Thật sự niệm Phật là gì? Hết thảy
duyên đều buông xuống, trong mười hai thời, trong
tâm quả thật chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di
Đà Phật ra, hết thảy những thứ khác đều
buông xuống, kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn
mươi chín năm cũng đều buông xuống. Vì sao?
Từ một câu A Di Đà Phật, quý vị sẽ đắc
Niệm Phật tam-muội.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 6
Chủ giảng:
Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày
5 tháng 04 năm 2010
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh:
Đức Phong, Trịnh Lộc và Huệ Trang
TẬP 11
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin hãy ngồi xuống.
Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang thứ mười, hàng thứ năm, chúng ta xem từ
câu thứ hai: “Xưng Tán Tịnh
Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh”, bắt đầu
xem từ chỗ này. Chúng ta hãy đọc kinh văn.
“Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp
Thọ Kinh (tức A Di Đà kinh Đường
dịch bổn) vân” (Xưng Tán
Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (tức kinh
A Di Đà, bản dịch đời Đường)
đã nói). Trong kinh văn có một câu như thế này: “Ngã quán như thị lợi ích
an lạc đại sự nhân duyên, thuyết thành đế
ngữ” (ta thấy đại sự an lạc lợi
ích như thế, nói lời đúng thật). Trong câu nói này,
“ta” là Thích Ca Mâu Ni Phật [tự
xưng]. Chúng ta biết bộ kinh Phật Thuyết A
Di Đà Kinh giống như thường lệ, trong một
đời, đức Thế Tôn chỉ giảng một lần,
chẳng giảng lần thứ hai. Hiện thời, trong Đại
Tạng Kinh, kinh này có hai bản dịch, một là do Cưu
Ma La Thập đại sư phiên dịch, dịch theo ý, [tức
là] chẳng phải là trực dịch (dịch theo sát nguyên
văn từng chữ trong nguyên bản), mà hoàn toàn dịch
theo đại ý của kinh; [bản dịch của] Huyền
Trang đại sư là trực dịch, tức là căn cứ
theo văn tự của kinh điển bằng tiếng Phạn
để phiên dịch. Nói như vậy, Huyền Trang
đại sư dịch khá sát, trung thành với nguyên
văn, La Thập đại sư dịch theo ý nghĩa,
không chiếu theo văn tự. Trong cái nhìn của người
Trung Quốc, bản dịch của Cưu Ma La Thập
đại sư giống như văn chương do người
Trung Quốc viết, rất hợp với khẩu vị
của chúng ta, cho nên được lưu truyền rất
rộng; bản của Huyền Trang đại sư tuy là
trực dịch, giữ nguyên diện mạo của nguyên
văn, nhưng chúng ta không ưa thích lắm, nên bản này
chẳng được lưu thông, chỉ được
lưu giữ trong Đại Tạng Kinh.
Đức
Phật nói lời ấy, Ngài thấy “đại sự lợi ích an lạc như thế”,
tức là thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật
phổ độ chúng sanh trọn khắp pháp giới hư
không giới, chẳng giống các cõi Phật thông thường,
cõi của A Di Đà Phật dạy người ta thành Phật
trong một đời; vì thế, [kinh Di Đà và kinh Vô
Lượng Thọ] chẳng khác gì Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa là Nhất Thừa giáo. Cái gọi là Nhất
Thừa giáo đã được giảng rất rõ ràng
trong phần trước, giáo pháp ấy giảng về lý
luận và phương pháp thành Phật
trong một đời. Phật Thuyết A Di Đà Kinh cũng
dạy người ta thành Phật trong một đời,
đấy là ưu điểm, ở đây bảo là: “Lợi ích an lạc như thế”.
Ưu điểm là phù hợp khắp ba căn, gồm thâu
lợi căn lẫn hạ căn, kẻ hạ hạ
căn cũng có thể thành Phật trong một đời,
chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, kinh này
[được nói ra] vì cùng một đại sự nhân
duyên như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa.
Mục tiêu tu học của hết
thảy các kinh Đại Thừa là Bồ Tát, mục tiêu
tu học của kinh Tiểu Thừa là A La Hán. Điều
này giống như trong nhà trường trên thế gian hiện
thời họ mở trường Trung Học, khi [học
sinh] tốt nghiệp sẽ là tốt nghiệp Trung Học;
còn khi tốt nghiệp Đại Học thì là sinh viên Đại
Học, có thể đạt được học vị
Học Sĩ (Cử Nhân), khác hẳn! Mỗi trường
học khác nhau. Nhà trường của A Di Đà Phật rất
lạ lùng! Chúng tôi thường nghĩ đây là một ngôi
trường “trọn gói”[1], quý vị vào trường
ấy học, chỉ có lên lớp, không bị ở lại
lớp, mà cũng không bị đuổi xuống lớp
dưới, tuy thời gian dài hay ngắn khác nhau, nhưng chắc
chắn thành Phật trong một đời, Ngài bảo
đảm cho quý vị. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa giống như nghiên
cứu sở (graduate school), còn trường của A Di
Đà Phật là từ Tiểu Học cho đến nghiên cứu
sở, là một loại trường học như vậy
đó! Điều này giống như Liên Trì đại
sư đã viết trong Di Đà Sớ Sao: “Kim đản nhất tâm trì danh, tức đắc Bất
Thoái” (Nay chỉ nhất tâm trì danh, liền đắc Bất
Thoái). Bất Thoái là Vãng Sanh Kinh của Tịnh Tông. Từ
ngữ Vãng Sanh Kinh nhằm chỉ Tịnh Độ “ngũ kinh nhất luận”
trong hiện tại, những kinh luận này đều nhằm
dạy con người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, đều nói “viên
chứng ba món Bất Thoái”, đây là pháp khó tin. Đối
với ba thứ Bất Thoái, Tiểu Thừa chứng
đắc Vị Bất Thoái, Đại Thừa Bồ Tát
chứng đắc Hạnh Bất Thoái, đạt đến
Pháp Thân Bồ Tát mới chứng đắc Niệm Bất
Thoái. Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên mới
chứng đắc Niệm Bất Thoái, hoặc ba thứ
Bất Thoái, nhưng chưa đạt đến viên mãn, chưa
thể bảo là “viên”. Chứng
đắc viên mãn ba món Bất Thoái là ai? Từ Thất
Địa trở lên, quý vị thấy địa vị rất
cao, A Duy Việt Trí Bồ Tát đấy nhé!
Trong bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật, có một nguyện là: “Hễ ai
sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy
đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, viên chứng ba món Bất
Thoái”. Ngài hoàn toàn chẳng nói “ngoại trừ cõi Phàm Thánh
Đồng Cư”, chẳng nói! Ngài chẳng nói câu ấy
thì nói cách khác, hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh
Đồng Cư cũng thành A Duy Việt Trí Bồ Tát. Làm
sao có thể nói cho xuôi? Chúng tôi học đã nhiều năm
như thế, rốt cuộc hiểu rõ ràng, minh bạch:
Người ấy do được bổn nguyện gồm
bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật gia
trì, nên trí huệ và oai thần bằng Thất Địa Bồ
Tát, chẳng khác Thất Địa Bồ Tát; chẳng phải
do năng lực của chính người ấy, mà do A Di Đà
Phật gia hộ, được bốn mươi tám nguyện
gia hộ. Nếu nói đến chuyện chứng đắc
thì trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, khi
nào quý vị sẽ chứng đắc? Trong kinh thường
nói: “Hoa khai kiến Phật ngộ
Vô Sanh”, đó là quý vị thật sự chứng đắc.
Khi quý vị chưa ngộ Vô Sanh,
cũng có nghĩa là đang thuộc vào ba bậc chín phẩm
trong bốn cõi trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, quý vị vẫn chưa có năng lực nâng cao [cảnh
giới] lên, thật sự đạt tới cõi Thật
Báo. Khi quý vị tự mình thật sự chứng đắc
cõi Thật Báo, sẽ không cần A Di Đà Phật gia trì; nhưng
khi chưa chứng đắc cõi Thật Báo, hoàn toàn phải
nhờ A Di Đà Phật gia trì. Trí huệ, thần thông, năng
lực, và hưởng thụ giống như trong cõi Thật
Báo, hễ sanh về thế giới Cực Lạc sẽ
đạt được. Giống như đầu thai
luân hồi trong lục đạo, quý vị đầu thai
vào nhà đế vương, vừa sanh ra liền được
hưởng thụ sự phú quý của bậc đế
vương. Do vậy, chúng ta sanh về thế giới Cực
Lạc, liền hưởng thụ thần thông và đức
tướng của A Di Đà Phật, liền được
hưởng thụ ngay! Nếu hiểu rõ và nhận biết
điều này, chúng ta sẽ chẳng hoài nghi sự trang
nghiêm thù thắng khôn sánh như Vãng Sanh Kinh đã giảng,
đó là Phật lực gia trì. Đấy là nói về “chỉ nhất tâm trì danh, liền
đắc Bất Thoái”.
“Thử
nãi trực chỉ phàm phu tự tâm cứu cánh thành Phật”
(Đây là chỉ thẳng: Từ ngay tự tâm của phàm
phu mà rốt ráo thành Phật), ở chỗ này, trước
chữ “thành Phật” đã
thêm chữ “cứu cánh” (rốt
ráo), vì sao? A Duy Việt Trí Bồ Tát mới có thể thêm hai
chữ “rốt ráo”. Nếu chẳng
có hai chữ “rốt ráo”, mà
nói là “thành Phật” thì Sơ
Trụ trong Viên Giáo đã thành Phật. Thêm vào hai chữ “rốt ráo” thì khẳng định
là từ Thất Địa trở lên mới viên chứng
ba món Bất Thoái. Mấu chốt là hai chữ tiếp theo: “Nhược năng đế
tín” (nếu có thể tin chắc thật), hai chữ trọng
yếu là “đế tín”. “Đế” (諦) là thật, quý
vị thật sự tin, một mảy hoài nghi cũng chẳng
có thì mới gọi là “đế tín”. Thật sự
tin tưởng, quý vị sẽ thật sự làm; thật
sự tin, thật sự muốn vãng sanh, thật sự niệm
Phật. Thật sự niệm Phật là gì? Hết thảy
duyên đều buông xuống, trong mười hai thời, trong
tâm quả thật chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di
Đà Phật ra, hết thảy những thứ khác đều
buông xuống, kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn
mươi chín năm cũng đều buông xuống. Vì sao?
Từ một câu A Di Đà Phật, quý vị sẽ đắc
Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội là
nhất tâm bất loạn, từ Sự nhất tâm đạt
đến Lý nhất tâm. Đã đạt Lý nhất tâm bất
loạn, trong phần sau, chúng ta sẽ nói về Lý nhất
tâm, là đã kiến tánh, kiến tánh bèn thật sự thành
Phật. Đắc Lý nhất tâm bất loạn, vãng sanh thế
giới Cực Lạc, chẳng thuộc trong cõi Phàm Thánh
Đồng Cư, mà cũng không thuộc cõi Phương Tiện
Hữu Dư. Thưa quý vị, niệm đến Sự
nhất tâm bất loạn sẽ sanh vào cõi Phương Tiện
Hữu Dư, niệm đến Lý nhất tâm bất loạn
liền đạt đến cõi Thật Báo. Thật sự
có thể niệm đến [cõi ấy] ư? Đúng là có
thể niệm đến [cõi ấy], chúng ta hiểu đạo
lý này rất rõ ràng, vì lẽ gì? Người ấy đã
buông toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống, đạo lý ở chỗ này. Chúng ta
hãy suy nghĩ: Chúng ta chưa buông xuống, nhưng người
ấy thật sự buông xuống. Buông xuống sẽ kiến
tánh, kiến tánh là viên mãn, trí huệ viên mãn, đức hạnh
viên mãn, tướng hảo viên mãn, đắc đại
viên mãn. Viên mãn thì còn có chướng ngại hay chăng?
Không chỉ đối với hết thảy các kinh do Thích
Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm
không có chướng ngại, mà đối với vô lượng
vô biên kinh luận do mười phương hết thảy
chư Phật Như Lai đã nói, quý vị
chẳng bị chướng ngại chút nào. Vì sao? [Những
kinh luận ấy] đều do tự tánh lưu lộ,
quý vị đã kiến tánh. Trong sự giáo học của Phật
pháp, không có gì khác, chỉ là dạy quý vị hãy bỏ hết
vọng, trở về tự tánh. Trở về tự
tánh, quý vị sẽ chứng đắc Phật quả rốt
ráo, rốt ráo thành Phật.
“Hà
tu biến lịch tam thừa, cửu kinh đa kiếp”
(há cần phải trải khắp ba thừa, trải qua
nhiều kiếp lâu xa), không cần phải trải qua các
địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, tiến
lên từng bước một, không cần thiết! Trải
qua các địa vị trong tam thừa đúng là phải mất
nhiều kiếp lâu xa, không chỉ là ba đại
A-tăng-kỳ kiếp. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp
là nói theo kinh Hoa Nghiêm, từ phàm phu tu đến bậc
Sơ Trụ trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa trong Biệt
Giáo phải mất vô lượng kiếp! Sơ Trụ
trong Viên Giáo là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Học
từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta biết: Tập khí vô thỉ vô
minh chưa đoạn; nhưng vô minh đã thật sự
đoạn hết. Quả thật chẳng động
tâm, chẳng khởi niệm, nhưng tập khí khởi tâm
động niệm vẫn có; vì thế, nó chẳng trở
ngại sự. Muốn đoạn sạch tập khí này, phải
mất thời gian bao lâu? Cần tới ba A-tăng-kỳ
kiếp để đoạn tập khí. Không có thứ gì
khác có thể đoạn trừ tập khí; sau một thời
gian lâu dài, nó sẽ tự nhiên chẳng còn nữa! Đoạn
tập khí trong thế giới Cực Lạc cũng nhanh,
thời gian được rút ngắn trên một mức
độ lớn. Do vậy, các vị Pháp Thân Bồ Tát
trong thế giới Hoa Tạng theo Văn Thù, Phổ Hiền
đến thế giới Cực Lạc để làm gì? Để
rút ngắn thời gian đoạn tập khí, đạo lý
là như vậy đó.
“Bất
việt nhất niệm, đốn chứng Bồ Đề”
(chẳng ngoài một niệm, mau chóng chứng Bồ Đề).
Bồ Đề ở đây là Vô Thượng Bồ Đề,
là nhất niệm, là danh hiệu Di Đà gồm bốn chữ.
“Nam-mô” chẳng phải là danh
hiệu, A Di Đà Phật mới là danh
hiệu. Nam-mô có nghĩa là quy y, quy mạng, hay lễ kính. Do
vậy, lúc Liên Trì đại sư tại thế, trong bộ
Trúc Song Tùy Bút có một câu chuyện như thế này: Có
người thỉnh giáo lão nhân gia: “Lão nhân gia bình thường
niệm Phật như thế nào?” Ngài nói Ngài niệm bốn
chữ A Di Đà Phật. “Ngài dạy người khác thì
sao?” “Ta dạy người khác niệm sáu chữ Nam-mô A Di
Đà Phật”. Vì sao khác nhau? Liên Trì đại sư nói: “Trong
một đời này, ta nhất định muốn sanh về
Tịnh Độ, cho nên kiểu cách khách sáo nào cũng chẳng
cần, những lời lẽ khách sáo đều bỏ sạch”.
Kinh dạy chúng ta chấp trì danh hiệu, danh hiệu là bốn
chữ, Ngài bèn niệm bốn chữ. Vì sao dạy người
khác niệm sáu chữ? Người khác chưa chắc
đã có quyết tâm kiên định muốn sanh về Tịnh
Độ, cho nên thêm chữ Nam-mô, tức là quy y A Di Đà
Phật, quy mạng A Di Đà Phật, cung kính A Di Đà Phật,
không nhất định trong một đời này người
ấy đã có thể vãng sanh. Thêm vào chữ “cung kính”, đó là nói năng cung
kính. Chính mình thật sự muốn vãng sanh, chẳng cần
dùng đến lời lẽ cung kính, không cần thiết!
Những chữ khách sáo đều không cần! A Di Đà Phật
sẽ không trách quý vị, quý vị rất nghe lời! Thích
Ca Mâu Ni Phật dạy quý vị chấp trì danh hiệu,
danh hiệu là A Di Đà Phật, trong danh hiệu không có chữ
Nam-mô. Quý vị thấy lời này rất có ý nghĩa!
Ấn Quang đại sư cả
đời dạy người khác niệm sáu chữ, vì sao?
Ngài thấy chúng sanh đông đảo, nhưng chẳng mấy
ai thật sự muốn vãng sanh, nên [dạy họ] niệm
hồng danh sáu chữ nhằm kết pháp duyên với A Di
Đà Phật. Quý vị hiểu tổ sư dạy người
khác sử dụng tâm gì, quý vị sẽ hiểu rõ! Tín nguyện
kiên định, chẳng có mảy may hoài nghi, trong một
đời này ta quyết định phải vãng sanh, quý vị
thật sự buông xuống vạn duyên. Những trường
hợp như vậy nhiều lắm! Quý vị đọc
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện,
sẽ thấy những tấm gương như vậy hiện
tiền, thật sự cầu vãng sanh, biểu diễn cho
chúng ta xem. Mấy năm trước, ở Thâm Quyến, ông
Hoàng Trung Xương nghe kinh, thường nghe chúng tôi nói
như vậy, ông ta thật sự giác ngộ, đại
triệt đại ngộ! Sự đại triệt
đại ngộ của ông ta chẳng phải là minh tâm kiến
tánh, mà là ngộ “bất việt
nhất niệm, đốn chứng Bồ Đề”
(chẳng ngoài một niệm, mà mau chóng chứng Bồ
Đề), ông ta ngộ điều này. Buông xuống hết
thảy, mỗi ngày niệm một bộ kinh Vô Lượng
Thọ, tiếp đó hoàn toàn niệm Phật hiệu, ước
hẹn kỳ hạn cầu chứng đắc, ước
định thời gian là ba năm, xem thử có thể vãng
sanh thế giới Cực Lạc hay không? Niệm tới
hai năm mười tháng, biết trước lúc mất, ra
đi, chẳng sanh bệnh, còn thiếu hai tháng nữa mới
đủ ba năm, đến thế giới Cực Lạc
là đi làm Phật. Chúng tôi giảng kinh tại nơi
đây là Thị Chuyển và Khuyến Chuyển, cư
sĩ Hoàng Trung Xương làm Chứng Chuyển cho chúng tôi,
tam chuyển pháp luân đã toàn vẹn. Ông ta làm chứng cho
chúng tôi. Do điều này có thể biết: Triệt ngộ
là thật sự buông xuống. Vì sao chúng ta chưa thể
buông xuống? Giác chưa đủ trình độ. Thật
sự giác ngộ sẽ thật sự triệt để
buông xuống, như trong kinh Đại Thừa đã nói: “Pháp thượng ưng xả,
hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp). “Pháp” [trong câu này] là Phật
pháp. Phật pháp cũng không cần, nắm vững một
câu A Di Đà Phật [là đủ rồi]. “Đốn chứng Bồ Đề, khởi phi
đại sự” (Mau chóng chứng Bồ Đề, há
chẳng phải là đại sự?).
Đi làm Phật! Sau thời gian hai năm mười
tháng bèn đi làm Phật.
“Khả
kiến Tịnh Tông chánh thị trực chỉ đốn
chứng chi pháp” (đủ thấy Tịnh Tông chính là
pháp chỉ thẳng, đốn nhập), đây là một đại
sự nhân duyên, “Dĩ niệm
Phật tâm, nhập Phật tri kiến. Tịnh Tông chi
hưng khởi, chánh do thử đại sự nhân duyên dã”
(dùng cái tâm niệm Phật để nhập tri kiến của
Phật. Tịnh Tông hưng khởi chính vì đại sự
nhân duyên này). “Hạ” là tiếp
theo đó, “tường minh bổn
kinh hưng khởi chi nhân duyên” (giảng rõ nhân duyên
hưng khởi của bản kinh này). Trong phần trên là
nói về nhân duyên chư Phật Như Lai xuất hiện
trên thế gian này. Căn tánh của chúng sanh khác nhau, nhưng
tổng mục tiêu, tổng phương hướng của
chư Phật là nhất trí, ngàn kinh muôn luận tuy khác
đường nhưng về cùng một chỗ, cuối
cùng là trở về Tịnh Độ. Do vậy, trong Phật
pháp, chẳng cần biết quý vị tu hành theo tông nào, phái
nào, hay pháp môn nào, có ba khoa mục chung bắt buộc phải
tu:
1)
Thứ nhất là giới luật. Giới luật là khoa mục
chung, là cơ sở. Quý vị phải vun bồi cội rễ
vững vàng, giống như xây nhà, bất luận quý vị
xây cao đến đâu, bất luận xây theo kiểu nào,
trước hết, phải đắp nền. Giới luật
là nền móng, không có giới luật thì điều gì
cũng chẳng thể thành tựu!
2)
Thứ hai là lý luận, đây là khoa mục chung. Đối
với Pháp Tướng Duy Thức, Hoa Nghiêm là một bộ
kinh điển trọng yếu trong Pháp Tướng Duy Thức.
Pháp Tướng Duy Thức có sáu kinh, mười một bộ
luận; trong sáu kinh có kinh Hoa Nghiêm giảng về căn
nguyên của vũ trụ. Trong Hoàn Nguyên Quán đã giảng
rất hay: “Hiển nhất thể,
khởi nhị dụng” (hiển lộ một thể,
khởi lên hai tác dụng). Nhị Dụng, bất luận
là y báo hay chánh báo, nhỏ như vi trần, lớn như hư
không pháp giới, đều có ba thứ trọn khắp chẳng
thể nghĩ bàn. Thứ nhất là “trọn khắp pháp giới”,
thứ hai là “sanh ra vô tận”, thứ ba là “chứa đựng
không và có”. Lý này chung khắp, mỗi một pháp môn trong tám vạn
bốn ngàn pháp môn cũng chẳng thể vượt ra
ngoài, đó là lý luận để quý vị dựa vào.
3)
Thứ ba là quy túc, [tức là] quý vị tu hành, kết quả
cuối cùng đều là vãng sanh thế giới Cực Lạc.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều quy vào thế
giới Hoa Tạng, đến cuối cùng đều quy vào
thế giới Hoa Tạng. Sau khi đã đến thế
giới Hoa Tạng, Văn Thù và Phổ Hiền sẽ dẫn
quý vị cùng tới thế giới Cực Lạc. Do vậy,
thế giới Cực Lạc là nơi quy túc chung.
Đó
là ba khoa mục chung. Đối với đoạn này, chúng
ta học tập tới đây.
Lại xem đoạn kế tiếp:
“Xứng tánh cực đàm,
Như Lai chánh thuyết”. Ở đây, chia thành mấy
đoạn nhỏ; đây là đoạn thứ nhất,
dùng Giáp, Ất, Bính, Đinh[2] để đánh số
theo thứ tự. “Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa quân viên đốn xứng tánh
chi giáo, đản kỳ quy thú khước tại bổn
kinh” (Hoa Nghiêm và
Pháp Hoa đều là giáo pháp Viên Ðốn xứng tánh, nhưng
chỗ quy thú của chúng lại thuộc trong kinh này). Hai bộ kinh này từ
xưa tới nay, vào thời đại Tùy - Đường
đã được các vị tổ sư đại
đức nhất trí công nhận, khẳng định là
kinh Nhất Thừa. Trong giáo pháp suốt một đời
của đức Thế Tôn, có tổng cộng ba bộ
kinh Nhất Thừa, ngoài Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, còn có một bộ
nữa là Phạm Võng. Kinh Phạm Võng ngoại trừ một
phẩm Phạm Võng Bồ Tát Giới được dịch
sang tiếng Hán, những phẩm khác chưa truyền tới
Trung Quốc. Bộ kinh này cũng là một kinh lớn, phân
lượng rất lớn, nhưng chỉ truyền sang
Trung Hoa một phẩm, tức là Bồ Tát Tâm Địa Giới
Phẩm. Những kinh này đều là Viên Giáo viên mãn, Đốn
Giáo thành tựu nhanh chóng, thành tựu trong một đời,
xứng tánh, trong ấy không có phương tiện quyền
xảo, mà là thẳng chóng, thỏa đáng. Chỗ quy thú của
chúng là ở trong kinh này (kinh Vô Lượng Thọ). Kinh Hoa
Nghiêm đến cuối cùng, Thiện Tài đồng tử
tham học năm mươi ba lần, chúng ta thấy, mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát dẫn về Cực Lạc, Hoa Nghiêm quy vào Vô Lượng
Thọ, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ trong Hoa Nghiêm hải hội quy vào Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Đấy là thật,
chẳng giả tí nào, trong kinh đã nói rõ ràng.
“Ngẫu
Ích đại sư tán bổn kinh vân: Tuyệt đãi viên
dung, bất khả tư nghị” (Ngẫu Ích đại
sư khen ngợi kinh này như sau: “Dứt
bặt đối đãi một cách viên dung chẳng thể
nghĩ bàn”). Ngẫu Ích đại sư tán thán kinh
Vô Lượng Thọ viên dung đến tột bực, “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy”,
“áo tạng, bí tủy” (kho
sâu thẳm, cốt lõi kín nhiệm) là những từ ngữ
hình dung sự cao thâm, áo diệu. Đây là nói với ai? Nói với
những người từ Quyền Giáo Bồ Tát trở
xuống, họ không hiểu, chưa đại triệt
đại ngộ, sẽ chẳng thể nhập cảnh
giới này. Cảnh giới Hoa Nghiêm, cảnh giới Pháp
Hoa phải là người triệt ngộ, minh tâm kiến
tánh mới có thể lãnh ngộ; kẻ chưa kiến tánh còn
cách một tầng! Tinh tủy sâu kín của Pháp Hoa (Pháp Hoa
bí tủy) là nói về Lý trong kinh ấy. “Nhất thiết chư Phật chi tâm yếu, Bồ
Tát vạn hạnh chi tư nam, giai bất xuất ư thử
hỹ” (tâm yếu của hết thảy
chư Phật, kim chỉ nam cho muôn hạnh Bồ Tát đều
chẳng ra khỏi kinh này), chữ “thử” chỉ kinh Vô Lượng
Thọ. Bồ Tát vạn hạnh là nguyên tắc chỉ
đạo sự tu hành tối cao của Bồ Tát, [nguyên tắc
ấy] ở trong kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng
Thọ trực tiếp dạy mọi người niệm
Phật sanh về Tịnh Độ, trực tiếp dẫn
dắt người vãng sanh Tịnh Độ trong một thời
gian rất ngắn sẽ đạt tới mục tiêu triệt
ngộ tâm tánh. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
đức Phật đã nói: Một người niệm Phật
sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ
hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tu
trong thế giới Cực Lạc đến khi minh tâm kiến
tánh, tu đến mức khế nhập cõi Thật Báo Trang
Nghiêm, sẽ cần thời gian bao lâu? Đức Thế
Tôn bảo là mười hai kiếp. Chúng ta thấy mười
hai kiếp rất dài, nhưng tại Tây Phương Cực
Lạc thế giới, mười hai kiếp cũng rất
ngắn, chẳng dài! Tu hành trong thế giới này, muốn
tu chứng đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, quý vị thấy kinh thường nói phải mất thời
gian bao lâu? Phải mất vô lượng kiếp, chẳng
phải mười hai kiếp, mà là vô lượng kiếp!
Tu hành trong các cõi Phật khác cần tới vô lượng
kiếp, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
là mười hai kiếp, quý vị thấy thời gian
đã rút ngắn bao nhiêu!
Hơn nữa, vừa đến
nơi ấy, trí huệ, thần thông, và đạo lực
đều giống như Thất Địa Bồ Tát. Lời
này có nghĩa là gì? Ý nghĩa rất sâu, có nghĩa là nói quý vị
vừa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
sẽ có năng lực giống như Pháp Thân Bồ Tát,
ngàn xứ khẩn cầu, bèn ứng hiện trong ngàn xứ.
Chúng sanh nơi nào có cảm, quý vị bèn có thể tới
đó giáo hóa họ, nên dùng thân gì để độ
được, quý vị liền hiện thân ấy, giống
như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ
Tát, có đại bản lãnh và thần thông to dường ấy!
Quý vị phải hiểu: Những điều đó chẳng
phải do chính quý vị tu được, mà do bổn nguyện
và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, khiến cho
quý vị khởi ra tác dụng ấy, chẳng thể
nghĩ bàn! Đây chẳng phải là nói đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chờ khi ta tu
thành tựu rồi mới có thể độ chúng sanh, quý
vị cứ tới đó là [sẽ độ chúng sanh] được.
Trong thế giới của thập phương chư Phật
không hề có [chuyện này]. “Thị
cố bổn kinh xưng vi xứng tánh chi cực đàm dã”
(Do vậy, kinh này
được xưng tụng là lời bàn luận xứng
tánh đến mức cùng cực), đây cũng
là nói từ trong tự tánh của chư Phật Như Lai
và A Di Đà Phật viên mãn lưu lộ. Giảng đến
chỗ cùng cực, “cực”
(極) là viên mãn.
Ở đây, cụ Hoàng đã trích
dẫn rất nhiều. “Hựu
Nhật”, “Nhật” là Nhật
Bản. Cao tăng Đạo Ẩn trong tác phẩm Vô
Lượng Thọ Kinh Chân Giải, trong Vạn Tục Tạng
có cuốn này, chúng ta có thể đọc từ Vạn Tục
Tạng; trong đó có một đoạn như sau: “Ngũ Trược chi thế, tạo
ác chi thời, thánh đạo nhất chủng kim thời
nan tu, kỳ nạn phi nhất” (Hiện tại nay là
đời Ngũ Trược, lúc tạo ác; cho nên khó tu một
thứ thánh đạo vì sẽ gặp nhiều chướng
nạn). Quý vị thấy trong hiện thời, đặc
biệt là trong xã hội hiện tiền, đúng là Ngũ Trược
đã ô nhiễm đến mức cùng cực. Ngay cả bầu
trời trong xanh cũng chẳng nhìn thấy nữa! Chúng ta
thấy bầu trời khói đen mù mịt, ô nhiễm
đến tột cùng! Vì sao? Chúng sanh tạo ác. Hãy suy
nghĩ xem có điều nào trong Thập Ác chẳng làm? Sát
sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói đôi chiều,
ác khẩu, nói thêu dệt, tham, sân, si, chúng ta hãy lắng lòng
suy nghĩ, quan sát cẩn thận một phen, hiện thời
có người nào sống trên địa cầu chẳng tạo?
Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác thảy
đều tương ứng [với Thập Ác], ai nấy
đều gây tạo. Quay trở lại suy nghĩ, ta có tạo
hay không? Hữu ý hay vô ý cũng đều tạo, biết
làm sao được nữa? Có cách nào chẳng tạo? Thưa
quý vị, niệm Phật sẽ chẳng tạo nữa! Ta niệm Phật một giờ, trong một
giờ ấy sẽ không tạo; niệm Phật hai giờ,
trong hai giờ ấy sẽ chẳng tạo. Chẳng niệm
Phật, chắc chắn sẽ hữu ý hay vô ý tạo, tập
khí quá nặng mà! Do vậy, chẳng đọc kinh, chẳng
niệm Phật thì làm sao được nữa? Khi đọc
có thể chẳng tạo, phải biết rằng: Thời
thời khắc khắc phải phản tỉnh, thời
thời khắc khắc phải kiểm điểm.
“Thánh
đạo nhất chủng kim thời nan tu” (hiện
thời khó tu một thứ thánh đạo),
thánh đạo là Phật, Bồ Tát đạo. Tám vạn
bốn ngàn pháp môn, tu tập bất luận pháp môn nào trong
hiện tại đều khó lắm, thật là khó! Trì giới
có thể không tạo nghiệp hay chăng? Thời thượng
cổ thì được! Đức Thế Tôn đã nói: “Thời kỳ Chánh Pháp, giới
luật thành tựu”. Người trì giới tâm địa
thanh tịnh sẽ chẳng tạo nghiệp. Nay chúng ta hãy
suy nghĩ: Chúng ta trì giới là tạo hay chẳng tạo
nghiệp? Thưa quý vị, đại khái là chẳng tạo
ác nghiệp, nhưng tạo thiện nghiệp, vẫn là tạo
nghiệp! Nói cách khác, tâm quý vị vẫn chưa thanh tịnh,
không thoát khỏi lục đạo luân hồi; bất quá
quý vị chẳng đọa tam ác đạo, đời
sau sẽ hưởng quả báo trong cõi nhân thiên. Đấy
chẳng phải là ý Phật! Ý Phật là dạy chúng ta
không chỉ vượt thoát lục đạo, mà còn vượt
thoát mười pháp giới; đấy là niềm kỳ vọng
của đức Phật đối với chúng ta. Vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là vượt
thoát mười pháp giới, hạ hạ phẩm trong cõi
Phàm Thánh Đồng Cư cũng đã vượt thoát mười
pháp giới. Đấy là niềm kỳ vọng của chư
Phật đối với chúng ta, chẳng thể không biết.
“Kỳ nạn phi nhất”
(chẳng phải chỉ là một nạn), câu này nói rất
hay, đặc biệt là trong thời đại chúng ta,
chúng ta mới hiểu sâu sắc, chướng nạn quá
nhiều!
“Đặc
thử nhất môn, chí viên cực đốn, nhi thả do kỳ
giản dị trực tiệp” (chỉ riêng pháp môn này chí
viên, cực đốn, lại còn đơn giản, dễ
dàng, thẳng chóng). Pháp môn này tốt đẹp;
trong thời đại như vậy, nếu chưa thể
khiến cho cả thiên hạ đều thiện, phải làm
sao cho [ít nhất] bản thân ta là thiện, đóng cửa
niệm Phật tại nhà. Trước đây, tôi từng
dạy người ta, người bình thường mỗi
ngày kiếm tiền không nhiều lắm. Trong quá khứ,
tôi giảng kinh tại Đài Bắc, người thường
xuyên đến nghe kinh, gần như chẳng thiếu buổi
nào, có tới mười mấy người lái taxi. Tôi từng
nói đùa với bọn họ, nhưng cũng là lời
chân thật, tôi nói: Các ông mỗi ngày kiếm tiền, kiếm
một ngày, ăn ba ngày hay năm ngày chẳng có vấn
đề gì, có thể nghỉ ngơi năm ba ngày. Một
ngày kiếm tiền có thể sống đủ năm ba ngày.
Tôi nói: Quý vị hãy gắng kiếm tiền một năm, có
thể nghỉ ba năm, dùng thời gian ba năm để
gắng công niệm Phật. Vì sao? Vấn đề ăn
uống đã được giải quyết rồi! Ba
năm thành công, sang thế giới Cực Lạc; nếu
không thành công, quay về lái taxi tiếp, lái một năm, lại
có thể nghỉ ngơi ba năm. “Đặc thử nhất môn, chí viên, cực đốn”:
Ăn, mặc, đi, ở, càng đơn giản càng hay! Phật,
Bồ Tát chẳng phải cầu cạnh ai trong bất cứ
phương diện nào! Chẳng có! Trong Tăng đoàn nguyên
thủy, Thích Ca Mâu Ni Phật chọn cách sống là khất
thực, ăn Ngọ một bữa, ngủ dưới gốc
cây. Người Trung Quốc thường nói: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự
cao” (người đạt đến mức chẳng
cầu mong gì, phẩm hạnh tự cao trỗi). Ngài thật
sự vô cầu. Chẳng cầu cạnh thế gian, nói toàn
những câu chân thật, chẳng lừa gạt người
khác. Đúng là đơn giản, dễ dàng, thẳng chóng!
“Tắc
xuất thế chi chánh thuyết thiên tại tư kinh, nhất
đại sở thuyết quy thử kinh, như chúng thủy
quy ư đại hải” (Chánh thuyết xuất thế
riêng thuộc trong kinh này. Cả một đời thuyết
pháp quy về kinh này, như các dòng nước xuôi về bể
cả), câu sau là tỷ dụ. Chánh
thuyết xuất thế thuộc riêng trong kinh này,
tôi nghĩ câu nói của Thiện Đạo đại
sư, chắc là đã căn cứ trên câu kinh văn này
để nói. Câu danh ngôn của Thiện Đạo đại
sư là: “Chư Phật sở
dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn
nguyện hải” (sở dĩ chư Phật xuất thế
chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật
Di Đà). Mười phương ba đời
hết thảy chư Phật, dùng thân Phật xuất hiện
trong thế gian, nên dùng thân Phật để độ, bèn
dùng thân Phật giáo hóa. Hết thảy chư Phật thị
hiện thân Phật đến thế gian này để làm
gì? Chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật
Di Đà! Có nghĩa là gì? Nói kinh Vô Lượng Thọ. “Nhất đại sở thuyết
quy thử kinh” (Cả một đời thuyết pháp quy về kinh
này), trong một đời, suốt bốn
mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói hết
thảy các kinh nhằm nói lên điều gì? Nói kinh Vô Lượng
Thọ, ngàn kinh muôn luận chỗ nào cũng chỉ về.
Có người chẳng ưa thích pháp môn này, không hợp khẩu
vị! Đức Phật bèn tùy thuận khẩu vị của
người ấy mà giảng cho kẻ ấy nghe [pháp môn
thích hợp], giảng đến cuối lại quẹo trở
về, quay về Vô Lượng Thọ, đấy là phương
tiện thiện xảo của đức Phật. Thật
vậy, lời Thiện Đạo đại sư nói chẳng
sai, “chỉ để nói biển
bổn nguyện của Phật Di Đà”, kinh Hoa Nghiêm nói
nhiều ngần ấy, đến cuối cùng mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc.
Tỷ dụ [trong đoạn này] dễ hiểu, “như chúng thủy” (như
các dòng nước), sông ngòi, Trường Giang và Hoàng Hà cuối
cùng đều đổ vào biển cả.
“Do
thử ngôn chi, bách vạn A-tăng-kỳ nhân duyên dĩ khởi
Hoa Nghiêm chi điển, nhất đại sự nhân duyên
dĩ thành Pháp Hoa chi giáo, diệc duy vi thử pháp chi do tự”
(Do vậy, nói: Trăm vạn
A-tăng-kỳ nhân duyên phát khởi kinh Hoa Nghiêm, một
đại sự nhân
duyên để thành kinh Pháp Hoa cũng chỉ là nguồn gốc
của pháp này), nói rất hay! Vào đời
Đường, các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc,
Việt Nam đều phái nhiều tăng nhân (người
xuất gia) sang Trung Quốc du học. Khi ấy, Thiên Thai Trí
Giả đại sư và Thiện Đạo đại
sư của Tịnh Tông chúng ta đều là những bậc
thầy nổi tiếng. Đối với những nước
nhỏ ấy, rất nhiều người sau khi trở về
nước đã trở thành tổ sư đại đức,
đều là học trò của Thiện Đạo đại
sư hay Trí Giả đại sư. Nay chúng ta sang Nhật
Bản, gần như trong mỗi ngôi chùa, quý vị đến
viếng Tổ Đường, đều thấy họ tạc
tượng thờ Tổ Sư là ngài Thiện Đạo
hay Thiên Thai đại sư, ở Trung Quốc không có. Họ
còn vẽ hình các Ngài, treo trên xà nhà. Quý vị ngẩng đầu
nhìn sẽ thấy tượng vẽ hay tượng đắp
[của các Ngài]. Họ vô cùng tôn trọng tổ sư, đặc
biệt là Thiện Đạo đại sư đã truyền
dạy Tịnh Độ Tông. Chùa miếu Nhật Bản dùng
[tên hiệu của] Thiện Đạo đại sư để
đặt tên chùa, gần như đến nơi nào quý vị
cũng đều thấy Thiện Đạo Tự. Quý vị
thấy [tên chùa] là Thiện Đạo Tự, chắc chắn
là đạo tràng tu Tịnh Độ. Đối với
chuyện này, trong bài tựa của lão cư sĩ Mai Quang Hy,
chúng ta đọc thấy: Những vị đại đức
Tăng thời Tùy - Đường đã rất nghiêm túc
suy tìm trong giáo pháp cả một đời đức Thích
Ca Mâu Ni Phật: Trong một đời Ngài, hết thảy
các kinh do đức Phật đã nói trong bốn
mươi chín năm, bộ kinh nào trọng yếu nhất,
có thể đại diện cho hết thảy các kinh giáo
đã nói trong bốn mươi chín năm? Mọi người
cùng suy cử kinh Hoa Nghiêm, xưng tụng kinh Hoa Nghiêm là
căn bản pháp luân, hết thảy các kinh giáo khác là quyến
thuộc của Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là một cái cây to, nó là
căn bản, những kinh khác là cành lá trên cây ấy; nhưng
Hoa Nghiêm đến cuối cùng quy vào Tịnh Độ. Do
vậy, kinh Vô Lượng Thọ biến thành căn bản
của căn bản, cuối cùng, kinh ấy (Hoa Nghiêm) quy vào kinh này (Vô Lượng Thọ), căn bản
của căn bản. Vì thế, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, những
giáo pháp Đại Thừa đều biến thành gì? Biến
thành pháp dẫn khởi của kinh Vô Lượng Thọ. Đối
với cách nói này, tôi bội phục năm vóc sát đất,
vì sao? Vì sao tôi tin tưởng Tịnh Độ? Do kinh Hoa
Nghiêm mà tin tưởng, từ kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm mà
tin tưởng.
Thầy tôi khuyên tôi nên tin tưởng,
tôi bề ngoài vâng lời, nhưng trong lòng chẳng phục.
Đương nhiên tôi rất tôn kính thầy, nhưng vẫn
ngờ
vực Tịnh Tông. Lúc ấy, tôi có cách nghĩ sai lầm rất
lớn, sự hiểu lầm này rất nhiều người
vướng phải, ngỡ Tịnh Độ là pháp
phương tiện do Thích Ca Mâu Ni Phật dùng để tiếp
dẫn những bà già thiếu hiểu biết, chẳng biết
pháp môn này rốt ráo là như thế nào, không hiểu! Tôi
đã kể với quý vị, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm được
phân nửa, [khi đó là] lần giảng thứ nhất, [giảng]
lần này là lần thứ hai. Giảng lần đầu
tiên cũng giảng không ít năm, mười bảy
năm đã giảng được phân nửa. Có một hôm,
bỗng nhiên nghĩ: “Rốt cuộc Văn Thù, Phổ Hiền
học những gì? Thiện Tài đồng tử là môn sinh
đắc ý của Văn Thù Bồ Tát, là pháp tử của
Văn Thù Bồ Tát, Ngài tu gì vậy?” Lật đến phần
sau của Tứ Thập Hoa Nghiêm, giở đến quyển
thứ ba mươi chín, thấy Văn Thù và Phổ Hiền
đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, điều
này khiến tôi bị rúng động rất lớn. Văn
Thù là thầy của bảy vị Phật, Phổ Hiền
được tôn xưng là Nguyện Vương, [các Ngài] thật
sự tu [Tịnh Độ]! Trong các vị Bồ Tát, hạnh
môn triệt để nhất là Phổ Hiền, Ngài đại
diện cho hạnh môn. Tôi nẩy sanh lòng tin đối với
Tịnh Độ là nhờ Hoa Nghiêm. Ở đây, cụ
Hoàng nói: “Hoa Nghiêm, Pháp Hoa lưỡng
kinh chỉ thị bổn kinh chi đạo dẫn, bổn
kinh giả chánh thị nhất Đại Tạng giáo chi chỉ
quy” (Cả hai
kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa chỉ là pháp dẫn đường
cho kinh này. Kinh này đúng là chỗ chỉ quy của cả
Ðại Tạng giáo), tức là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa nhằm
dẫn khởi pháp này, pháp này là Vô Lượng Thọ kinh.
Quả thật là tôi đã được [kinh Hoa Nghiêm]
hướng dẫn, nên mới thật sự phát tâm học
tập [pháp môn Tịnh Độ]. Chúng ta thấy một
câu nói của cư sĩ Bành Tế Thanh, trong sách này cũng
được lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trích dẫn
rất nhiều; ông Bành nói kinh Vô Lượng Thọ là trung
bổn Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá dài, tôi giảng lần đầu
tiên, giảng được phân nửa, sau khi liễu giải
vấn đề bèn buông kinh Hoa Nghiêm xuống, chẳng giảng
[Hoa Nghiêm] nữa, mà giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi
giảng mười lần, trước sau tổng cộng
giảng từng lần một thành mười lượt,
lần này là lần thứ mười một. Kinh này là
trung bổn Hoa Nghiêm, chẳng khác gì Hoa Nghiêm.
“Hoa
Nghiêm kinh mạt, Phổ Hiền đại sĩ thập
đại nguyện vương đạo quy Cực Lạc,
thị kỳ minh chứng” (cuối kinh Hoa Nghiêm, mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền
đại sĩ dẫn về Cực Lạc là một chứng
cớ rõ ràng), chẳng giả tí nào! “Thánh giáo như chiên đàn, phiến phiến giai
hương. Pháp pháp viên đốn, bổn vô cao hạ”
(thánh giáo như
chiên đàn, miếng nào cũng thơm. Pháp nào cũng viên
đốn, vốn chẳng cao thấp), là như
kinh Kim Cang đã nói: “Pháp môn bình
đẳng, chẳng có cao thấp”, đúng vậy, chẳng
giả tí nào! Pháp không có cao thấp, nhưng người có
cao thấp, do căn tánh của mỗi người khác nhau.
Tiếp theo là: “Duy dĩ chúng
sanh cấu trọng chướng thâm, tâm thô, trí liệt”
(chỉ vì chúng sanh
cấu nặng, chướng sâu, tâm thô, trí hèn), đó
là có cao thấp. Vì vậy, tổ sư đại đức
phán giáo, tuyệt đối chẳng phân chia theo nội dung
kinh, mà phân chia theo căn tánh của con người, căn
tánh nào sẽ thích hợp học tập kinh điển nào!
Nói thật ra, kinh đâu có Đại Thừa hay Tiểu Thừa,
đều là bình đẳng. Do vậy, cổ đức
Trung Quốc đã nói: “Viên nhân
thuyết giáo, vô giáo bất viên” (người viên mãn bàn về
giáo pháp, giáo pháp nào cũng là viên mãn), câu này hay lắm! “Viên nhân” là người khai ngộ,
người kiến tánh, dù là giáo pháp Tiểu Thừa giáo
cũng nói thành cảnh giới Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là tiểu
bổn, mọi người thường niệm, cũng chẳng
cảm thấy hy hữu, lạ lùng chi hết, nhưng bộ
Sớ Sao của Liên Trì đại sư đã nâng kinh ấy
lên cảnh giới Hoa Nghiêm. Quý vị đọc Sớ Sao,
chính là như cổ đức đã nói “viên nhân thuyết giáo, vô giáo bất viên”. Liên Trì
đại sư dùng “thập môn khai khải” và giáo nghĩa
kinh Hoa Nghiêm để giảng giải kinh A Di Đà, đề
cao địa vị Tịnh Độ Tông. Vào thời ấy,
người ta khinh thường Tịnh Độ, chẳng
muốn học pháp môn này, mà thích học Giáo, hay học Thiền.
Liên Trì đại sư thấy rất rõ ràng: Quý vị học
Giáo chẳng khai ngộ, học Thiền chẳng đắc
Thiền Định. Nói cách khác, quý vị đã phí uổng
tinh lực và thời gian! Do tâm đại từ bi nên Ngài khuyên
quý vị niệm Phật. Quý vị coi thường Tịnh
Tông, nên Ngài dùng kinh Hoa Nghiêm để giải thích. Sau khi
nghe, nhận thấy [cảnh giới trong kinh Di Đà] chẳng
khác cảnh giới Hoa Nghiêm, quý vị mới có thể phát
khởi tín tâm, mới có thể quay đầu. Lòng từ
bi vô tận!
Kế tiếp, Ngẫu Ích đại
sư viết Yếu Giải. Yếu Giải không dài, nhưng
đúng là danh phù hợp thật, lời chú giải của
Ngài đúng là đơn giản, nhưng trọng yếu. Lão
pháp sư Ấn Quang tán thán: “Dù
A Di Đà Phật tái lai, tự viết chú giải kinh Di
Đà, cũng chẳng thể hay hơn được!”
Tán thán đến tột bậc! Xưa kia, tôi ở Tân Gia
Ba, pháp sư Diễn Bồi là bạn già, có lần Sư mời
tôi dùng cơm, có nhắc tới vấn đề này, hỏi
tôi: “Lời tán thán ấy của Ấn Quang đại sư
có phải là hơi quá lố một chút hay không?” Sư hỏi
tôi như vậy. Tôi thưa: “Chẳng quá lố tí nào! Câu
nào cũng là lời thật!” Hơn hai mươi năm
trước, gần như ba mươi năm, tôi ở Mỹ,
có một cư sĩ hỏi tôi, ông ta cũng hết sức
hiếu học. Ông ta nói: “Pháp sư Tịnh Không! Nếu chỉ
cho phép thầy chọn lựa một bộ trong Đại
Tạng Kinh, thầy sẽ chọn bộ nào?” Tôi chẳng
do dự mảy may, bảo ông ta: “Tôi chọn lựa Di
Đà Kinh Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư”. Quá hay! Tôi tán thành câu nói Ấn Quang đại sư
cả hai tay. Tuy văn tự không nhiều lắm, nhưng
có nhiều ý tưởng trong ấy từ trước
đến nay các vị tổ sư đại đức
chưa hề nói đến, mà Ngài có thể nói ra, nói rõ ràng
dường ấy, nói thấu triệt ngần ấy, quả
thật hết sức khó có! Trong bản chú giải của
cụ Hoàng Niệm Tổ đã trích dẫn [sách Yếu Giải]
rất nhiều, chúng ta có thể đọc thấy điều
này.
Tiếp đó là nêu tỷ dụ:
“Cơ ngộ vương thiện,
nhi bất năng xan” (đói gặp cỗ vua mà chẳng dám ăn),
nói lên điều gì? Đây là nói chúng sanh thiếu phước.
Không chỉ riêng đối với Thích Ca Như Lai, đây
là kinh bậc nhất và pháp môn bậc nhất để hết
thảy chư Phật ứng hóa trong mười pháp giới,
ứng hóa trong lục đạo, phổ độ chúng
sanh, nhưng kẻ ấy chẳng tin, chẳng tiếp nhận,
nghe không hiểu, đúng là nghe chẳng hiểu, chẳng giả!
Tôi hiểu rất rõ đạo lý này, vì sao kẻ ấy nghe không hiểu? Đối với pháp môn
này, kẻ ấy hoài nghi, đó là chướng ngại. Kẻ
ấy ngạo mạn, xem thường bộ kinh nhỏ này,
không thèm quan tâm tới. Thiếu phước báo mà! Đưa
cho hắn kinh bậc nhất của chư Phật Như
Lai, hắn chưa thể tiếp nhận. Đúng là tám chữ
[trong lời nhận định của cụ Hoàng] đã
nói rất hay: “Cấu trọng,
chướng thâm, tâm thô, trí liệt” (cấu nặng,
chướng sâu, tâm thô, trí kém), đúng là giống như gặp
được thức ăn của quốc vương mà
chẳng dám xơi!
“Duy
bổn kinh trì danh nhất pháp, nãi dị hành đạo, nhân
nhân năng tu” (Chỉ
một pháp Trì Danh trong kinh này mới là đạo dễ
hành, ai cũng có thể tu được). Nói đến
kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ và Tiểu
Bổn Di Đà Kinh tương đồng, đề
xướng trì danh, không như Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh, kinh ấy đề xướng tu Quán, nên còn gọi
là Thập Lục Quán Kinh. Trong mười sáu phép Quán, phép cuối
cùng, tức phép Quán thứ mười sáu, là trì danh. Trì danh được
đặt sau cùng, pháp sau cùng là pháp quan trọng nhất! Quý
vị xem biểu diễn văn nghệ hay diễn tuồng,
màn hay nhất chắc chắn là “áp trục hý” tức màn diễn xuất cuối
cùng. Phật pháp cũng là như vậy, thứ tốt nhất
đặt ở cuối cùng. Quý vị xem phần Hai
Mươi Lăm Pháp Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm, [hai
mươi lăm môn Viên Thông] được xếp theo thứ
tự lục căn, lục trần, lục thức, thất
đại, xếp theo thứ tự ấy. Theo thứ tự
thuận, pháp Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm phải
thuộc vị trí thứ hai, kết quả là quý vị thấy
các pháp ấy chẳng được xếp theo thứ tự
thuận, pháp của Quán Thế Âm Bồ Tát được
đặt ở cuối cùng, chứng tỏ điều gì?
Pháp môn ấy là pháp môn đặc biệt, chẳng phải
là pháp môn thông thường. Trên thực tế, đây là hai pháp
môn đặc biệt, nhưng rất nhiều người
hiểu lầm, chỉ nói tới Nhĩ Căn Viên Thông, phớt
lờ pháp Niệm Phật Viên Thông của Đại Thế
Chí Bồ Tát. Do Quán Thế Âm Bồ Tát thay đổi vị
trí, từ thứ hai chuyển đến cuối cùng, hết
sức rõ rệt, quý vị vừa nhìn liền biết ngay,
còn Đại Thế Chí Bồ Tát [nếu theo thứ tự
thuận] được xếp vào vị trí thứ hai
mươi ba, Di Lặc Bồ Tát được xếp vào
vị trí hai mươi tư, nhưng lại đổi chỗ
đôi chút: Di Lặc Bồ Tát xếp ở vị trí hai
mươi ba, Đại Thế Chí Bồ Tát xếp xuống
vị trí hai mươi bốn, chỉ thay đổi một
vị trí, cho nên rất nhiều người không chú ý. Trong
chương Hai Mươi Lăm Viên Thông có hai pháp môn đặc
biệt, chẳng phải là một! Hai vị này không được
xếp theo thứ tự thuận, nên [pháp môn của hai Ngài]
là các pháp môn đặc biệt, đặc biệt trọng
yếu! Chúng ta đọc kinh, nghiên cứu giáo pháp, chớ
nên không lưu ý những chỗ như vậy. Trì danh mới
là đạo dễ hành, người nào cũng có thể
tu.
“Đại
Thế Chí Viên Thông Chương viết: ‘Tịnh niệm
tương kế, tự đắc tâm khai’, tức phàm phu tâm, khai Phật tri
kiến” (Chương
Ðại Thế Chí Viên Thông chép: “Tịnh
niệm nối tiếp, tâm tự khai ngộ”, chính là [dùng ngay cái] tâm phàm phu mà khai tri kiến
Phật). Cụ trích dẫn câu này hay lắm, “tịnh niệm tương kế”
là công phu, cũng là nhất tâm trì danh; “tự đắc tâm khai” là khai ngộ, đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, không cần
tới phương pháp nào khác, chỉ là một câu Phật
hiệu. “Tức phàm phu tâm, khai
Phật tri kiến”, khai Phật tri kiến là đại
triệt đại ngộ, là minh tâm kiến
tánh, chẳng cần dùng phương pháp nào khác. Qua các đời,
chúng ta thấy người niệm Phật trong thời
gian ba năm bèn thành công, biết trước lúc mất, tự
tại vãng sanh; chúng ta hãy nghĩ coi những người ấy
tâm có tự được khai ngộ hay chăng? Công phu tịnh
niệm nối tiếp mà chắc chắn có, tâm sẽ
được tự khai. Sau khi tâm đã tự khai, vì
sao chẳng giảng kinh, chẳng hoằng pháp? Giảng
kinh, hoằng pháp phải có pháp duyên; người ấy thiếu
pháp duyên nên ra đi. Người ấy ra đi, có giảng
kinh hay không? Có hoằng pháp hay không? Có! Người ấy
làm như vậy đã nêu gương tốt nhất cho
người đời sau, chẳng dùng ngôn giáo, mà dùng thân
để biểu diễn. Trong Phật pháp, chúng tôi giảng
kinh, dạy học hơn năm mươi năm, ông Hoàng Trung
Xương biểu diễn, trong một thời gian chẳng
dài [vẫn có thể vãng sanh], đã nêu ra một ví dụ tốt
nhất, chứng minh cho chúng tôi giảng kinh, dạy học,
công đức ấy thù thắng lắm! Nếu quý vị không
tin, thấy người ta y giáo phụng hành, niệm hai
năm mười tháng bèn thành công, [liền vỡ lẽ]:
“Là thật! Chẳng giả!” Có bao nhiêu kẻ thiếu lòng
tin, do dự, chần chừ, vừa trông thấy [tấm
gương của ông Hoàng Trung Xương], lòng tin bèn kiên định!
Ông ta thật sự tiếp dẫn đại chúng vãng sanh,
mà cũng là tiếp dẫn kẻ hữu duyên. Người
ta thấy gương ấy, thật sự phát khởi lòng
tin: Nghiêm túc như ông ta, thật sự làm, ai nấy đều
thành tựu!
“Chí
ư căn khí thiển giả, đản năng chí tâm tín
nhạo, nguyện sanh bỉ quốc, nãi chí thập niệm,
lâm mạng chung thời, mông Phật nhiếp thọ, tiện
sanh Cực Lạc, hoa khai kiến Phật, ngộ nhập
Vô Sanh. Kỳ diệu tật tiệp, mạc quá ư thị”
(Còn như kẻ
căn khí cạn cợt, chỉ cần chí tâm tin ưa, nguyện
sanh cõi kia, dẫu chỉ mười niệm, lúc mạng sắp
hết, được Phật nhiếp thọ, liền
sanh về Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, ngộ
nhập Vô Sanh, kỳ diệu, nhanh chóng, không chi hơn được).
Kẻ căn khí nông cạn, tham Thiền chưa
thể đắc Định, học Giáo chưa thể
đại khai viên giải; chữ “căn khí thiển” chỉ hạng người ấy.
Chỉ cần người ấy chí tâm tin tưởng,
ưa thích. “Chí tâm” là chân thành
đến tột bậc, quyết định chẳng
hoài nghi mảy may, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ,
tin tưởng kinh Vô Lượng Thọ, tin tưởng kinh
A Di Đà, khăng khăng một mực thâm nhập một
môn. “Nhạo” (樂) là yêu thích. Không
cần nhiều, một quyển sách nhỏ mỏng manh là
được rồi! Nguyện sanh về Tịnh Độ,
nguyện này vô cùng trọng yếu. Trong một đời
này, khẳng định một phương hướng, một
mục tiêu như thế, quyết định phải làm
được! Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư đã nói rất khéo: Hành nhân, tức là người niệm
Phật, có được vãng sanh thế giới Cực Lạc
hay không, [điều ấy] được quyết định
bởi [hành nhân] có tín nguyện hay không? Chỉ cần quý vị
thật sự tin, thật sự nguyện, không ai chẳng
vãng sanh! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
phẩm vị cao hay thấp, tùy thuộc công phu niệm Phật
của quý vị sâu hay cạn. Câu này hay lắm! Công phu cạn
là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, vì sao? Chưa niệm đến
nhất tâm bất loạn. Niệm đến Sự nhất
tâm bất loạn, sẽ sanh trong cõi Phương Tiện Hữu
Dư, niệm đến Lý nhất tâm bất loạn sẽ
sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Công phu niệm Phật sâu
hay cạn, trong ba cõi đều có chín phẩm, [tức là] đều
có ba bậc chín phẩm, tùy thuộc công phu cạn hay sâu.
Vãng sanh hay không là do có tín nguyện hay không, câu nói này hay quá! Cổ
nhân chưa có ai nói vậy, nhưng trong sách Yếu Giải,
Ngẫu Ích đại sư đã nói như thế.
Do vậy, trọn đủ Tín,
Nguyện, Hạnh. Hạnh là quý vị thật sự niệm.
“Nãi chí thập niệm” (dẫu
chỉ mười niệm), “mười niệm” là như
nguyện thứ mười tám “mười
niệm ắt sanh” trong bốn mươi tám nguyện đã
nói. Đó là nói khi lâm chung, trong một đời này chưa
có duyên gặp gỡ, đến khi lâm chung mới gặp thiện
hữu nói cho biết phương pháp niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, khuyên kẻ ấy niệm Phật. Điều
kiện là người ấy nghe xong, ngay lập tức tiếp
nhận, có thể tin tưởng, phát nguyện, bèn có thể
vãng sanh, dẫu trong một đời chưa hề gặp
[pháp môn này trước khi lâm chung]! Ở Mỹ, tôi đã
được gặp một người. Tại đặc
khu Hoa Thịnh Đốn (Washington DC), có một đồng
tu cả đời chẳng tín ngưỡng tôn giáo nào, bị
ung thư. Ông ta mở tiệm bán bánh mì, con người hết
sức tốt lành, thật thà. Khi lâm chung, mắc bệnh
ung thư, bệnh viện đã không nhận chữa trị
nữa, bảo đã hết cách cứu. Người nhà lãnh
về, đến khắp nơi cầu thần, bái Phật,
mong có kỳ tích xuất hiện. Chúng tôi ở nơi ấy,
có các đồng học học Phật thành lập một
hội Phật giáo, có tên là Hoa Phủ Phật Giáo Hội (hội
Phật giáo Washington). Có mấy đồng học [thuộc
hội ấy] đến thăm ông ta, thấy tình trạng
như vậy, bèn khuyên: “Nhân gian rất khổ, đừng
cầu lành bệnh, hãy niệm Phật cầu sanh về thế
giới Cực Lạc”. Đem y báo và chánh báo trang nghiêm trong
thế giới Cực Lạc giảng cho ông ta nghe. Nghe
xong, ông ta hết sức hoan hỷ, bảo người nhà
chẳng cần chạy chữa cho ông ta nữa, tất cả
hãy cùng niệm Phật giúp ông ta cầu sanh Tịnh Độ.
Niệm ba ngày, ông ta thật sự vãng sanh. Trước khi
lâm chung ba ngày, ông ta mới chuyển biến ý niệm. Hễ
niệm Phật, ông ta sẽ không đau. Ông ta vốn bị
bệnh ung thư rất đau đớn; [nay do niệm Phật]
không đau nữa. Vì thế, ông ta lòng tin tràn trề, niệm
ba ngày, ra đi rất thuận lợi. “Mười niệm
ắt sanh” là thật, chẳng giả! Khi lâm chung được
Phật nhiếp thọ, Phật đến tiếp dẫn,
liền sanh về Cực Lạc, hoa nở kiến Phật,
ngộ nhập Vô Sanh.
Trong kinh Di Đà, có một câu
kinh văn Huyền Trang đại sư và La Thập đại
sư phiên dịch hoàn toàn khác nhau. Bản dịch của
ngài La Thập có câu “nhất tâm
bất loạn”; bản dịch của Huyền Trang
đại sư không có câu này, Ngài ghi là “nhất tâm hệ niệm”, chẳng phải là nhất
tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn khó, nhất
tâm hệ niệm dễ, chúng ta đều có thể làm
được. Có phải là Cưu Ma La Thập đại
sư dịch sai hay không? Nói thật ra, La Thập đại
sư chẳng dịch sai, mà Huyền Trang đại sư
cũng chẳng dịch sai! Nguyên văn là “nhất tâm hệ niệm”, chẳng dịch sai!
Đó là nguyên văn. La Thập đại sư dịch
theo ý, khi lâm chung, [Tịnh nghiệp hành nhân] thật sự
nhất tâm bất loạn. Khi lâm chung, công phu thành phiến,
chưa đạt đến nhất tâm, nhưng khi Phật
đến tiếp dẫn, trước hết, Phật
quang chiếu tới quý vị, Phật quang vừa chiếu,
khiến cho công phu của quý vị nâng cao gấp bội. Quý
vị đã có công phu thành phiến, Ngài vừa chiếu, ngay
lập tức trở thành nhất tâm bất loạn, chẳng
dịch sai! Đức Phật giúp đỡ chúng ta, bản
thân chúng ta chẳng có công phu gì thì không được rồi!
Đức Phật chẳng có cách nào giúp
đỡ quý vị! Phật giúp quý vị là tương
đối, [nghĩa là] quý vị có một phần công lực,
Ngài sẽ gia trì quý vị một phần. Quý vị có mười
phần công lực, Ngài sẽ gia trì quý vị mười
phần. Chính mình phải thật sự tu. Nếu chính mình
chẳng thật sự tu, chỉ cầu Phật gia trì, đó
là chuyện không thể thực hiện được! Hai
bên phải đối ứng mà! Chính mình nhất định
phải nghiêm túc nỗ lực nâng cao [cảnh giới] của
chính mình, đến khi lâm chung, hiệu quả gia trì sẽ
vô cùng rõ rệt. Vì thế, pháp môn này đúng là kỳ diệu,
nhanh chóng; tốc độ nhanh chóng không chi hơn
được!
“Nhất
thiết chúng sanh do thử đắc độ, thập
phương Như Lai nãi xứng bổn hoài” (Hết thảy chúng
sanh do pháp này đắc độ mới xứng hợp bổn
hoài của mười phương Như Lai). Thật
vậy! Mười phương Như Lai ứng hóa trong thế
gian này chỉ vì một chuyện này: Giúp chúng sanh lìa khổ,
được vui, chẳng vì chính mình. Các Ngài đâu có ý niệm
lo toan cho bản thân, các Ngài chẳng vì mình, mà vì chúng sanh mà
đến [thế gian này]. Chúng sanh khổ sướng bởi
đâu? Do mê hay ngộ mà ra. Vì sao quý vị khổ? Vì quý vị
tạo nghiệp bất thiện. Cớ sao quý vị tạo
nghiệp bất thiện? Do quý vị mê hoặc, nên mới
tạo nghiệp, mới cảm lấy ác báo. Bởi lẽ,
đức Phật biết: Sướng do đâu mà có?
Sướng từ khai ngộ mà có. Sau khi đã ngộ, chắc
chắn chẳng tạo ác nghiệp, đó là tiểu ngộ.
Khi đại ngộ, thiện lẫn ác đều chẳng
tạo, tạo gì? Phật pháp nói là “tịnh nghiệp”, tức
nghiệp thanh tịnh. Thanh tịnh nghiệp là gì? Vẫn
là đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện,
đoạn ác, tu thiện, nhưng trong tâm thanh tịnh, chẳng
có dấu vết gì, bèn gọi là “tịnh nghiệp”; đấy
cũng là thật sự buông vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước xuống, đoạn ác, tu thiện thì
gọi là “tịnh nghiệp”.
Phật dùng phương pháp gì
để giúp những chúng sanh khổ nạn và chúng sanh
trong lục đạo? Phật dùng giáo học. Vì thế,
thuở lão nhân gia tại thế đã nêu gương cho
chúng ta: Sau khi khai ngộ bèn bắt đầu dạy học.
Ba mươi tuổi khai ngộ, bảy mươi chín tuổi
viên tịch, suốt bốn mươi chín năm chẳng bỏ
sót ngày nào, hằng ngày dạy dỗ. Phật môn đệ
tử chúng ta bất luận tại gia hay xuất gia, nhất
định phải ghi nhớ: Đức Phật xuất
hiện trong thế gian này để làm gì? Dùng phương
pháp gì? Chúng ta phải học tập điều ấy. Phật
giáo truyền đến Trung Quốc là giáo dục, chẳng
phải là tôn giáo, quý vị chớ nên không biết điều
này! Đạo tràng Phật giáo là cơ sở, thời cổ
gọi là Tự. Tự có nghĩa là gì? Vì sao gọi là Tự?
“Tự” (寺) là cơ quan làm việc của
chính phủ, trực tiếp thuộc quyền cai quản của
hoàng đế. Nếu quý vị đến Bắc Kinh, đến
thăm Cố Cung[3], trong Cố Cung có
chín Tự[4].
Một đơn vị bầy tôi của hoàng đế được
gọi là Tự. Tự, có nghĩa là vĩnh viễn thiết
lập, chẳng thể phế trừ! Do vậy, Tự
được thành lập từ đời Hán cho mãi đến
đời Thanh cũng không thay đổi. Triều đại
thay đổi theo mỗi đời, chỉ riêng chín Tự
không thay đổi danh xưng. Phật giáo truyền đến
Trung Quốc cũng được gọi là Tự, vì thế,
dưới hoàng đế có mười Tự, tức là vốn
đã có chín tự, thêm vào cơ cấu này (nhà chùa) thành
mười Tự. Tự này (nhà chùa Phật giáo) làm chuyện
gì? Lo dạy học. Giáo dục Trung Quốc biến thành
hai cơ cấu: Bản thân nhà vua nắm giữ một cơ
cấu, giáo dục của Phật Đà do chính nhà vua nắm
giữ, nên được phổ cập rất nhanh, phổ
cập toàn quốc, vì mọi người tôn kính hoàng
thượng. Cơ cấu kia là giáo dục Nho gia do Tể
Tướng nắm giữ, nó có một bộ riêng, gọi
là bộ Lễ. Bộ Lễ là bộ giáo dục. Tể Tướng
cai quản bộ giáo dục, hoàng thượng tự mình nắm
giữ nhà chùa, tức bộ giáo dục của Phật
Đà. Hai nền giáo dục tồn tại song song ở
Trung Quốc, Phật giáo chẳng phải là tôn giáo.
Hiện thời, Phật giáo biến
thành tôn giáo, tứ chúng đệ tử chúng ta bất xứng
với Thích Ca Mâu Ni Phật, vì sao trở thành nông nỗi này?
Chúng ta thấy chùa chiền thời cổ, mỗi ngày làm
chuyện gì? Giảng kinh, dạy học, giống như một
ngôi trường. Điện đường là phòng học,
Hòa Thượng Thủ Tọa phân tòa giảng kinh, giống
như trong nhà trường hiện thời, lớp học
khác nhau. Giảng đường này giảng Hoa Nghiêm, giảng
đường kia giảng Vô Lượng Thọ, giảng
đường nọ giảng Bát Nhã; họ có thầy, mỗi
ngày lên lớp. Chẳng cho phép học trò lớp nào cũng
đều học, chẳng phải vậy! Học trò chỉ
có thể chuyên dồn công sức nơi một môn; quý vị
học lớp của thầy nào, bèn đến giảng đường
ấy. Một môn thâm nhập, chẳng phải là bảo quý
vị môn gì cũng đều học, chẳng phải vậy!
Thầy cũng chuyên dạy một môn, trò cũng chuyên học
một môn. Học còn chưa xong một môn, chẳng thể
học môn thứ hai. Quý vị có thể học rất nhiều
môn, nhưng chẳng phải là học cùng một lúc. Học
từng môn một thì được phép. Vì thế, nhà chùa
là cơ cấu giáo dục. Nhất là đến thời
đại Tùy - Đường, mười tông phái của
Trung Quốc hình thành, đề xướng chế độ
tùng lâm, đó chính là mở rộng quy mô, chính thức biến
[nhà chùa] thành Đại Học. Chủ tịch tùng lâm là Phương
Trượng, Trụ Trì, Hiệu Trưởng. Quý vị thấy
các vị chấp sự (đảm đương trách nhiệm)
dưới vị ấy: Thủ Tọa là giáo vụ, Duy Na
là huấn đạo, trông nom việc giáo huấn, uốn nắn,
Giám Viện trông nom tổng vụ (quản lý mọi sự
vụ chung), hoàn toàn giống cách phân công trong trường
Đại Học hiện thời. Trong Đại Học hiện
thời, quý vị thấy Giáo Vụ Trưởng (Provost), Huấn
Đạo Trưởng (Proctor), Tổng Vụ Trưởng
(Dean of General Affairs), danh xưng khác nhau, nhưng công việc
hoàn toàn tương đồng. Vì thế, Phật giáo truyền
đến Trung Quốc đã biến hóa mang tánh chất cách
mạng, được tổ chức theo quy củ chính thức,
mang hình thức một trường học chính quy. Phật
giáo vào thời đức Thế Tôn và vào thời mới
truyền sang Trung Quốc mang tánh chất trường
tư, giống như tư thục giáo dục, chưa
được “chế độ hóa” (Institutionalized). Chế
độ hóa là điểm đặc sắc trong Phật
giáo Trung Quốc.
Khi tôi mới
học Phật, thầy tôi đã nói chuyện này rất nhiều
lần, đương nhiên là đặt hy vọng nơi
tôi, nhưng tôi không có đại phước báo như thế.
Thầy đã bảo tôi rất nhiều lần: “Muốn cho Phật giáo hưng
vượng trở lại, nhất định phải
khôi phục chế độ tùng lâm”. Nếu nói theo cách
bây giờ, nhất định phải lập Đại Học
Phật giáo thì Phật pháp mới có thể hưng vượng.
Chuyện này chúng ta chỉ đành trông chờ quốc gia, cá
nhân chẳng có năng lực ấy, nói theo Phật
pháp là chẳng có đại phước báo dường ấy!
Vì thế, đức Thế Tôn đem đại sự Phật
pháp hưng vượng hay suy vi phó thác cho quốc
vương, đại thần, để họ hộ
trì. Trong quá khứ, tại Trung Quốc, lịch đại
đế vương đều hộ trì Phật pháp,
đặc biệt là nhà Thanh là dân tộc thiểu số
vào làm chủ Trung Quốc, thống trị một quốc
gia to như thế, họ dùng phương pháp gì? Dùng giáo dục.
“Kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân
chúng, lấy giáo dục làm đầu). Họ dùng giáo dục
của Nho, Thích, Đạo, giữ vững nền cai trị
tới hai trăm sáu mươi năm, giữ ổn định
trong một thời gian dài. Cuối cùng, đúng là [thành quả
ấy] bị hủy mất bởi chính Từ Hy Thái Hậu.
Từ Hy Thái Hậu nắm quyền, bèn phế trừ sự
giảng học. Trong quá khứ, trong cung đình luôn lễ
thỉnh những vị cao tăng đại đức Nho,
Thích, Đạo vào dạy học trong cung đình, hoàng
thượng dẫn văn võ bá quan nghe giảng, những ý
nghĩa được giảng đều [được
thâu thập] trong Tứ Khố Toàn Thư. Tôi đọc Tứ
Khố Toàn Thư, thích xem những thứ như Luận Ngữ,
Mạnh Tử, [để tìm hiểu] cách giảng nghĩa
tại cung đình trong quá khứ là như thế nào? Những
nghĩa lý đã giảng giải đều được
thâu thập trong bộ Tứ Khố, bản ấy là bản
tiêu chuẩn. Họ thật sự làm, không giống như
hiện thời, hiện tại không làm! Đến thời
Từ Hy, không làm như vậy nữa. Từ Hy chuộng
quỷ thần, thích cầu cơ, gặp chuyện gì chính
mình chẳng thể giải quyết, bèn chẳng hỏi
han ai khác, mà thưa hỏi trong đàn cầu cơ, cho nên bà
ta làm mất nước! Chương Gia đại sư kể
cho tôi nghe chuyện này. Chương Gia đời trước
là quốc sư của nhà Thanh[5]. Do vậy, Phật
giáo bị biến thành tôn giáo, giáo dục của Phật Đà
chẳng còn nữa, chúng ta phạm lỗi với Thích Ca Mâu
Ni Phật ở chỗ này!
Chẳng liễu giải thì
thôi, chẳng cần phải nhắc tới, nhưng thật
sự liễu giải, nhận biết rồi, chúng ta nhất
định phải đi theo con đường của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Bản thân tôi tiếp nhận sự
giáo huấn của Chương Gia đại sư, Ngài
khuyên tôi xuất gia, lại còn dặn tôi học theo Thích Ca
Mâu Ni Phật. Tôi hiểu ý lão nhân gia, chẳng cô phụ thầy,
suốt đời chúng tôi đi theo con đường này.
Đi theo con đường này rất nhọc nhằn,
nhưng đáng công lắm! Mong các đồng học chúng
ta đều có thể giác ngộ, thật sự phát tâm dạy
học, bất luận là tại gia hay xuất gia đều
có thể [làm công tác giáo hóa]. Thuở đức Thế Tôn tại
thế, cư sĩ tại gia Duy Ma Cật (Vimalakīrti) giống như Thích Ca Mâu Ni Phật,
giảng kinh, dạy học mỗi ngày. Thời đầu
Dân Quốc, tiên sinh Âu Dương Cánh Vô là một vị
đại đức trong Phật môn đã thành lập Chi Na
Nội Học Viện, thâu nhận hàng xuất gia lẫn tại
gia, tổ chức rất thành công; nhưng vì tình hình chiến
tranh, hoạt động được hai năm rồi
phải đóng cửa học viện. Ông ta nói rất hay: “Phật môn là sư đạo”.
Sư đạo có nghĩa là thầy là lớn nhất, tôn
sư, trọng đạo! Chúng ta thấy trong kinh Duy Ma, đệ
tử của Thích Ca Mâu Ni Phật là Mục Kiền Liên, Xá
Lợi Phất, nghe cư sĩ Duy Ma giảng kinh, lễ tiết
hoàn toàn giống như [lễ tiết dành cho] Thích Ca Mâu Ni
Phật. Cư sĩ Duy Ma là kẻ tại gia, khi lên tòa giảng
kinh, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đảnh lễ
cư sĩ ba lạy, nhiễu quanh ba vòng. Đó là tôn sư
trọng đạo, Ngài là thầy mà! Tuy quý vị xuất
gia, là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật, quý vị vẫn
là học trò, vẫn chưa đạt tới địa vị
như Ngài (Duy Ma Cật). Vì vậy, nói theo Phật pháp, hai vị
Phật đồng thời xuất hiện trong thế
gian thuở ấy, một vị là xuất gia Phật, vị
kia là tại gia Phật, hai vị Phật, quyết định
chẳng thể khinh mạn! Pháp môn bình đẳng, chẳng
có cao thấp, nhất định phải tôn trọng đôi
bên; chẳng thể nói vừa xuất gia bèn ngạo nghễ,
ngã mạn, coi thường người khác. Trong giới cư
sĩ, thật sự có những bậc đại đức,
tu hành rất tốt đẹp, thậm chí có người khai
ngộ, làm sao quý vị có thể khinh mạn họ
được? Nhất định phải hiểu điều
này! Bất luận tại gia hay xuất gia, nếu thật
sự học Phật, phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật
khiêm hư, cung kính hết thảy chúng sanh, phải nêu
gương thật sự đoạn trừ tham, sân, si, mạn.
Kẻ còn có ngạo mạn thì như thế nào? Quý vị
là phàm phu! Bởi lẽ, mười phương Như Lai
xuất hiện trên cõi đời chẳng có chi khác, [chỉ
là] mong giúp cho hết thảy chúng sanh sớm có ngày thành Phật,
sớm có ngày rời khỏi lục đạo, rời khỏi
mười pháp giới, đấy là tâm nguyện của
Phật.
Kế đó là: “Hựu bổn kinh sở tuyên, nãi Như Lai chân thật
thuần nhất chi pháp, vô hữu quyền khúc, cố danh
chánh thuyết” (Kinh
này lại tuyên dương pháp chân thật thuần nhất
của Như Lai, chẳng quyền biến, cong quẹo,
nên gọi là Chánh Thuyết).
Mấy câu này hết sức quan trọng, vì trong hết thảy
kinh giáo, đức Thế Tôn khai thị quả thật có
nói phương tiện, có khi nói uyển chuyển, tùy thuận,
[những cách nói như vậy] rất nhiều, hết sức
phổ biến, vì sao? Chúng sanh căn tánh khác nhau. Do vậy,
giáo học trong Phật môn thường được gọi
là “đại giảng đường” hay “đại giảng
tòa”. “Đại” có nghĩa là gì? Căn tánh của thính chúng
hoàn toàn khác nhau, có kẻ không biết chữ, có người
trình độ Tiểu Học, cũng có người học
lớp Tiến Sĩ, mỗi cá nhân nghe giảng đều
hoan hỷ, mỗi người nghe đều được
lợi ích, đấy chẳng phải là chuyện dễ! Không
giống như lên lớp trong trường học, học
trò có trình độ ngang nhau, dễ giảng, ở đây là
hoàn toàn khác nhau, “Phật dĩ
nhất âm nhi thuyết pháp” (Phật dùng một âm thanh
để thuyết pháp), hết thảy chúng sanh không chỉ
nghe hiểu, mà còn đều được thụ dụng.
Đó gọi là “đại giảng tòa”; những vị
giáo thụ[6]
hay giáo sư bình thường sẽ chẳng thể làm
được. Do vậy, giảng đường trong Phật
môn người đến chẳng cự tuyệt, người
đi không giữ lại. Quý vị thông đạt quyền
biến, hễ giảng sâu, phải quan tâm đến những
kẻ trình độ nông cạn, xét coi họ có hiểu hay
không? Nếu giảng nông cạn, cũng phải quan tâm
đến những kẻ có trình độ cao;
phương diện nào cũng phải xét đến. Vì thế,
đức Phật có Thật và có Quyền, có thẳng, và
có cong (nói phương tiện, vòng vo để từ từ
hướng dẫn đến mục tiêu), dùng phương
pháp dạy học thiên biến vạn hóa, có thể thích hợp
các loại căn khí khác biệt. Nhưng kinh này không như
vậy, nói thẳng thừng, thỏa đáng, chẳng nói phương
tiện, chẳng nói loanh quanh, câu nào cũng giảng pháp chân
thật, trực tiếp hướng dẫn quý vị trở
về tự tánh. Quý vị phải biết: Vãng sanh Cực
Lạc là trở về tự tánh. Trở về tự tánh
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phương pháp
hết sức đơn giản, ổn thỏa, thích
đáng, nhanh chóng, đạt đến rốt ráo viên mãn.
“Hựu
nãi Thế Tôn xứng kỳ bổn tánh, hòa bàn thác xuất, hào
vô bảo lưu, cố danh xứng tánh” (Lại nữa, Thế
Tôn xứng hợp bổn tánh trao bày hết cả ra, chẳng
có chút mảy may giấu diếm, nên gọi là Xứng
Tánh). Mấy câu này nói rất
hay, kinh Vô Lượng Thọ từ bản tánh của Thích
Ca Như Lai tự nhiên lưu lộ, lại còn là viên mãn
lưu lộ. Giống chúng ta tặng quà, dọn hết cả
mâm ra, chẳng giữ lại mảy may nào, tuyên
dương toàn bộ tự tánh. Những kinh điển
đàm luận xứng tánh như vậy, giãi bày trọn hết
như thế không nhiều lắm! Vì thế, kinh này cực
viên, cực đốn, nên gọi là xứng tánh. “Nhất thiết hàm linh giai nhân
thử nhi đắc độ thoát, nãi xứng tánh trung
đăng phong tạo cực chi đàm, cố vi Xứng Tánh
Cực Đàm” (Hết
thảy hàm linh đều do đây mà được độ
thoát, thật là bàn luận xứng tánh đến cùng tột,
nên gọi là Xứng Tánh Cực Ðàm). “Cực”
(極) là đạt tới
đỉnh điểm. Bởi lẽ, kinh Vô Lượng
Thọ là chỗ quy túc cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa
Nghiêm đàm luận xứng tánh, nhưng so với kinh Vô
Lượng Thọ thì kinh Vô Lượng Thọ là “xứng tánh cực đàm”,
đăng phong tạo cực (đạt tới tột đỉnh).
Đây cũng là nói rõ: Kinh Hoa Nghiêm bước vào Tịnh
Độ mới thật sự viên mãn. Nếu chẳng do
mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, kinh Hoa Nghiêm chẳng viên mãn. Vì sao? Hoa Nghiêm chỉ
có thể độ bậc thượng thượng
căn, đối với căn tánh thượng trung hạ
sẽ chẳng khế cơ. Hễ dẫn về Cực Lạc,
từ thượng thượng căn cho đến
thượng trung hạ toàn bộ đều độ được,
Hoa Nghiêm bèn viên mãn! Thượng trung hạ căn đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn bộ
đều biến thành thượng thượng căn, chẳng
thể nghĩ bàn! Chúng ta học pháp môn Tịnh Độ chớ
nên không biết điều này! Quý vị biết những đạo
lý và chân tướng sự thật này, mới có thể chết
sạch so đo, khăng khăng tu một môn này, chắc
chắn thành tựu trong một đời này. Đối với
thế giới này, đối với thiên đường,
hay đối với mười pháp giới, chẳng còn
có ý niệm tham luyến nữa! Hôm nay đã hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment