"Thâm diệu thay,này Ànanda, pháp Thập Nhị Nhân Duyên, pháp này quả thật thâm diệu. Vì không thông suốt và thấu triệt Định Luật này, thế gian tựa hồ như một cuộn chỉ rối, một ổ chim, một bụi tre rậm, một đám lát, vì không thông suốt và thấu triệt Định Luật này, con người không thoát khỏi đời sống ở
những cảnh giới thấp hèn, không thoát khỏi trạng thái đau khổ và tuyệt vọng, và mãi mãi khổ đau trong vòng luân hồi..."
Dukkha (khổ) này là Chân Lý Thâm Diệu (Diệu Đế) đầu
tiên mà chúng ta kinh nghiệm một cách liên tục, từng giây từng phút,
nhưng thường thì chúng ta không ghi nhận và không hay biết được.
Mục lục
Lời mở đầu
Lịch sử của bánh xe
Bản dịch
Những ngày cuối cùng của tập tục
Biểu tượng & Ý nghĩa thực tiễn của bánh xe
Vòng ngoài của bánh xe
Kết luận
Lịch sử của bánh xe
Bản dịch
Những ngày cuối cùng của tập tục
Biểu tượng & Ý nghĩa thực tiễn của bánh xe
Vòng ngoài của bánh xe
Kết luận
Bản vẽ bánh xe của Tỳ kheo Khantipalo
Bản vẽ bánh xe của Tây Tạng
Bản vẽ bánh xe của Tây Tạng
Đây quả thật là lời dạy của Đức Thế Tôn:
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minh và ái dục; hai pháp có thể hiểu biết phải được chứng ngộ: trí tuệ và giải thoát; hai pháp có thể hiểu biết phải được phát triển: vắng lặng và minh sát.
Nền tảng của vô minh có tám:
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minh và ái dục; hai pháp có thể hiểu biết phải được chứng ngộ: trí tuệ và giải thoát; hai pháp có thể hiểu biết phải được phát triển: vắng lặng và minh sát.
Nền tảng của vô minh có tám:
Không hiểu biết sự khổ; không hiểu biết sự phát sanh của khổ; không hiểu biết sự chấm dứt của khổ; không hiểu biết pháp hành dẫn đến sự chấm dứt khổ; không hiểu biết dĩ vãng; không hiểu biết vị lai; không hiểu biết dĩ vãng và vị lai; không hiểu biết pháp Tùy Thuộc Phát Sanh (Thập nhị Nhân Duyên).
Nền tảng của tuệ giác có tám:
Hiểu biết sự khổ; hiểu biết sự phát sanh của khổ; hiểu biết sự chấm dứt của khổ; hiểu biết pháp hành dẫn đến sự chấm dứt khổ; hiểu biết dĩ vãng; hiểu biết vị lai; hiểu biết dĩ vãng và vị lai; hiểu biết pháp Tùy Thuộc Phát Sanh (Thập nhị Nhân Duyên).
Thanh bình thay, tuyệt hảo thay, sự dập tắt mọi điều kiện, sự tách rời ra khỏi mọi nền tảng vật chất (để tái sanh), sự tận trừ ái dục, trạng thái không dục vọng, chấm dứt, Niết bàn.
Này chư Tỳ khưu, có cảnh giới ấy không đất, cũng không có gió, lửa, cũng không có vô biên xứ, không có thức vô biên xứ, không vô sở hữu xứ, cũng không có phi tưởng phi phi tưởng. Không thế gian này hay thế gian khác, không mặt trăng cũng không có mặt trời.
Cảnh giới ấy, này chư Tỳ khưu, Như Lai tuyên ngôn, quả thật không có đến, không có đi, không có ở, không viên tịch, không phát sanh, không gì nâng đỡ, không di chuyển, không đối tượng -- đó quả thật là chấm dứt đau khổ.
Và pháp này quả thật thâm diệu, khó thấy, khó lãnh hội, thanh bình, tuyệt hảo, ngoài phạm vi luận lý, tế nhị, và để cho bậc thiện trí chứng ngộ.
-- Bản dịch từ Tập Kinh Tụng Hoàng Gia (The Royal Chanting Book - Suatmon Chabub Luang), do Ngài Sa Pussadevo, Tăng Vương thứ 9 nước Thái Lan, sưu tập và được nhà xuất bản Mahamakut, Bangkok, ấn hành.
LỜI MỞ ĐẦU
Hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, trong ngày trăng tròn
tháng Visàkha, có một đạo sĩ du phương tên Gotama (Cồ Đàm), vốn
là Hoàng Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta), đông cung thái tử của triều
đại Sakỳa (Thích Ca), đã tự mình chứng ngộ và trở nên Toàn Giác
do công phu minh sát trọn vẹn và đầy đủ Chân Lý gọi là Pháp
(Dharmma), tức danh, phần tâm linh, và sắc, cơ thể vật chất này.
Sự giác ngộ, hay thức tỉnh của Ngài, gọi là Chánh Biến Tri, đã
tiêu trừ vô minh và ái dục, đã dập tắt tham ái, sân hận, si mê,
trong tâm, và làm cho "nhãn kích phát sanh, tri kiến siêu phàm
phát sanh, trí tuệ phát sanh, sự khám phá phát sanh, ánh sáng
phát sanh". Một công trình minh sát trọn vẹn và thấu đáo đi sâu
vào danh và sắc, nguồn gốc của danh-sắc, sự chấm dứt danh-sắc, và con
đường dẫn đến sự chấm dứt danh-sắc ấy. Và đó là thông suốt trọn vẹn
và thấu đáo thế gian, sự chấm dứt thế gian, và con đường dẫn đến
sự chấm dứt thế gian. Sau bao nhiêu năm trường kiên trì cố gắng
và trong suốt đêm chú tâm minh sát, từ một người đi tìm chân lý
Ngài trở thành "Người Hiểu Biết", "Người Chứng Ngộ".
Phật thuyết Tứ Diệu Đế cho 5 anh em Kiều Trần Như
Về sau, khi có cơ hội giải thích sự khám phá vĩ đại ấy, Ngài
trình bày bằng nhiều phương cách khác nhau để cho mỗi người nghe
đều có thể lãnh hội. Và như thế, để giúp cho mỗi người, tùy căn
cơ và trình độ hiểu biết của mình, có thể đặt nhẹ gánh xuống bên
đường. Với trí tuệ siêu phàm Ngài thông suốt tận tường những gánh
nặng ấy là gì, mặc dầu lắm khi chính người mang gánh nặng trên
vai lại không hiểu biết gì về gánh nặng ấy, với tâm bi mẫn vô lượng,
Ngài truyền dạy Giáo Pháp cho những ai muốn bỏ gánh nặng xuống.
Những gánh nặng mà con người – đúng ra là tất cả chúng sanh –
phải khuân vác quanh quẩn theo mình ngày nay không có gì khác
biệt với những gánh nặng của người ở vào thời của Đức Phật. Bởi
vì trong hiện tại cũng như vào lúc thời bấy giờ, con người vẫn bị
ái dục và vô minh đè nặng trĩu trên vai. Con người không thấu
đạt Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên, con người bám bíu, đeo níu
theo núi lửa và thuốc độc của ngày nay cũng như thuở nào, và con người
bị lo âu sợ sệt làm tiêu mòn, sụp đổ. Đức Thế Tôn, người đã thành
đạt mức châu toàn, dạy rằng:
"Thâm diệu thay, này Ànanda, pháp Thập Nhị Nhân Duyên, pháp này quả thật thâm diệu. Vì không thông suốt và thấu triệt Định Luật này, thế gian tựa hồ như một cuộn chỉ rối, một ổ chim, một bụi tre rậm, một đám lát, vì không thông suốt và thấu triệt Định Luật này, con người không thoát khỏi đời sống ở những cảnh giới thấp hèn, không thoát khỏi trạng thái đau khổ và tuyệt vọng, và mãi mãi khổ đau trong vòng luân hồi."
Tình trạng không thông suốt định luật Tùy Thuộc Phát Sanh
(Thập Nhị Nhân Duyên) là nguyên nhân của mọi phiền não mà tất cả
chúng sanh phải chịu. Đó là công thức quan trọng nhất mà sự giác
ngộ của Đức Phật đã trình bày một cách chính xác. Vậy đối với
người Phật tử, là phải nhìn thẳng vào trung tâm của pháp này. Đây
là việc làm tối quan trọng, tối cần thiết. Và nhìn vào, không phải
bằng cách đọc sách, đọc kinh, hay bằng cách trở thành một chuyên viên
nghiên cứu về Tam Tạng, và cũng không phải bằng cách tranh luận
giữa quan niệm của mình và kẻ khác, mà phải là quan sát và thấy
rõ sự Tùy-Thuộc-Phát-Sanh trong đời sống của chính mình, phải bám
sát vào pháp gom tâm vắng lặng và minh sát trong "danh" và "sắc"
của chính mình.
"Người nào mà thấy pháp Tùy Thuộc Phát Sanh, là người ấy thấy Giáo Pháp."
Bây giờ, hãy nhìn xem giáo huấn này liên quan đến đời sống của
chúng ta như thế nào? Dầu ở trong trạng thái hay cảnh giới nào
-- người hay không phải người – tất cả chúng sanh đều mưu tìm
hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng cần phải biết là: yếu tố nào đem
lại đau khổ, để lẩn tránh, và yếu tố nào đem lại hạnh phúc, để cố
gắng phát triển và trau giồi. Đó là lập lại Tứ Diệu Đế bằng một lối
khác. Đoạn đầu của câu trên đề cập đến đau khổ, cái gì không bao
giờ toại nguyện, mà trong tiếng Phạn gọi là dukkha.
Dukkha (khổ) này là Chân Lý Thâm Diệu (Diệu Đế) đầu tiên mà
chúng ta kinh nghiệm một cách liên tục, từng giây từng phút,
nhưng thường thì chúng ta không ghi nhận và không hay biết được.
Và điều này – không ghi nhận và không hay biết – không làm cho dukkha
suy giảm chút nào! Trước tiên, có những đau khổ phát sanh tùy cơ
hội, như sanh, bệnh, lão, tử, vì những diễn biến này không bao
gồm trọn vẹn đời sống. Kế đó có những đau khổ thường xuyên, như
phải kết hợp với người mà ta không ưa thích, xa lìa người hay vật hay
hoàn cảnh mà ta ưa thích, không thành đạt những gì mong muốn. Và đó
là những việc thường xảy ra hằng ngày. Cuối cùng, để tóm lược,
có sự đau khổ liên tục, bao hàm tất cả các loại đau khổ (dukkha):
đó là ngũ uẩn thủ, tức chấp thủ vào năm nhóm: cơ thể vật chất
(sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), sanh hoạt của tâm (hành)
và thức. Đó là năm yếu tố cấu thành chúng sanh. Nếu phải giải
thích đầy đủ ở đây sợ e quá dài, tuy nhiên, mỗi người đọc đều có
thể được cung ứng dồi dào các loại đau khổ ấy trong chính bản
thân mình. Mỗi người phải tự chính mình, nhìn và quan sát, nhận thức
xem những gì mình đã kinh nghiệm trong đời sống có đáng được thỏa
thích hay không. Pháp này phải được "thông suốt trọn vẹn" trong
chính bản thân và trong chính đời sống của mình, nơi mà Diệu Đế
đầu tiên phải được khám phá.
Kế đó là những yếu tố đem lại sự bất toại nguyện, đau khổ, tức
không-hạnh phúc. Nơi đây cũng vậy, con người và đời sống phải
được quan sát thận trọng. Khi có những chúng sanh bị tôi sát hại,
khi tôi lấy một vật gì chưa được cho, khi tôi có hành động tà
dâm, khi tôi nói lời giả dối, khi tôi dùng những chất độc làm cho
tâm trở thành dễ duôi, bất cẩn, phóng dật – đó là những yếu tố đem
lại hạnh phúc hay bất toại nguyện? Khi tôi đem lòng tham muốn vật sở
hữu của kẻ khác, khi tôi để tâm chứa chấp những ý tưởng oán ghét,
hận thù, khi vô minh, tà kiến, và những quan kiến sai lầm khác
làm chủ tâm tôi – đó là những yếu tố đem lại an lành hay hoại
diệt cho tôi? Có rất nhiều phương cách để diễn tả các yếu tố tai
hại ấy, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ vô minh và ái dục. Và vô
minh và ái dục cũng chỉ là hai khía cạnh của mỗi một việc. Đó là
Diệu Đế thứ nhì, đề cập đến nguồn gốc hay sự Phát Sanh của dukkha,
đau khổ, bất toại nguyện. Khi ái dục hoạt động, khi vô minh bao
trùm sự hiểu biết của ta như đám mây mờ, lúc ấy chắc chắn chúng ta
đang kinh nghiệm đau khổ. Vì lợi ích cho ta và cho kẻ khác, lời giáo
huấn của Đấng Từ Phụ là ái dục ấy "phải được diệt tận".
Phần nhì của câu được nêu trên đề cập đến hạnh phúc. Có nhiều
loại hạnh phúc. Hai loại tùy thuộc điều kiện, được chứng nghiệm
đó đây trong thế gian và loại thứ ba, không tùy thuộc điều kiện,
không do điều kiện nào nâng đỡ hay hỗ trợ, "phải được chứng ngộ".
Tất cả chúng ta đều mưu tìm hạnh phúc. Vậy, hãy tìm xem ta phải
cần những gì? Đầu tiên, có loại hạnh phúc do vật chất tạo nên, phát
sanh từ quyền sở hữu và việc khéo xử dụng thủ đoạn với những điều
kiện của cuộc sống "ngoài đời". Loại hạnh phúc này, được gọi là
àmisa sukha, quả thật bấp bênh, không có gì chắc chắn vững bền,
bởi vì tất cả những yếu tố nâng đỡ, hỗ trợ nó đều tạm bợ và biến
đổi không ngừng. Lại nữa, nó nằm ở nơi thế tục, ở ngoại cảnh, chớ
không phải ở trong tâm ta và như vậy, cần phải có tài năng tinh
xảo kỳ diệu mới cứu ta thoát khỏi dukkha, đau khổ. Và
chúng ta không thể tránh khỏi những thất bại, thất vọng, bất mãn,
nếu cứ mãi mãi chạy theo loại hạnh phúc vật chất ấy. Đó là loại hạnh
phúc ngắn ngủi, nhất thời. Trên một tầng lớp cao thượng hơn nhiều
là hạnh phúc đến với ta bằng cách thực hành Giáo Pháp, được gọi
là hạnh phúc phi-vật-chất hay niràmisa-sukha, hạnh phúc tinh thần
đạo đức. Hạnh phúc này phát sanh đến người tạo đầy đủ mười thiện
pháp là: bố thí, trì giới, hành thiền, tôn kính bậc trưởng
thượng, tạo công đức phục vụ, hồi hướng phước báo đến người khác,
nghe Giáo Pháp, dạy Giáo Pháp, và củng cố quan kiến theo chánh
pháp. Người thực hành Giáo Pháp này, thanh lọc tâm như vậy, chắc
chắn sẽ gặt hái hạnh phúc. Tuy nhiên, ta không thể mãi mãi ỷ lại
vào loại hạnh phúc này mặc dầu nó vững bền và cao thượng hơn loại trước
nhiều. Do quả báo của nó ta có thể hưởng một kiếp sống thật lâu
dài, nhàn nhã, giữa những vị Trời, hay sanh làm người có thật
nhiều may mắn. Nhưng, dầu ở cảnh Trời, dầu có được tuổi thọ thật
dài đi nữa, rồi cũng phải mạng chung, khỏi cần đề cập đến cảnh
người. Vả lại, những hậu quả của nghiệp, dầu tốt hay xấu, đều là
vô thường, nghĩa là luôn luôn biến đổi.
Như vậy ta không thể ỷ lại vào những quả ấy để mưu tìm hạnh
phúc thường còn, không biến đổi. Muốn có hạnh phúc trường cửu
phải tận diệt trọn vẹn nguồn gốc của dukkha, đau khổ.
Khi ái dục đã bị tiêu trừ tận căn cội, đau khổ không còn phát
sanh được nữa. Trái lại, nhờ trong sạch, từ bi và trí tuệ, ta đạt đến
hạnh phúc tối thượng của Niết Bàn, bền vững, không thể hoại diệt,
không thể biến đổi. Đó là Diệu Đế thứ ba, sự chấm dứt đau khổ,
bằng cách diệt trừ nguồn gốc của nó. Để thành đạt cái "cần phải
được chứng ngộ" ấy có nhiều việc phải làm, và những việc phải làm
ấy phải theo một đường lối chân chánh, do đó, Diệu Đế thứ tư,
Đạo Đế. Đế này được gọi là Chân Lý của Con Đường, và Con Đường
này "phải được phát triển".
Con Đường gồm những thành phần của trí tuệ: chánh kiến, chánh
tư duy; những thành phần của giới đức: chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng; và những thành phần của pháp hành thiền định: chánh
tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Nơi đây sẽ không giải thích
những thành phần này. Người thực hành Giới, Định, Tuệ chắc chắn
sẽ có những điều kiện để duy trì hạnh phúc. Nhờ thực hành như vậy
hành giả có thể đạt đến hạnh phúc tinh thần đạo đức gọi là hạnh phúc
của Giáo Pháp, hoặc hạnh phúc Tối Thượng, tùy theo mức độ tiến
triển. Muốn thành đạt hạnh phúc Niết Bàn cần phải gia công cố
gắng thật nhiều để phát triển cả hai lối thiền, thiền vắng lặng (samatha) và thiền minh sát (vipassanà).
Tứ Diệu Đế, hay bốn Chân Lý Thâm Diệu ấy – khổ, nguyên nhân
sanh khổ, diệt khổ, và con đường diệt khổ - là trung tâm của Giáo
Pháp, phải nằm trong lòng của mỗi ai muốn nhận thấy. Do nhận
thấy và hiểu biết thấu đáo Tứ Diệu Đế, hạnh phúc sẽ đến, nhưng cố
tìm cách lẩn tránh thì đau khổ sẽ phát sanh.
Bốn Chân Lý ấy, trình bày trong công thức "Tùy Thuộc Phát
Sanh", đã được giải thích bằng nhiều phương cách. Hình thức giản
dị nhất là:
"Có ái dục tức có đau khổ. Do sự phát sanh của ái dục, đau khổ phát sanh.
Không có ái dục tức không có đau khổ. Do sự chấm dứt ái dục, đau khổ chấm dứt."
Tuy nhiên, có thể giải thích dông dài và đầy đủ hơn. Nguyên
tắc quan trọng để thấu hiểu rõ ràng pháp Thập Nhị Nhân Duyên, hay
Phát Sanh Tùy Thuộc, là nhận định rằng tất cả những gì mà ta
chứng nghiệm đều do điều kiện phát sanh (duyên sanh). Hãy lấy
thân này làm thí dụ. Từ lúc mới lọt lòng mẹ là một trẻ sơ sinh,
rồi dần dần lớn lên, phát triển dần những đặc tánh để trở nên thuần thục
cho đến khi bị tuổi già bám vào, làm cho cơ thể tàn phế, cách
này hay cách khác, và cuối cùng, chết. Tiến trình điều hành sự
trưởng thành và tàn lụi thật vô cùng phức tạp và tương quan chằng
chịt với nhau. Muốn giữ thân được trọn vẹn, tối thiểu cần phải
có y phục, thức ăn, chỗ ở và thuốc men. Nhưng một khi những phản
ứng hóa học bên trong (cũng phải tùy thuộc phát sanh) bắt đầu
tiến trình, dẫn đến tuổi già và hoại diệt, không có điều kiện hỗ
trợ nào từ bên ngoài có thể giúp gì hơn là làm cho tiến trình ấy
chậm trễ đôi chút. Cơ thể vật chất này, xem như một đơn vị, không thể
phát sanh từ không-nguyên-nhân (những tinh trùng vật chất là
nguyên nhân trực tiếp), cũng không thể phát sanh từ một nguyên
nhân duy nhất. Quan sát tỉ mỉ và tận tường, không có gì ta chứng
nghiệm mà phát sanh từ một nguyên nhân duy nhất hay không nguyên
nhân. Trái lại, những gì ta thọ cảm đều chằng chịt tùy thuộc lẫn
nhau. Như sự thấy của ta chẳng hạn, phải tùy thuộc ở nhãn căn,
tức mắt, nhãn trần, tức vật để thấy, đối tượng của sự thấy và
hoạt động của nhãn thức, (ngoài ra còn có những yếu tố khác góp
phần vào như ánh sáng, không khí v.v…). Tương tự như sự thấy ấy, tai, âm
thanh, nhĩ thức; mũi, mùi và tỉ thức; lưỡi, vị và thiệt thức;
thân, xúc và thân thức; và tâm hay ý, tư tưởng, hay pháp, và ý
thức. Tất cả những gì ta thọ cảm đều nằm trong mười tám nguyên tố
(hay giới) ấy, và ngoài các nguyên tố ấy ta không còn biết gì
khác.
Điều quan trọng cần nên nhận thức là phần lớn những gì ta thọ
cảm đều phát sanh tùy thuộc lẫn nhau và đều là hậu quả của hành
động nào chính ta đã làm trong quá khứ. Hạnh phúc mà ta hưởng hay
đau khổ mà ta chịu, mặc dầu đến với ta do những diễn biến của
thế gian vật chất bên ngoài (như động đất, bão, lụt, trời mưa,
trời nắng v.v…) vẫn thường phát sanh do những hành động có tác ý
(nghiệp) của ta trong quá khứ. Và trong hiện tại, với mỗi hành
động có ý thức, ta đang tạo nghiệp mới. Nghiệp này sẽ phối hợp
với nghiệp sẵn có để đem lại quả mà ta sẽ gặt hái trong tương
lai. Như vậy, muốn thọ cảm hạnh phúc, muốn gặt hái quả ngọt, ta
phải gieo trồng từ bây giờ những hột giống tốt. Cây có thể cho
trái tức khắc, trong kiếp sống hiện tại, hay trong một kiếp sống
tương lai. Ta làm ra ta. Ta là người tạo ra ta, không có bàn tay nào
của ai khác. Và đấng Thần Linh Tạo Hóa không phải ai khác hơn là Vô
Minh, hay sự không hiểu biết. Vô Minh là đấng Tạo Hóa đã tạo nên
bánh xe luân hồi và những hình thức liên tục và khác nhau vô cùng
tận của sự đau khổ. Đấng Tạo Hóa ấy ngự trong tâm của tất cả
những ai còn được gọi là "phàm nhân", những chúng sanh trong tam
giới (Dục, Sắc và Vô Sắc Giới). Chúng ta sẽ trở lại vấn đề với
nhiều chi tiết hơn.
LỊCH SỬ CỦA BÁNH XE LUÂN HỒI
Pháp "Phát-Sanh-Tùy-Thuộc" hay Thập Nhị Nhân Duyên được giải
thích nhiều lần và được ghi chép ở nhiều nơi trong những bài
thuyết giảng của Đức Phật, nhưng Ngài không so sánh với bánh xe.
Sự so sánh này được thấy trong sách Visudhimagga (Thanh Tịnh Đạo)
và các bản chú giải khác. Mặc dầu kinh điển theo truyền thống
Theravàda (Nguyên Thủy) có nhiều đoạn nhắc đến, nhưng hình như
pháp này không được mô tả như một bánh xe. Nhưng ở miền Bắc Ấn
Độ, và đặc biệt ở Kashmir, trường phái Sarvàstivàda (¹) (Thuyết nhất thiết hữu bộ, hay thường gọi tắt là Hữu bộ)
đã được thiết lập vững chắc, ngoài ra nhiều kinh sách về Giới
Luật và Vi Diệu Pháp (Vinaya và Abhidhamma) cũng có một lối vẽ
theo hình bánh xe để mô tả giáo lý rất quan trọng của pháp Thập Nhị
Nhân Duyên. Bánh xe ấy là đề tài của bản khái luận này.
Danh từ Pàli Bhava-cakka hay Samsàra-cakka,
có khi được phiên dịch là Bánh Xe của Đời Sống, có lúc cũng được
gọi là Bánh Xe của sự Trở Thành (Bhava, Hữu) hay Bánh Xe của
Vòng Quanh Sanh Tử (Samsàra, Luân Hồi).
Bộ kinh Avadàna, thuật lại các tích truyện về Đức Phật và các
đệ tử, có một quyển mở đầu bằng tích truyện về bánh xe này. Người
đọc thấy rằng tích truyện về bánh xe nhắc lại thời Đức Phật còn
tại thế, và có ghi nhận rằng Ngài đã có cho vẽ hình bánh xe và
cũng có lời chỉ bảo về nội dung của bánh xe. Chắc chắn là vào
thời ấy người ta đã biết xử dụng bộ môn hội họa (đã có nhiều lần được
ghi nhận trong Giáo Pháp và Giới Luật). Ngoài ra, các sự kiện khác
được nêu lên trong lời mở đầu ngắn ngủi ấy đều thích hợp với tinh
thần kinh điển Pàli. Theo vài học giả, bộ kinh này đã được kết
tập trước thời có Dương lịch. Vậy, nếu ta không tin rằng Đức Phật
đã chỉ bảo lối vẽ bánh xe ấy thì ít ra, bánh xe này cũng được vẽ
ra vào khoảng hai ngàn năm nay. Hai ngàn tuổi đầu âu cũng là một
tập tục khả kính vậy!
Về những gì có tác dụng giúp ta thấu hiểu giáo lý, lối diễn
đạt những phương tiện lành (upàya-kosalla) này chắc chắn là lâu
đời nhất.
BẢN DỊCH
"Thủa ấy Đức Thế Tôn ngự tại thành Ràjagaha (Vương Xá), trong
vùng Trúc Lâm, chỗ nuôi sóc. Lúc bấy giờ Đức Mahàmoggallàna (Mục
Kiền Liên) thường đi viếng địa ngục trong một lúc rồi viếng các
cảnh thú và ngạ quỷ, chư Thiên và nhân loại. Đã nhận thấy tất cả
những đau khổ mà chúng sanh trong cảnh địa ngục phải chịu, những
hoàn cảnh sanh rồi diệt, những cảnh tàn phế, què tay, cụt chân v.v…,
đã chứng kiến cảnh những con thú này sát hại và cấu xé những con
khác, đã mục kích cảnh ngạ quỷ bị đói khát dày vò và cảnh chư
Thiên bị sa đọa, phải rời cảnh Trời, phải chịu hư hỏng và sụp đổ,
và cảnh con người tham ái chỉ đi đến bất toại nguyện và tuyệt
vọng…, khi đã nhìn thấy các điều ấy, Ngài Moggallàna (Mục Kiền
Liên) trở về Jambudìpa (Ấn Độ), kể lại cho hàng tứ chúng. Vị đại
đức nào có một người bạn đồng tu, hay một môn đệ bất mãn với đời
sống thánh thiện thiêng liêng cũng đem đến Ngài, bụng nghĩ rằng: "Ngài
Mục Kiền Liên sẽ khuyên nhủ và dạy dỗ người ấy đầy đủ." Và đúng
như vậy, Đại Đức Moggallàna khuyên nhủ và dạy dỗ người ấy đầy đủ.
Thiêng Liêng một cách hoan hỷ và tinh tấn. Những người lỗi lạc
trong mấy nhóm ấy cũng chứng đắc các đạo quả cao thượng nhờ Ngài
Moggallàna khuyên nhủ và dạy dỗ một cách đầy đủ.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ngự tại Ràjagaha, có đông đảo
hàng tứ chúng gồm chư tỳ khưu, tỳ khưu ni, thiện nam và tín nữ ở
quanh Ngài Moggallàna.
Đức Chánh Đẳng Chánh Giác, Chánh Biến Tri cũng nêu lên những
câu hỏi. Ngài hỏi Đức Ànanda (A Nan Đà) vì sao hàng tứ chúng bao
vây vị Đại Đệ Tử bậc nhì của Ngài. Đức Ànanda thuật lại những
kinh nghiệm của Ngài Moggallàna và bạch rằng Đức Moggallàna đã
thành công trong việc khuyên dạy các tỳ khưu bất mãn. Đức Thế Tôn
dạy: "Vị cao tăng Moggallàna (Mục Kiền Liên) hay một vị tỳ khưu
khác, cũng cao tăng như vậy, không thể ở khắp mọi nơi cùng một lúc để
dạy dỗ đại chúng. Vậy, nơi trước cổng chùa phải vẽ một bánh xe
chia làm năm phần. "
Vậy, Đức Thế Tôn dạy phải vẽ một bánh xe chia làm năm phần.
Đến đây có sự ghi nhận rằng: "nhưng các vị tỳ khưu không biết vẽ
loại bánh xe nào".
Chừng đó, Đức Thế Tôn giải thích: "Năm cảnh giới phải được
diễn đạt – cảnh địa ngục, cảnh thú, cảnh ngạ quỷ, cảnh người,
cảnh chư Thiên. Những cảnh địa ngục, thú và ngạ quỷ phải được
diễn tả ở phần dưới (của bánh xe), phần trên vẽ cảnh người và
cảnh chư Thiên, Bốn lục địa cũng phải được mô tả là Pubbavideha,
Aparagoyàna, Uttrakuru, và Jambudìpa.(²) Ngay trung tâm vòng bánh xe,
tham, sân, si phải được tiêu biểu. Một con bồ câu (³) tượng trưng
tâm tham, con rắn tượng trưng tâm sân, và con heo tượng trưng tâm
si. Hơn nữa, phải vẽ hình tượng trưng chư Phật, có hào quang, chỉ (con
đường đến) Niết Bàn. Hạng chúng sanh tầm thường phải được mô tả
như bị chìm đắm (xuống những trạng thái thấp hơn) và trồi lên trở
lại. Chung quanh rìa là (phần giáo huấn) mười hai khoen của Thập
Nhị Nhân Duyên, theo chiều xuôi và chiều ngược.
Hình của bánh xe phải cho thấy rõ ràng rằng mọi vật, mọi thời
kỳ, đều bị lý vô thường nuốt mất và sau đó phải thêm hai câu thơ:
"Hãy khởi hành, bỏ lại phía sau cuộc đi vô định.
Hãy gom tâm chăm chú vào Giáo Huấn của Đức Phật.
Làm như Ngài, bậc Lãnh Đạo, như voi, voi chúa Nàlàgiri vững bước như thế nào
Hãy làm như thế ấy, và hãy chiến thắng Tử Thần.
Người nào, trong Giáo Pháp và Giới Luật, đi con đường của mình,
Luôn luôn giác tỉnh, luôn luôn kiên trì cố gắng.
Người ấy có thể chấm dứt đau khổ ở đây,
Và bỏ lại sau lưng bánh xe của vòng sanh tử luân hồi"
Như vậy, theo lời thỉnh cầu của chư vị tỳ khưu, Đức Phật
truyền lịnh cho vẽ bánh xe luân hồi của vòng sanh tử triền miên
chia làm năm phần trên các cổng chùa.
Bấy giờ có những vị Bà la môn và những vị cư sĩ đến hỏi: "Kính Bạch Đại Đức, hình vẽ ấy có ý nghĩa gì?"
Chư vị tỳ khưu trả lời: "Sư cũng không biết!"
Nhân cơ hội đó, Đức Phật khuyên dạy: "Phải để một thầy tỳ khưu
ở trước cổng chùa, chịu trách nhiệm tiếp đón khách và giải thích
hình vẽ".
Có những vị tỳ khưu được phân công (để tiếp khách) mà không
được chọn trước, những vị cuồng si, lơ đễnh, không thông hiểu rõ
ràng và không tạo công đức. Do đó có lời phản đối: "Chính các
thầy ấy cũng không thông hiểu, làm sao các thầy ấy có thể chỉ dẫn
được những người khách Bà la môn và cư sĩ (xem hình vẽ)? "
Đức Thế Tôn truyền dạy: "Phải đặt trước cổng chùa một thầy tỳ khưu có đủ tư cách." (4) .
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA TẬP TỤC
Truyền thuyết Tây Tạng kể rằng Đức Thế Tôn lấy hột lúa sắp ra
những nét đại cương của bánh xe, khi Ngài đi qua một cánh đồng.
Dầu sự thật là như thế nào chăng nữa, ở Ấn Độ, ít ra tại chùa
Sarvàstivàda, bánh xe trang trí bên trong cổng chùa đã gây cảm
xúc mạnh mẽ trong tâm người hiểu biết ý nghĩa và gợi tánh tò mò
cho những người khác.
Sự tàn phá các di tích Phật Giáo ở Ấn Độ rộng rãi đến độ không
còn tìm được ở đâu những cánh cổng chùa có vẽ hình bánh xe luân
hồi. Chỉ còn vỏn vẹn một bức họa đơn độc ở động Ajanta, hang số
17, có lẽ còn cái gì có hình thù tương tợ như bánh xe. Trong bản
dịch được ghi nhận ở phần trên không thấy nhắc đến hình ảnh gì để
diễn tả mười hai vòng khoen của giáo lý Phát-Sanh-Tùy-Thuộc, và
người ta nói rằng về sau chính Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ), một nhà truyền
giáo vĩ đại của đạo Phật mà nhiều câu thơ sẽ được trích đăng ở
phần sau – sẽ bổ túc. Từ Ấn Độ, cái mẫu bánh xe được Ngài Bande
Yeshe đem đến Samye, ngôi chùa đầu tiên ở Tây Tạng, và từ đó
chính nhờ hệ phái Sarvàstivàda (Nhứt Thiết Hữu Bộ) kiên cố bảo
trì cho đến ngày nay. Do đó tập tục về bánh xe được vẽ ngay phía
trong tiền đình, đập vào mắt của tất cả những ai bước chân vào
ngôi chùa.
Truyền thuyết Tây Tạng đề cập đến hai loại bánh xe, loại xưa
và loại nay. Loại vẽ theo xưa căn cứ trên bản văn kiện được dịch ở
phần trên. Loại nay thì có thêm vào đó vài điểm mới. Nhà cải
cách tôn giáo trứ danh Je Tsong-khapa (1357), người sáng lập
trường phái Gelupgpa (Những Bậc Đức Hạnh, tức Hoàng Giáo Tây Tạng, mà
Ngài Dalai Lama là người đứng đầu) đã cho phép phân bánh xe ra làm
sáu phần, thay vì năm, và vẽ hình Bồ Tát Avalokitesvara (Đức Quán
Thế Âm) thế vào hình một vị Phật trong mỗi phần không phải cảnh
người. Cả hai loại bánh xe này đều có trong lối vẽ ở Tây Tạng.
Cảnh thứ sáu mô tả hạng Asura (A Tu La) đang gây chiến tranh với
những vị Trời Dục Giới. Trong bản vẽ của tôi (Đại Đức
Khantipalo), tánh cách ma quỷ và lộn xộn ấy nằm trong một phần
riêng biệt của cảnh Trời. Sự kiện đưa vào cảnh giới một nhân vật
tượng trưng cho Đức Phật là để nêu cao đức từ bi vô lượng vô biên của
Ngài, vì Đức Avalokitesvara là hiện thân của tâm bi mẫn sáng suốt.
Người viết (Đại Đức Khantipalo) chọn lối diễn đạt xưa, hợp với
bản văn được dịch trên, vì nó hoàn toàn thích hợp với Giáo Lý
Nguyên Thủy.
Tánh cách khủng khiếp và hung bạo của vòng luân hồi – luôn
luôn ở với ta trong mọi thời đại – đã được nhận thấy một cách phũ
phàng trong sự cướp đoạt xứ Tây Tạng của người Trung Hoa xâm
lăng. Các họa sĩ Tây Tạng còn giữ được nguyên vẹn tập tục cổ
truyền cho đến ngày nay và vẫn còn thực hiện những bức vẽ, trong hoàn
cảnh khó khăn của người tỵ nạn ở Ấn Độ. Tuy nhiên, đường lối
trình bày Giáo Pháp cổ kính này đáng được truyền bá rộng rãi hơn.
Nơi tôn nghiêm thờ phượng của người Phật tử nên có một bức tượng
như vầy để nhắc nhở cho mình bản chất quay tròn của bánh xe sanh
tử triền miên luân chuyển này.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment