"Và trong lúc không thực hành Giáo Pháp, chúng ta sẽ bị sức mạnh
của thói quen quá khứ lôi cuốn đi. Cùng lúc ấy, ái dục và vô minh
tiếp tục tăng trưởng bên trong chúng ta... "
VÒNG NGOÀI CỦA BÁNH XE
Sợi Xích Mười Hai Khoen
Bây giờ, chúng ta hãy mô tả Vòng Ngoài, cái niềng của bánh xe,
tượng trưng mười hai giai đoạn của Thập Nhị Nhân Duyên, hay pháp
Tùy-Thuộc-Phát-Sanh. Đó là những giai đoạn, những vòng khoen nối
liền toàn thể chúng sanh vào trạng thái luôn luôn trở thành và
đau khổ.
Có một tập tục cổ truyền vững chắc giải thích vòng Thập Nhị
Nhân Duyên bằng cách phân làm ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và
tương lai. Hiện tại là thời gian duy nhất thật sự có, và hiện tại
do quá khứ xây đắp, uốn nắn. Chính trong hiện tại chúng
ta tạo nghiệp bằng thân, khẩu, ý, để trổ quả trong tương lai.
Trong mười hai "giai đoạn nối liền" (hay nidàna, vòng khoen),
quanh tròn vòng bánh xe, có đầy đủ những gì xảy ra trong đời sống và đó
là giải đáp cho tất cả những câu hỏi liên quan đến kiếp nhân
sinh. Tuy nhiên, giáo lý Tùy-Thuộc-Phát-Sanh, trung tâm điểm của
Giáo Pháp và Giới Luật, không phải là một đề tài để biện luận mà
phải được khảo sát và nhận thức trong chính bản thân mình và ở
người khác, và cuối cùng có thể tri giác trong tâm của chính
mình, vì ở đó tất cả những Chân Lý của Giáo Pháp trở nên rõ ràng
minh bạch sau thời gian thực hành. Nhưng, những ai không thực
hành Giáo Pháp thì được gọi là những người "nâng đỡ thế gian". Các người
này để cho vô minh quay tròn bánh xe, lần đến già, đến chết. Đức
Thế Tôn hằng khuyên nhủ và nhắc nhở chúng ta không nên làm
"người nâng đỡ thế gian", trái lại, hãy thực hành Giáo Pháp nhằm
dập tắt tham ái, sân hận, si mê và do đó chấm dứt vô minh, chấm
dứt sanh, già, bệnh, chết.
Giờ đây, chúng ta hãy sơ lược duyệt qua mười hai vòng khoen của sợi dây xích ấy.
Vòng Khoen Đầu Tiên: VÔ MINH (Avijjà)
Danh từ Pàli "Avijjà" là " không hiểu biết trọn vẹn", đầy đủ,
chớ không có nghĩa là "không hiểu biết gì cả". Sự "không hiểu
biết" ở đây rõ ràng đặc biệt, không liên quan đến đường lối hiểu
biết hay đề tài được hiểu biết theo nghĩa thông thường. Không
hiểu biết ở đây là không hiểu biết Tứ Diệu Đế. Vô minh là không
trông thấy rõ ràng Tứ Diệu Đế trong tâm mình và trong đời sống của chính
mình. Trong những kiếp sống quá khứ chúng ta không màng tìm thấy
dukkha, khổ (1). Do đó chúng ta không thể tiêu trừ
nguồn gốc của khổ (2), ái dục, và ái dục thúc đẩy ta cố tìm sống
nữa, sống thêm, thêm nhiều kiếp nữa, tìm thêm khoái lạc, tìm
khoái lạc thêm nữa. Sự chấm dứt đau khổ (3) mà có lẽ trong quá
khứ chúng ta đã có thấy thoáng qua nhưng không nhận thức được,
bây giờ ta lại đến đây, trong kiếp sinh tồn hiện tại – dĩ nhiên là đang
mang nặng niềm đau khổ. Và trong quá khứ chúng ta không biết đặt
chân trên con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ (4) và chúng ta
không khám phá ra lối vào Dòng Suối (Nhập Lưu). Hiện thời chúng
ta đang trả cái giá đã để lãng quên, cái giá dễ duôi trong quá
khứ. Và sự không hiểu biết, hay vô minh này không phải là một
loại nguyên nhân đầu tiên trong quá khứ, bởi vì chính trong hiện
tại của nó vẫn còn nằm trong tâm ta. Tuy nhiên, cũng như chúng ta
sẽ thấy, do vô minh ấy chúng ta đã chuyển động bánh xe quay
tròn, mang lại cho ta hết sanh rồi lão và tử, triền miên như thế, cùng
với những hình thức đau khổ (dukkha). Những cái "tự ngã "
của tôi trong quá khứ, vốn lăn trôi theo luồng sinh lực liên tục
của tôi từ vô lượng tiền kiếp, đã không kiểm soát được ái dục
của nó và như vậy, không thể cắt dứt cội rễ của vô minh. Trái
lại, chúng nó còn tạo thêm nghiệp mới mà trong hiện tại tôi đang
thọ lãnh hậu quả.
Bức họa giúp ta thấu hiểu điểm này. Một thiếu phụ mù (danh từ
avijjà thuộc về giống cái) tay cầm cây gậy, tìm đường đi xuyên
qua một khu rừng cằn cỗi dẫy đầy những lóng xương. Hình như bức
họa đầu tiên vẽ một con lạc đà cái già và mù, lầm lủi bước chân
theo người dẫn đường. Lạc đà là một loại thú quen thuộc với những
cuộc hành trình dài đẵng và mệt nhọc, xuyên qua những vùng đất xa
lạ. Người dẫn nó chính là ái dục. Dầu muốn dùng hình ảnh nào để diễn
tả vô minh, bức họa cũng gợi cho ta tánh chất vô thủy (không có
một khởi điểm) và tối tăm của nó. Chúng ta là những người mù đã
kéo lê bước chân, thênh thang từ quá khứ đi vào hiện tại – và sẽ
hướng về một tương lai như thế nào?
Tùy thuộc nơi sự hiện hữu của vô minh trong tâm, đã có hành
động có tác ý, hay nghiệp, hay abhisankhàra, đã được tạo nên
trong những kiếp quá khứ.
Vòng Khoen Thứ Nhì: HÀNH (Sankhàra, hành động có tác ý)
Hành động có ý chứa đựng một năng lực tiềm ẩn sẽ trổ quả trong
tương lai – hoặc ở phần sau của kiếp hiện tại, hoặc xa hơn nữa,
vào một lúc nào trong tương lai. Nhưng khả năng trổ quả vẫn luôn
luôn còn đó, dầu phải trải qua nhiều a-tăng-kỳ kiếp đi nữa. Vào
lúc nào cơ duyên cần thiết được hội đủ thì nghiệp quá khứ ắt trổ
sanh. Bây giờ, do vô minh hay sự không hiểu biết Tứ Diệu Đế, chúng ta
đã tạo nghiệp trong những kiếp sống quá khứ. Tới đây, chúng ta là
những người "nâng đỡ thế gian" và như vậy, đã tạo nghiệp, tốt hay
xấu, thiện hay ác, chúng ta duy trì cuộc sinh tồn liên tục trên
thế gian.
Những chúng sanh như thế ấy, những người còn bị màn vô minh
gây trở ngại trong tâm, cũng giống như các anh thợ đồ gốm. Anh
thợ đồ gốm để hết tâm trong công việc tạo nên những món đồ tốt
đẹp như lọ, bình v.v… (thiện nghiệp) và đôi khi anh cũng thiếu
thận trọng, dễ duôi làm bể một món đồ hay, bằng cách này hay bằng
cách nọ, anh lỡ để hư hỏng một món khác (bất thiện nghiệp). Và anh để
cho bùn đất dính dơ tay chân, mình mẩy, cũng như tánh cách trong
sạch của tâm đôi khi bị bùn dơ của nghiệp làm lu mờ. So sánh
chúng sanh tạo nghiệp với anh thợ đồ gốm là thích đáng, vì danh
từ "sankhàra" có nghĩa là "tạo nên", "uốn nắn", "tạo nên một hình
thể", "cấu hợp" và do đó thường được phiên dịch là "vật cấu
tạo", "pháp hữu vi". Nơi đây, trong pháp Thập Nhị Nhân
Duyên, sankhàra là hành, tức những hành động có tác ý.
Tùy thuộc nơi sự hiện hữu của những hành động có tác ý trong
quá khứ, phát sanh tâm thức gọi là "tâm-nối-liền". Và thức này là
nền tảng của kiếp sống hiện tại.
Vòng Khoen Thứ Ba: THỨC (Viññàna)
Phẩm chất của thức, hay thức-nối-liền, có thể rất khác nhau,
tùy nghiệp đã tạo ra trong kiếp quá khứ. Trong trường hợp của
những ai đang đọc quyển sách này, cái tâm "nhảy" vào kiếp sống
mới lúc bắt đầu thọ thai là một loại tâm-nối-liền có tánh chất
người, phát sanh như là kết quả của một cuộc sống nghiêm túc thọ trì
năm giới, nền tảng của một kiếp sống quá khứ có "tánh cách người".
Nên ghi nhận rằng thức-nối-liền là một tâm quả, nghĩa là một loại
tâm phát sanh do một nhân quá khứ, là hậu quả của một nhân quá
khứ, chớ không phải cái gì mà ta có thể kiểm soát. Nếu không tạo
nghiệp nào thích ứng để tái sanh vào cảnh người thì lúc chết sắp
đến ta không thể muốn: "Bây giờ ta lại tái sanh vào cảnh người
một lần nữa! ". Thời gian mà ta có thể muốn là lúc đang có cơ hội
thực hành Giáo Pháp. Mặc dầu thức-tái-sanh trong kiếp sống này
đã qua, chính trong hiện tại, ngay giờ phút này, chúng ta có thể thực
hành Giáo Pháp để tạo thức-tái-sanh thuận lợi trong tương lai một
cách chắc chắn hơn – nói như vậy là nếu ta muốn còn tiếp tục đi
nữa trong vòng luân hồi.
Thức-nối-liền là thành phần thứ ba, cần thiết để cấu tạo bào
thai. Bởi vì, dầu có tinh trùng trong lòng mẹ đúng vào thời kỳ
sanh sản, mà không có một "chúng sanh" tái sanh vào đúng nơi và
đúng lúc thì không có bào thai. Trong bức họa có hình con khỉ,
tượng trưng cho tâm hay thức, nhảy từ cây này, kiếp sống cũ,
chuyền sang một cây khác, kiếp sống mới. Cây cũ đã khô cằn, nhưng cây
mới mang nhiều trái. Trái này có thể là quả lành hay quả dữ.
Trong bức vẽ của Tây Tạng có một con khỉ đang ăn trái, tức đang
thọ hưởng hậu quả của những hành động quá khứ.
Tùy thuộc nơi thức-nối-liền, phát sanh danh-sắc.
Vòng Khoen Thứ Tư: DANH-SẮC (Nàma-rùpa)
Danh từ Rùpa (Sắc) đôi khi được dịch là thân thì không mấy
chính xác, nhưng cho ta một ý niệm tổng quát. Danh từ Rùpa bao
gồm nhiều ý nghĩa hơn là một cái thân. Nàma (Danh) gồm có cảm
giác (thọ), tri giác (tưởng), những sinh hoạt tâm linh (hành) và
thức. Danh và sắc là hai sự liên tục tương ứng trong ấy không có
cái gì là vững bền, thường còn, không biến đổi. Trong cuộc sống thông
thường, một cách ước định, ta nói "tâm của tôi", hay "thân của
tôi". Dường như có một ý niệm nào về quyền sở hữu, phảng phất đâu
đó trong hậu cảnh, nhưng bậc thiện trí thấu hiểu rằng có những
định luật chi phối cả hai phần danh và sắc. Cả hai, những trạng
thái tâm và phần vật chất, luôn luôn chuyển biến. Và chúng ta
không thể ra lịnh, bảo tâm đừng bợn nhơ, ô nhiễm, hay bảo thân
phải ngưng trưởng thành, già nua và chết.
Tuy nhiên ta có thể uốn nắn tâm theo ý muốn, thay vì để nó
bềnh bồng trôi giạt trải qua suốt kiếp sinh tồn, mặc cho lý vô
thường đổi thay danh và sắc, hai yếu tố vốn không bền vững. Do
đó, trong bức vẽ, tâm được trình bày đang làm công việc chèo
chống con thuyền tâm-vật-lý (tức chúng sanh) trên dòng sông ái dục.
Trong khi ấy, sắc hay cơ thể vật chất, chỉ là khách đi thuyền,
thụ động. Bức họa Tây Tạng vẽ chiếc thuyền con đang vượt qua một
dòng nước xoáy, trên thuyền có ba (hay bốn???) người khách, Có lẽ
những người khách này tượng trưng các uẩn.
Với sự hiện hữu của danh sắc, phát sanh lục căn.
Vòng Khoen Thứ Năm: LỤC CĂN (Salàyatana)
Căn nhà có sáu cửa sổ là biểu tượng thông thường cho vòng
khoen này. Sáu cửa, hay lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
Đó là những căn cứ để thâu nhận tin tức khác nhau từ bên ngoài.
Và những tin tức này gồm sáu loại (lục trần) đối tượng của sáu
căn là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Ngoài lục căn và lục
trần, chúng ta không hay biết gì khác. Tất cả những gì chúng ta thọ
cảm đều giới hạn trong phạm vi của giác quan và đối tượng của giác
quan – tâm được xem là giác quan thứ sáu. Năm giác quan bên
ngoài, chỉ thâu nhận ngoại cảnh trong hiện tại. Nhưng giác quan
thứ sáu, tâm, là nơi mà tin tức bên ngoài được thâu thập, biến
chế. Những tin tức này có thể trải dài từ những hồi ức trong quá
khứ đến những ước vọng, những lo âu trong tương lai, cũng như
những tư tưởng đủ loại có liên quan đến hiện tại. Thêm vào đó,
tâm có thể thâu nhận tin tức từ những cảnh giới ngoài phạm vi mà các
giác quan khác có thể hay biết, thí dụ như các cảnh Trời, cảnh ngạ
quỷ và cảnh địa ngục. Một cái tâm phát triển đầy đủ đến mức định
(samàdhi) có thể nhận thấy cảnh giới khác và chúng sanh ở các
cảnh giới ấy.
Đã có lục căn, tức có xúc.
Vòng Khoen Thứ Sáu: XÚC (Phassa)
Đó là sự tiếp xúc giữa lục căn và lục trần. Thí dụ, khi những
điều kiện cần thiết đã hội đủ: có con mắt, có một hình sắc để
thấy, tức có đối tượng của nhãn quan, có ánh sáng, cùng lúc ấy
mắt đang hoạt động và người đang tỉnh táo, hướng cái nhìn vào đối
tượng, ắt có xúc. Và trong trường hợp này là nhãn xúc: hình sắc
của đối tượng (nhãn trần), đập vào sự nhạy thấy của nhãn căn. Cùng thế
ấy, có những xúc khác đối với mũi, lưỡi, tai, thân, ý. Tượng trưng
thông thường của vòng khoen này là người đàn ông và người đàn bà
ôm nhau. Khi xúc phát sanh, tức nhiên có thọ cảm.
Vòng Khoen Thứ Bảy: THỌ (Vedanà)
Khi có sự tiếp xúc bằng nhiều cách khác nhau với lục căn tức
có cảm giác, hay thọ, phát sanh. Thọ là phản ứng có tánh cách cảm
xúc. Có ba loại thọ: thọ lạc, tức những cảm xúc vui thích, hạnh
phúc, thọ khổ, những cảm xúc đau đớn hay khổ não, và thọ vô ký,
tức cảm xúc không vui, không buồn, không sướng, không khổ. Loại
thọ đầu tiên lúc nào cũng được vui vẻ đón nhận, đó là nên tảng của hạnh
phúc. Loại thứ nhì, không ai muốn có, là nền tảng của dukkha,
đau khổ. Trong khi ấy, cảm giác thứ ba là loại thọ vô ký, không
nhuộm màu hạnh phúc hay đau khổ, mà ta thọ cảm rất thường trong
đời sống, nhưng ít khi để ý đến. Tất cả những thọ cảm đều tạm bợ,
phù du, có tánh chất đổi thay, bởi vì không có trạng thái tâm,
hay tâm sở, nào có thể liên tục tồn tại một cách quân bình. Dầu
những hạnh phúc mà ta cho là ở mức độ cao nhất cũng chỉ tồn tại
nhất thời, rồi phải nhường chỗ lại cho một cái gì khác. Vậy, mặc
dầu là hạnh phúc căn cứ trên những cảm giác vui thích, bản chất của nó
là vô thường tạm bợ và vì thế, chính nó là dukkha, đau
khổ, bởi vì làm thế nào hạnh phúc thật sự, không biến đổi có thể
căn cứ trên cái biến đổi, phù du, không bền vững? Vậy, hình ảnh
của người bị mũi tên bắn vào mắt đã diễn tả điểm này một cách
mạnh mẽ.
Khi thọ phát sanh, (thường) ái dục cũng phát sanh.
Vòng Khoen Thứ Tám: ÁI DỤC (Taņhà)
Đến đây, dòng diễn tiến liên tục do nghiệp quá khứ làm nguyên
nhân thúc đẩy. Nhưng, chính ái dục dẫn đầu trong việc tạo nghiệp
mới ở hiện tại. Trong hiện tại, và chỉ trong hiện tại, ta mới có
thể thực hành Giáo Pháp. Điều cần thiết ở đây là tâm chú niệm
(sati), vì nếu không có niệm thì không Giáo Pháp nào có thể thực
hành. Và trong lúc không thực hành Giáo Pháp, chúng ta sẽ bị sức mạnh
của thói quen quá khứ lôi cuốn đi. Cùng lúc ấy, ái dục và vô minh
tiếp tục tăng trưởng bên trong chúng ta. Khi giữ tâm chú niệm,
ta có khả năng và phương tiện để hiểu biết "đây là cảm giác vui
thích", "đây là cảm giác đau khổ", "đây là cảm giác không đau khổ
cũng không vui thích". Tự quán chiếu và ghi nhận như thế về
những thọ cảm sẽ giúp ta thấu hiểu và hay biết lúc nào có tham,
sân, si liên hợp với những cảm giác ấy. Với sự thấu hiểu và hay
biết như thế, ta có thể phá vỡ bánh xe sanh-tử và thoát ra khỏi vòng
luân hồi. Nhưng nếu không thực hành Giáo Pháp, chắc chắn những thọ
cảm kia sẽ tiếp tục dẫn dắt ta đến các ái dục khác và quay cuồng
ta theo bánh xe đầy dẫy đau thương, như Ngài Nàgàrjuna dạy:
"Ái dục chỉ ngọt ngào ở lớp mặt,
Bên trong thì khô cứng đắng cay –
Làm cho người ta thất vọng như trái kimpa.
Chúa của những bậc chiến thắng dạy như vậy.
Những vòng khoen như thế ấy từ chối –
Nó trói buộc thế gian
Vào bên trong vòng rào của ngục tù luân hồi." (L.K. 23)
"Nếu quần áo hay tóc tai bạn bốc cháy
Ắt bạn vội vã dập tắt lửa,
Hãy nhanh chóng dập tắt lửa ái dục –
Chính ái dục vận chuyển bánh xe quay cuồng vô cùng tận
Ái dục là nguồn cội của khổ đau.
Không còn cách nào làm hơn nữa!" (L.K. 104)
Danh từ taņhà, ái dục (Bắc Phạn là trisnà) có nghĩa là khát
khao. Nới rộng ra, danh từ này bao hàm ý niệm "khát khao những
thọ cảm". Vì lý do ấy, ái dục được tượng trưng bằng một người say
rượu, thấm chất men, ngất nghểu ngả nghiêng, và trong bức vẽ của
tôi có thêm vào ba chai rượu – ái dục đeo níu theo Dục Giới, ái
dục đeo níu theo Sắc Giới và ái dục đeo níu theo Vô Sắc Giới.
Nơi nào có ái là có thủ.
Vòng Khoen Thứ Chín: THỦ (Upàdàna)
Thủ là tăng cường và nới rộng ái dục. Và ái dục hướng về bốn
mục tiêu: thọ hưởng dục lạc, có những quan kiến đi ra ngoài Giáo
Pháp, những nghi thức tôn giáo lầm lạc thiên về van vái nguyện
cầu, và bám níu vào ý niệm có một linh hồn trường cửu. Khi bốn
khuynh hướng này trở thành những năng lực hùng mạnh trong tâm của
ai thì người ấy không thể thỏa thích trong Giáo Pháp. Bởi vì tất cả
năng lực của họ đã chuyển về chiều hướng ngược lại với Giáo Pháp,
xuôi về chiều hướng của dukkha, đau khổ. Phản ứng chung
là tăng gia nỗ lực để tìm an vui và hạnh phúc giữa những gì đã
được ấp ủ bám níu vào. Do đó trong cả hai bức họa đều có vẽ một
người cố vươn mình lên để hái thêm trái, mặc dầu cái giỏ của mình
đã đầy.
Vòng Khoen Thứ Mười: HỮU (Bhàva)
Nơi nào có Thủ ắt có Hữu. Với tâm bị ái dục và sức cố bám
(thủ) đun lên sôi sục, con người càng tận lực cố gắng để tìm bảo
đảm thêm, bằng nhiều lối sống khác nhau do đó, chất chứa, đổ thêm
nhiên liệu, vào ngọn lửa đau khổ. Một người thường không biết gì
đến dukkha, đau khổ, thì mong muốn nuôi dưỡng ngọn lửa
ấy. Nhưng lối hành động của người Phật tử là không châm thêm nhiên
liệu, để cho ngọn lửa lụn dần, bằng cách chấm dứt tiến trình của Ái và
Thủ, và như vậy là tận diệt vô minh từ gốc rễ. Nếu còn muốn ở
nán lại trong vòng luân hồi, ta phải chuyên cần tinh tấn và làm
thế nào cho sự "trở thành của ta" hướng về chiều hướng chân
chánh. Nên nhớ rằng từng giây từng phút, từng khoảnh khắc, chính
cái nghiệp của ta uốn nắn "sự trở thành" ấy. Và chiều hướng chân
chánh là nhắm về sự trong sạch, theo con đường trắng của sự thực
hành Giáo Pháp. Điều này sẽ giúp đỡ ta trong mọi trạng huống mà
ta trở thành – hay không trở thành – đến lúc kiếp sống này chấm
dứt, khi mà các nẻo đường dẫn đến những cảnh giới khác nhau sẽ rộng
mở trước mặt ta. Và ta sẽ trở thành cái gì, tùy theo pháp hành của
ta, và tùy theo chập tư tưởng cuối cùng của ta như thế nào.
Một cách thích đáng, Hữu được tượng trưng bằng người thiếu phụ có mang.
Trước sự hiện diện của Hữu, một kiếp sống mới phát sanh.
Vòng Khoen Thứ Mười Một: SANH (Jàti)
Cũng như mọi người đều có thể tưởng tượng, sự sanh được diễn
tả bằng cảnh bà mẹ đang lâm bồn, một công việc đau đớn.. Đây cũng
là cơ hội để nhắc nhở rằng dukkha, đau khổ, là điều mà
không có kiếp sống nào có thể tránh khỏi. Dầu tương lai sẽ như
thế nào, nếu ta không thể ngưng được vòng quay tròn của bánh xe luân
hồi ngay trong kiếp sống này thì chắc chắn sẽ có một kiếp tương lai.
Và cái tương lai ấy sẽ phát sanh do những điều kiện của nghiệp
hiện tại. Tuy nhiên, không nên nghĩ rằng bởi vì sẽ còn sống nữa
trong tương lai, hãy để chừng ấy sẽ thực hành Giáo Pháp. Không có
gì bảo đảm rằng trong tương lai kiếp sống ấy sẽ còn giống như
kiếp này. Vả chăng, ở tương lai ấy ta cũng sẽ sống trong hiện tại
và sẽ hẹn một kiếp sau khác nữa. Vậy, chờ đợi không ích gì! Ngài
Nàgàrjuna dạy rằng tốt hơn ta hãy tận diệt lấy ta:
"Nơi nào có sanh, tức nhiên
Có sợ, có già nua và khốn khổ,
Bịnh hoạn, ham muốn và hoại diệt,
Đó cũng là một khối các đau khổ khác.
Khi sự sống không còn đến nữa
Tất cả các vòng khoen khác cũng chấm dứt." (L.K. 111)
Lẽ dĩ nhiên, nơi nào có sanh ắt có lão tử.
Vòng Khoen Thứ Mười Hai: LÃO và TỬ (Jarà-maraņna)
Do cái vốn vô minh và ái dục đầy đủ bên trong, ta có thể chắc
rằng sau kiếp sống này sẽ còn nhiều kiếp sống khác. Nhưng cùng
với sanh cũng còn nhiều cảnh tử biệt. Sự sanh sẽ thỏa mãn lòng
tham. Cái chết sẽ đem lại bất toại nguyện. Nhưng không thể có cái
này mà không có cái kia. Có sanh phải có tử. Tuy nhiên, đó là
con đường buông lung lơ đễnh. Con đường của Giáo Pháp sẽ đưa đến
trạng thái Bất Diệt, vượt ra ngoài sanh và tử, vượt ra khỏi mọi khổ đau.
Bức họa Tây Tạng vẽ một cụ già khiêng trên vai cái thây chết
đã được băng bó cẩn thận, đem đến bãi tha ma. Bức họa của tôi thì
trình bày ông lão nhìn vào một quan tài trong đó có người chết.
Lời khuyên dạy của Đức Nàgàrjuna là:
"Như vậy, hãy chuyên cần tinh tấn:
Bất luận lúc nào, hãy cố gắng đi sâu vào
Trung tâm của Tứ Diệu Đế,
Bởi vì cho đến những người tại gia cư sĩ
Cũng sẽ vượt qua cơn ngập lụt (tinh thần)
Bằng cách thông suốt Bốn Chân Lý ấy. " (L.K. 115)
Đó là những nét đại cương, sơ lược diễn tả tác hành của bánh
xe mà chúng ta đã cố bám vào để tự làm khổ mình và tổn hại kẻ
khác. Chính chúng ta là người tạo nên bánh xe ấy. Chính chúng ta
vận chuyển nó. Nhưng nếu muốn, và nếu gia công vào công trình ấy,
cũng chính chúng ta là người có thể làm cho bánh xe ấy dừng lại.
Con Quỷ
Cả hai bức họa đều vẽ Bánh Xe nằm trọn vẹn trong nanh vuốt của
một con quỷ đáng sợ. Trong bức vẽ của tôi, tên của con quỷ ấy
được khắc rõ ràng trên mão của nó để người khác khỏi lẫn lộn với
loài quỷ khác. Nó không phải là con quỷ tầm thường, bởi vì tên nó
là Vô Thường. Và cái mão chỉ rằng oai quyền của nó bao trùm toàn
thể vũ trụ, bất luận cảnh giới nào của thế gian. Nó cắn xé nghiến
ngấu tất cả. Và tất cả, từ địa ngục đến cảnh Trời, đều vỏn vẹn nằm
trong bàn tay đầy móng vuốt của nó. Cái mão trên đầu nó được
trang trí bằng năm sọ người, tượng trưng đặc tánh vô thường của
ngũ uẩn, tức năm nhóm thành phần cấu tạo chúng sanh. Mắt, tai,
miệng của nó đều phun lửa để diễn tả lời dạy của Đức Thế Tôn
trong thời Pháp thứ ba của Ngài, trong đó có đoạn "mắt nổi lửa"
v.v… Phía trên hai mắt của ác quỷ còn có con mắt thứ ba, ngụ ý
rằng đối với hạng điên cuồng, lý vô thường là kẻ thù nghịch. Nhưng với
bậc thiện trí, chính luật vô thường có mang đầy đủ đồ trang sức
như vòng tai và các thứ, cố làm ra đẹp, nhưng không thể được.
Cùng thứ ấy, thế gian này cố gắng bộc lộ, chưng bày ra ngoài vẻ
đẹp của mình, nhưng càng nhìn kỹ ta càng thấy vẻ đẹp ấy phai tàn.
Trong vài bức họa Tây Tạng, dưới bánh xe có một lớp da cọp để
trang trí cho quỷ Vô Thường, tượng trưng cái gì đáng ghê sợ.
Trong bức vẽ của tôi, đuôi con quỷ khoanh tròn lui tới vô cùng
tận. Cùng thế ấy, chúng ta đã được sanh ra, đã có sống, rồi chết, rồi
sanh trở lại, mãi mãi vô cùng tận, trong vòng xoay tròn của bánh
xe luân hồi. Đôi khi trong hành động của chúng ta là thiện, lắm
lúc là bất thiện, và chúng ta đã gặt hái quả lành hay dữ của tất
cả những hành động ấy.
Một Vài Nét Khác
Toàn thể bánh xe sôi sục trong nóng bức và bị bao trùm giữa
ngọn lửa của tham, sân, si, như Đức Thế Tôn nhiều lần nhắc nhở
trong các bài Pháp của Ngài.
Trong cả hai bức họa, bên góc mặt, phía trên, có hình Đức Thế
Tôn đứng bên kia bờ ngụ ý là Niết Bàn. Người Tây Tạng vẽ Đức Phật
chỉ tay lên mặt trăng, trên đó có con thỏ, tượng trưng cho sự
khước từ, con đường thực hành Giáo Pháp và con đường thoát ra
ngoài bánh xe. Trong bức vẽ của tôi, Đức Thế Tôn đang giảng giải
bản chất của vòng luân hồi và khuyên dạy chúng ta nên thận trọng. Phía
sau Ngài có vầng hào quang, tượng trưng cho sự siêu thoát tinh
thần và trí tuệ oai nghi hùng dũng mà Ngài đã thành tựu. Ta có
thể diễn tả bằng nhiều cách khác nhau, nhưng cuối cùng, trí tuệ
và tình trạng siêu thoát ấy đã vượt ra ngoài giới hạn của những
gì mà ta có thể hiểu biết. Phía trên cùng, vào góc trái của bức
họa Tây Tạng, có hình Avalokitesvara (Đức Quán Thế Âm), hiện thân
lòng bi mẫn, xem như con đường và mục tiêu của những ai có chú
nguyện noi theo con đường của Bồ Tát.
Bức vẽ của tôi trình bày Con Đường của Giáo Pháp, tượng trưng
bằng tám hoa sen dẫn đến bánh xe Pháp Bảo. Tám hoa sen là tám chi
của con Đường cao thượng, Bát Chánh Đạo. Hai chi đầu, chánh kiến
và chánh tư duy là phần Tuệ. Ba chi kế, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, là phần Giới, và ba chi sau cùng, chánh tinh tấn,
chánh niệm và chánh định, là phần Định, tức phần thực hành thiền
định. Ngay trung tâm của bánh xe Pháp Bảo là suññata – hư không – một
danh từ khác để diễn tả Niết Bàn. Chung quanh đó là mười tai hoa
sen, tượng trưng cho mười pháp Ba La Mật (parami), rất cần thiết
để hoàn mãn thành tựu. Mười pháp ấy là: bố thí, trì giới, xuất
gia, trí tuệ, quyết định, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, tâm từ,
và tâm xả. Từ trục của bánh xe tủa ra tám cây căm, tượng trưng
pháp hành của chư vị A La Hán, những người hoàn toàn tuyệt hảo.
Con đường tám nẻo này, thay vì vừa đủ tốt đẹp, trở thành tuyệt
hảo. Bên trong vành bánh xe có ba mươi bảy viên ngọc, tượng trưng
ba mươi bảy yếu tố có khả năng đưa đến Giác Ngộ (ba mươi bảy bồ đề
tâm). Vòng ngoài vành có bốn nhóm, mỗi nhóm gồm ba viên ngọc, tượng
trưng Tứ Diệu Đế, và trong mỗi Đế, ba lối nhìn thấy của Đức Thế
Tôn khi Ngài chứng ngộ.
KẾT LUẬN
Bức họa này khuyên dạy và nhắc nhở chúng ta nhiều điểm trong
Giáo Pháp đúng theo ý muốn của chư vị Pháp Sư thời xưa. Nếu chúng
ta thường xuyên suy niệm về các điểm này, nó sẽ giúp ta thông
suốt bản chất thật sự của vòng luân hồi. Nương theo sự trợ giúp
ấy, và nhờ công phu thực hành của chính ta, một ngày kia chúng ta
sẽ nhận chân được pháp Tùy-Thuộc-Phát-Sanh bên trong mình. Khi đã trải
qua suốt các giai đoạn ấy, chúng ta sẽ có thể hưởng tất cả hương
vị dồi dào của Giáo Pháp, không phải xuyên qua sách vở hay những
cuộc thảo luận, cũng không phải nhờ người khác giải thích…
Đức Thế Tôn dạy:
"Người nào thấy pháp Tùy-Thuộc-Phát-Sanh, thấy Giáo Pháp.
Người nào thấy Giáo Pháp, thấy pháp Tùy-Thuộc-Phát-Sanh."
_________________
Ghi chú:
(¹) Đây là một trong mười tám chi nhánh của hệ phái Hinayàna (Tiểu Thừa) mà ngày nay đã không còn.
(²) Bốn lục địa này không có trong bức họa kèm theo sách và
trong những bức họa Tây Tạng (Tibetan) hiện đại. Bốn lục địa là
những lục địa nằm vào hướng đông, hướng tây, hướng bắc và hướng
nam của xứ Ấn Độ, trong bản đồ thời xưa.
(³) Trong các bức họa thời hiện đại, luôn luôn là con gà trống.
(4) Bản dịch do Đại Đức Tỳ Khưu Pàsàdiko, được
trích từ chương mở đầu sách Sahasodgata Avadàna, Divyyàvadàna 21,
Mithila Edition, trang 185.
(5) Dasa kusala kammapatha, mười phương cách tạo thiện nghiệp (thập thiện nghiệp).
(6) Dasa Puñña kiriya vatthu, những hành động có tác dụng thanh lọc tâm.
(7) "The Letter of Kindheartedness" do tác giả
Àcariya Nàgàrjuna, trong quyển "Wisdom Gone Beyond", Social Service
Association Press of Thailand, Phya Thai Road, BangKok, Siam.
(8) Xem "Sixty Songs of Milerapa", được nhà xuất bản BPS, Kandy, ấn hành theo loại Wheel, số 95-97
0 Kommentare:
Post a Comment