Trưởng, chúng
tôi muốn giảng kinh này để chúc thọ bà ta, thầy
Lý không đồng ý, chúng tôi bèn đổi thành giảng kinh
Lăng Nghiêm, mọi người sẽ chẳng bàn ra nói
vào nữa! Những thứ tranh luận, dị nghị kinh
này quá nửa đều do ganh ghét, chướng ngại, từ
xưa tới nay không thể nào tránh được chuyện
này. Nay chúng ta sanh nhằm thời kỳ Mạt Pháp, bất
luận đức hạnh hay trí huệ đều kém cổ
nhân, ngay cả cổ nhân cũng gặp khó khăn nhiều
dường ấy. Quý vị thấy tại Đại Lục
mấy năm trước lên tiếng phản đối bản
hội tập này, hết thảy mọi người biết.
Nay tiếng phản đối ấy không còn nữa, vì Cục
Tôn Giáo quốc gia khẳng định bản này, mọi
người không còn nói gì được nữa! Vì thế,
chúng ta biết cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải bản
kinh này chẳng dễ dàng, vô cùng gian nan. Chúng ta phải hiểu
chân tướng sự thật này.
“Kiến
giả, văn giả, hoan hỷ tín thọ, trì tụng, ấn
hành, lạc dịch bất tuyệt” (Người thấy,
kẻ nghe, ưa thích, tin nhận, trì tụng, ấn hành
liên tục chẳng dứt). Câu này là sự thật. Sau khi
cụ Lý Bỉnh Nam
vãng sanh, khi đó tôi đang ở Mỹ, xướng suất
in bộ kinh điển này tại Mỹ. Do thầy Lý chỉ
có một bản hội tập này, khi giảng giải, cụ
đã tự tay viết lời mi chú bằng bút lông, viết
theo lối Tiểu Khải và Hành Thư[3],
viết hết sức hay. Lão nhân gia cho tôi bản này, tôi gìn
giữ đã nhiều năm như thế, chưa có
người nào khác đọc. Cụ vãng sanh, tôi lấy bản
này ra, phát tâm in một vạn bộ để lưu thông,
nhằm kỷ niệm ngày thầy vãng sanh. Sau khi mọi
người đọc bản này, thật sự, giống
như [cụ Hoàng] đã nói ở đây: “Kiến giả, văn giả, hoan hỷ, tín thọ”
(người thấy, kẻ nghe, ưa thích, tin nhận),
trì, tụng, ấn hành liên tiếp. Vì thế, hiện thời
bản này lưu thông trên cả thế giới với số
lượng rất lớn; trong quá khứ, chúng tôi đã giảng
mười lần, CD/DVD cũng được lưu thông
rất rộng.
Tiếp đó, cụ viết: “Cận thả mông hải ngoại
Phật học giới thâu nhập tân ấn chi Tục Tạng”
(Gần đây, lại còn được giới Phật học
ở hải ngoại đưa bản này vào bản in mới
của Tục Tạng Kinh). Có ý nghĩ này, nhưng mãi cho
đến hiện thời vẫn chưa thể thực
hiện. Tại hải ngoại, đã qua nhiều năm
như thế, họ đã in Đại Tạng Kinh không ít
lần, nhưng chưa đưa bộ kinh này vào Tục Tạng,
chuyện này đợi chúng ta trong tương lai nỗ lực,
nhất định sẽ làm được. “Hành kiến đại kinh quang
minh, thường chiếu thế gian” (khiến cho quang
minh của Đại Kinh thường chiếu trong thế
gian), những điều này đều là thật. “Tích hiền hội tập chi thắng nguyện, hạnh cáo viên
thành” (Ý nguyện hội tập
thù thắng của bậc hiền nhân thuở xưa may sao
đã được thành tựu viên mãn). Trong quá khứ,
đã có nhiều người mong hoàn thành một bản hội
tập cho kinh Vô Lượng Thọ, muốn làm thành một
bản tiêu chuẩn để lưu thông. Vương Long
Thư đã làm, Ngụy Mặc Thâm cũng làm, nhưng
đều có những chỗ đáng tiếc nuối, đều
có khuyết điểm. Vì vậy, cụ Hạ thực hiện
công tác này lần thứ ba, đối với những thiếu
sót của người đi trước cụ đều
có thể sửa chữa viên mãn, trở thành một bản
đúng như cụ Hoàng Niệm Tổ đã nói: “Văn giản, nghĩa phong, từ
sướng, Lý viên” (văn từ giản dị, nghĩa
lý phong phú, từ ngữ lưu loát, Lý viên mãn), giống
như cư sĩ Mai Quang Hy đã nói: “Tuy dục bất vị chi thiện bổn, bất
khả đắc dã” (Tuy muốn bảo chẳng phải
là bản tốt nhất cũng không thể được),
nhân duyên hy hữu khó gặp! Ở đây, cụ Hoàng viết:
“Vô Lượng Thọ Kinh chi
thiện bổn”, [tức là] bản hoàn mỹ nhất, “ư tư khánh hiện, thử
thật vi hy hữu nan phùng chi đại sự nhân duyên dã”
(nay mừng được xuất hiện, đây thật
sự là một đại sự nhân duyên hiếm có, khó gặp
vậy). Chớ nên xem thường, chúng
ta phải có sự nhận thức này! Nay chúng ta may mắn
gặp được bản hội tập này, cũng là
đại sự nhân duyên hiếm có, khó gặp mà chúng ta
đã được gặp! Trong quá khứ, tôi đã giảng
giải mười lần, mấy lần trước, tôi
không đọc bản chú giải này, mà dựa theo lời
mi chú của thầy Lý để giảng giải bộ
kinh này. Tôi nhớ lần đầu tiên giảng giải là
ở Tân Gia Ba, lần thứ hai cũng tại Tân Gia Ba, [hoặc
là] lần đầu tiên tại Mỹ, lần thứ hai tại
Tân Gia Ba, thời gian đã dùng để giảng là sáu
mươi tiếng đồng hồ; vì tôi đến Tân
Gia Ba giảng kinh một tháng, mỗi ngày giảng hai tiếng,
giảng một tháng bèn viên mãn. Băng thâu âm được
lưu thông rất nhanh, phạm vi lưu thông lại còn hết
sức rộng, ai trông thấy cũng đều ưa
thích.
Trong đoạn tiếp theo, cụ
Hoàng Niệm Tổ trình bày nhân duyên vì sao cụ chú giải bản
hội tập này, chúng ta hãy đọc đoạn này: “Niệm Tổ nãi cụ phược
hạ phàm” (Niệm Tổ là phàm phu hạ căn đầy
dẫy triền phược), đây là lão nhân gia khiêm
hư. “Phược” (縛) là phiền não, phiền
não trói buộc phàm phu hạ căn, tức là chẳng phải
phàm phu trung thượng căn, mà là hạ căn. “Mậu mông tiên sư dĩ chú giải
hoằng dương thử kinh chi đại sự
tương chúc” (được tiên sư lầm lẫn
giao phó đại sự chú giải, hoằng dương
kinh này), ở đây toàn là lời lẽ khiêm tốn. “Mậu” (謬) là sai lầm, thầy đã lầm yêu
thương ta, ta không có năng lực, mà thầy mong mỏi
ta làm. Chuyện này quả thật chẳng dễ dàng, kinh
đã được hội tập, nhất định phải
chú giải. Không có chú giải, dẫu có nghĩa lý huyền
áo rất sâu trong ấy, kẻ mới học chẳng dễ
gì nhận ra! Vì thế, chú giải là chuyện tất yếu;
trong lời tựa ở đầu bản chú giải này,
tôi cũng nhắc đến chuyện ấy. Hoằng
dương kinh này thì dùng chú giải để hoằng
dương, nay chúng ta dùng [phương thức] diễn nghĩa
để hoằng dương bản chú giải này, cũng
đều là đại sự chẳng thể nghĩ bàn. Cụ Hoàng chú giải kinh là do nhận lãnh lời
phó thác của thầy, đấy cũng là mệnh lệnh
của thầy, thầy căn dặn đó là chuyện cụ
phải làm trong một đời này. Đời cụ
Hạ đã hoàn thành công tác hội tập kinh, cụ Hoàng
Niệm Tổ nối tiếp, soạn một bản chú giải
cho Đại Kinh. “Dư tuy
sơ phát đại tâm, đản dĩ chướng thâm
huệ thiển, thừa thử trọng mạng, thật
thâm hoảng cụ” (Tôi thoạt đầu tuy phát đại
tâm, nhưng vì chướng sâu, huệ cạn, vâng lãnh sứ
mạng nặng nề này, thật sợ hãi sâu xa), “hoảng” (惶) là kinh hãi, “cụ”
(懼) là
sợ sệt. Sứ mạng này quá nặng nề! Ở chỗ
này, chúng ta thấy lão nhân gia khiêm hư, có thể là quá khiêm
hư. Lão nhân gia đã hoàn thành nhiệm vụ này, chẳng
cô phụ lời thầy phó chúc, chúng ta phải cảm
ơn cụ.
Tiếp đó, cụ tường
thuật nhân duyên: “Sở hạnh
tằng tham tiên sư giảng tịch, thân văn thử
kinh toàn bộ” (may là đã từng được nghe
tiên sư giảng giải, đích thân nghe giảng toàn bộ
kinh này). Sau khi hội tập, cụ Hạ đã đích
thân giảng bộ kinh này, cụ Hoàng Niệm Tổ có duyên
phận ấy, đích thân nghe thầy giảng toàn bộ
kinh này, chẳng thiếu một buổi giảng nào. “Thả ư nhập tải tùy
thị chi trung” (lại còn theo hầu thầy suốt
hai mươi năm), đây là nói cụ đã theo thầy
hai mươi năm, chẳng phải trong thời gian ngắn
ngủi, hai mươi năm không rời thầy. “Đắc linh Thiền, Tịnh,
Mật các tông huyền áo, thô hiểu tiên sư hội tập
đại kinh chi thâm tâm” (được nghe những
điều huyền diệu, sâu xa trong các tông Thiền, Tịnh,
Mật, hiểu sơ lược thâm tâm hội tập
Đại Kinh của tiên sư). Theo thầy hai mươi
năm, mỗi ngày nghe thầy giảng kinh, thuyết pháp. Cụ
Hạ Liên Cư thông Tông, thông Giáo, Hiển Mật viên dung,
tuy là tại gia, nhưng thật sự
là một vị đại đức trong Phật môn thuở
ấy. Có trí huệ, năng lực, từ bi như vậy
thì mới có thể thực hiện viên mãn chuyện này
để truyền cho những kẻ hữu duyên trong chín
ngàn năm sau trong thời Mạt Pháp. Gặp được
kinh này chính là kẻ hữu duyên, gặp kinh này sẽ có
cơ hội đắc độ, rất khó có!
Đây là nói rõ nhân duyên vì sao cụ được thầy
phó chúc làm đại sự này. Đương nhiên, thầy
hiểu rõ trò. Theo thầy suốt hai mươi năm, trò
có trí huệ hay không, có tâm từ bi hay không, có thể đảm
nhiệm sứ mạng này hay không, đương nhiên thầy
hiểu rất rõ ràng, chọn trúng cụ Hoàng Niệm Tổ.
Do vậy, tôi thường nói: Vừa nghe đến tên họ
của lão nhân gia, tôi liền bảo mọi người, vị
này là truyền nhân của cụ Hạ, khích lệ, cổ
vũ mọi người hãy thân cận cụ cho nhiều.
Duyên phận và phước phần này đều chẳng
thể nghĩ bàn!
“Lục
thập niên đại sơ” (đầu thập niên sáu
mươi), “lục thập
niên đại” là năm 1960, vào đầu
năm 1960. “Tằng thí tả thử kinh huyền nghĩa chi
đề cương nhất sách, trình sư giám hạch, hạnh
mông ấn khả” (từng thử viết một bản
đề cương cho kinh này, trình lên thầy giám định,
may mắn được thầy ấn khả). Cụ chuẩn
bị công tác sơ bộ, viết đề cương,
đề cương là gì? Là phần Khái Luận mà chúng ta
nay đang học tập, cụ gọi phần này là Khái Yếu.
Trong quá khứ, khi tôi giảng kinh đã dùng phần tài liệu
này của cụ để viết đại cương,
có lẽ các đồng học đã đọc, trong quá khứ
tôi đã giảng nhiều lần. Tôi lấy phần Khái Yếu,
trích lục những điểm tinh yếu
trong đó, làm như vậy, trong các buổi giảng sẽ
có thể rút ngắn thời gian. Tuy đã rút ngắn, đại
khái cũng phải giảng mất mười mấy giờ,
nhằm giới thiệu “yếu nghĩa” (ý nghĩa trọng
yếu) của cả bản kinh với đại chúng. Cụ
Hoàng viết đề cương phần Huyền Nghĩa
đưa cho cụ Hạ xem, được đồng
ý, chấp nhận. “Đản
kinh Văn Cách hạo
kiếp, thử cảo dĩ đãng nhiên vô dư”
(nhưng trải qua cơn kiếp nạn Cách Mạng
Văn Hóa to lớn, bản thảo ấy đã mất sạch
chẳng còn). Khi ấy, cụ cũng gặp nạn Cách Mạng
Văn Hóa[4], cũng bị lôi ra “phê đấu” (phê bình, đấu tố), vì cụ
học Phật liền bị chụp mũ là “ngưu quỷ, xà thần” (quỷ
trâu, thần rắn), nhà cửa cũng bị lục soát, tịch
biên, những thứ đã viết lách đều bị
thiêu sạch, trải qua cơn kiếp nạn to lớn ấy.
“Hiện dư niên du cổ hy”
(nay tuổi đã ngoài bảy mươi), cổ nhân gọi
bảy mươi tuổi là “cổ
hy”. Câu “nhân sanh thất thập
cổ lai hy” (xưa nay, hiếm người sống
đến bảy mươi tuổi) là do Đỗ Phủ
đời Đường đã nói. Vì vậy, bảy
mươi tuổi được gọi là “cổ hy chi niên”, “du” (逾) là vượt qua, [“du cổ hy”] là hơn bảy mươi tuổi.
Khi tôi gặp lão nhân gia, cụ đã ngoài bảy mươi
tuổi. “Phục đa túc tật”
(lại lắm bệnh cũ), cũng là do trong thời Cách
Mạng Văn Hóa chịu rất nhiều khổ nạn,
cho nên tuổi già thân chẳng khỏe, rất nhiều bệnh
tật. “Quý thâm ân chi vị báo,
cụ vô thường chi tương chí” (thẹn ơn
sâu chưa báo, sợ vô thường xảy tới), đây
là lời thật, sứ mạng thầy đã giao phó
chưa hoàn thành, làm sao xứng với thầy? Tuổi già,
lắm bệnh, sợ lắm, sợ thọ mạng không
đủ để hoàn thành việc này, thường nặng
lòng vì chuyện này. “Ư thị,
phấn lão bệnh chi tàn thân, kế truyền đăng
chi hoằng thệ” (Do vậy, gắng gượng tấm
thân tàn già bệnh, kế tục hoằng thệ truyền
đăng). Chúng tôi đích thân thấy chuyện này, đêm
nối tiếp ngày, cụ làm chuyện này chẳng nghỉ
ngơi để viết bản chú giải này.
Viết chú giải cũng chẳng
dễ dàng! Sau khi viết xong, không vừa ý lại sửa
chữa, đến cuối cùng khi đã sửa chữa
hoàn chỉnh, tôi đã kể với quý vị, lúc ấy cuốn
sách này chỉ được in bằng ronéo. Nói chung, những
người trẻ tuổi hiện nay chẳng biết in ronéo là gì, người năm sáu
mươi tuổi chắc chắn biết. Chất liệu
rất kém cỏi, in bằng ronéo, chữ in ra không rõ ràng.
Tôi tin bản do cụ đem sang Mỹ tặng cho tôi, phải
là bản in ronéo rõ ràng nhất, tốt nhất, cụ
tặng cho tôi một quyển. Sau khi tôi đọc xong một
lượt, hết sức vui thích, vô cùng bội phục, rốt
cuộc kinh Vô Lượng Thọ có một bản chú giải
hay như thế, đúng là khó có! Tôi bèn thỉnh giáo lão nhân
gia: “Cụ có giữ bản quyền hay không?” Cụ bảo:
“Không giữ bản quyền!” Không giữ bản quyền
thì tôi bèn in lại. Do vậy, tại Đài Loan, tôi in lần
đầu một vạn cuốn, in thành một quyển
đóng bìa cứng. Bản của cụ vốn là bốn cuốn,
in thành bốn cuốn, chúng tôi đổi thành một cuốn
đóng bìa cứng, chính là bản hiện thời quý vị
đang cầm trên tay. Bản này đã được in mấy
lượt; bản gốc chúng tôi dùng để in một
vạn cuốn nay vẫn rất dễ tìm thấy, nguyên bản
ở phía trước có rất nhiều ảnh chụp, có
hình lão pháp sư Huệ Minh chứng minh cho cụ Hạ
Liên Cư, tôi đều đem in ở đầu sách. Tinh
thần ấy khó có lắm!
“Dĩ
thử thân tâm, cúng dường Tam Bảo, bế môn tạ
khách, toàn lực chú kinh” (Đem thân tâm này cúng dường
Tam Bảo, đóng cửa, không tiếp khách, dốc toàn lực
chú giải kinh), không gặp ai, đem hết thảy tinh lực,
thời gian, tinh thần dồn vào việc chú giải kinh.
Chú giải kinh phải sưu tập tài liệu tham khảo,
khó có lắm! Tôi cho rằng cụ được Phật,
Bồ Tát che chở, gia trì; hễ cụ nghĩ phải cần
những tài liệu nào, đều có người tặng
cho. Tôi từng xem những tài liệu trong thư phòng của
cụ, tôi cũng phải than là quá tuyệt diệu,
đúng là chẳng dễ dàng, từ đâu mà tìm được
nhiều thứ như thế? Âm thầm được
oai thần gia trì, những tài liệu cụ cần đều
có thể tìm được. “Ký
báo tiên sư kỵ thập phương tam thế thượng
sư Tam Bảo, dữ pháp giới chúng sanh chi thâm ân ư vạn
nhất” (mong báo một phần trong muôn phần ơn
sâu của tiên sư, mười phương ba đời
thượng sư, Tam Bảo và pháp giới chúng sanh). Chân
thành, thanh tịnh, từ bi, tâm báo ân, trên báo ơn Phật,
báo ơn thầy, dưới báo đáp ơn của hết
thảy chúng sanh và pháp giới chúng sanh. Đọc đến
chỗ này, chúng ta phải biết cảm ơn, cụ viết
bộ sách này khổ cực quá! Vì ai mà viết? Nay chúng ta có
được quyển sách này thì cụ vì tôi mà viết,
quý vị có được một quyển sách này tức
là cụ đã vì quý vị mà viết, thật đấy,
chẳng giả đâu! Quý vị đã có, có thể đọc
hiểu bản chú giải này, đoạn nghi hoặc, buông
xuống tạp niệm, nhất tâm niệm Phật,
tương lai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, ai tiếp dẫn? Hoàng lão cư sĩ tiếp dẫn,
quý vị mới hiểu công đức to lớn này!
Chúng tôi thiếu trí huệ, không
có năng lực này, viết không được, bèn phát
tâm; hiện thời ấn hành lưu thông thuận tiện
lắm. Đây chính là chúng ta báo đáp một phần trong
muôn phần ân đức của lão nhân gia, tuyên truyền bản
chú giải của cụ. Trên thế giới này, càng có nhiều
bản này càng tốt, vì sao? Trong kinh này, đức Phật
đã nói, trong tương lai, đến lúc Phật pháp bị
diệt, tức là vào chín ngàn năm sau, Phật pháp bị
diệt trên thế gian này, kinh Vô Lượng Thọ bị
diệt cuối cùng. Sau khi hết thảy các kinh bị diệt,
kinh Vô Lượng Thọ còn tồn tại trên thế gian
này một trăm năm. Một trăm năm sau đó,
kinh Vô Lượng Thọ cũng chẳng còn, hãy còn một
câu “Nam-mô A Di Đà Phật”. Gặp được danh hiệu
này cũng là có duyên phận đặc biệt, có thể
đắc độ. Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn!
Đức Thế Tôn nhiều lần tuyên giảng chẳng
thể nghĩ bàn, phiên dịch chẳng thể nghĩ bàn,
hội tập chẳng thể nghĩ bàn, chú giải cũng
chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta y giáo phụng hành, chính mình
được lợi ích; bản thân ta được lợi
ích, mà cũng sẽ ảnh hưởng tới người
khác, người ta thấy quý vị như thế sẽ bị
cảm động, tự nhiên học theo quý vị. Do vậy,
quý vị tự hành là hóa tha. Huống chi, nếu quý vị
có thể giảng giải, diễn nói cho người khác,
đây là tài liệu tham khảo để quý vị diễn
thuyết, quý vị có thể ấn hành lưu thông.
Hiện thời, khoa học kỹ
thuật phát triển, chúng ta học Phật cũng phải
vận dụng linh hoạt. Quý vị đem một quyển
sách to như vậy tặng cho người khác, người
ta vừa nhìn thấy: “Dày quá! Tôi không có thời gian đọc!”
Thật đấy, chẳng giả đâu! Tuyên
dương Tịnh Tông, quả thật là trong thời
đại hiện tại, so với bất cứ tông nào
khác cũng dường như thuận lợi, hưng
vượng hơn, do nguyên nhân nào? Đắc lực nhờ
công cụ khoa học kỹ thuật! Chúng ta học tập
ở đây, mười lần giảng diễn trong quá khứ,
chúng ta có CD/DVD, có vệ tinh, có Internet, có nhiều thứ thuận
tiện như thế, cho nên tiếp dẫn nhiều
người hơn. Trong quá khứ không có, trong quá khứ phải
nhờ vào sách, số lượng sách ít ỏi, lại còn
phải phụ thuộc vào người đọc, người
ta không đọc thì làm gì được nữa? Đĩa
CD/DVD lưu thông với số lượng lớn. Hiện
thời, khoa học ngày càng tiến bộ, lúc ban đầu
chúng tôi giảng kinh, một đĩa CD chỉ thâu
được một giờ. Lần giảng tại Tân
Gia Ba, được lưu thông tại Trung Quốc Đại
Lục là sáu mươi đĩa CD, chẳng
ít! Hiện tại thì sao? Hiện thời chừng hai đĩa,
[từ sáu mươi đĩa] biến thành hai đĩa,
ngày càng tiến bộ. Tôi tin là sau đôi ba năm nữa,
một đĩa sẽ thâu được sáu mươi
giờ, đối với mọi người, học tập
quá thuận tiện. Tôi còn đề xướng đọc
tụng kinh Vô Lượng Thọ, quý vị không muốn
đọc bản này, bèn mở TV sẽ có tiết mục
đọc tụng. Trong phần đọc tụng ấy
có kinh văn, có âm thanh, nhưng không có hình ảnh ai cả!
Có kinh văn, có âm thanh đọc tụng, giúp đỡ quý
vị! Lần này, chúng tôi giảng Diễn Nghĩa, hoàn toàn
giảng bản chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ
nhằm báo ân cụ. Lão nhân gia tuổi già nhọc nhằn
như vậy, chính mắt tôi thấy, chớ nên phụ bạc
cụ! Chúng ta có thể làm thành đĩa CD/DVD, mà cũng có
thể ghi thành văn tự để đọc tụng.
Có văn tự, có giảng giải, không cần phải có
hình ảnh con người. Đây là nói về nhân duyên lão
cư sĩ chú giải kinh.
Tiếp theo đó là giới thiệu
kinh này khế Lý, khế cơ, khó có nhất. “Phục dĩ bổn kinh chi thù
thắng tại ư khế Lý, khế cơ” (lại nữa,
kinh này vốn thù thắng ở chỗ khế Lý, khế
cơ). Lý là gì? Lý là tự tánh. Huệ Năng đại
sư là người Trung Quốc, chúng ta nói tới Ngài là một
nhân vật đặc biệt thân thiết, nhất là đối
với người Quảng Đông, chúng ta đang ở
địa bàn tỉnh Quảng Đông, đặc biệt
thân thiết! Lão nhân gia khai ngộ khi chưa tròn hai
mươi bốn tuổi. Chúng ta gọi Ngài là “lão nhân gia”, vì Ngài có đức
hạnh; thật ra, Ngài chưa già, hai mươi bốn tuổi
mà! Khi khai ngộ, Ngài đã nói năm câu, hai mươi chữ:
“Hà kỳ tự tánh”, [nghĩa
là] không ngờ tự tánh, tự tánh như thế nào? “Bổn tự thanh tịnh” (vốn
tự thanh tịnh), đây là câu đầu tiên; “bổn bất sanh diệt”
là câu thứ hai, “bổn tự
cụ túc” (vốn tự đầy đủ), “cụ túc” là như Thích Ca Mâu
Ni Phật đã nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai”, vốn tự
trọn đủ, “cụ túc”
là trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng
hảo viên mãn, đấy là những thứ có trong tự
tánh. “Bổn vô dao động,
năng sanh vạn pháp” (vốn chẳng lay động,
có thể sanh ra vạn pháp). Có thể sanh ra vạn pháp là có
thể hiện vũ trụ, có thể hiện vạn vật.
Ta do đâu mà có? Do tự tánh biến hiện! Vì thế, [tự
tánh] có thể sanh, có thể hiện, có thể biến; hết
thảy vạn pháp là cái được sanh, cái được
hiện, cái được biến. Cái có thể sanh là Lý,
cái được sanh chính là Sự; Khế Lý! Tự tánh vốn
sẵn có trí huệ Bát Nhã, tự tánh vốn sẵn có đức
năng, đấy là Lý. “Cơ”
(機) là
nói về chúng sanh, về đối tượng, tức
đối tượng của bộ kinh này, [nghĩa là] ai
có thể học? Bất cứ ai cũng đều có thể
học, thích hợp khắp ba căn thượng, trung, hạ,
lợi căn lẫn độn căn đều thâu tóm
toàn bộ. Hai đoạn tiếp theo đây sẽ nói về
vấn đề này.
Trước hết, nói về
Lý, “Lý giả, Thật Tế Lý
Thể, diệc tức Chân Như Thật Tướng, chân
thật chi bổn tế dã” (Lý là Thật Tế Lý Thể,
cũng tức là Chân Như Thật Tướng, là gốc
rễ chân thật). Câu này giảng về Lý. Lý là gì? Tôi vừa
mới trình bày một cách dễ hiểu cùng quý vị, [những
ý nghĩa ấy] hoàn toàn giống với ba câu nói [của cụ
Hoàng] ở nơi đây. “Thật”
(實) là
chân thật, “Thật Tế” (實際) là
quyết định chẳng giả, nó là Lý Thể, còn gọi
là Tự Tánh, tức là cái được gọi là Năng Sanh, Năng Hiện, Năng Biến (cái
có thể sanh, hiện, biến). Lý ở nơi đâu? Không
chỗ nào chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng tồn
tại. Nó chẳng phải là tinh thần, mà cũng chẳng
phải là vật chất, nó không có hình tướng, sáu
căn chẳng thể tiếp xúc được, chúng ta
không thể tưởng tượng được. Hễ
quý vị suy tưởng là trật mất rồi! Đến
khi quý vị điều gì cũng không suy tưởng nữa,
nó bèn hiện tiền. Vì vậy, trong kinh Phật thường
gọi chuyện này là “chẳng
thể nghĩ bàn”, [nghĩa là] quý vị chẳng thể
tưởng, mà cũng chẳng thể nói, nói không
được! Nó còn được gọi là Chân Như Thật
Tướng, Thật Tướng là chân tướng, Chân Thật
Bản Tế, nói theo cách bây giờ, trong Triết Học gọi
bản thể chân thật là Bản Thể Luận
(Ontology). Trong Triết Học, cho đến hiện thời
vẫn chưa thể giảng rõ khái niệm “bản thể”
(noumenon) này, chưa thể luận định chắc chắn,
nhưng trong Phật pháp đã giảng rõ ràng, minh bạch,
chẳng có mảy may nào mơ hồ. Vì sao? Nhiều người
đã chứng đắc. Thích Ca Mâu Ni Phật chứng
đắc đầu tiên dưới cội Bồ Đề.
Trong số các học trò [của Ngài], cũng có nhiều vị
chứng đắc, chứng đắc bèn gọi là “thành Phật”. Tại Trung Quốc,
lịch đại tổ sư đại đức thật
sự chứng đắc cảnh giới này có đến
mấy ngàn vị. Trong Truyền Đăng Lục của
Thiền Tông, có một ngàn bảy trăm công án, đấy
chính là có tới một ngàn bảy trăm người chứng
đắc, chẳng phải là một người. Ngoài ra,
còn có Giáo Hạ, “đại khai viên giải” cũng là cảnh
giới này. Tịnh Độ Tông niệm đến Lý nhất
tâm bất loạn cũng là cảnh giới này. Lý nhất
tâm bất loạn là minh tâm kiến tánh. Vì thế, chuyện
này chẳng giả. Sau khi chứng đắc, quý vị
để các Ngài trình bày, tức là để cho mỗi một
vị đã chứng đắc giải thích [cảnh giới
chứng đắc, sẽ thấy] ý nghĩa tương
đồng, đại đồng tiểu dị, tuy lời
lẽ không hoàn toàn giống, nhưng ý nghĩa hoàn toàn
như nhau. Chuyện này chẳng phải giả, mà là hội
đủ tinh thần khoa học trong ấy. Họ không cần
tới các dụng cụ khoa học để cầu chứng
đắc, họ dùng công phu Thiền Định. Thiền
Định là gì? Buông xuống! Buông vọng tưởng xuống,
buông phân biệt xuống, buông chấp trước xuống,
bèn chứng đắc.
Trên thực tế, chúng ta và hết
thảy chư Phật Như Lai chẳng khác gì nhau. Vì thế,
trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn thường nói: “Hết thảy chúng sanh vốn
là Phật”, lời này là thật, chẳng giả tí nào!
Nay vì sao biến thành như vậy? Mê rồi, mê mất tự
tánh, trọn chẳng phải là tự tánh không có, tự
tánh vẫn tồn tại, nhưng quý vị đã mê rồi!
Trong kinh Lăng Nghiêm có một tỷ dụ rất hay: “Diễn Nhã Đạt Đa, mê
đầu nhận ảnh” (chàng Diễn Nhã Đạt
Đa soi gương, thấy đầu mình chiếu trong
gương bèn mê cuồng), đức Phật đã kể
chuyện này. Nói rõ điều gì? Nói rõ phàm phu chúng ta mê mất
nơi hình dáng của Tự Tánh. Nếu dựa theo kinh Phật
để kể câu chuyện này mà chúng ta vẫn chưa hiểu
lắm, chúng tôi còn có một câu chuyện dễ hiểu
hơn mà vẫn có cùng ý nghĩa. Thuở chúng tôi còn là học
trò, nhằm lúc người Nhật gây chiến, trong thời
gian kháng chiến, học trò Tiểu Học lớp lớn,
tức lớp Năm, lớp Sáu, phải học
chương trình huấn luyện quân sự, có môn học ấy,
đến bậc Trung Học càng chẳng cần phải
nói nữa! Đây là một môn học rất quan trọng.
Trong huấn luyện quân sự có tập hợp khẩn cấp,
hạn định trong ba phút phải trang phục chỉnh
tề phải đến thao trường tập hợp,
thường có chuyện “Diễn
Nhã Đạt Đa, mê đầu nhận ảnh” xảy
ra. Khẩn cấp tập hợp khiến mọi người
bối rối, căng thẳng. Hễ căng thẳng bèn
mê, mũ đã đội ngay ngắn trên đầu, mặc
trang phục chỉnh tề ra ngoài tập hợp, tìm khắp
nơi, hỏi người khác, hỏi bạn học: “Bạn
có thấy cái mũ của tôi hay không?” Hoang mang tở mở
đi kiếm mũ, mê rồi! Bạn học liền chỉ:
“Chẳng phải bạn đang đội mũ trên đầu
đó sao?” Sờ thử, quả nhiên mũ ở trên đầu!
Có mất hay chăng? Không mất, mà là mê rồi! Đức
Phật nêu tỷ dụ này nhằm bảo chúng ta: Tự
tánh của chúng ta và tự tánh của Phật chẳng khác,
nay có tồn tại hay không? Tồn tại! Vì sao tìm không được?
Mê rồi! Khi nào giác ngộ, quý vị liền được
gọi là Phật. Khi quý vị đang mê thì gọi là phàm
phu. Giống như lúc tập hợp khẩn cấp,
đúng là mũ đang đội trên đầu mà chính mình
không biết, tìm khắp nơi, tình huống như vậy
đó!
Trong kinh điển, thường
thấy ba danh từ này, rất khó giải thích, coi từ từ
sau này sẽ hiểu. Tâm quý vị càng thanh tịnh, càng hiểu
sâu hơn. Hời hợt, bộp chộp là chướng ngại
lớn nhất trong sự học tập của chúng ta. Nếu
không diệt trừ hời hợt, bộp chộp, sẽ
vĩnh viễn không thể thấu hiểu. Cái mà quý vị
có thể học được chỉ là ngôn từ! Ngôn từ
là bề ngoài, là văn tự, danh tướng, quý vị học
những thứ này, không có cách nào nhận biết đạo
lý chân thật. Tâm quý vị càng thanh tịnh, càng hiểu
sâu; đến khi tâm bình đẳng hiển hiện, gần
như là chưa khai ngộ thì cũng mấp mé khai ngộ!
Thanh tịnh là Kiến Tư phiền não mỏng nhẹ.
Đoạn Kiến Tư phiền não, tâm thanh tịnh thật
sự hiện tiền; Trần Sa phiền não đoạn rồi,
tâm bình đẳng hiện tiền. Tâm chúng ta bất bình đẳng thì làm gì được? Vì
sao chẳng bình đẳng? Có Ngã! Có Ngã sẽ chẳng bình
đẳng; nói chung, [sẽ nghĩ] ta giỏi hơn
người khác một chút, đó là ngạo mạn.
Chư vị phải biết: Hễ có Ngã, bèn có ngạo mạn,
quý vị chẳng thừa nhận cũng không được!
Đức Phật nói rất hay, vì sao? Quý vị có Ngã là có
Mạt Na Thức, bốn đại phiền não thường
phụ thuộc Mạt Na Thức. Bắt đầu có từ
khi nào? Trong pháp Đại Thừa, có một câu mà hết thảy
mọi người đều biết: “Phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện
mục” (diện mạo vốn có trước khi
được cha mẹ sanh ra). Đó chính là Ngã, chẳng
phải là được cha mẹ sanh ra rồi mới có
Ngã. Trước khi được cha mẹ sanh ra đã có
Ngã. Người bình thường chúng ta gọi Ngã là “linh hồn”. Nói theo Phật
pháp, không gọi là linh hồn, mà gọi là “linh tánh”. Kẻ ấy có Ngã Chấp hay không? Có! Có
Ngã Chấp thì gọi là “linh hồn”, không có Ngã Chấp sẽ
gọi là “linh tánh”. Vì sao? Không gian hoạt động của
kẻ ấy không ra khỏi lục đạo luân hồi,
kẻ ấy chuyển vần trong lục đạo, không
thoát ra được. Vì sao? Mê rồi! Nếu kẻ ấy
giác ngộ, sẽ vượt thoát lục đạo; chẳng
gọi là “linh hồn” nữa, mà gọi là “linh tánh”, hoạt
động trong không gian lớn hơn, không gian hoạt
động của kẻ ấy là mười pháp giới.
Vì sao kẻ ấy vẫn chưa vượt thoát mười
pháp giới? Còn có khởi tâm động niệm, do chưa
phá vô minh. Sau khi phá vô minh, danh từ “linh tánh” cũng chẳng
còn, mà gọi là “tự tánh”, đã trở về nguồn, tức
là trở về tự tánh. Khi ấy gọi là gì? Gọi là
Phật, chân Phật, chẳng phải giả Phật. Một
thứ mà có tới ba danh từ (linh hồn, linh tánh, tự
tánh), một mà ba, ba mà một!
Như vậy thì chúng ta chỉ
cần một niệm bị mê, hễ mê thì tự tánh của
chúng ta biến thành A Lại Da Thức. Trong ba tế tướng
của A Lại Da Thức, Chuyển Tướng chính là Mạt
Na Thức. Cái đầu tiên trong Mạt Na Thức là Ngã Kiến.
Ngã Kiến là chấp trước có Ngã. Lấy gì làm Ngã? Chấp
trước một phần của A Lại Da Thức, nói
theo kiểu bây giờ sẽ là “một phần năng
lượng”, mọi người dễ hiểu hơn. Nói
theo danh từ hiện tại là một phần vật chất,
có lẽ chúng ta không nói “năng lượng”, mà nói rõ ràng
hơn một chút là “một phần thông tin”. Mạt Na là
thông tin[5], A Lại Da là năng lượng,
tướng cảnh giới là vật chất. Theo khoa học
hiện đại, trong vũ trụ chỉ có ba thứ là
năng lượng, vật chất, và thông tin. Ba tế
tướng của A Lại Da (chuyển tướng, vô
minh nghiệp tướng và cảnh giới tướng)
có cùng một ý nghĩa [với năng lượng, vật
chất và thông tin trong cách diễn giải của khoa học],
nhưng họ (các khoa học gia) giảng không rõ ràng lắm.
Vật chất do đâu mà có? Thông tin do đâu mà có? Năng
lượng do đâu mà có? Họ chẳng nói được!
Trong Phật pháp nói đến Nhất Thể, đó chính là
Tự Tánh. Khi chẳng mê là nhất thể, quý vị chẳng
thể chia ra phần nào là năng lượng, phần nào
là vật chất, phần nào là thông tin, chia không được!
Đấy chính là [ý nghĩa của] câu nói thứ ba của
Huệ Năng đại sư: “Hà
kỳ tự tánh, bổn tự cụ túc” (nào ngờ tự
tánh vốn tự trọn đủ), nó có, nhưng chẳng
hiện. Khi nó hiển hiện, tức là có duyên phận, tức
là một niệm vọng động, khởi lên một niệm,
nó bèn hiện, có thể sanh vạn pháp. Có thể sanh vạn
pháp thì ta là chánh báo, hoàn cảnh là y báo. Y báo và chánh báo đồng
thời khởi lên, không có trước sau. Trong sách Hoàn
Nguyên Quán đã giảng chuyện này rất rõ ràng, từ nhất
thể khởi ra nhị dụng. Nhị dụng gồm:
- Một là chánh báo của chúng ta, Ngã xuất
hiện.
- Thứ kia là hoàn cảnh sống xuất
hiện; đó là vũ trụ.
Đối với chuyện này, khoa học
lẫn Triết Học hiện đại đều
chưa thể nói rõ ràng. Trong kinh Phật từ ba ngàn
năm trước đã giảng rõ ràng dường ấy!
Hết sức đáng tiếc là các nhà khoa học thiếu
phước báo, chưa đọc kinh Phật. Nếu họ
xem kinh Phật, tôi tin là những người đó rất
thông minh, cảnh giới của họ nhất định
sẽ được nâng cao trên một mức độ rộng
lớn. Vì sao nói quý vị có phiền não? Mạt Na Thức
có Ngã Kiến, dính dáng Ngã Ái. Ngã Ái là tham, ngã mạn. Ngã mạn
là sân khuể, ngã mạn và sân khuể dính liền, ta bèn si.
Do vậy, Ngã Kiến, Ngã Ái, ngã mạn, và ngu si, bốn
đại phiền não thường nương theo [Mạt
Na Thức]. Lẽ nào quý vị chẳng ngạo mạn? Ngạo
mạn là bẩm sinh, tự nhiên có! Một niệm bất
giác bèn mê, mê rồi bèn sanh ra hiện tượng này, chứ
trong Thật Tế Lý Thể không có hiện tượng
này, Thật Tế Lý Thể hiện ra những hình tướng
nào? Trí huệ, đức năng, tướng hảo. Một
niệm dấy lên sẽ mê, biến thành tham, sân, si; thông tin
ấy bèn phát sanh.
Thật Tướng Lý Thể
còn gọi là Chân Như Thật Tướng, Chân là nói về
Thể, có thể sanh. [Chân] là cái bản thể có thể
sanh, có thể hiện. “Như”
là nói về tướng, tức hiện tướng
(tướng được biến hiện). Hiện
tướng là tướng được biến hiện
từ bản thể. Hiện tướng và Thể chẳng
tách rời; cho nên nói “Tánh Tướng
bất nhị”. Điều này cũng chẳng dễ hiểu.
Xưa nay, tổ sư đại đức, trong kinh Phật
cũng có nói, thường dùng vàng và các vật chế bằng
vàng để làm tỷ dụ, đem vàng ví với Thể.
Đúng vậy! Vàng làm thành các món đồ;
đó gọi là Như. Vì sao gọi là Như? Nó là vàng. Quý vị
nói xem: Đem vàng ròng làm thành tràng hạt. Tràng hạt ấy
có phải là vàng hay không? Là vàng! Đem vàng làm thành nhẫn,
làm vòng đeo tay, làm thành chén trà, đều có thể làm
được. Do vậy nói: “Tướng
cũng như Tánh, Tánh cũng như Tướng, Tánh và
Tướng chẳng hai”. Từ Tướng, quý vị
thấy được vàng, tức là quý vị thật sự
biết giá trị. Nếu quý vị chẳng biết giá trị,
sẽ tách rời vàng và những món đồ này. Tôi để
cho quý vị chọn lấy vàng, quý vị nhìn vào hết thảy
những món đồ này: “Không có, ở đây không có vàng!”
Vòng đeo tay có phải là vàng hay không? Cái chén có phải là
vàng hay không? Cái tô có phải là vàng hay không? Toàn là vàng làm thành.
Bảo quý vị lấy vàng ra, quý vị tìm không được,
đó là gì? Mê rồi! Mê mất tự tánh. Hễ ngộ, [bảo
quý vị] lấy vàng ra, bèn thuận tay cầm lấy, thứ
gì cũng đều là vàng! Do vậy, Tánh - Tướng chẳng
hai! Tánh không có hình tượng được biến hiện
(hiện tướng), tuy nó hiện ra hình tượng,
nhưng Tướng là huyễn tướng, chẳng thật!
Vì thế, trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Vạn pháp đều là không, trọn
chẳng thể được”. Đó là thật. Kinh
Kim Cang nói: “Phàm những gì có hình
tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, đều là nói lời
thật với quý vị. Đấy là Chân Như.
Thật Tướng: Thật
Tướng là chân tướng. Quý vị phải nhận
biết chân tướng. Chân tướng là gì? Trong Tướng
có Tánh, Tánh và Tướng không tách rời, thật đấy!
Tánh không thể được, mà Tướng cũng không
thể được. Nếu Tánh đã là không thể
được, làm sao có thể đạt được
Tướng ? Do vậy, trong một bộ Đại Bát
Nhã sáu trăm quyển, đức Phật giảng điều
gì? Chính là giảng “Nhất thiết
pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”
(hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không,
không thể được). Hiện tại, phiền não của
chúng ta từ đâu mà sanh? Đã là “chẳng thể
được” mà cứ nhất định muốn đạt
được, chẳng phải là quý vị đã tự
chuốc phiền đó sao? Khổ não không có bờ mé. Hễ
giác ngộ, khổ não bèn chẳng còn nữa; đã hiểu
rõ chân tướng, chẳng còn chấp trước, chẳng
còn dấy vọng tưởng. Thọ, Tưởng, Hành,
Thức đều không thể được, đều
là giả. Thọ, Tưởng, Hành, Thức do đâu mà có?
Do tự tánh mà có. Tự tánh có bốn tịnh
đức “thấy, nghe, hay, biết”, chúng là thật. Sau
khi mê, từ “thấy, nghe, hay, biết” sẽ biến thành
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chúng ta gọi Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là “tâm lý”. Tâm lý là giả, chẳng
thật. Chân tâm là thanh tịnh; “thanh
tịnh, bình đẳng, giác”. Đó là chân tâm. Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước nhất
định là vọng tâm.
Trong kinh nói “huệ dĩ chân thật chi lợi”,
“huệ” (惠) là ban tặng.
Chư Phật Như Lai, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
trong bộ kinh này đã ban cho chúng ta lợi ích chân thật,
cho nên là thuần nhất chân thật. Bộ kinh này “trụ chân thật huệ, khai
hóa hiển thị chân thật chi tế, huệ dĩ chân
thật chi lợi, thuần nhất chân thật dã” (trụ
trong chân thật huệ, khai hóa, hiển thị Chân Thật
Tế, ban cho lợi ích chân thật, thuần nhất chân thật).
Đây là nói kinh này khế Lý; không chỉ khế Lý, mà còn khế
Lý viên mãn. “Hựu bổn kinh
xưng vi trung bổn Hoa Nghiêm Kinh” (kinh này còn được
gọi là kinh Hoa Nghiêm bản trung). Câu này do Bành Tế Thanh
nói, ông ta là người sống trong thời Càn Long nhà Thanh
trước kia, là một vị đại đức trong
Phật môn, thông Tông, thông Giáo, Hiển Mật viên dung, rất
lỗi lạc. Ông ta nói: Kinh Vô Lượng Thọ chính là
trung bổn Hoa Nghiêm. Nói cách khác, A Di Đà Kinh là tiểu bổn
Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm Kinh là đại bổn A Di Đà Kinh. Một
mà ba, ba nhưng một, kinh Hoa Nghiêm giảng tỉ mỉ,
kinh Di Đà nói vắn tắt, thuận tiện cho khóa tụng.
Vì thế, thuở trước, tôi giảng kinh thường
khuyên những đồng học
trẻ tuổi: Nếu thật sự muốn giảng giải
thấu triệt Tịnh Độ ngũ kinh nhất luận,
nhất định phải học Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là chú
giải tỉ mỉ của ngũ kinh nhất luận, là
một, không hai.
Ở đây, cụ Niệm Tổ
dẫn câu nói này, cụ bảo: “Kinh
trung sở thuyên”, tức là những điều
được trình bày trong kinh này, “nhất thiết Sự Lý, tức Hoa Nghiêm chi Sự
Lý vô ngại, Sự Sự vô ngại chi Nhất Chân pháp giới”
(hết thảy Sự Lý chính là Nhất Chân pháp giới Sự
Lý vô ngại, Sự Sự vô ngại trong kinh Hoa Nghiêm).
Đây là nói rõ: Nội dung của kinh Vô Lượng Thọ
và kinh Hoa Nghiêm chẳng khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm nói tỉ mỉ,
còn ở đây (tức kinh Vô Lượng Thọ) nói những
điều giản yếu, tức là nói đơn giản,
chú trọng những chỗ quan trọng, mấu chốt.
Sau khi đọc bộ kinh này, tôi chẳng giảng kinh Hoa
Nghiêm nữa. Tôi thuở trẻ học kinh giáo, trong những
kinh được thầy Phương Đông Mỹ tiên
sinh giới thiệu cho tôi đọc có kinh Hoa Nghiêm. Hơn
nữa, thầy hết sức coi trọng kinh Hoa Nghiêm. Thầy
yêu thích, tiên sinh Phương Đông Mỹ ưa thích bộ
kinh này, đặc biệt giới thiệu với tôi, giới
thiệu bản chú giải của Thanh Lương đại
sư, có lý lắm. Tôi nhớ lúc Hoằng Nhất đại
sư tại thế, giới thiệu kinh giáo Đại Thừa
cho những phần tử tri thức học tập, Ngài cũng
giới thiệu bản chú sớ kinh Hoa Nghiêm của Thanh
Lương đại sư. Sau khi tiếp xúc, nếu quý vị
kiên nhẫn thâm nhập, sẽ có pháp hỷ sung mãn, có thể
thụ dụng, nhưng kinh này quá dài! Trước kia, Hoàng
lão cư sĩ vào đầu thập niên sáu mươi [chuẩn
bị chú giải kinh Vô Lượng Thọ], vào đầu
thập niên sáu mươi, tôi cũng bắt đầu giảng
kinh Hoa Nghiêm, cũng giảng suốt mười mấy
năm, chỉ giảng được phân nửa. Sau này,
giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng rất hoan hỷ.
Kinh Vô Lượng Thọ đã là trung bổn Hoa Nghiêm, tôi
chẳng cần phải giảng Hoa Nghiêm nữa. Chính mình
đọc kinh Hoa Nghiêm là được rồi. Vì thế,
ngưng lại [không giảng nữa]. Tôi cũng thật sự
từ kinh Hoa Nghiêm mà nhận thức Tịnh Độ, chết
sạch so đo, khăng khăng tu học pháp môn này. Chuyện
này trong các buổi giảng trước đây, tôi đã từng
thưa bày cùng quý vị.
Giảng kinh Hoa Nghiêm lần này
là nhân duyên đặc thù, do có ba người khải thỉnh.
Người thứ nhất là pháp sư Khai Tâm ở Đài
Loan, Sư đã vãng sanh. Thuở trước, khi còn sống,
mỗi lần gặp tôi, Sư đều khuyên tôi giảng
kinh Hoa Nghiêm, bảo tôi: “Pháp sư Tịnh Không! Nếu thầy
không giảng, sợ rằng sau này chẳng có ai giảng!”
Không chỉ một lần, mỗi lần gặp mặt
Sư đều nhắc nhở. Tôi rất cảm kích,
nhưng hoàn chẳng động tâm. Lần thứ hai tại
Bắc Kinh, tôi sang thăm lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
lão cư sĩ rất nghiêm túc, cũng
rất từ bi, thỉnh tôi giảng kinh Hoa Nghiêm. Tôi cũng
rất cảm kích, cụ cũng nghĩ sau này, người
có thể giảng bộ kinh này không nhiều lắm, nhưng
tôi vẫn chẳng động tâm. Lần thứ ba là khi
Hàn Quán Trưởng của Hoa Tạng Đồ Thư Quán
bệnh nặng, trên thực tế là hai hôm trước khi
bà ta vãng sanh, đã hết sức khẩn thiết yêu cầu
tôi giảng kinh Hoa Nghiêm một lần, giảng hoàn chỉnh
một lần, lưu một bộ băng thâu hình. Khi
đó là băng video, còn chưa có CD, CD chưa phổ biến.
Khi chiếu lên TV, vẫn phải dùng một cái hộp to ngần
ấy (VCR) để chạy băng. Bà ta mong lưu lại
một bộ băng video hoàn chỉnh để người
đời sau tham khảo. Do bà ta đang bệnh, bệnh nặng
như vậy, nhằm an ủi bà, tôi liền nhận lời,
tôi nói: “Được! Chờ bà lành bệnh, tôi sẽ giảng”.
Hai ngày sau, bà ta vãng sanh. Ba lần [được khuyến
thỉnh như vậy].
Sau khi lão nhân gia qua đời,
chúng tôi rời Đài Loan sang Tân Gia Ba, giảng kinh tại
Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm. Tôi và cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói
tới chuyện này. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên hết sức
hoan hỷ, ông ta nói: “Tôi thay mặt ba người ấy khải
thỉnh pháp sư!” Ông ta sốt sắng như vậy,
được rồi! Lần này, chúng tôi khai giảng kinh
Hoa Nghiêm tại Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm khai giảng, giảng
nhiều năm như thế, giảng tới bốn ngàn
giờ. Giảng được bao nhiêu? Đại khái là
giảng được một phần năm của cả
bản kinh. Như vậy thì để giảng viên mãn bộ
kinh này theo phương pháp mà tôi đã dùng, đại khái cần
bao nhiêu giờ? Hơn hai vạn giờ! Chắc chắn phải
hơn hai vạn giờ. Tôi còn có thể sống lâu như
thế hay chăng? Kinh dài mà giảng gọn lại thì
được, hai, ba năm cũng có thể giảng xong;
nhưng con người hiện thời nghe kinh, càng chi tiết,
càng thú vị. Theo phương pháp giảng kinh như cổ
nhân, đừng nói tới thời xa xôi quá, ngay như
phương pháp giảng kinh của thầy tôi là lão cư
sĩ Lý Bỉnh Nam, người bình thường trong hiện
tại sẽ chẳng dễ tiếp nhận. Quá
đơn giản, nghe không hiểu, đây là nói tới vấn
đề khế cơ. Giảng cho người hiện
đại, phải giảng thấu triệt, giảng rõ
ràng, giảng minh bạch, họ thật sự nghe hiểu
sẽ sanh tâm hoan hỷ. Đúng là khó khăn!
Lần này tôi nói với các đồng
học, tôi tạm thời ngưng kinh Hoa Nghiêm lại. Tôi
nghĩ là ngừng một năm, trong thời gian một
năm này, giảng minh bạch, rõ ràng bộ chú giải này.
Vì sao? Đây là trung bổn Hoa Nghiêm. Hiện tại, cả
thế giới, xã hội động loạn, tai nạn
liên tiếp xảy ra. Trong tháng này, các đồng học có
gởi cho tôi xem một tài liệu: Từ ngày mồng Bốn
tháng Ba đến mồng Bảy tháng
Tư, trong thời gian một tháng, khắp thế giới
đã có mười một lần động đất từ
cấp sáu trở lên. Vùng biển Ấn Ni (Indonesia) phát sanh
sóng thần (tsunami), xảy ra liên tiếp như vậy,
dày đặc như vậy. Nhiều đồng học
đã xem phim “2012”. Bốn mươi, năm mươi
năm qua tôi chẳng xem phim, chẳng coi TV, các đồng
học một mực kéo tôi đi xem. Tôi coi xong, trở về
bảo mọi người: Đây chẳng phải là ngẫu
nhiên, phim được chiếu trên khắp thế giới,
đối với người học Phật chúng ta mà nói,
đây là một thứ cảm ứng, cõi trời đã cảnh
cáo nhân loại. Nếu chẳng sám hối, nếu không quay
đầu, chẳng thể đoạn ác tu thiện, sửa
lỗi, đổi mới, sợ rằng tai nạn ấy
sẽ là sự thật, chẳng giả!
Hai năm gần đây nhất,
chúng ta làm Tam Thời Hệ Niệm Phật sự, tôi đề
xướng làm bốn mươi chín ngày. Đang khi bắt
đầu, trong hôm thứ nhất hay hôm thứ hai, trong
đạo tràng có một đồng tu bị quỷ thần
dựa thân, đến tìm tôi, tôi hỏi: “Chuyện gì?”
Người ấy nói: “Thầy không biết đâu! Hiện
thời, tai nạn rất nghiêm trọng [sẽ xảy ra]
trong một thời gian rất dài”, báo cho tôi biết mức
độ nghiêm trọng. Tôi nói: “Ước chừng bao
lâu?” Người ấy nói: “Đại khái là từ ba
năm đến năm năm”, thời gian dài như thế
đó! Người ấy nói: “Phật sự bốn
mươi chín ngày không đạt hiệu quả”. Tôi hỏi:
“Làm sao mới có thể đạt được hiệu
quả?” Người ấy đề nghị một
trăm thất, tức là phải làm Hệ Niệm Phật
sự bảy trăm ngày! Sau khi tôi nghe xong, tôi nói:
“Được rồi! Ngươi hãy đi đi”. Sau
đấy, tôi tìm lão hòa thượng Mãn Thành ở Thật
Tế Thiền Tự[6], Ngài cũng đã vãng sanh rồi, vãng
sanh vào năm ngoái. Tôi và Ngài thương lượng. Tôi hỏi:
“Ý lão hòa thượng như thế nào?” Lão hòa thượng
đáp ứng ngay. Vì thế, tại Thật Tế Thiền
Tự, lần đầu tiên làm một trăm thất, làm
Hệ Niệm Phật Sự bảy trăm ngày là do quỷ
thần nhập thân yêu cầu. Pháp hội này đến
ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba mới viên mãn, bảy
trăm ngày!
Hiện thời, tai nạn ngày
càng nhiều, khi ấy, tôi ở Đài Loan để chữa
răng, tôi bị bệnh nha chu[7], tôi bảo pháp sư Ngộ Đạo,
đạo tràng của thầy ấy ở Đài Bắc.
Tôi nói: “Sau khi thầy trở về, hãy tổ chức Phật
sự bảy trăm ngày tại Đài Bắc”. Pháp sư
Ngộ Hạnh ở Đài Nam, tôi bảo: “Ông cũng làm Phật
sự bảy trăm ngày tại Đài Nam. Tôi phối hợp
với các ông bắt đầu giảng kinh Vô Lượng
Thọ”. Bọn họ đều hoan hỷ. Tôi nói: “Chúng ta
giảng bộ kinh này cõi âm lẫn dương gian đều
được lợi, hy vọng đem công đức giảng
kinh này hồi hướng cho hư không pháp giới, mong hóa
giải tai nạn. Dẫu chẳng thể hóa giải, cũng
khiến cho tai nạn giảm nhẹ, chậm xảy ra,
chúng ta có thể tin tưởng điều này”. Đây là
nhân duyên chúng tôi giảng kinh lần này. Chúng tôi mong muốn
đem bộ kinh này do cụ Hạ đã tốn thời
gian mười năm hội tập thành một bản
tiêu chuẩn hoàn mỹ như vậy, cụ Hoàng Niệm Tổ
không nề hà tuổi già, lắm bệnh, suốt ngày
đêm không nghỉ ngơi để hoàn thành trước
tác này, nếu chúng ta không nghiêm túc nỗ lực học tập
kỹ càng, làm sao xứng với hai vị lão nhân ấy?
Do vậy, tôi bảo các đồng
học, mọi người chúng ta hãy phát tâm. Thật sự
muốn cứu vớt tai nạn này, có thể [cứu vớt]
hay không? Câu trả lời là khẳng định! Nếu
trên thế giới này, thật sự có một đạo
tràng đúng pháp xuất hiện, trên cả địa cầu
sẽ chẳng còn tai nạn! Đạo tràng gì vậy?
Tăng đoàn. Tăng là gì? Tăng có nghĩa là Lục Hòa
Kính, trong ấy có sáu điều kiện. Sáu chuyện ấy
đều làm được [thì gọi là Tăng]. Bốn
người trở lên ở cùng một chỗ tu hành thì gọi
là Chúng; đây là một đoàn thể tuân thủ giáo huấn
của đức Phật. “Kiến
hòa đồng giải”, con người hiện thời
gọi là “thành lập cộng
thức” (hình thành một nhận thức chung). Chúng ta là
những người cùng nhau tu học, tư tưởng
nhất trí, kiến giải là nhất trí, chẳng mâu thuẫn,
chẳng đối lập; đây là điều kiện trọng
yếu nhất trong Lục Hòa. Thứ hai là “giới hòa đồng tu”, mọi người ở
cùng một chỗ nhất định phải giữ quy củ,
quy củ là gì? Quy củ là giới luật. Thứ ba là “thân hòa đồng trụ”,
chúng ta ở cùng một chỗ. “Khẩu
hòa vô tránh”, mọi người giữ một niềm
hòa khí, không tranh cãi. “Ý hòa đồng
duyệt”, tu hành cùng một chỗ, sống cùng một
chỗ, vui vẻ, pháp hỷ sung mãn. Điều cuối
cùng là “lợi hòa đồng
quân”, cũng là đãi ngộ bình đẳng trong cuộc
sống vật chất, không có người nào được
ưu đãi [hơn người khác]. Đây là thuở Thích
Ca Mâu Ni Phật tại thế, trong Tăng đoàn của
Ngài có sáu quy củ đơn giản như thế. Tăng
đoàn của Phật rất lớn, một ngàn hai
trăm năm mươi lăm người; trong kinh chúng
ta thường thấy: Người người đều
tuân thủ sáu điều này. Nay có thể xuất hiện
một Tăng đoàn như thế, trong kinh, đức Phật
đã dạy chúng ta: Hết thảy chư Phật hộ
niệm, hết thảy thiên long thiện thần ủng hộ,
nơi ấy sẽ không có tai nạn; nhưng Tăng
đoàn như vậy [kiếm không ra]. Ba mươi năm
trước, lần đầu tiên tôi đến
Hương Cảng giảng kinh vào năm 1977, đã gặp
pháp sư Tẩy Trần, chúng tôi hết sức hợp
duyên, nói chuyện rất hợp. Sư cũng là một
trong các vị lãnh tụ của Phật giáo Hương Cảng,
Sư cũng vãng sanh từ mấy năm trước rồi!
Tôi và Sư nói tới vấn đề này, tôi nói: “Chúng ta có
thể phát tâm hay không? Tìm năm người xuất gia chí
đồng đạo hợp, năm vị tỳ-kheo,
chúng ta thi hành Lục Hòa Kính, thành lập Tăng đoàn này?”
Sư nghe xong rất hoan hỷ. Tôi ở Đài Loan, Sư ở
Hương Cảng. Bàn bạc rất vui vẻ, nhưng
không có cách nào thực hiện, chẳng dễ dàng! Đạo
tràng hiện thời, hai người ở chung một chỗ
thường cãi nhau, còn làm gì được nữa? Thật
sự có thể xuất hiện Tăng đoàn này, thì
nơi ấy, tai nạn sẽ bị hóa giải. Có ai thật
sự chịu làm hay không?
Làm thế nào mới có thể
thực hiện? Đạt đến vô ngã sẽ thực
hiện được! Khởi tâm động niệm nghĩ
đến người khác. Nếu khởi tâm động
niệm, ý niệm thứ nhất bèn nghĩ đến
chính mình, sẽ không thể thực hiện được!
Vào Phật môn, ải thứ nhất là phá Ngã Chấp. Trong
Kiến Tư phiền não có năm món Kiến Hoặc, món
đầu tiên là Thân Kiến, chấp chặt cái thân này là
ta. Hết thảy đều vì cái thân ta mà suy nghĩ, hỏng
rồi! Tự tư, tự lợi, tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn,
toàn bộ dấy lên, làm sao có thể hòa hợp với
người khác? Vì thế, đừng chấp trước
thân này là ta nữa, đừng đối lập với
người khác nữa. Không chỉ chẳng đối lập
với người khác, mà trong hết thảy mọi sự
đều chẳng đối lập, chẳng đối
lập với vạn vật trong trời đất.
Đó là phá Biên Kiến. Sau đấy, lại phá Thành Kiến.
Chúng ta nói người nào đó thành kiến rất sâu, ta nghĩ
như vậy. Ta cho là như vậy thì sẽ không thể
tu tùy hỷ công đức, sẽ không thể hằng thuận
chúng sanh. Phải buông thành kiến xuống, quý vị mới
có thể tu tùy hỷ công đức, mới có thể tu hằng
thuận chúng sanh. Đấy mới là bước đầu
để nhập Phật môn. Trong Tiểu Thừa là Tu
Đà Hoàn, trong Đại Thừa là địa vị
Sơ Tín Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm. Tuy mới nhập môn,
nhưng công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn,
cho nên được hết thảy chư Phật hộ
niệm, quý vị thật sự là đệ tử của
Phật, lẽ nào Phật chẳng quan tâm đến quý vị?
Trời, rồng ủng hộ, quỷ thần tôn kính. Một
Tăng đoàn như vậy xuất hiện, nơi ấy
thật có phước! Có bốn năm người thật
sự chịu làm [như vậy] hay chăng? Bỏ mình vì
người, khởi tâm động niệm đều mong
cho chánh pháp của Thích Ca Như Lai được tồn tại
lâu dài, khởi tâm động niệm luôn vì hết thảy
chúng sanh khổ nạn trong thế gian này, đừng nghĩ
tới chính mình, quên đi bản thân thì mới có thể thực
hiện Lục Hòa Kính.
Hiện thời tai nạn hiện
tiền, tôi đã nói với mọi người. Cư sĩ
Lưu Tố Vân cũng đã báo cáo với quý vị, rất
khó có! Chúng ta phải có cách nhìn như thế nào? Phải giống
như Ấn Quang đại sư đã nói: Đem một
chữ Chết dán trên trán! Tôi đã đến viếng quan
phòng (nơi bế quan) của Ấn Quang đại sư
tại Linh Nham Sơn Tự, Tô Châu. Trong quan phòng có một
Phật đường nhỏ, chẳng lớn, đại
khái chỉ lớn bằng nửa phòng thâu hình của chúng
ta. Sau tượng Phật có viết một chữ, do chính
lão nhân gia đã viết chữ “Tử” ấy. Hằng ngày
nghĩ đến, cái chết ở trước mặt,
còn có cái gì mà quý vị không thể buông xuống được?
Do vậy, hôm nay, sau khi chúng ta xem xong phim “2012”, tôi nói với
mọi người, chúng ta phải coi ngày hôm nay như ngày
cuối cùng trên cuộc đời. Sáng mai thức dậy,
ta lại coi như là ngày cuối. Mỗi ngày đều là
ngày cuối cùng, điều gì quý vị cũng buông xuống
mới hòng đạt được tâm thanh tịnh! Đến
thế gian này với hai bàn tay trống trơn, khi đi, vẫn
trống trơn ra đi, cái gì cũng không mang theo được!
Nhất tâm tưởng Phật, trong tâm điều gì cũng
chẳng màng tới, chỉ có A Di Đà Phật, một
phương hướng, một mục tiêu. Một
phương hướng là Tây Phương Cực Lạc
thế giới, một mục tiêu là đến Cực Lạc
thế giới thân cận A Di Đà Phật. [Chỉ có] một
niệm này, trừ một niệm này ra, không có niệm thứ
hai, quý vị mới thật sự buông xuống vạn
duyên. Tai nạn xảy đến có sợ hay không? Không sợ.
Ta mỗi ngày tưởng A Di Đà Phật, mỗi ngày
tưởng thế giới Cực Lạc, rốt cuộc
đến dịp, ta bèn ra đi, chẳng có mảy may sợ
hãi gì! Mỗi ngày đều chờ đợi, mỗi ngày
đều hướng về, đó là đúng. Đây chẳng
phải là tiêu cực, mà là tích cực. Ngày hôm nay là ngày cuối
cùng của ta, ắt phải đoạn ác tu thiện, ắt
phải tích công lũy đức, vì sao? Phải biết
nâng cao phẩm vị của chính mình. Chúng sanh khổ nạn,
ta có được một ngày, sống một ngày thì phải
toàn tâm toàn lực giúp mọi người một ngày. Ta giúp
mọi người một ngày nhưng tâm địa trong sạch,
tam luân thể không, trọn chẳng chấp tướng,
niệm niệm chẳng xả A Di Đà Phật. Có
được bốn năm người thật sự có
thể quán như thế, thật sự làm, Tăng đoàn
hòa hợp sẽ thành lập, ở nơi đâu? Ngay trong
tiểu đạo tràng này, tiểu đạo tràng này chiếu
sáng đại thiên. Chúng ta là người đã học bộ
Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, đều biết: Niệm vừa
dấy lên, lập tức trọn khắp pháp giới.
Đây là nói thông tin linh thông, chẳng bị chướng ngại
mảy may. Tốc độ [lan truyền ấy] nhanh
hơn tốc độ ánh sáng, nhanh hơn tốc độ
của sóng điện từ (electromagnetic wave). Ý niệm vừa
khởi, bèn trọn khắp pháp giới, chư Phật, Bồ
Tát biết, thiên long quỷ thần cũng biết. Trong cuộc
đời này, phải có lòng tin kiên định, quyết
định thành Phật trong một đời này. Nay chúng
ta học bộ kinh này, bộ kinh này hướng dẫn
chúng ta thâm nhập một môn, trường thời huân tu,
thành tựu viên mãn Bồ Đề trong một đời.
Vì thế, kinh có dạy, tức
là kinh Hoa Nghiêm có nói: “Lý Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Cảnh giới vô
chướng ngại là Nhất Chân pháp giới. Tây
Phương Cực Lạc thế giới là Nhất Chân
pháp giới, thế giới Hoa Tạng là Nhất Chân pháp giới.
“Hoa Nghiêm bí áo chi Lý Thể, chánh
tại bổn kinh, cố vân Khế Lý” (Lý Thể ẩn
kín, nhiệm mầu của kinh Hoa Nghiêm ở ngay trong kinh
này, nên nói là Khế Lý). Những điều được
nói trong kinh này và kinh Hoa Nghiêm hoàn toàn tương đồng.
“Chí ư khế cơ, tắc
cánh thị bổn kinh chi độc thắng” (Còn về
phần khế hợp căn cơ, bản kinh này lại
càng thù thắng độc đáo). Câu này viết hay quá!
Độc thắng! Hết thảy các kinh do đức Thế
Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm, nếu luận
về phương diện khế cơ, đều thua bộ
kinh này. Sở dĩ đức Thế Tôn thuở tại thế
đã nhiều lần tuyên giảng bộ kinh này, vì lẽ
nào? Kinh này khế cơ! Phương pháp này bất luận
là ai cũng đều có thể học, đơn giản,
dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, thành tựu lại
đặc biệt thù thắng, tìm đâu ra một pháp môn
nào khác giống như vậy? “Kinh
trung chi trì danh pháp môn, phổ bị tam căn, tề thâu
phàm thánh” (pháp môn trì danh trong kinh thích hợp khắp ba
căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn).
Đây là chỗ độc thắng. Dùng phương pháp
nào? Dùng phương pháp Niệm Phật, niệm danh hiệu
Phật. Quý vị niệm bốn chữ A Di Đà Phật
cũng được; mà niệm sáu chữ cũng
được, Nam-mô A Di Đà Phật. Sáu chữ này là dịch
âm tiếng Phạn. “Nam-mô”
có nghĩa là “quy y, quy mạng, tôn kính”, có những ý nghĩa
này, đó là ý nghĩa của chữ Nam-mô. Chữ “A” có thể dịch sang chữ
Hán, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác, Vô Lượng
Giác! Vô Lượng Giác là gì? Là tự tánh. Vì thế, danh hiệu
này là chính chúng ta, là danh hiệu tự tánh của
đương nhân. Trong Hệ Niệm Pháp Sự, thiền
sư Trung Phong đã nói rất hay: A Di Đà Phật là tự
tánh Di Đà, Tây Phương Cực Lạc thế giới
là duy tâm Tịnh Độ, chẳng ở bên ngoài! Hết
thảy các pháp chẳng lìa tự tánh, Di Đà và thế giới
Cực Lạc cũng chẳng lìa tự tánh. Nói cách khác, do
tự tánh biến, tự tánh Di Đà! Nói rõ hơn một
chút: Chính mình niệm chính mình, ta chẳng niệm tham, sân,
si, mạn, ta chẳng niệm tự tư, tự lợi,
ta chẳng niệm tiếng tăm, lợi dưỡng, ta
niệm tự tánh, tự tánh là Vô Lượng Giác. Trong kinh
Đại Thừa thường giảng, chúng ta đã nghe
rất nhiều rồi, học nhiều lắm rồi: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Quý vị tưởng gì, bèn hiện ra
cảnh giới ấy. Nay ta tưởng A Di Đà Phật,
ta nghĩ tới Tánh Đức trong tự tánh của ta, lẽ
nào chẳng thành tựu? Minh tâm kiến tánh là vọng tận
hoàn nguyên, dùng phương pháp này thù thắng khôn sánh!
“Phổ
bị tam căn”, tam căn là thượng, trung, hạ,
[“phổ bị tam căn”
là] các căn tánh bất đồng đều có thể học.
“Tề thâu phàm thánh”: Phàm phu
có thể học, có thể thành công; thánh nhân cũng có thể
học, cũng có thể thành công. “Thượng thượng căn giả, chánh hảo
toàn thể thừa đương” (người thượng
thượng căn rất thích hợp để gánh vác
toàn thể), bậc thượng thượng căn là ai?
Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Âm, Thế
Chí, những vị thánh nhân là bậc thượng thượng
căn. Đúng vậy! Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy
Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tôi đã
từng thưa với các vị đồng học, khi tôi
còn trẻ, vốn tưởng Phật giáo là mê tín, là tôn
giáo, không muốn tiếp xúc, mà cũng chẳng muốn gần
gũi. Về sau, theo học Triết Học với tiên
sinh Phương Đông Mỹ, từ sách giáo khoa, cụ giảng
Triết Học trong kinh Phật cho tôi. Tôi thỉnh giáo cụ.
Tôi nói: “Phật giáo là mê tín, đa thần giáo, phiếm thần
giáo[8],
là tôn giáo cấp thấp, làm sao có Triết Học cho
được?” Cụ dạy tôi: “Anh còn trẻ, chưa biết, Thích Ca Mâu Ni Phật là
bậc triết gia vĩ đại nhất trên cả thế
giới”. Tôi chưa từng nghe ai nói như thế! “Triết Học trong kinh Phật
là đỉnh cao nhất trong toàn bộ Triết Học thế
giới. Học Phật là sự hưởng thụ tối
cao trong cuộc đời”. Tôi mới sửa đổi
quan niệm sai lầm trong quá khứ. Lời dạy sau
đây của cụ hết sức quan trọng: “Phật pháp ở trong kinh điển,
không ở chốn chùa chiền”. Lời hướng dẫn
này hết sức quan trọng. Nếu chúng tôi đến
tìm [Phật pháp] trong chùa chiền sẽ chẳng thấy,
thấy toàn là mê tín, lời thầy nói chẳng phải là
giả hay sao? Do cụ cũng sợ tôi khởi lên mối
nghi hoặc này, [nên dạy tôi hãy học Phật pháp] từ
kinh điển, bảo tôi tìm Phật pháp trong kinh điển,
học tập từ kinh điển.
Sau đấy không lâu, tôi quen biết
Chương Gia đại sư. Chương Gia đại
sư dạy tôi hãy học tập Thích Ca Mâu Ni Phật, dạy
tôi đọc sách. Sách Phật tôi đọc sớm nhất
là Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí, đó là truyện
ký về Thích Ca Mâu Ni Phật. Sư nói: “Nếu anh muốn
học Phật, trước hết, phải nhận biết
Thích Ca Mâu Ni Phật”. Đọc rồi mới biết:
Thích Ca Mâu Ni Phật vốn chẳng dính dáng tới tôn giáo.
Nhìn theo quan điểm hiện thời, Phật là gì? Ngài giữ
chức trách của một vị thầy, suốt đời
dạy học. Sau khi đã khai ngộ vào năm ba
mươi tuổi, đức Phật bèn bắt đầu
dạy học; bảy mươi chín tuổi vãng sanh, dạy
học suốt bốn mươi chín năm, vui thích sự
nghiệp này, chẳng mệt mỏi, giống như Khổng
lão phu tử, dạy dỗ không phân biệt, người
đến chẳng cự tuyệt, kẻ đi không giữ
lại. Suốt đời làm công tác dạy học, chẳng
lập đạo tràng! Rừng núi, cội cây, các đệ
tử thường theo hầu không ít người, hơn một
ngàn người. Còn có những người chẳng thường
theo học, ngẫu nhiên đến tham dự, tôi phỏng
đoán nơi Ngài dạy học chắc phải có chừng
hai ba ngàn người, phải là như vậy, kể cả
những người ngẫu nhiên đến dự, phải
có quy mô to lớn như thế. Điều này khiến cho
chúng ta suy tưởng: Thuở ấy, chẳng có máy khuếch
âm (amplifier), Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, âm thanh giảng
kinh có thể phủ trọn, có thể nhiếp thọ một
nơi to lớn như vậy, người bình thường
sẽ chẳng thể làm được! Huống hồ
còn “nhất âm thuyết pháp,
chúng sanh tùy loại các đắc giải” (một âm
thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại đều
hiểu). Chúng ta biết: Người từ bốn
phương tám hướng tới dự, ngôn ngữ khác
nhau, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết
pháp, họ đều có thể nghe hiểu. Đây cũng
chẳng phải là chuyện dễ! Đều có thể
nghe hiểu, tiếp nhận, đúng là một vị thầy
giỏi!
Phật giáo biến thành tôn giáo,
biến thành tình trạng như hiện thời, chúng ta phải
biết là đã xảy ra rất trễ, đại khái tôi
nghĩ phải xảy ra sau thời Gia Khánh. Vào thời Càn
Long, chúng ta thấy [Phật giáo] vẫn là giáo học. Trong
chùa chiền, cao tăng đại đức mỗi ngày giảng
kinh, mỗi ngày đều dạy học. Sau Càn Long là Gia
Khánh, sau Gia Khánh là Đạo Quang, nói chung là dần dần
biến chất trong thời gian này. Tôi nghĩ thật sự
biến chất trên bình diện lớn phải là vào thời
Từ Hy Thái Hậu. Từ Hy Thái Hậu mê tín, nhiều chuyện
chẳng theo gương các vị đế vương khi
trước hướng về cao tăng đại đức
thỉnh giáo. Trong cung đình của Từ Hy Thái Hậu
không hề giảng kinh. Trong cung đình nhà Thanh [trước
thời Từ Hy], thường không ngừng mời cao nhân
Nho, Thích, Đạo dạy học. Từ Hy Thái Hậu phế
trừ chế độ này, trong cung đình chẳng còn giảng
học nữa. Bà ta thích lên đồng, cầu cơ,
Chương Gia đại sư kể cho tôi nghe chuyện
này. Quốc gia đại sự đều thỉnh ý thần,
cầu cơ để hỏi thần, cho nên vong quốc!
Tôi nghĩ chuyện này có ảnh hưởng hết sức
lớn, người trên làm, kẻ dưới bắt
chước theo, cho nên Phật giáo biến thành tôn giáo. Hiện
thời, nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta chẳng thể phủ
định, nhưng thầy tôi là Chương Gia đại
sư và tiên sinh Phương Đông Mỹ đều dạy
tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta học tập
kinh điển, trong kinh điển có những món báu, có những
thứ tốt đẹp, có thể giúp chúng ta quay đầu,
giúp chúng ta minh tâm kiến tánh. Vì thế, bậc thượng
thượng căn mới có thể đảm nhiệm
toàn thể, hoàn toàn tiếp nhận. [Câu này] có nghĩa là
hoàn toàn tiếp nhận.
“Hạ
hạ căn giả, diệc khả y chi đắc độ”
(kẻ hạ hạ căn cũng có thể noi theo mà đắc
độ): Quý vị nương theo lý luận và
phương pháp do kinh điển đã giảng, nghiêm túc
thực hiện, sẽ có thể vãng sanh. Vãng sanh là thành Phật,
chuyện này là thật, chẳng giả. “Thượng tắc Văn Thù, Phổ Hiền Pháp
Thân đại sĩ, diệc quân phát nguyện cầu sanh”
(trên thì Văn Thù, Phổ Hiền, Pháp Thân đại sĩ
cũng đều phát nguyện cầu sanh), đây là nói về
bậc thượng thượng căn; “hạ chí Ngũ Nghịch, Thập Ác” (dưới
là đến phường Ngũ Nghịch, Thập Ác), những
kẻ không việc ác nào chẳng làm, “lâm chung niệm Phật” cũng có thể “tùy nguyện đắc sanh”,
hết sức phi phàm! Ngũ Nghịch là gì? Thập Ác là gì?
Hôm nay thời gian qua nhanh quá, không có thời gian để
giảng, ngày mai tôi sẽ nói với quý vị, vì có rất
nhiều đồng tu chẳng hiểu Ngũ Nghịch, Thập
Ác là gì! Chúng sanh làm ác như vậy, lâm chung gặp người
khác khuyên dạy, kẻ ấy có thể tin, thật sự
sám hối, thật sự niệm Phật, cũng có thể
vãng sanh. Đúng là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải
giả! “Hoành xuất tam giới,
viên đăng tứ độ” (vượt tam giới
theo chiều ngang, lên trọn vẹn bốn cõi). Hôm nay
đã hết thời gian rồi, ngày mai chúng ta sẽ học
tập đoạn tiếp theo.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment