"Các con đã hiểu được lời ta nói. Con 
      người sinh ra không có giai cấp. Nước mắt của người nào cũng mặn, máu của 
      người nào cũng đỏ. Chia người ra thành giai cấp để mà kỳ thị lẫn nhau đó 
      là một điều sai lầm..."
Đường xưa mây trắng
Theo gót chân Bụt
Theo gót chân Bụt
      Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA
Chương 4
Ngày hôm sau, Svastika thả trâu 
      bên bờ sông và bắt đầu cắt cỏ ngay từ buổi sáng. Đến trưa nó đã cắt cỏ 
      xong và nhét đầy cứng hai cái giỏ. Để gánh cỏ bên này sông, Svastika lùa 
      trâu sang bên kia sông. Bên kia sông chỉ có rừng mà không có ruộng lúa, 
      thành ra Svastika thường cho trâu ăn bên ấy để có chút thì giờ ngả lưng 
      trên đám cỏ non bên bờ sông gió mát. Nó chỉ đem theo chiếc liềm. Chiếc 
      liềm đối với nó rất quý giá vì đó là phương tiện sinh sống của nó. Qua bên 
      kia sông, Svastika dở nắm cơm mà Bala đã gói cho nó từ hồi sáng trong một 
      tờ lá chuối. Vừa định bốc cơm ăn thì nó nhớ đến vị sa môn trong rừng. Nó 
      nhớ đến Siddhatta. “Mình có thể đem cơm này chia xẻ với người ấy. Người ấy 
      chắc là sẽ không chê cơm của mình là hèn mọn đâu”. Nghĩ như thế, Svastika 
      gói nắm cơm trở lại. Nó lùa đàn trâu về ăn phía cửa rừng. Rồi nó theo lối 
      cũ, tìm về chốn gặp gỡ chiều qua.
Từ xa, nó đã thấy dáng của Siddhatt, ngồi dưới gốc cây đại thọ pippala. Nhưng Siddhatta không ngồi một mình. Trước mặt Siddhatta còn có một người khác. Đó là một cô bé trạc tuổi Svastika, ăn mặc rất tươm tất. Cô bé vận sari màu trắng đang ngồi nhìn Svastika ăn cơm. Svastika dừng lại. Nhưng Svastika đã ngửng lên, và đã trông thấy Svastika.
Từ xa, nó đã thấy dáng của Siddhatt, ngồi dưới gốc cây đại thọ pippala. Nhưng Siddhatta không ngồi một mình. Trước mặt Siddhatta còn có một người khác. Đó là một cô bé trạc tuổi Svastika, ăn mặc rất tươm tất. Cô bé vận sari màu trắng đang ngồi nhìn Svastika ăn cơm. Svastika dừng lại. Nhưng Svastika đã ngửng lên, và đã trông thấy Svastika.
- Svastika!
Người ấy vừa gọi vừa đưa tay 
      vẫy ra hiệu cho nó lại gần. Cô bé cũng nhìn ra. Svastika nhận ra cô vé 
      này. Nó chưa biết tên cô bé nhưng đã gặp cô bé một vài lần trên đường 
      làng. Svastika bước tới gần. Cô bé ngồi xích ra một bên. Siddhatta chỉ một 
      chỗ ngồi trước mặt và ra hiệu cho Svastika ngồi xuống. Trước mặt 
      Siddhatta, có một mảnh lá chuối tươi. Trên mảnh lá chuối là một nắm cơm và 
      một ít muối mè. Siddhattachỉ mới bẻ nắm cơm ra làm hai chứ chưa bắt đầu 
      ăn.
- Em ăn cơm chưa? Siddhatta 
      nhìn Svastika.
- Thưa chú con chưa ăn.
- Vậy chúng ta cùng ăn cơm với 
      nhau cho vui được không?
Nói xong Siddhatta trao cho 
      Svastika một nắm cơm. Svastika cung kính chắp tay nhưng không nhận. Nó đưa 
      nắm cơm của nó ra:
- Con cũng có đem cơm theo đây.
Rồi nó mở gói cơm. Cơm của 
      Svastika là cơm gạo đỏ không trắng trẻo như cơm của Siddhatta. Với lại nó 
      không có muối mè. Nó chỉ vài hạt muối trắng. Siddhatta mỉm cười nhìn hai 
      đứa trẻ:
- Vậy chúng ta gom lại và cùng 
      ăn chung được không? Nói xong Siddhatta lấy một nửa nắm cơm hẳm của 
      Svastika và ăn ngon lành. Svastika hơi bỡ ngỡ; nhưng thấy Siddhatta ăn cơm 
      rất tự nhiên nó cũng đưa cơm lên ăn.
- Cơm của chú dẻo, mềm và thơm 
      lắm, nó nói.
- Đó là cơm của Sujata đem cho, 
      Siddhatta vừa nói vừa nhìn cô bé.
À thì ra cô bé này tên Sujata. 
      Svastika nhìn kỹ lại. Cô bé này lớn hơn mình, có lẽ lớn hơn một hoặc hai 
      tuổi. Hai mắt cô ta to đen lay láy. Svastika ngừng nhai, nói:
- Em có gặp chị mọt vài lần 
      trên đường làng. Em không biết chị tên Sujata.
Sujata nói:
- Chị là con gái ông hương cả 
      lầng Uruvela. Còn em, có phải em là Svastika không? Thầy Siddhatta vừa kể 
      chuyện em cho chị nghe xong. Này Svastika, em đừng kêu thầy Siddhatta là 
      “chú” nữa. Thầy là sa môn mà, mình kêu thầy bằng thầy thì đúng hơn.
- Dạ.
Siddhatta ngừng nhai nhìn hai 
      đứa trẻ mỉm cười.
- Như vậy là ta khỏi giới thiệu 
      hai con với nhau. Này các con, thầy thường ăn cơm trong im lặng. Những hạt 
      cơm và những hạt mè mà các con đem đến quý giá v cùng. Ta muốn ăn cơm im 
      lặng để thấy được giá trị của những hạt ấy Sujata, chắc con ít có dịp được 
      ăn cơm gạo đỏ. Có thể là con đã ăn cơm rồi, nhưng con nên ăn một miếng cơm 
      gạo đỏ của Svastika đem đến. Ngon lắm đó con. Bây giờ chúng ta nên im lặng 
      mà ăn. Xong bữa cơm thầy sẽ nói chuyện cho hai con nghe.
Siddhatta bẻ một miếng cơm từ nắm cơm của 
      Svastika và trao cho Sujata. Cô bé chắp tay thành búp sen, kính cẩn nhận 
      lấy. Ba người lặng lẽ ngồi ăn cơm trong cảnh rừng trưa u tịch.
Sau khi cơm và muối mè đã hết, Sujata thu 
      lượm các mảnh lá chuối lại. Cô lấy bình nước trong để bên cạnh, rót vào 
      một cái bát bằng đá duy nhất mà cô đem theo và dâng lên. Siddhatta tiếp 
      nhận bát nước và trịnh trọng đưa mời Svastika. Svastika vội nói:
- Con xin mời chú, à quên… mời thầy uống 
      trước.
Siddhatta nhìn nó, ôn tồn nói:
- Con uống trước. Thầy muốn con uống 
      trước. Và ông nâng bát lên bằng cả hai tay.
Svastika hơi luống cuống nhưng không còn 
      cách nào từ chối. Nó chắp tay lại, đón lấy bát nước và đưa lên uống một 
      mạch cạn chén, rồi trao bát lại cho Siddhatta, cũng bằng hai tay. 
      Siddhatta chìa bát ra để Sujata rót bát thứ hai. Khi bát nước đã đầy ông 
      nâng lên với dáng điệu cung kính và thong thả uống từng ngụm nhỏ. Uống xon 
      bát nước, Siddhatta lại chìa bát ra để Sujata rót cho bát thứ ba. Bát này 
      Siddhatta đưa lên mời Sujata. Sujata đặt bình nước xuống trước mặt. Cô 
      chắp hai tay và nhận lấy bát nước. Hồi nãy đến giờ mắt Sujata không ngừng 
      quan sát hai người. Bây giờ cô mới nâng bát nước lên và uống từng ngụm nhỏ 
      giống như Siddhatta vừa uống. Sujata ý thức rằng đây là lần đầu tiên cô đã 
      uống nước từ một cái bát mà một người thuộc hạng ngoại cấp đã uống. 
      Siddhatta là thầy mình. Ông đã uống thì tại sao mình lại không uống? Tuy 
      nhiên, cô bé không hề có cảm tưởng mình bị ô nhiễm. Bất giác cô đưa tay 
      trái của cô ra, và sờ vào đầu tóc của cậu bé chăn trâu ngồi bên cạnh.
Cử chỉ rất bất ngờ, khiến cho Svastika 
      không tránh kịp, Sujata đã chạm được vào đầu Svastika. Tay phải cô bé vẫn 
      còn nâng bát nước. Sujata thu tay trái lại. Với hai tay cô nâng bát lên và 
      uống hết nước trong chiếc bát. Cuối cùng cô bưng bát đặt xuống gốc cây, và 
      nhìn hai người, mỉm cười.
Siddhatta gật đầu:
- Các con đã hiểu được lời ta nói. Con 
      người sinh ra không có giai cấp. Nước mắt của người nào cũng mặn, máu của 
      người nào cũng đỏ. Chia người ra thành giai cấp để mà kỳ thị lẫn nhau đó 
      là một điều sai lầm. Thầy đã thấy được điều đó trong khi thầy thiền quán.
Sujata trang nghiêm:
- Chúng con là học trò của thầy và chúng 
      con tin lời thầy dạy. Nhưng ở đời hình như không có ai nghĩ như thầy hết. 
      Ai cũng tin rằng những người sudra và những người ngoại cấp đã được sinh 
      ra từ bàn chân của chúa trời Phạm Thiên. Kinh điểm cũng nói như vậy. Có ai 
      dám nghĩ khác hơn đâu.
- Thầy biết. Nhưng sự thật là sự thật, dù 
      không có ai tin theo. Một điều sai lầm mà được hàng triệu người tin theo 
      thì cũng là một điều sai lầm. Các con phải có thật nhiều can đảm mới có 
      thể sống theo sự thật.
Để thầy kể chuyện này cho các con nghe. 
      Hồi đó thầy mới có chín tuổi. Một hôm thầy đang chơi thơ thẩn một mình ở 
      trong vườn thì có một con chim thiên nga từ trên trời rơi xuống, ngay 
      trước mặt thầy. Con chim có vẻ đau đớn lắm. Nó quằn quại trên mặt đất. 
      Thầy chạy tới ôm nó lên, và thấy có một mũi tên cắm sâu vào cánh nó. Thầy 
      cầm mũi tên trong tay, ngậm miệng lại, và rút mạnh mũi tên ra. Con chim 
      run bắn lên, và máu rỉ ra ướt đỏ cả cánh chim. Thầy vội lấy ngón tay cái 
      ấn lên trên vết thương cho máu ngưng chảy. Ôm con chim trong tay, thầy 
      chạy vào nhà trong đi tìm cô cung nữ Sundari. Thầy nhờ cô đi hái một nắm 
      lá dâu nhai nhỏ và rịt lên vết thương của con chim. Con chim run rẩy. Hình 
      như nó bị lạnh. Thầy cởi chiếc áo lông cừu ra, bọc chim vào cho chim ấm, 
      và đặt chim gần lò sưởi ngự
Siddhatta ngưng lại, nhìn 
      Svastika:
- Svastika, ta chưa nói cho con 
      biết là hồi đó ta là hoàng thái tử con vua Suddhodana ở thành 
      Kapilavatthu. Điều này Sujata đã biết rồi.
Thầy đang định đi kiếm cơm 
      nguội cho chim ăn thì Devadatta đẩy cửa chạy vào, Devadattalà em chú bác 
      của ta, hồi đó tám tuổi. Tay Devadatta còn cầm cung và tên. Devadattahỏi:
- Siddhatta, anh có thấy một 
      con chim trắng rơi xuống đâu đây không?
Ta chưa kịp trả lời thì 
      Devadatta đã nhìn thấy con chim để gần lò sưởi ngự. Nó định chạy tới dành 
      lấy con chim. Ta vội ngăn nó lại:
- Em không được lấy con chim. 
      Con chim này là của anh.
Devadattakhông chịu:
- Con chim ấy là của em. Chính 
      em bắn nó rơi xuống.
Lúc đó ta đứng chận trước mặt 
      Devadatta, cương quyết không cho nó rờ tới con chim. Ta nói:
- Con chim này bị thương. Anh 
      cứu nó. Anh che chở cho nó. Nó cần anh, chứ nó không cần em.
Devadatta là một đứa em cũng 
      cứng đầu lắm, nó có chịu thua đâu. Nó lại là một đứa trẻ thông minh. Nó lý 
      luận:
- Này nhé, anh nghe đây. Con 
      chim này, khi nó còn bay trên trời, thì nó không thuộc về ai cả. Em bắn nó 
      rơi xuống, thì lý đương nhiên nó thuộc về em.
Nghe nói như thế, thầy tức lắm. 
      Lý lụan của nó có vẻ vững chãi đanh thép, nhưng thầy thấy nó có một cái gì 
      sai sai ở trong ấy mà không biết đích xác là sai ở chổ nào. Thầy thấy 
      nghẹn cả họng, và rất muốn thụi nó một cái thật mạnh vào vai, nhưng thầy 
      đã không làm thế, thầy cũng không biết tại sao. Bỗng nhiên thầy tìm thấy 
      được cách trả lời Devadatta. Thầy nói:
- Em cũng nghe anh nói đây. 
      Thói thường, những kẻ thương yêu nhau mới ở chung với nhau, còn những kẻ 
      ghét bỏ nhau thì không bao giờ sống chung với nhau. Em có ý dữ muốn bắn 
      giết con chim, như vậy em và con chim là những kẻ thù ghét nhau, làm sao 
      con chim có thể ở chung với em được. Trong khi đó, anh cứu con chim, anh 
      rịt vết thương cho nó, anh sưởi ấm cho nó, và anh đang đi kiếm thức ăn cho 
      nó ăn… vậy thì anh và con chim là những kẻ biết yêu thương nhau, anh và 
      con chim có thể ở chung với nhau… như anh đã nói, con chim nó cần anh, chứ 
      nó không cần em.
Sujata vỗ hai tay lại với nhau 
      kêu đốp đốp:
- Thầy nói đúng lắm! Thầy nói 
      đúng lắm!
Siddhatta quay sang nhìn 
      Svastika:
- Còn con , con thấy lý luận 
      của thầy thế nào?
Svastika ngẫm nghĩ. Một lát sau 
      nó nói:
- Con … con cũng thấy thầy có 
      lý. Nhưng con nghĩ rằng ở đời ít ai chịu chấp nhận cái lý ấy. Phần đông 
      người ta theo lý luận của Devadatta hơn.
Siddhatta gật đầu:
- Con nói đúng. Người đời phần 
      lớn đều hùa theo lý luận của Devadatta. Để thầy kể tiếp cho các con nghe. 
      Cuộc tranh chấp giữa thầy và Devadatta không đi đến đâu, vì vậy sau đó 
      được đưa ra giữa những người lớn. Hôm đó có buổi họp trong chiều. Thầy thì 
      ôm con chim, còn Devadattathì ôm cung tên, cả hai chạy ùa vào nhờ các quan 
      phán xử. Lúc ấy phụ vương của thầy đang ngồi ở giữa buổi chầu. Cuộc đàm 
      luận việc nước phải được tạm ngừng lại. Các quan nghe xong lý luận của 
      Devadattathì nghe đến lý luận của thầu. Họ bàn tán phân vân, rất lâu, rất 
      lâu, và chẳng đi đến kết quả gì cả. Số người theo phe Devadatta rất đông. 
      Giữa lúc ấy thì phụ vương của thầy ngứa cổ. Ông ho lên mấy tiếng. Lập tức 
      các quan đều im lặng. Ai cũng nhìn vua. Và sau đó, buồn cười chưa, một 
      người đều nghĩ lý luận của thầy đúng hơn, và nên giao con chim cho thầy 
      giữ. Devadatta tức lắm .
Thầy được con chim, nhưng cũng 
      không thấy vui mấy. Bởi vì tuy còn nhỏ tuổi, thầy cũng dư sức để biết rằng 
      sự thắng cuộc của thầy không được vẻ vang. Người ta vì nể phụ vương thầy 
      mà cho thầy thắng cuộc chứ không phải vì họ thấy lý luận của thầy là đúng.
- Buồn quá thầy nhỉ, Sujata 
      buộc miệng.
- Buồn thật. Nhưng lúc đó nghĩ 
      đến sự an toàn của con chim, thầy cũng cảm thấy được an ủi ít nhiều. Nếu 
      không thì con chim đã bị đưa xuống nhà bếp để làm thịt rồi.
Ở đời, ít người biết nhìn bằng 
      con mắt thương yêu. Vì vậy họ ác độc với nhau, họ không tha thứ cho nhau. 
      Hồi ấy tuy mới có chín tuổi, thầy đã thấy được điều đó. Những kẻ yếu đuối 
      và đứng ở cô thế thường thường là dễ bị bắt nạt và làm hại. Lý luận của 
      thầy hồi đó, bây giờ thầy vẫn thấy có giá trị. Đó là lý luận của tình 
      thương yêu và sự hiểu biết. Đó là sự thật có thể làm vơi bớt nỗi khổ của 
      mọi loài. Dù số đông không công nhận thì đó vẫn là sự thật. Cho nên thầy 
      đã dặn các con: Các con phải có thật nhiều can đảm mới có thể đứng về phía 
      sự thật mà bảo vệ sự thật.
- Còn con chim, sau đó nó ra 
      sao, hả thầy? Sujata hỏi.
- Thầy nuôi con chim được bốn 
      ngày. Khi thấy vết thương nơi cánh của nó đã lành hẳn, thầy đã thả nó ra. 
      Thầy đã dặn nó bay thật xa để đừng bị Devadatta bắn rơi một lần nữa.
Siddhatta nhìn hai đứa trẻ ngồi 
      trước mặt mình. Cả hai đứa đang ngồi trầm ngâm, không nói năng gì. Ông lên 
      tiếng:
- Sujata, đã đến lúc con phải 
      về nhà kẻo mẹ con đợi. Svastika, con đi chăm sóc đàn trâu của con đi. Và 
      nếu chưa cắt đủ cỏ thì con hãy cắt. Ôm cỏ mà con cho thầy hôm qua, thầy đã 
      trải làm nệm ngồi, tốt lắm. Đêm qua và sáng hôm nay thầy ngồi thiền rất 
      thành công và thầy đã đạt tới nhiều cái thấy quan trọng. Công đức của con 
      không phải là nhỏ. Chừng nào thầy đạt được đạo quả viên mãn, thầy sẽ đem 
      dạy cho các con. Đến giờ thầy thiền tọa rồi.
Svastika nhìn xuống. Quả thật 
      ôm cỏ đã được Siddhattatrải làm nêm ngồi. Các lá cỏ đã cuốn tròn lại nhưng 
      chắc chắn là cỏ còn mềm. Cậu bé nghĩ là cứ ba hôm một lần, cậu có thể dâng 
      cho thầy một ôm cỏ mới. Cậu đứng dậy cùng với Sujata, cậu chắp tay vái 
      chào Siddhatta Sujata về nhà, còn Svastika thì lùa trâu về lại bờ sông cho 
      trâu ăn cỏ.
(còn tiếp) 





0 Kommentare:
Post a Comment