"Nếu
như tín nguyện chân thành, thiết tha, báo hết mạng tận, thần thức bèn
siêu Tịnh vực, nghiệp trả lại trần lao, sen vàng chín phẩm nở hoa, Phật
thọ ký một đời thành Phật..."
PHẦN 3
IV. LUẬN VỀ VIỆC LỚN SANH TỬ
1. Cảnh tỉnh mạng người vô thường
*
Quang âm vùn vụt, thời thế đổi dời trong mỗi sát-na, một niệm chẳng
trụ. Ðấy chính là tạo vật vì hết thảy bọn chúng sanh ta hiện tướng lưỡi
rộng dài giảng vô thượng diệu pháp: Mạng người vô thường, vinh hoa chẳng
bền, gấp tìm nẻo về để khỏi phải chịu cái khổ trầm luân vậy.
* Việc lớn sanh tử phải dự bị trước. Nếu đợi đến lúc sắp ra đi mới tu, chỉ e sẽ bị nghiệp lực đoạt mất.
* Sanh tử là việc lớn. Vô thường nhanh chóng. Nghe đến kinh sợ, nhưng còn lâu mới bằng khi thân trải qua nỗi đớn đau kịch liệt.
*
Cổ nhân nói: “Thông minh bất năng địch nghiệp. Phú quý khởi miễn luân
hồi” (Thông minh chẳng cự nổi nghiệp. Phú quý chẳng tránh khỏi luân
hồi). Sanh tử xảy đến, không có gì để nương dựa cả, chỉ có mỗi A Di Ðà
Phật là nương nhờ được thôi! Tiếc người đời quá ít ai biết. Kẻ biết đến,
tin chân thật và thật sự niệm Phật lại càng ít hơn nữa!
*
Ngày ba mươi tháng Chạp là ngày chấm dứt một năm. Nếu chẳng thu xếp
trước cho khéo thì chủ nợ, oán gia sẽ xúm lại lôi kéo, chẳng dung cho
lỗi lầm của mình. Lúc lâm chung chính là ngày ba mươi tháng Chạp của cả
một đời. Nếu tư lương Tín - Nguyện - Hạnh chưa đủ, vẫn còn tham - sân -
si, tập khí ác thì oán gia, chủ nợ từ vô lượng kiếp đến nay sẽ kéo đến
bức bách, đòi nợ, chẳng dung cho mình.
Ðừng
nói những kẻ chẳng biết đến pháp môn Tịnh Ðộ đành không biết làm cách
nào, phải theo nghiệp thọ sanh; dù là đã biết nhưng chẳng chăm chú tu
hành thật sự thì cũng giống hệt như vậy: bị ác nghiệp lôi kéo vào trong
tam đồ, lục đạo, vĩnh viễn luân hồi! Muốn cầu con đường thoát khổ, chỉ
có cách niệm niệm lo nghĩ đến lúc chết, sợ rằng chết đi sẽ đọa lạc trong
tam đồ ác đạo thì Phật niệm sẽ tự thuần, Tịnh nghiệp sẽ tự thành; hết
thảy trần cảnh sẽ chẳng thể đoạt được chánh niệm nữa!
*
Cầu sanh Tây Phương đừng nên sợ chết. Nếu chết ngay ngày hôm nay thì
liền sanh về Tây Phương. Ðấy là như lời [người xưa] đã nói: “Triêu văn
đạo, tịch tử khả hỹ!” (Sáng nghe đạo, chiều chết cũng được!) Lẽ đâu,
ngày hôm nay phải chết lại chẳng chịu chết, cứ tham luyến trần cảnh
chẳng thể buông xuống, khiến cho do tham thành chướng, cảnh Tịnh Ðộ
chẳng hiện, khiến cho cảnh tùy nghiệp thọ sanh trong đường thiện ác liền
hiện.
Cảnh
hiện, liền theo nghiệp thọ sanh trong đường thiện ác; vãng sanh Tây
Phương hóa thành bánh vẽ! Vì thế, đối với người tu Tây Phương, chết hôm
nay cũng tốt; sống thêm một trăm hai mươi năm rồi chết cũng hay. Hết
thảy phó mặc nghiệp trước, chẳng lầm sanh ý tưởng tính toán, so đo. Nếu
như tín nguyện chân thành, thiết tha, báo hết mạng tận, thần thức bèn
siêu Tịnh vực, nghiệp trả lại trần lao, sen vàng chín phẩm nở hoa, Phật
thọ ký một đời thành Phật!
2. Khuyên chuyên cậy vào Phật lực
*
Ấn Quang từ Tây qua Ðông, từ Bắc xuống Nam, qua lại hơn vạn dặm, gặp gỡ
nhiều người. Trong số đó, lắm kẻ bình nhật tự vỗ ngực là bậc thông
Tông, thông Giáo, coi Tịnh Ðộ như uế vật, chỉ sợ nó làm bẩn lây đến
mình. Lúc lâm chung, đa số chân loạn tay cuống, kêu cha gào mẹ. Trong số
ấy, có những người trì giới niệm Phật già giặn, chắc thật, dù Tín
Nguyện chưa đến mức cùng cực, tướng lành chẳng hiện, nhưng đều an nhiên
mạng chung.
Vì
sao như vậy? Là vì tâm thủy trong lặng, do phân biệt nên xao động, đục
ngầu, sóng thức trào dâng. Do Phật hiệu nên tâm thủy ngưng lặng. Bởi
thế, kẻ thượng trí chẳng bằng kẻ hạ ngu, biến quá khéo thành vụng về lớn
vậy!
*
Phật nói hết thảy pháp môn Ðại, Tiểu, Quyền, Thật đều phải cậy vào công
sức của chính mình để đoạn Hoặc chứng Chân mới thoát khỏi sanh tử. Nếu
còn chút mảy may Hoặc nghiệp, sẽ quyết định khó thoát khỏi sanh tử. Vì
thế, từ đời này sang đời khác, từ kiếp này sang kiếp khác, lần lượt tu
trì, nếu ai có đầy đủ sức lực sẽ tiến thẳng lên Bất Thoái, liền được
liễu thoát.
Ða
phần là từ giác chợt mê, thoạt tiến liền lùi, trải qua bao kiếp nhiều
như bụi trần chẳng thể xuất ly. Sở dĩ, ngài và tôi hôm nay vẫn còn là
phàm phu, toàn là vì chẳng biết đến pháp môn Tịnh Ðộ độ khắp ba căn, chí
cực viên đốn của đức Như Lai.
*
Người chẳng hiểu Tịnh Ðộ đọc đến kinh Lăng Nghiêm sẽ cho kinh này là
nhân tố chính để đả phá Tịnh Ðộ. Người hiểu Tịnh Ðộ đọc đến, liền biết
kinh này khéo hướng dẫn hoằng dương Tịnh Ðộ. Vì sao nói thế?
Vì
tự lực ngộ đạo thì khó, Tịnh Ðộ vãng sanh là dễ. Nhân quả mười pháp
giới mỗi mỗi phân minh. Nếu chẳng cậy vào Phật lực, dù phá được một hai
Ấm, vẫn bị ma dựa phát cuồng, thành chủng tử địa ngục. Vả nữa, trong hai
mươi bốn công phu Viên Thông, người đời nay có ai là kẻ tu tập được?
Chỉ
có mỗi phép Niệm Phật như con nhớ mẹ, hễ ai hữu tâm đều có thể phụng
hành được! Cốt sao tịnh niệm tiếp nối, sẽ tự chứng được tam-ma-địa. Kẻ
biết phân biệt tốt xấu đọc đến, lẽ nào chỉ ưng chịu chủ trương tự lực,
chẳng cậy vào Phật lực hay sao? Kẻ chẳng biết hay dở mới nghĩ như vậy,
bởi họ chỉ mong làm bậc thông gia, không có lòng liễu sanh thoát tử!
*
Tu hành dụng công vốn là để liễu sanh thoát tử. Nếu dụng công nhưng
chẳng thể liễu sanh tử là do chẳng chịu y vào pháp có thể liễu được sanh
tử mà hành. Khác nào gánh gai bỏ vàng, tự chuốc lấy lỗi hay sao? Dù
tham thiền đại triệt đại ngộ như Ngũ Tổ Giới, Thảo Ðường Thanh, Chân Như
Triết, Ðoạn Nham Nghĩa còn chưa liễu nổi sanh tử, phải thọ thân đời
sau, đến nỗi mê lầm. So ra, ta còn thua xa họ, [họ còn chẳng thể liễu
sanh tử nổi], huống hồ là bọn ta ư?
*
Pháp môn Tịnh Ðộ là pháp môn phổ độ chúng sanh, viên đốn, thẳng tắt,
rộng lớn, giản dị nhất của đức Như Lai. Vì sao nói thế? Do hết thảy các
pháp môn đều phải đoạn hai Hoặc: Kiến và Tư mới hòng liễu sanh tử. Nhưng
đoạn Kiến Hoặc còn như cắt đứt dòng chảy rộng bốn mươi dặm, huống hồ là
Tư Hoặc? Ðoạn Kiến Hoặc là chứng Sơ Quả. Nếu ước theo Viên Giáo thì là
Sơ Tín. Ðoạn sạch Tư Hoặc liền chứng Tứ Quả; trong Viên Giáo là địa vị
Thất Tín. Sơ Quả, Sơ Tín còn có sanh tử. Tứ Quả, Thất Tín mới hết sanh
tử.
Nhưng
Thiên Thai Trí Giả đại sư chỉ thị hiện chứng được địa vị ngũ phẩm, tuy
sở ngộ đã bằng với chư Phật, đã hàng phục trọn vẹn ngũ trụ phiền não,
nhưng vẫn chưa từng đoạn Kiến Hoặc. Thế nhưng, bổn địa (1) của Ðại Sư
thực chẳng thể suy lường được. Lúc mạng chung, Ngài chỉ nói là chứng ngũ
phẩm, vì lo xa hậu thế chẳng dốc sức đoạn Hoặc chứng Chân, chỉ lấy minh
tâm kiến tánh làm rốt ráo.
Minh
tâm kiến tánh là đại triệt đại ngộ. Nếu là bậc tối thượng thượng căn,
hễ ngộ liền chứng, thì liễu được sanh tử. Nếu không, dù có biết trước
được vị lai như sư Viên Trạch vẫn chẳng tránh khỏi phải thọ sanh lần
nữa. Ðến như Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Ðông Pha, Thảo Ðường Thanh lại
làm thân Lỗ Công. Ðấy hãy còn là tạm được. Ngài Hải Ấn Tín thành con gái
của quan Phòng Ngự họ Châu, đã đáng buồn lòng. Nhưng ông Tăng ở núi
Nhạn Ðãng trở thành Tần Cối thì thật là đáng thương xót quá. Tự lực đoạn
Hoặc chứng Chân để liễu sanh thoát tử thật khó khăn thay!
Các
giáo lý tu chứng thông thường trong cả một đời đức Như Lai đã nói tuy
có nhiều pháp khác nhau, nhưng không có một pháp nào khiến cho kẻ còn
đầy dẫy Hoặc nghiệp có thể liễu sanh thoát tử cả! Chỉ mình pháp Tịnh Ðộ,
chỉ cần lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành trì
danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Chẳng luận là Hoặc nghiệp dày hay
mỏng, công phu cạn hay sâu, khi lâm chung đều cậy vào Phật từ lực, đới
nghiệp vãng sanh. Ðã vãng sanh liền siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử. Từ đấy, lần lượt tấn tu, liền chứng được Vô Sanh, thậm chí
viên mãn Phật Quả! Ðây chính là pháp môn đặc biệt thương xót chúng sanh
căn cơ hèn kém, muốn cho họ mau thoát khỏi luân hồi của đức Như Lai.
*
Những người nghiên cứu về Giáo dựa trên giáo lý thông thường để luận
đoán sự chứng đắc, chẳng tin có việc đới nghiệp vãng sanh, khoe mình là
hạng thường ở trong sanh tử để độ chúng sanh, chẳng muốn mau thoát khỏi
sanh tử. Chẳng biết chén, bình chưa nung, gặp mưa liền rã; phiền hoặc
chưa đoạn, chuyển sanh liền mê. Tự lợi còn khó, huống là lợi người! Bọn
họ đều là hạng chẳng lượng đức mình, là hạng phàm phu sát đất, có chút
huệ tánh bèn vội bắt chước phong cách của bậc Pháp Thân Ðại Sĩ, đến nỗi
lầm lỡ một phen, lỡ lầm vĩnh viễn!
Kẻ
tham Thiền thì chuyên chú tham cứu, mong minh tâm kiến tánh, chẳng biết
căn cơ mình khá hèn kém, chẳng thể minh tâm kiến tánh rất nhiều. Dù cho
đã được minh tâm kiến tánh, nhưng nếu Hoặc nghiệp chưa đoạn, vẫn luân
hồi sanh tử y như cũ, chẳng thể xuất ly cũng lại nhiều lắm. Ngũ Tổ Giới,
Thảo Ðường Thanh, Hải Ấn Tín, Chân Như Triết v.v... là những chứng cứ
xác thực.
Ôi!
Sanh tử lớn thế, sao lại chuyên cậy vào tự lực, chẳng cậy vào Phật lực?
Ý chừng tự lực hơn hẳn Phật lực ư? Phàm người sống trong đời, việc lớn
như sáng lập sự nghiệp lưu truyền nhiều đời, việc nhỏ như một manh áo,
một bữa ăn, không gì là chẳng phải nhờ vào sức của nhiều người để hoàn
thành việc mình. Ðến như việc lớn liễu sanh tử, dù sẵn có Phật lực vẫn
chẳng chịu nương nhờ, cứ muốn tỏ ra phong cách phi thường, chỉ e lại rớt
vào thói thường của kẻ phàm ngu. Chí của họ đáng bảo là lớn, nhưng tiếc
là chẳng biết khả năng của họ có đáng gọi là lớn hay chăng?
*
Muốn liễu sanh tử thì phải thật chứng. Nếu phiền hoặc vẫn còn, ắt phải
thật nỗ lực mới có thể tranh cạnh với nghiệp, trải qua những duyên giồi
mài thì trong tâm thường giác chiếu, thầm hợp với Thánh Trí. Phàm tình
nhân ngã thị phi không do đâu khởi được. Nếu chẳng tăng thêm giác chiếu,
phàm tình vẫn lừng lẫy như cũ, thì công hạnh càng cao, tình kiến càng
nặng, từ ngộ vào mê là chuyện khó tránh khỏi. Như người ngủ chẳng tỉnh,
càng ngủ mê mệt thêm.
Cổ
nhân bảo: “Ðại sự dĩ minh như táng khảo tỷ” (Ðại sự đã hiểu như chôn
cha mẹ). Chính là vì phiền hoặc chưa đoạn, chỉ e lại mê. Phải biết rằng
người đã đoạn Hoặc chẳng có phàm tình. Ðã không có phàm tình, lấy đâu
sanh tử? Người đại ngộ dù ngộ bằng với Phật, nhưng chưa đoạn trừ Hoặc
thì phải niệm niệm giác chiếu, mới hòng tránh khỏi tác dụng của phàm
tình.
*
Pháp môn này toàn cậy vào Phật lực. Ví như người thọt một ngày chỉ đi
được mấy dặm; nếu ngồi trên luân báu của Chuyển Luân Thánh Vương liền
trong khoảnh khắc đến khắp bốn đại châu. Ðấy là sức của Luân Vương,
chẳng phải do sức mình. Người đời tu hành cố nhiên giống vậy. Dù là kẻ
ngũ nghịch thập ác tội lỗi cực nặng, lúc lâm chung, tướng địa ngục hiện,
nếu có thể chí tâm niệm Phật, liền được Phật tiếp dẫn. Ấy là vì Phật
xem chúng sanh khác nào con một. Ðứa nào thiện thuận, dĩ nhiên từ ái
dưỡng dục. Ðứa nào ác nghịch, càng thêm xót thương. Nếu con hồi tâm
hướng về mẹ, ắt mẹ sẽ rủ lòng từ tiếp nhận.
*
Cậy tự lực tu hành, đoạn Hoặc chứng Chân thật chẳng dễ dàng! Ðoạn Kiến
Hoặc như cắt ngang dòng nước rộng bốn mươi dặm, huống hồ là Tư Hoặc!
Kiến Hoặc đoạn được liền chứng Sơ Quả, dự vào dòng thánh, vẫn còn phải
bảy lần sanh lên trời, bảy lần sanh xuống nhân gian mới đoạn sạch được
Tư Hoặc để chứng Tứ Quả.
Tuy
nói là mười bốn lần sanh tử, nhưng trên trời tuổi thọ dài lâu, cố nhiên
chẳng thể dùng năm tháng để luận. Thánh nhân Sơ Quả muốn liễu sanh tử
còn khó khăn như thế, huống hồ là phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp ư? Nếu
chứng Tứ Quả sẽ vĩnh viễn đoạn được căn bản sanh tử, siêu xuất lục đạo
luân hồi. Nếu phát tâm Ðại Bi, nhập thế độ sanh, nương theo nguyện thị
hiện hạ sanh, sẽ chẳng giống như kẻ đầy dẫy Hoặc nghiệp bị nghiệp thiện
ác lôi kéo thăng trầm trong lục đạo, tự mình chẳng mảy may làm chủ được!
Tự lực liễu sanh tử nếu chẳng phải là hạng túc căn thâm hậu sẽ chẳng
thể làm được; chúng sanh đời mạt mong bằng được sao?
Bởi
thế, Như Lai đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Ðộ để hết thảy dù thánh hay
phàm, thượng trung hạ căn cùng được liễu sanh thoát tử ngay trong đời
này. Lòng từ bi cứu hộ ấy tột bậc không chi hơn được! Ðể tu trì pháp này
cũng phải nghiêm trì tịnh giới, tận lực tu Ðịnh - Huệ, kiêm thêm sanh
lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Lòng tin
chân thành, nguyện thiết tha, niệm lực tinh thuần, ngay trong hiện đời
cũng có thể chứng thánh, lâm chung lên ngay thượng phẩm, dự vào địa vị
Bồ Tát, chứng địa vị Bất Thoái.
Nếu
như căn cơ hèn kém, chưa làm được như thế, cứ chí thành niệm Phật thì
tâm và Phật khế hợp nhau, cảm ứng đạo giao. Lúc lâm chung ắt được Phật
rủ lòng từ tiếp dẫn, đới nghiệp vãng sanh. Thậm chí kẻ ngũ nghịch, thập
ác, lúc lâm chung tướng địa ngục hiện, nếu tâm thức chẳng mê, có thiện
tri thức dạy cho niệm Phật, người ấy sanh lòng sợ hãi lớn lao, sanh lòng
hổ thẹn lớn sám hối, dù niệm mấy tiếng rồi liền mạng chung, cũng vẫn
được Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh.
Một
phen được vãng sanh liền vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, cao dự hải hội,
lần lượt tấn tu, ắt chứng Phật Quả. Cậy vào tự lực để liễu sanh tử khó
như thế ấy, cậy vào Phật lực để liễu sanh tử dễ như thế đó. Phàm ai có
tâm đều có thể niệm Phật, đều có thể vãng sanh. Là trang nam nhi có
huyết tánh, nhất định chẳng chịu để Chân Như Phật Tánh sẵn có trái
nghịch tịnh duyên, theo duyên mê nhiễm, luân hồi trong lục đạo bao kiếp
dài lâu không thể thoát khỏi!
*
Chúng ta luân hồi trong sanh tử, trải kiếp số đã lâu, đã tạo ác nghiệp
vô lượng vô biên. Nếu cậy vào sức tu trì của mình, muốn diệt sạch phiền
não Hoặc nghiệp để liễu sanh tử, còn khó hơn lên trời! Nếu tin được pháp
môn Tịnh Ðộ do Ðức Phật đã giảng, dùng lòng tin chân thành, nguyện
thiết tha, niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, cầu sanh Tây Phương, chẳng luận
là nghiệp lực lớn hay nghiệp lực nhỏ, đều có thể nhờ vào Phật lực vãng
sanh Tây Phương.
Ví
như một hạt cát gieo xuống nước liền chìm. Dù đem hòn đá nặng cả mấy
ngàn vạn cân đặt lên chiếc đại hỏa luân thuyền sẽ chẳng bị chìm, còn chở
được sang chỗ khác để tùy ý sử dụng. Ðá ví như nghiệp lực sâu nặng của
chúng sanh. Ðại hỏa luân thuyền ví như từ lực rộng lớn của Phật Di Ðà.
Nếu
chẳng niệm Phật, cậy vào sức tu trì của chính mình hòng liễu sanh thoát
tử, cần phải đạt đến chỗ nghiệp tận tình không mới làm được. Nếu không,
dù cho phiền não Hoặc nghiệp chỉ còn chút mảy may chưa đoạn cũng chẳng
liễu nổi. Ví như một hạt cát bé tí cũng bị chìm trong nước, quyết chẳng
thể tự nó thoát ra ngoài nước được!
Các
hạ chỉ nên sanh tín tâm, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chẳng nên khởi
lên những ý niệm nào khác. Nếu thật sự làm được như vậy, nếu tuổi thọ
chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Do công đức chuyên nhất chí thành niệm
Phật liền diệt trừ được ác nghiệp đời trước, khác nào mặt trời rạng rỡ
đã mọc, sương tuyết liền tiêu. Tuổi thọ đã hết sẽ liền được vãng sanh vì
tâm không có niệm nào khác nên cảm ứng đạo giao với Phật. Vì thế, được
Phật tiếp dẫn vãng sanh. Nếu các hạ tin được lời này thì sống cũng được
đại lợi ích, mà chết cũng được đại lợi ích!
*
Tình thế hiện tại chính là tình thế hoạn nạn. Nếu chẳng lấy Phật A Di
Ðà và Quán Thế Âm Bồ Tát làm chỗ nương cậy để thường niệm, lỡ ra họa
hoạn xảy tới, hoặc thình lình gặp phải chuyện bất trắc, kêu gào xuông
cũng chẳng được! Nếu đã niệm sẵn từ trước sẽ có sự chuyển biến âm thầm.
Huống hồ cơn sanh tử xảy tới, ai cũng phải có ngày ấy!
Vì
thế, phải thường nghĩ đến lúc lâm chung, tự chẳng dốc sức rong ruổi
theo đuổi hết thảy vọng tưởng trái phận và các pháp môn chẳng giúp ích
gì cho việc liễu sanh thoát tử, đến nỗi bỏ phế, chẳng tu pháp môn phải
quyết định dựa vào để liễu sanh thoát tử này. Mong vợ chồng, cha con ông
đều chẳng cho lời Quang là hủ bại, vớ vẩn thì thật là may mắn lắm!
*
Người niệm Phật có bệnh nên nhất tâm chờ chết. Nếu tuổi đời chưa tận sẽ
chóng lành bệnh. Ðem toàn thân buông xuống để niệm Phật, tiêu nghiệp
rất hay! Nghiệp tiêu thì bệnh lành. Nếu chẳng buông xuống được, cứ mong
được khoẻ lại; nếu chẳng được khỏe lại chắc chắn không cách chi được
vãng sanh vì chẳng nguyện sanh! Chẳng hiểu rõ đạo lý này, còn mong cậy
vào Phật từ lực nữa ư?
Với
căn bệnh của mẹ ông, hãy nên khuyên bà khẩn thiết buông xuống, cầu vãng
sanh. Nếu tuổi thọ chưa hết mà cầu vãng sanh sẽ hóa ra chóng được lành
bệnh. Ấy là vì tâm chí thành nên được Phật từ gia bị. Mong ông hãy nhỏ
nhẹ, khéo léo khuyên mẹ, đừng bắt chước kẻ si nói những lời si dại nữa!
3. Dạy những điều thiết yếu về lâm chung
*
Một cửa ải lâm chung thật là khẩn yếu. Ðời có kẻ ngu, lúc cha mẹ, quyến
thuộc lâm chung bèn khóc lóc vật vã, tắm rửa, thay áo, chỉ mong đẹp mắt
người đời, chẳng nề di hại cho người chết. Người không niệm Phật hãy
khoan bàn đến, người chí thiết vãng sanh lúc lâm chung gặp phải quyến
thuộc như vậy, đa phần bị phá hoại chánh niệm, vẫn bị ở lại trong thế
giới này.
Lâm
chung trợ niệm ví như kẻ yếu đuối trèo núi, sức mình chẳng đủ, may nhờ
có sức người đằng trước kéo, đằng sau đẩy, tả hữu xốc nách, nên có thể
lên được đỉnh núi cao nhất.
Lâm
chung chánh niệm rỡ ràng, bị ma quyến, ái tình lay động, phá hoại...
giống như dũng sĩ trèo núi, tự lực sung túc, nhưng bạn bè, người quen ai
nấy đem vật dụng của mình bảo phải gồng gánh. Gồng gánh quá nhiều, sức
kiệt, thân nhọc, dõi nhìn vách núi liền lùi bước.
Lẽ
được mất này dù do người khác gây ra, thật sự là do những nghiệp lực
thiện hay ác của chính mình trong những kiếp trước đã thành tựu hay phá
hoại người mà ra. Phàm là người tu Tịnh nghiệp, phải nên có chánh niệm
thành toàn cho người, và phải chỉ dạy sẵn cho quyến thuộc về lẽ lợi hại,
ngõ hầu ai nấy hiểu điều quan trọng là chỗ đạt đến của thần thức người
chết, chứ chẳng phải tại phương diện tình cảm thế tục, mới hòng khỏi lầm
lạc vậy!
*
Trong tuần thất và trong hết thảy lúc, hết thảy sự, phải lấy niệm Phật
làm chánh, chứ chẳng phải chỉ lúc đang lo ma chay! Hiện thời, đa số Tăng
lười nhác. Tụng kinh [Phật tử] phần nhiều không biết. Ðã thế còn tụng
nhanh như nước chảy, [Phật tử] dù biết nhưng chẳng thuộc cũng chẳng thể
đọc theo. Dù có đến mấy mươi người, không có mấy người tụng kinh được!
Chỉ có mỗi niệm Phật, trừ phi chẳng phát tâm, quyết chẳng có cái nạn
không ai niệm theo được. Lại dù chẳng chịu niệm, một câu Phật hiệu lọt
qua tai thấu vào tâm cũng tự lợi ích chẳng ít. Ðấy là lý do Quang tôi
tuyệt đối chẳng đề xướng lập bất cứ đạo tràng nào khác.
*
Ðối với người sắp mạng chung, chỉ có đồng thanh niệm Phật là có ích.
Nếu tâm thức chưa rời khỏi thân thì tắm rửa, thay y phục v.v... [cho
người chết] gây trở ngại rất lớn. Vì thế, người tu Tịnh nghiệp hằng ngày
phải nên nói cho quyến thuộc hiểu rõ duyên do ấy, ngõ hầu chẳng đến nỗi
dùng lầm tình thân ái, gây trở ngại việc vãng sanh! Nếu là bậc đại nhân
tột bậc, bậc cao sĩ xuất cách, bất tất e sợ sẽ mắc phải những chướng
ngại ấy!
*
Phật pháp rộng sâu, chỉ khi nào thành Phật mới ngừng tay được. Muốn
chắc chắn được vãng sanh, thường hành truy tiến (2) thật chẳng trở ngại
gì đến việc khẩn thiết niệm Phật, tức là như kinh Phật đã dạy: “Dù biết
tội tánh vốn là không, nhưng luôn sám hối tội trước, chẳng nói là mình
đã được thanh tịnh”. Ngài Liên Trì nói: “Trong năm, thường phải truy
tiến người đã mất, chẳng được nói họ đã được giải thoát nên chẳng cử
hành”.
Phải
biết rằng: tụng kinh, niệm Phật tuy bảo là để truy tiến người thân,
thật sự là để quyến thuộc hiện tiền, người quen mở mang cõi lòng, trồng
thiện căn, và đem hết thảy công đức truy tiến người thân hồi hướng cho
hết thảy pháp giới chúng sanh để mở rộng tâm lượng của mình lẫn người,
của kẻ sống lẫn người mất, hòng tiêu diệt những chấp trước, chướng ngại
của mình lẫn người, của kẻ còn lẫn người mất. Nếu như chẳng đặt nặng
lòng thành, chỉ cốt xa hoa, khoa trương, khoe mẽ cùng người, có thể nói
là: “Dùng đám tang người thân để bày trò náo nhiệt”, chẳng phải là điều
con cái nên làm.
*
Ngay lúc thân mắc bệnh nặng, lúc chưa thể chắc chắn sẽ sống hay chết,
hãy dạy cho mọi người ai nấy vì mẹ chí thành khẩn thiết niệm “nam mô A
Di Ðà Phật”, ngõ hầu tuổi thọ chưa tận sẽ chóng lành bệnh, tuổi thọ đã
hết sẽ chóng được vãng sanh Tây Phương. Các con ông hiếu tâm tinh thuần,
chuyên dốc, ắt sẽ đều thường trì niệm như cứu đầu mình bị cháy. Như
thế, nào phải chỉ hữu ích cho phu nhân, mà thật sự còn có ích lợi sâu xa
cho các cậu con ông nữa kia.
Người
phàm mắc bệnh thì dùng thuốc để trị, nhưng cũng không nhất quyết phải
dùng đến thuốc. Bệnh chẳng thể dùng thuốc trị, dù có tiên đan cũng vô
dụng, huống hồ là thuốc của thế gian? Chẳng cần biết là bệnh trị được
hay không, đều nên dùng thuốc A Già Ðà. Thứ thuốc này tuyệt đối chẳng
hại người. Uống vào, dù thân hay tâm đều kiến hiệu liền.
Người
sống trong thế gian, chẳng luận lâu hay mau, rốt cuộc cũng một lần
chết. Cái chết ấy chẳng đáng tiếc, nhưng chỗ sẽ trở về sau khi chết
chẳng đáng để sắp đặt sẵn hay sao? Người có lực lượng tự mình sắp đặt
thỏa đáng, yên ổn, lẽ cố nhiên khi lâm chung chẳng cần đến người khác
giúp đỡ. Nhưng nếu được hỗ trợ lại càng thêm đắc lực. Người không lực
lượng phải nên bảo gia quyến thay mình niệm Phật, ắt sẽ đề khởi được
chánh niệm, chẳng đến nỗi bị ân ái buộc ràng, vẫn y như cũ bị ái tình
trói buộc vào cõi này chẳng thể ra khỏi !
*
Với việc đảo bệnh, tiến vong, người đời nay hay dùng những cách như
tụng kinh, lễ sám, làm đàn Thủy Lục v.v... Riêng Quang đối với những
người quen biết mình đều dạy niệm Phật. Vì lợi ích của việc niệm Phật
còn hơn tụng kinh, lễ sám, lập đàn Thủy Lục v.v... rất nhiều. Vì sao
vậy?
Tụng
kinh thì người không biết chữ không tụng được. Dù biết chữ nhưng tụng
nhanh như nước chảy, người miệng lưỡi hơi chậm chạp cũng không tụng theo
nổi. Người lười biếng tuy tụng được, cũng chẳng chịu tụng. Hóa ra chỉ
hữu danh vô thực. Lễ sám, lập đàn Thủy Lục cứ theo đó mà suy.
Niệm
Phật thì không một ai là chẳng niệm được. Dù có kẻ lười nhác chẳng chịu
niệm, nhưng mọi người cùng hòa tiếng niệm, kẻ ấy chẳng bịt tai nên một
câu Phật hiệu tất nhiên sẽ phân minh rành rọt rót vào tâm. Dù chẳng niệm
có khác gì là niệm! Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm; nào phải
họ muốn thơm, chẳng mong như vậy mà lại được vậy! Vì thân quyến cầu an,
tiến vong, chẳng thể không biết điều này!
*
Làm Phật sự bất tất phải niệm kinh, lễ sám, làm đàn Thủy Lục v.v... vì
những việc ấy đều thuộc về mặt đàn tràng. Hãy nên chuyên nhất niệm Phật,
ngõ hầu các cậu con ông từ đầu đến cuối đều niệm theo được. Nữ quyến ai
nấy tự niệm trong phòng mình, chẳng nên ngồi sau lưng các Tăng. Như thế
thì chẳng những phu nhân và lệnh quyến được lợi ích thật sự, mà vị Tăng
niệm Phật và hết thảy người thấy nghe không ai chẳng được lợi ích.
Phàm
làm Phật sự, nếu chủ nhân chịu tham dự đàn tràng thì vị Tăng sẽ tự phát
tâm chân thật. Còn nếu chủ nhân coi đó là chuyện hình thức thì ông Tăng
cũng sẽ coi pháp sự ấy là chuyện hình thức, như một kỳ Phật sự đã xong,
ban đêm xả đàn Diệm Khẩu rồi thôi!
*
Cho dù [người mất] thật sự được vãng sanh, vẫn phải nên chân thành niệm
Phật để cầu phẩm sen của người ấy được cao hơn, chóng chứng Vô Sanh,
đấy mới là tận hiếu. Ðiều này tuy để người chết được lợi, nhưng thật ra
con cái, dâu rể đều cùng gieo thiện căn. Cháu nào niệm được cũng nên bảo
nó niệm theo.
*
Lúc cha mẹ lâm chung, toàn gia không khóc lóc mà niệm Phật là có lợi
ích nhất. Nhưng [chỉ niệm] trong lúc ấy vẫn còn ngắn ngủi lắm, hãy nên
niệm Phật cả ba tiếng không ngừng, chẳng cất tiếng khóc cũng như di
động, chuyển dịch là tốt nhất. Xin hãy nhớ kỹ lấy!
*
Ðối với việc làm Phật sự, Quang đã từng nói rõ rồi. Mong đừng bắt chước
thói tục, làm chuyện sáo rỗng xuông. Nếu niệm Phật trong suốt bốn mươi
chín ngày so ra còn lợi hơn tụng kinh rất nhiều.
*
Người trước khi mất nếu tự có thể tắm gội, thay áo thì rất hay. Nếu
người ấy chẳng thể tự làm, quyết chẳng nên tắm gội, thay áo sẵn, khiến
người ấy bị đau đớn khó chịu đựng nổi, mất chánh niệm. Sao cuối cùng ông
vẫn buộc người đã khuất mặc pháp y, khoanh chân ngồi kết già để rồi
tiếc hận? Chẳng biết rằng trong lúc ấy tốt nhất là đồng thanh niệm Phật,
vạn vạn phần chẳng được phô trương, bày vẽ (như tắm gội, thay áo, bắt
người sắp chết ngồi xếp bằng v.v...). Nếu phô trương, bày vẽ sẽ thành
như đã bị té xuống giếng còn bị ném đá thêm. Hãy nhớ kỹ, nhớ chắc!
*
Lâm chung teo quắt lại và bị bệnh khổ chính là do nghiệp chướng từ
nhiều kiếp. Vì người ấy dốc lòng tu Tịnh nghiệp nên chuyển trọng báo,
hậu báo thành báo nhẹ trong hiện đời. Ông bảo do tu trì tinh tấn nên
thân ngày càng yếu. Lời này chẳng xác đáng, còn vướng lỗi là khiến cho
kẻ tín tâm nông cạn nhân đó bèn lui sụt. Phải biết rằng: người niệm Phật
quyết định tiêu trừ được nghiệp chướng; những nghiệp chướng hiện tiền
chỉ là những ác báo phải đọa trong tam đồ của đời tương lai chuyển thành
bệnh khổ trong đời hiện tại để giải quyết cho xong đó thôi!
Kinh
Kim Cang dạy: “Trì kinh Kim Cang có điều nhục nhỏ như bị người khác
khinh miệt chính là diệt được cái khổ tam đồ ác đạo trong nhiều kiếp”.
Ðấy chính là phước dày, sẽ được vãng sanh Tây Phương. Chịu cái khổ nhỏ
lúc này để giải quyết cho xong ác báo từ vô lượng kiếp đến nay, thật là
may mắn lớn. Chớ học theo kẻ chẳng biết sự việc chi bảo: “Vì tu trì đến
nỗi mắc bệnh hay bị chết!”
*
Vì lẽ nào mẹ ông bệnh chẳng lành? Ðấy là do túc nghiệp tạo thành như
thế, nhằm chuyển trọng báo, hậu báo thành báo nhẹ trong đời này để giải
quyết cho xong ngay trong lúc này.
Pháp
sư Huyền Trang khi lâm chung còn có chút bệnh khổ, lòng ngờ những kinh
mình dịch có chỗ nào sai lầm chăng? Liền có một vị Bồ Tát an ủi rằng:
“Tội báo trong những kiếp trước của Sư sẽ do nỗi khổ nhỏ này mà tiêu.
Ðừng hoài nghi nữa!” Hãy dùng ý này để an ủi mẹ ông, khuyên bà sanh tâm
hoan hỷ, đừng sanh tâm oán hận, sẽ quyết định được Phật gia bị. Tuổi thọ
chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Tuổi thọ hết sẽ vãng sanh. Phàm nhân
đang lúc bệnh khổ cứ hay nghĩ đến chuyện lùi một bước sẽ an lạc vô
lượng!
Gần
đây, binh lửa liên miên, chúng ta may chưa mắc phải nạn ấy. Dù có bệnh
khổ, vẫn còn được cảnh tỉnh, nhắc nhở mong thoát khổ, thì chỉ nên cảm
kích, chuyên tu, tự được lợi ích. Nếu không, cứ oán trời trách người,
chẳng những túc nghiệp chẳng thể tiêu, mà còn tăng thêm cái nghiệp oán
trời trách người. Hãy bảo mẹ ông như thế. Nếu thật chẳng oán trời trách
người, tịnh tâm niệm Phật sẽ tiêu được nghiệp như nước sôi tan tuyết.
*
Về việc tang tế nên dùng toàn đồ chay, chớ thuận theo thói tục. Dù bị
kẻ chẳng thạo việc đời trách là không đúng, cũng cứ mặc họ chê cười mà
thôi. Việc chôn cất đừng quá phô trương, bày vẽ. Làm Phật sự chỉ nên
niệm Phật, đừng làm Phật sự nào khác. Nên bảo cả nhà cùng khẩn thiết
niệm Phật thì mẹ ông, người nhà ông, quyến thuộc của ông và thân thích,
bằng hữu đều cùng thật sự hưởng lợi ích.
Có
tài lực thì hãy làm nhiều công đức. Nếu tiền của dùng cho việc tang ma
chẳng dư, chỉ lo tang ma không thôi cũng được. Chớ có vung tay quá trán
đến nỗi thiếu hụt, sau này phải chịu cảnh quẫn bách.
*
Mọi việc trong đời người đều có thể vờ vĩnh được, chỉ mỗi mình lúc lâm
chung là chẳng thể dối trá được. Huống hồ những chuyện như không tình
luyến ái, vẻ mặt vui sướng, ngồi yên qua đời, nếu chẳng phải là Tịnh
nghiệp thành thục, đoan chắc không thể đạt được như thế!
Chỉ
mong con cháu và quyến thuộc cả nhà ông hiểu đúng sự việc: Vì mẹ niệm
Phật thì chẳng những mẹ ông được lợi, mà thật ra công đức niệm Phật của
chính mình càng lớn. Bởi thế, Phật dạy người mỗi khi tụng kinh, trì chú,
niệm Phật, làm các công đức đều hồi hướng cho pháp giới chúng sanh.
Bình thời, còn vì pháp giới chúng sanh [là những kẻ] chẳng can hệ gì đến
mình hồi hướng, huống hồ mẹ mất mà chẳng chí tâm vì mẹ niệm Phật ư?
Có
thể vì hết thảy chúng sanh hồi hướng là đã hợp với thệ nguyện Bồ Ðề của
Phật, như một giọt nước gieo vào biển cả liền được rộng sâu như biển
cả. Nếu như chưa đến được biển, đừng nói là một giọt nước; cho dù là
trường giang, sông cái tất nhiên vẫn khác với biển cả một trời, một vực!
Như vậy, làm điều gì cho người thân và cho hết thảy mọi người đều là để
tự bồi đắp phước đức của chính mình đó thôi!
Biết
được nghĩa này, người có tâm hiếu thì tâm hiếu lại càng thêm tăng
trưởng. Kẻ không hiếu tâm cũng sẽ phát khởi tâm hiếu, thỉnh Tăng niệm
Phật suốt bốn mươi chín ngày, càng hay! Lúc niệm, anh em ông phải có
người tham dự cùng niệm. Phụ nữ bất tất phải tới ngồi sau chúng Tăng;
bởi lẽ niệm Phật nhiều ngày sẽ trở nên quen biết nhau, có thể khiến
người khác nẩy sanh hiềm nghi. Nên xếp riêng một nơi niệm Phật cho phụ
nữ, hoặc để họ ngồi sau màn, ra vào theo cửa riêng, hai bên chẳng trông
thấy nhau.
Làm
như vậy để làm gương cho làng xóm, mở bày khuôn phép tốt lành. Nếu để
lung tung không giới hạn, lỡ người khác bắt chước theo, lâu ngày ắt nảy
sanh mối tệ. Người xưa lập pháp tuy là thượng thượng nhân vẫn tuân theo
khuôn phép của hạ hạ nhân nên tệ hại mới không nảy sanh!
*
Những thuyết “đảnh thánh, nhãn sanh thiên” (3) thật sự có chứng cứ,
nhưng Quang sợ kẻ vô tri cứ chăm chút thăm dò hơi nóng lạnh. Ý tôi muốn
nói là: Nếu có tín nguyện, lâm chung chánh niệm phân minh, ắt được vãng
sanh, chẳng cần cứ phải thăm dò hơi nóng lạnh để làm chứng cứ! Cho nên
nói: Cũng chẳng phải chỉ có một cách. Chỉ e thăm dò nhiều lượt đến nỗi
gây lầm lỡ [cho người đã mất]. Chẳng thể chẳng biết!
*
Hãy nên đem hết thảy việc nhà và ngay cả cái sắc thân của chính mình
đây thảy đều buông toàn bộ xuống hết. Từ trong cái tâm chẳng nhiễm mảy
trần trì thánh hiệu vạn đức hồng danh, nghĩ mình sắp chết, ngoại trừ
việc niệm Phật cầu tiếp dẫn chẳng khởi một tạp niệm nào. Làm được như
vậy, nếu tuổi thọ đã tận sẽ quyết định vãng sanh Tây Phương, siêu phàm
nhập thánh. Nếu tuổi thọ chưa tận, sẽ quyết định tiêu nghiệp, lành bệnh,
huệ rạng, phước cao. Nếu chẳng nghĩ như thế, cứ si ngốc chỉ cầu chóng
lành bệnh thì chẳng những bệnh chẳng thể chóng lành, trái lại còn nặng
thêm. Giả sử như tuổi thọ đã hết, ắt sẽ theo nghiệp chìm nổi vĩnh viễn
không có dịp thoát khỏi nỗi khổ ở Sa Bà này!
*
Người lâm chung được trợ niệm ắt sẽ được vãng sanh. Ðã không được trợ
niệm, lại còn khóc lóc, xáo động, khiến ái tình, sân hận khởi lên làm
cho người chết khó khỏi bị đọa lạc. Cực hiểm, cực hiểm! Ông thành tựu
được việc vãng sanh cho mẹ cũng là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế
chư Phật. Ấy là: Ngay trong trần lao mà hành Phật sự, công đức ấy thù
thắng hơn những công đức tầm thường cả vạn phần.
* Lâm Chung Châu Tiếp (mái chèo lâm chung)
Phật
chế Tăng khi mất phải hỏa thiêu vốn là để họ rời lìa được cái thân phần
đoạn giả dối, chứng được Pháp Thân chân thường. Vì thế, từ khi Phật chế
lập điều ấy đến nay, Tăng chúng kính dùng cấm chế ấy làm thường quy.
Tiếc là đạo pháp ngày càng suy đồi, lâu ngày tệ nạn phát sanh. Như nay
Thích tử vội vàng lo hỏa thiêu cho xong việc, chẳng tuân cấm chế. Mỗi
khi người bệnh vừa thở hắt ra, liền vội thay áo, dời động để kịp nhập
khám một hai ngày, rồi liền hỏa thiêu. Có thể nói là rất trái nghịch chế
định của Phật!
Phật
nói con người có tám thức, tức là tri thức. Năm thức đầu là Nhãn, Nhĩ,
Tỷ, Thiệt, Thân. Thức thứ sáu là Ý. Thức thứ bảy là Mạt Na, còn gọi là
Truyền Tống Thức. Thức thứ tám là A Lại Da, còn gọi là Hàm Tàng Thức.
Khi con người sanh ra, chỉ có thức thứ tám này đến trước nhất, các thức
kia đến sau. Ðến lúc chết, thức thứ tám này cũng ra đi sau cùng; các
thức khác lần lượt đi trước.
Thức
thứ tám chính là linh thức của con người, thế tục thường gọi là “linh
hồn”. Thức thứ tám này thông linh nên khi con người mới nhập thai mẹ, nó
liền đến trước. Vì thế, con trong bụng mẹ liền biết hoạt động. Ðến khi
chết, sau khi dứt hơi, nó chẳng đi ngay, phải đợi đến khi toàn thân lạnh
giá, không còn một điểm nào còn ấm nữa, thức ấy mới chịu đi. Khi thức
đã đi, thân này sẽ không còn mảy may tri giác nào.
Nếu
chỗ nào còn ấm là thức ấy còn chưa rời đi. Ðộng chạm đến vẫn biết đau
khổ. Lúc ấy, kỵ nhất là các sự mặc áo, xếp chân, dời động v.v... Nếu hơi
động đến sẽ đau khổ khó chịu đựng nổi; bất quá miệng không nói được,
thân chẳng động được đó thôi! Xét theo kinh dạy, ba thứ hơi nóng, thọ
mạng và thức thường chẳng rời nhau. Như người sống có hơi ấm thì thức
còn hiện hữu. Thức còn hiện hữu thì tuổi thọ chưa hết. Xưa nay có kẻ
chết đi dăm ba bữa rồi sống lại, chép rõ ràng trong sách vở có thể tra
cứu được.
Nho
Giáo cũng có cái lễ để ba ngày rồi mới đại liệm, do quyến thuộc yêu
mến, vẫn hy vọng người chết vạn nhất sống lại chăng? Còn Tăng sĩ ta, tuy
chẳng mong sống lại, nhưng cũng chẳng thể chẳng quản gì đến nỗi thống
khổ [của vong giả], cứ tự tiện dời động để kịp di quan, thiêu hóa. Lòng
từ bi để đâu? Cổ nhân nói: “Thố tử hồ bi, vật thương kỳ loại” (thỏ chết,
cáo buồn; loài vật thương xót nhau). Loài vật còn như thế, huống hồ
cùng là loài người ư? Huống hồ lại còn cùng là Phật tử nữa ư?
Vả
nữa, thói đời khi đau đớn tột bậc sẽ dễ nổi sân tâm. Do sân tâm rất dễ
bị đọa lạc. Như kinh nói vua A Kỳ Ðạt lập chùa tháp Phật, công đức vòi
vọi. Lúc lâm chung, người hầu cầm quạt lỡ để rớt trúng mặt vua. Vua bị
đau, nổi sân, chết đọa làm thân rắn. Nhờ có công đức, sau gặp được
sa-môn vì rắn thuyết pháp. Do nghe pháp nên bèn thoát thân rắn, được
sanh lên trời. Xem đó, biết rằng: Khi thần thức của người chết chưa đi
hẳn thì mặc áo, dời động và lập tức thiêu hóa ngay sẽ khiến người ấy đau
đớn nổi sân, càng thêm đọa lạc, há chẳng phải là nhẫn tâm hại lý cố bày
trò thảm độc ư?
Hãy
thử nghĩ người chết có oán cừu chi với mình; chỉ vì hảo tâm thành ra ác
duyên! Nếu bảo sự còn mờ mịt, biết cậy vào đâu để suy xét, thì những
điều chép trong kinh điển chẳng đáng tin chăng? Ðến giờ đây, các thói tệ
lưu hành nói chung là do người sống chẳng biết thương cho nỗi khổ của
người chết, chỉ tính xong việc cho nhanh nên chẳng nhọc công xem kỹ ấm
lạnh. Do đấy, trở thành thói quen, dù có ai nhắc đến lại cười là vu vơ,
đến nỗi người chết phải chịu khổ nạn! Ô hô! Ðiều khổ nhất trên đời không
gì bằng sanh tử. Sanh như rùa còn sống bị bóc mai, tử như cua bị nhúng
nước sôi. Tám khổ cùng nấu, đau đớn chẳng nói nổi!
Xin
những ai chăm sóc bệnh nhân hãy lưu tâm cẩn thận, chớ cùng bệnh nhân
tán nhảm chuyện gẫu khiến tâm họ tán loạn, cũng đừng buồn bã, khóc kể om
sòm. Hãy nên khuyên bệnh nhân buông hết thân tâm, một dạ niệm Phật để
cầu vãng sanh. Lại nên trợ niệm khiến cho bệnh nhân nương theo tiếng
niệm Phật của mình để nhớ kỹ trong tâm. Nếu có tiền tài hãy thỉnh Tăng
chúng chia ban niệm Phật, khiến cho tiếng niệm Phật ngày đêm không ngớt,
hòng tai người bệnh luôn nghe Phật hiệu, có thể quyết định nhờ vào Phật
từ lực vãng sanh Tây Phương. Còn như không có tiền của thì cả nhà phát
tâm trợ niệm để kết duyên cuối cùng.
Về
việc sắp đặt hậu sự, chớ bàn bạc ngay trước mặt bệnh nhân. Chỉ nên gõ
dẫn khánh, cao tiếng niệm Phật, khiến cho từng câu lọt vào tai bệnh nhân
ngõ hầu trong tâm người bệnh thường chẳng lìa Phật. Tiếng mõ vốn đục,
trợ niệm lâm chung trọn chẳng nên dùng. Bệnh nhân nằm hay ngồi nên để
tùy ý, chớ nên di động, cả nhà cứ chuyên tâm niệm Phật. Ðợi đến lúc toàn
thân đã lạnh hết, tức là thần thức đã đi hết rồi, đợi thêm hai tiếng
nữa mới được tắm rửa, thay áo. Nếu như thân đã lạnh hóa cứng thì nên
dùng nước nóng xoa nắn, dùng vải thấm nước nóng áp vào khủy tay, đầu
gối, cổ chân, đợi giây lát, những chỗ đó sẽ mềm mại trở lại. Lúc ấy mới
xếp chân cho người chết nhập quan. Cho đến lúc mọi việc xong xuôi hết
cả, vẫn phải thường niệm Phật.
Tất
cả những việc như lễ sám, tụng kinh đều chẳng có lợi ích rộng lớn bằng
niệm Phật. Phàm hết thảy các quyến thuộc dù là tại gia hay xuất gia đều
phải tuân hành cách này thì kẻ còn, người mất đều được lợi ích lớn lao.
Hơn nữa, Ðức Phật ta khi Niết Bàn, vốn nằm trên hông phải, cứ để như vậy
nhập quan trà-tỳ. Người đời nay cứ thuận theo tự nhiên. Nếu ngồi mất
thì đặt vào khám. Nếu nằm mất thì đặt vào quan tài, cốt sao thỏa đáng.
Nhưng người đời nay phong tục đã thành thói, sợ họ chẳng cho như vậy là
đúng, cũng nên lắng nghe, suy nghĩ để quyết định sao cho tiện.
Còn
như người chết rồi có các cảnh tượng thiện ác, vốn là có chứng cứ thật
sự. Người sanh vào thiện đạo hơi nóng từ dưới bốc lên trên; người sanh
vào ác đạo, hơi nóng từ trên tỏa xuống dưới. Nếu như cả thân lạnh hết,
khí nóng tụ lại trên đầu bèn là sanh trong thánh đạo. Hơi nóng ở mắt
sanh trong thiên đạo, ở ngực sanh trong nhân đạo, ở bụng sanh ngạ quỷ
đạo, ở gối sanh trong súc sanh đạo, ở bàn chân sanh trong địa ngục đạo.
Vì thế có bài kệ:
Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên,
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc,
Súc sanh tất cái ly,
Ðịa ngục cước bản xuất.
(Ðảnh: thánh; mắt: sanh thiên,
Ngực: người, bụng: ngạ quỷ;
Từ gối ra: súc sanh,
Ðịa ngục: bàn chân nóng)
Ôi!
Ðại sự sanh tử chẳng ai tránh được, chỉ có một điều phải thật thận
trọng: người săn sóc bệnh nhân phải dùng đồng thể bi tâm để giúp hoàn
thành đại sự vãng sanh. Cổ nhân nói:
Ngã kiến tha nhân tử,
Ngã tâm nhiệt như hỏa,
Bất thị thục tha nhân,
Khán khán luân ngã đáo.
(Ta thấy người khác chết,
Ruột ta nóng như lửa,
Nào phải mình ai kia,
Rồi ta cũng đến lượt!)
Nhân
duyên, quả báo cảm ứng chẳng sai! Muốn cầu tự lợi trước phải lợi người!
Soạn thiên này để bảo khắp đồng bào, khẩn khoản mong mọi người chú ý!
5. Khuyên nên giữ lòng thành kính
*
Nhập đạo nhiều môn, chỉ do chí hướng mỗi người mà thâm nhập một môn,
trọn chẳng có một pháp nhất định. Nhưng nhất định phải: 1. Thành. 2.
Cung kính. Hai điều này dù cho tất cả chư Phật tận đời vị lai đều xuất
thế cả vẫn chẳng thể khác được. Chúng ta đã là phàm phu sát đất muốn mau
tiêu nghiệp lụy, mau chứng Vô Sanh, chẳng dốc sức vào hai việc này thì
ví như cây không rễ lại mong tươi tốt, chim không cánh lại mong bay lên,
có được hay chăng?
*
Thế tục đọc sách tuyệt không kính nể. Sáng dậy, chẳng buồn rửa ráy, súc
miệng. Ði tiêu xong chẳng thèm gột rửa. Hoặc còn bỏ sách nơi giường,
ghế, hoặc làm gối lót đầu để đêm ngủ đọc luôn, bỏ chung với đồ lót, áo
quần. Sách nào đặt trên bàn để đọc thì bỏ lẫn lộn với các vật khác, xem
lời hiền thánh như mớ giấy cũ nát. Hoàn toàn không có ý chăm chút, không
mảy may kính trọng.
Thậm
chí những sách coi chơi của phụ nữ những nhà thư hương đều là kinh
truyện, tôi tớ những nhà giàu có lau chùi đồ đạc đều dùng [những tờ giấy
có in chép] văn chương. Bao thứ khinh nhờn khó lòng thuật tỉ mỉ. Thói
tệ tích tập đã lâu, quen mắt chẳng quan tâm đến. Nếu chẳng chỉ rõ họa
phước, chắc chắn khó tránh lỗi khinh nhờn. Chưa được ích gì, đã mắc lỗi
lớn trước! Thương những kẻ vô tri ấy nên phải chỉ dạy trước.
*
Một pháp niệm Phật thật rất giản dị, rất rộng, rất lớn, nhưng phải khẩn
thiết chí thành đến cùng cực mới hòng cảm ứng đạo giao, được lợi ích
thật sự ngay trong đời này! Nếu lười nhác, biếng trễ, không mảy may kính
nể, dù gieo được viễn nhân, vẫn mắc tội khinh nhờn chẳng thể tưởng
tượng nổi. May ra được sanh vào cõi trời, cõi người, quyết khó lòng cao
dự hải hội.
Ðối
với tượng Phật nên tưởng như đức Phật thật, chẳng được coi giống như
gỗ, đất, đồng, sắt v.v... Kinh điển chính là thầy của tam thế chư Phật,
là Pháp Thân xá-lợi của Như Lai, cũng nên xem như Ðức Phật thật sự,
chẳng được coi như giấy mực. Lúc đối trước kinh tượng, hãy nên như trung
thần thờ thánh chúa, như con hiếu đọc di chúc. Làm được như thế, không
nghiệp chướng nào chẳng tiêu, không phước huệ nào chẳng đủ!
Hiện
tại, hàng sĩ đại phu học Phật rất nhiều, nhưng đa số chỉ đọc kinh văn,
hiểu ý nghĩa, dùng đó để phô phang ngoài miệng hòng được tiếng là bậc
thông gia mà thôi. Còn như cung kính, chí thành, y giáo tu trì, thật khó
có được một ai!
Tôi
thường nói: “Muốn hưởng lợi ích thật sự từ Phật pháp, phải cầu nơi cung
kính. Có một phần cung kính sẽ tiêu được một phần tội nghiệp, tăng một
phần phước huệ. Có mười phần cung kính sẽ tiêu được mười phần tội
nghiệp, tăng mười phần phước huệ. Nếu chẳng cung kính đến nỗi khinh mạn
thì tội nghiệp càng tăng, phước huệ càng giảm. Buồn thay!”
*
Lễ, tụng, trì, niệm, các thứ tu trì đều phải lấy thành kính làm chủ.
Nếu thành kính đến cùng cực thì công đức như trong kinh nói: Còn ở địa
vị phàm phu chưa thể viên đắc, nhưng sở đắc cũng đã khó nghĩ khó bàn!
Nếu không thành kính, có khác chi hát tuồng, những trò khổ, sướng, buồn,
vui đều là giả trang, chẳng phát xuất từ bên trong. Dù có công đức,
cũng chẳng thể vượt quá cái phước si ám của cõi nhân thiên đó thôi.
Nhưng do cái si phước ấy ắt sẽ tạo ác nghiệp, cái khổ tương lai có lúc
nào xong?
*
Nói đến thành, nói đến cung kính, lời lẽ ấy cả thế gian đều biết, nhưng
đạo lý này cả thế gian đều mê muội. Ông X. nọ do tội nghiệp sâu nặng,
mong tội nghiệp tiêu trừ để báo ân Phật, thường tìm cầu những khuôn mẫu
tu trì tốt đẹp của cổ đức. Nhờ đó, ông biết rằng Thành và Cung Kính thật
là bí quyết cực diệu để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Vì
thế, ông thường cùng kẻ hữu duyên nhắc đi, nhắc lại điều này.
*
Ðối với việc xem kinh, nếu muốn làm pháp sư để tuyên dương cho đại
chúng thì hãy đọc kinh văn trước, tiếp đó xem các chú sớ. Nếu tinh thần
chẳng sung túc, kiến giải chẳng hơn người, chớ có mất công nhọc nhằn tâm
lực, uổng phí năm tháng.
Nếu
muốn tùy phận được lợi ích thật sự, phải chí thành khẩn thiết thanh
tịnh tam nghiệp. Hoặc trước hết phải đoan tọa chốc lát, lắng định thân
tâm, rồi mới lễ Phật, đọc ra tiếng; hoặc chỉ im lặng xem. Hoặc lễ Phật
xong, đoan tọa chốc lát, sau đó mới mở kinh [ra xem]. Cũng phải thân
đoan nghiêm, ngồi ngay ngắn như đối trước thánh dung, đích thân lắng
nghe viên âm, chẳng dám manh nha một niệm biếng nhác, chẳng dám khởi một
niệm phân biệt. Ðọc một loạt từ đầu đến cuối, dù là văn hay nghĩa đều
nhất loạt chẳng dùng lý lẽ để hiểu.
Ðọc
kinh như thế, người lợi căn đối với mỗi mỗi Không lý sẽ lãnh ngộ được,
chứng pháp Thật Tướng; còn kẻ căn cơ độn kém cũng tiêu trừ được nghiệp
chướng, tăng trưởng phước huệ. Lục Tổ nói: “Ðãn khán Kim Cang kinh, tức
năng minh tâm kiến tánh” (chỉ xem kinh Kim Cang liền có thể minh tâm
kiến tánh) là nói về cách xem kinh như trên đây, cho nên bảo là “đãn”
(chỉ). Kinh Ðại Thừa đều có công năng minh tâm kiến tánh, chứ nào phải
mình kinh Kim Cang?
Nếu
cứ một mực phân biệt câu này nghĩa như thế nào, đoạn này nghĩa là gì
thì toàn là thuộc về phàm tình, vọng tưởng, xét đoán, suy lường, làm sao
ngầm phù hợp với ý Phật, lãnh ngộ trọn vẹn ý kinh; nhân đó, nghiệp
chướng tiêu diệt, phước huệ tăng cao cho được? Nếu biết cung kính thì
còn gieo được chút thiện căn. Nếu cứ làm giống hệt như cách đọc sách Nho
của kẻ học rộng sẽ thành hạng người vướng phải tội khinh nhờn sừng sững
như non, thăm thẳm như vực, dùng nhân lành chiêu lấy quả ác vậy.
Cổ
nhân chuyên trọng nghe kinh vì tâm chẳng thể khởi phân biệt. Như có
người đọc kinh ra tiếng, một người khác ở cạnh nhiếp tâm lắng nghe mỗi
chữ, mỗi câu cho thật phân minh. Tâm kẻ ấy chuyên chú, chẳng dám duyên
theo hết thảy thanh sắc bên ngoài. Nếu chỉ hơi phóng túng liền bị đoạn
tuyệt ngay, chẳng quán thông nổi văn nghĩa!
Người
tụng có kinh văn để nương theo, chẳng phải dốc trọn tâm, nhưng cũng
phải tụng cho rõ ràng vì người nghe chỉ nhờ vào tiếng tụng. Nếu người
tụng phóng túng một chút liền thành đứt đoạn. Nếu nghe được như thế,
công đức bằng với công đức của người chí thành, cung kính tụng. Nếu
người tụng chỉ thiếu cung kính đôi chút thì công đức khó bằng nổi kẻ
nghe.
Người
đời nay xem kinh Phật như giấy cũ. Trên án kinh để lẫn các tạp vật. Cầm
lấy kinh chẳng rửa tay, miệng chẳng súc sạch, lắc lư thân mình, giở
chân, rung đùi, thậm chí phóng thí (4), gãi chân, buông lung hết thảy
chẳng kiêng sợ gì, còn hòng xem kinh để được phước, tiêu tội! Chỉ có
hạng ma vương muốn diệt Phật pháp là tán thán, cho là hoạt bát viên
dung, là phù hợp sâu xa với diệu đạo không chấp trước của Ðại Thừa! Hàng
Phật tử chân thật tu hành trông thấy cảnh ấy chỉ còn biết đau xót thầm,
nước mắt đầm đìa, than thở ma quyến hoành hành, chẳng biết làm sao!
Ngài
Trí Giả tụng kinh hoát nhiên đại ngộ, lặng lẽ nhập định, nào phải do
tâm phân biệt mà được đâu! Một vị cổ đức chép kinh Pháp Hoa, nhất tâm
chuyên chú liền đạt “niệm cực tình vong”, cho đến lúc trời tối mịt vẫn
chép kinh như thường. Thị giả vào hỏi trời đã tối mịt sao vẫn còn chép,
Ngài liền xòe tay ra, chẳng trông thấy lòng bàn tay. Xem kinh như thế là
cũng chuyên tâm dốc chí giống như tham thiền khán thoại đầu, trì chú,
niệm Phật. Do dụng lực lâu ngày, sẽ có một ngày được hoát nhiên quán
thông.
Minh
Tuyết Kiệu Tín thiền sư, người ở Phủ Thành, Ninh Ba không biết chữ,
trung niên xuất gia, tận lực khổ công tham cứu, nhẫn được những việc
người khác chẳng thể nhẫn, làm được việc người khác chẳng thể làm. Khổ
hạnh của ngài người khác khó đạt được. Lâu ngày, đại triệt, đại ngộ,
miệng nói ra điều gì đều khéo léo khế hợp cùng Thiền cơ. Tuy chẳng biết
chữ, chẳng viết được, nhưng lâu ngày Ngài liền biết chữ! Lâu sau, Ngài
còn tung hoành ngọn bút, nghiễm nhiên trở thành một bậc đại thư pháp.
Những sự lợi ích này đều là từ chẳng phân biệt, chuyên tinh tham cứu mà có. Người xem kinh cũng nên lấy đó làm gương!
*
Lúc xem kinh tuyệt đối chẳng được khởi tâm phân biệt thì tự nhiên vọng
tưởng phải tiềm phục, thiên chân phát hiện. Nếu muốn nghiên cứu nghĩa lý
hoặc giở xem các chú sớ hãy dành một thời gian khác để chuyên nghiên
cứu. Trong lúc nghiên cứu, tuy chẳng nghiêm túc như lúc xem kinh, cũng
chẳng được hoàn toàn không cung kính. Bất quá, so với lúc xem kinh, thư
thái hơn một chút.
Nghiệp
chưa thể tiêu, trí chưa thể rạng thì phải lấy việc xem kinh làm chính,
việc nghiên cứu chỉ đại lược kèm theo. Nếu không, suốt ngày quanh năm
chỉ lo nghiên cứu, dù nghiên cứu đến mức như vẹt mây thấy mặt trăng, mở
cửa thấy núi, cũng chỉ là bàn suông ngoài miệng, chẳng hề can hệ mảy may
đến thân tâm, tánh mạng, sanh tử chi cả! Ngày ba mươi tháng Chạp xảy
đến chẳng dùng được mảy may!
Nếu
có thể xem kinh [theo cách] như trên vừa nói, ắt sẽ nghiệp tiêu, trí
rạng, ba thứ tình kiến sẽ trở về “chốn quê hương chẳng hề tồn tại” (ý
nói: sẽ biến mất không tăm tích). Nếu chẳng xem kinh được như thế, chẳng
những ba thứ tình kiến chưa chắc chẳng sanh, còn e do sức túc nghiệp,
tà kiến sẽ phát khởi, bác không nhân quả, và các thứ phiền não: giết,
trộm, dâm, dối sẽ nối tiếp nhau nổi dậy như lửa cháy hừng hực, nhưng vẫn
cứ cho mình là người hành Ðại Thừa, hết thảy vô ngại! Lại còn vin vào
câu nói “Tâm bình hà lao trì giới?” (tâm bình nào phải nhọc công giữ
giới?) của Lục Tổ để cho rằng phá hết các giới mà chẳng phá mới thật sự
là trì giới. Thật là tu hành khó đạt chân pháp vậy!
Sở
dĩ chư Phật, chư Tổ chủ trương Tịnh Ðộ là để nhờ vào Phật từ lực chế
phục nghiệp lực, chẳng cho chúng phát hiện. Vì thế nên lấy niệm Phật làm
chánh, xem kinh làm trợ hạnh!
*
Ðức Như Lai đã diệt độ, những cái còn lại chỉ là kinh và tượng. Nếu coi
tượng bằng đất, gỗ, vàng, tượng vẽ v.v... là đức Phật thật sẽ diệt được
nghiệp chướng, phá được phiền hoặc, chứng tam muội, thoát sanh tử. Nếu
coi đó chỉ là đất, gỗ, vàng, tranh vẽ thì tượng cũng chỉ là đất, gỗ,
vàng, tranh vẽ mà thôi! Nếu khinh nhờn đất, gỗ, vàng, tranh vẽ chẳng có
lỗi gì, nhưng nếu khinh nhờn tượng Phật bằng đất, gỗ, vàng, tranh vẽ thì
tội tầy trời. Ðọc tụng kinh Phật, lời Tổ, phải coi như Phật tổ đang
hiện diện nói cho ta nghe, chẳng dám móng khởi chút biếng nhác nào!
Làm
được như vậy, tôi bảo người ấy ắt sẽ cao đăng chín phẩm ngay trong đời
này. Nếu không, chỉ là dạo chơi trong pháp môn, bất quá được lợi ích là
biết nhiều, thấy nhiều, nói được rành rẽ, chứ chẳng mảy may thọ dụng
được lợi ích chân thật chi, vẫn chỉ là chuyện nghe bên đường, nói bên lề
mà thôi! Cổ nhân đối với Tam Bảo đều giữ lòng tôn kính thật sự, chứ
chẳng chỉ bàn bạc ơ hờ rồi thôi. Người đời nay miệng còn chẳng buồn bàn
đến một chữ, huống là thực hành ư?
*
Ấn Quang thấy những người trích máu chép kinh gần đây chỉ là tạo nghiệp
vì trọn chẳng cung kính. Mỗi lần trích máu, liền trích rất nhiều. Vào
tiết Xuân Thu, qua hai ba ngày máu liền hư thối. Mùa Hạ, để nửa ngày máu
liền tanh hôi, vẫn cứ dùng để chép. Có người còn đem máu phơi khô, mỗi
lần chép liền dùng nước hòa máu khô nghiền ra để chép. Lại còn chép luộm
thuộm, chẳng cung kính mảy may.
Ðúng
là trò trẻ con đùa giỡn, chẳng phải là dùng máu để biểu lộ lòng chí
thành, mà chỉ là trích máu chép kinh để đoạt cái danh mình là người chân
thật tu hành thôi!
*
Chép kinh chẳng giống như viết tự bình (5), chủ yếu là dốc tinh thần
vào, chứ chẳng cần xinh khéo. Chép kinh nên như tiến sĩ chép sách. Mỗi
một nét bút chẳng được cẩu thả, viết tắt. Dạng chữ dùng phải là dạng
chánh thức. Nếu tọa hạ (6) viết theo thể loại viết trát là không được.
Xưa nay, người ta hay dùng các thể loại hành thư hay thảo thư để chép
kinh, Quang tôi tuyệt đối chẳng tán thành!
*
Người đời nay chép kinh mặc sức ngoáy bút, thật chẳng phải là chép
kinh, chỉ là mượn dịp để luyện chữ đồng thời lưu lại bút tích cho hậu
thế đó thôi! Chép kinh như thế không phải là hoàn toàn vô ích, nhưng
chẳng qua chỉ tạo thành cái nhân đắc độ trong đời tương lai, mà cái tội
khinh nhờn cũng chẳng nhỏ nhặt gì!
*
... (lược bỏ đoạn này không dịch vì Tổ luận về thể loại chữ nên dùng để
chép kinh. Ngài trách một vị cư sĩ khi chép kinh đã nệ cổ, tự tiện sửa
đổi những chữ trong kinh theo lối viết cổ. Thiển nghĩ, đoạn này vô ích
đối với những độc giả không biết chữ Hán, nên không dịch ra)
*
Nếu đối với pháp môn Tịnh Ðộ chẳng thể dốc hết một lòng quyết chí tu
trì; đối với việc tuân giữ lòng thành kính, khắc kỷ, giữ lễ cứ muốn cho
là chẳng muốn chấp trước, hòng khéo che đậy những thứ sơ sài, tán loạn,
phóng dật, thì những lợi ích ngài đạt được chẳng giống với cái hiểu biết
từ chỗ thấy hiểu kém cỏi của Quang tôi. Những điều khác trong bộ Văn
Sao tạp nhạp của Quang đã nói đủ cả, nên chẳng dông dài nữa.
Ðối
với việc xem kinh, chỉ có cung kính mới được lợi ích thật sự. Nếu chẳng
cung kính, dù có được lợi ích thì lợi ích ấy chẳng qua là nương theo
kinh văn hiểu ý nghĩa, chứ nghiệp tiêu, trí rạng, thầm ngộ tự tâm trọn
chẳng thể cầu may như thế được! Huống hồ còn đeo cái lỗi khinh nhờn
chẳng thể nói hết nổi được! Ðây chính là bệnh chung của cả thế gian,
thật là buồn đau, khóc hận, thở dài sườn sượt vậy!
*
Chẳng thể lập riêng nghi thức lễ Phật cho người cực bận. Chỉ chí thành,
khẩn thiết, miệng xưng Phật hiệu, thân lễ chân Phật, cứ thành kính như
Phật đang hiện diện là được!
*
Chẳng thể lễ bái xá lợi, chẳng thể thân cận tùng lâm, cũng chẳng sai
sót gì! Cốt sao trông thấy tượng Phật liền tưởng như đức Phật thật; thấy
kinh Phật, lời Tổ, tưởng Phật, tưởng Tổ đang đích thân giảng dạy cho
mình. Chí cung chí kính, chẳng lười nhác, chẳng xao nhãng chính là suốt
ngày thấy Phật, suốt ngày thân cận chư Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, thiện tri
thức, xá lợi, tùng lâm.
*
Tri thức gởi vải trắng cho biết đến năm Nhâm Ngọ sẽ in. Ðiều này tội
lỗi đến mức cùng cực, bởi lẽ đã sử dụng danh hiệu Bồ Tát một cách điếm
nhục, khinh nhờn đến mức cùng tột. Huống hồ có nơi còn khinh miệt ngồi
lên nữa. Năm Quang Tự thứ 20, tôi từng thấy một lần ở Phổ Ðà, năm 21 ở
chùa A Dục Vương lại thấy. Tôi lấy làm lạ, than cùng điện chủ điện Xá
Lợi. Ông bảo: “Ðấy là phong tục của vùng Ninh Ba”. Tôi tự thẹn mình
không có sức để ngăn ngừa thói tục xấu ác này. Nếu như Quang tôi là chủ
nhân một phương ắt sẽ đến nơi thanh minh lỗi hại của việc này, ngõ hầu
những người có tín tâm chỉ được lợi ích, chẳng mắc điều tổn hại ấy!
*
Hết thảy tôn kinh Ðại Thừa Hiển Mật đức Ðại Giác Thế Tôn đã nói đều dạy
lý vốn duy tâm, đạo hợp Thật Tướng, khắp ba đời chẳng đổi, cả mười cõi
cùng tuân trở về nguồn, quay lại cội, là đạo sư của chư Phật, dẹp khổ,
ban vui, là cha lành của chúng sanh. Nếu có thể dốc cạn lòng thành kính
lễ tụng, thọ trì thì mình lẫn người đều được lợi ích thù thắng, u - hiển
cùng gội ân quang, như Như Ý châu, như vô tận tạng, lấy chẳng hết, dùng
chẳng tận, tùy tâm hiện lượng, sở nguyện đều mãn.
Kinh
Lăng Nghiêm nói: Cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam muội được
tam muội, cầu trường thọ được trường thọ. Như thế cho đến cầu Niết Bàn
được đại Niết Bàn. Ðại Niết Bàn là cứu cánh quả đức. Nếu luận về Như Lai
bổn tâm thì thật sự toàn bộ Khế Kinh chỉ là để giảng điều này. Nhưng
chúng sanh chí nguyện hẹp kém, chưa chí thành đến mức cùng cực nên chẳng
thể khế nhập ngay được.
Vì
thế, phải thuận theo tâm hạnh của họ để thỏa mãn sở nguyện của mỗi
người. Nếu là bậc túc căn sâu dày sẽ liền đốn minh tự tánh, triệt chứng
duy tâm, phá phiền hoặc, tiến ngay vào Bồ Ðề, viên mãn phước huệ, mau
thành Giác Ðạo để đạt được toàn bộ lợi ích của Khế Kinh, phô trọn bản
hoài của Như Lai.
Ví
như một trận mưa thấm khắp, cỏ cây đều tươi tốt. Cây lớn sẽ chọc mây,
che lấp ánh mặt trời; cây nhỏ sẽ dài phân, tăng tấc. Ðạo vốn duy nhất
Chân Như, nhưng tùy tâm mà lợi ích có thù thắng, có kém hèn. Nhưng nếu
đã trồng thiện căn, rốt rồi cũng thành Phật quả. Dù chẳng thể đạt được
ngay lợi ích lớn lao, cũng tạo thành nhân độ thoát. Nghe tiếng cái trống
bôi thuốc độc, xa gần đều chết. Ăn chút kim cang, quyết định chẳng
tiêu. Trước phải dùng dục để lôi kéo, sau mới hòng chứng nhập Phật trí,
là nói về lẽ này đấy!
*
Kinh dạy thân người khó được, Phật pháp khó nghe. Nếu chẳng phải xưa đã
có nhân duyên, tựa đề các bộ kinh Phật còn chẳng được nghe, huống là
được thọ trì, đọc tụng hòng tu nhân chứng quả? Nhưng những điều Như Lai
đã dạy chỉ dựa trên lý vốn sẵn có trong tâm của chúng sanh. Ngoài tâm
tánh ra, trọn không có một pháp nào để được!
Nhưng
chúng sanh còn mê, chẳng thể liễu tri, huyễn sanh vọng tưởng chấp trước
đối với Chân Như Thật Tướng. Do vậy khởi tham - sân - si, tạo giết -
trộm - dâm, mê trí huệ trở thành phiền não, khiến thường trụ trở thành
sanh diệt, trải bao kiếp số nhiều như bụi trần, chẳng thể trở lại. May
gặp các kinh điển Ðại Thừa hiển mật do đức Như Lai nói, mới biết hạt
châu vẫn còn nguyên nơi vạt áo, Phật tánh vẫn thường còn, kẻ hèn hạ làm
khách đó vốn là con ông trưởng giả. Trời người sáu nẻo nào phải chỗ mình
ở, Thật Báo, Tịch Quang chính là quê nhà sẵn có.
Nghĩ
lại từ vô thỉ đến nay, chưa được nghe Phật nói, tuy sẵn đủ tâm tánh
này, vô cớ phải chịu luân hồi oan uổng! Thật đúng là đau đớn ứa lệ,
tiếng [gào khóc] vang động cõi đại thiên! Lòng tan từng mảnh, ruột đứt
từng tấc. Ân ấy, đức ấy hơn hẳn thiên địa, cha mẹ cả trăm ngàn vạn lần.
Thân nghiền, xương nát chẳng báo đáp nổi!
*
Tăng, tục ngày nay giở xem kinh Phật chẳng mảy may cung kính, bao thứ
khinh nhờn khó thể thuật tỉ mỉ từng thứ. Thói quen lưu hành đã lâu, coi
đó là thuận mắt, những điều khinh nhờn khó bề kể hết. Coi pháp ngôn của
Như Lai như giấy cũ rách nát.
Ðừng
nói chi kẻ chẳng biết chỉ thú của kinh, trọn không lợi ích; ngay cả
những người hiểu sâu xa nghĩa kinh cũng chỉ là tam muội nơi cửa miệng,
tỏa sáng ngoài mặt. Như kẻ đói kể chuyện ăn, như người nghèo đếm của
báu, tuy có công nghiên cứu, tuyệt không được ích lợi thực chứng! Huống
hồ cái tội khinh nhờn đã ngập cả trời, nên thời hạn thọ khổ phải đâu chỉ
hết kiếp! Tuy là nhân lành, chiêu cảm ngược thành ác quả. Dù có thành
cái nhân đắc độ cho tương lai, khó tránh nhiều kiếp chịu đủ các khổ.
Ðem
tấm lòng ôm ấp nỗi thảm thương này dám bày tỏ những điều rơm rác để
mong ai nấy vâng làm theo lời Phật, ngõ hầu chỉ được lợi ích, chẳng bị
tổn hại.
*
Kinh Kim Cang nói: “Như chỗ nào có kinh điển thì chỗ đó có Phật, là đệ
tử phải tôn trọng”. Lại nói: “Nơi nơi chốn chốn nếu có kinh này thì hết
thảy thế gian, trời, người, a-tu-la đều phải nên cúng dường. Phải biết
chỗ ấy chính là tháp [Phật], đều phải nên cung kính, làm lễ, nhiễu
quanh, dùng các thứ hoa hương để rải lên trên ấy. Vì sao phải như vậy?
Là vì hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của chư
Phật đều xuất phát từ kinh này”.
Trong
các kinh Ðại Thừa, kinh nào cũng dạy người phải cung kính kinh điển,
chứ chẳng phải một kinh. Ấy là vì các kinh Ðại Thừa là mẹ của chư Phật,
là thầy của Bồ Tát, là Pháp Thân xá-lợi của tam thế Như Lai, là thuyền
từ thoát khổ của cửu giới chúng sanh. Dù cao đăng Phật Quả, vẫn còn phải
kính pháp hòng báo đền nguồn gốc, chẳng quên đại ân. Vì thế, kinh Niết
Bàn nói: “Pháp là mẹ Phật, Phật từ Pháp sanh”.
Tam
thế Như Lai đều cúng dường Pháp; huống hồ phàm phu sát đất khắp thân
toàn là nghiệp lực, như tội nặng bị tù, giam cầm trong ngục lâu ngày,
không do đâu được thoát ra! May sao nhờ thiện căn túc thế được thấy kinh
Phật, như tù được lệnh phóng thích, mừng rỡ vô ngần, bèn dùng ngay pháp
ấy để mãi mãi từ biệt tam giới, vĩnh viễn xuất ly lao ngục sanh tử, tự
chứng tam thân, về thẳng quê nhà Niết Bàn. Nhờ nghe kinh mà được vô biên
lợi ích, há nên do tri kiến cuồng vọng bèn chẳng kiêng nể, khác nào tục
nho đọc sách, tự tiện khinh nhờn ư?
*
Ðạo của Thánh Hiền chỉ là Thành và Minh. Thánh, Cuồng phân biệt chỉ
trong một niệm. Chẳng niệm Thánh ắt biến thành Cuồng, khắc chế cuồng
niệm bèn trở thành Thánh. Lẽ nắm - buông, được - mất ví như thuyền chèo
ngược nước, chẳng tiến phải lùi, chẳng thể chẳng gắng sức chống chọi mà
lơi lỏng chút nào.
Phải
biết rằng một chữ Thành, thánh lẫn phàm cùng có một Chân Tâm hệt như
nhau chẳng khác. Một chữ Minh phải luôn giữ gìn, xem xét, là cách để đạt
đạo từ phàm chí thánh. Nhưng trong địa vị phàm phu, trong những sinh
hoạt hằng ngày, muôn cảnh chen nhau, chẳng nhận biết, soi xét một cảnh
sẽ khó tránh trong chớp mắt liền nẩy sanh những tình tưởng trái lẽ. Tình
tưởng ấy đã sanh, chân tâm liền bị vướng mối tệ, nên hành vi nào cũng
đều chẳng trung chánh. Nếu chẳng vận dụng một phen công phu thiết thực
trừ khử cho sạch thì ngày càng tệ hơn, chẳng biết đã tuột xuống tận đáy.
Uổng cho cái tâm làm thánh sẵn có vĩnh viễn bị chìm đắm trong loài phàm
ngu, chẳng đáng buồn sao?
Nhưng
làm thánh chẳng khó, chỉ là tự làm sáng cái đức sáng của chính mình.
Muốn làm sáng cái đức sáng thì phải từ “trí tri cách vật” mà hạ thủ. Nếu
chẳng thể cực lực hiểu rõ, trừ khử những mối nhân dục (tham muốn của
con người) thì Chân Tri sẵn có quyết khó thể hiển hiện triệt để được!
*
Dù là trai chủ thỉnh pháp hay các Sư tác pháp, ai nấy đều kiệt thành
tận kính thì lợi ích chẳng thể nói được nổi. Như Xuân về, khắp cõi đất
thảo mộc đều nảy nở xanh tươi; trăng sáng vằng vặc giữa trời, sông ngòi
thảy đều hiện bóng. Do đó, người đương sống sẽ nghiệp tiêu, trí rạng,
chướng tận, phước tăng, tiên vong đều sanh Tịnh Ðộ, sở cầu không gì
chẳng được toại ý, lại khiến cho oán thân bao kiếp, pháp giới hàm thức
cùng gội Tam Bảo ân quang, cùng kết duyên chủng Bồ Ðề.
Nếu
trai chủ chẳng thành kính thì công đức xuất tiền chỉ hữu hạn, nhưng tội
lỗi khinh mạn thì vô cùng. Tăng chúng chẳng thành kính, chính là thổi
ống bễ thành kinh, gõ chày cối thành lễ (7), lúc Tam Bảo, long thiên
giáng lâm cứ xử sự lỗ mãng, luộm thuộm, tắc trách, mà không đến nỗi núi
tội ngất ngưởng, biển phước cạn khô, sống mắc tai vạ, chết bị đày phạt
há có được chăng?
(1)
Bổn địa: là ứng với Tích Hóa mà nói. Bổn là gốc, là Pháp Thân, Tích là
sự hóa hiện để hóa độ chúng sanh. Bổn địa là nói đến sự chứng ngộ thật
sự của Ngài.
(2) Truy tiến: làm các công đức hồi hướng cho người đã quá vãng.
(3)
Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên... là thuyết cho rằng khi người chết, căn
cứ vào chỗ nào còn giữ được hơi nóng, sẽ biết được người chết sanh về
đâu, như đảnh đầu nóng sẽ sanh vào cõi thánh, nóng ở mắt sanh vào cõi
trời v.v...
(4) Phóng thí: đánh trung tiện (break wind, passing gas).
(5) Tự bình: những bức thư họa, hoặc chữ viết trên quạt, trên giấy, trên lụa để phô diễn tài thư pháp.
(6) Tọa hạ: tiếng tôn xưng người khác, thường dùng để gọi người có chức vụ.
(7)
Ý nói: đọc kinh không thành kính chỉ có âm điệu nhịp nhàng như thợ rèn
thổi bễ, đánh các pháp khí làm lễ nhưng chẳng thành kính khác gì người
giã gạo, cứ nhịp chày đều đều cho xong việc.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment