Còn có một
chuyện nghiêm trọng là thiếu nữ phá thai; nghe nói hiện
thời độ tuổi [phá thai] là từ mười tuổi
cho đến ba mươi tuổi, thật là đáng sợ!
Người có công năng đặc dị hiện thời
thấy bao nhiêu trẻ gái bên thân có rất nhiều tiểu
quỷ bám theo. Ở nơi đâu? Ở ngay trên thân họ,
cho nên khắp thân họ là bệnh, bệnh chẳng thể
chữa lành.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 7
Chủ giảng:
Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày
5 tháng 04 năm 2010
Địa
điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh:
Đức Phong, Trịnh Lộc và Huệ Trang
TẬP 14
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hãy ngồi xuống!
Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải
trang thứ mười ba, dòng thứ hai đếm từ
dưới lên, chúng ta xem từ chỗ này.
“Đản Niệm Phật pháp môn, đồng ư
Mật pháp, thị Tha Lực Môn, thuộc ư Quả giáo.
Hành nhân phát tâm niệm Phật, trượng Di Đà bổn
nguyện nhiếp thọ, oai thần gia bị, hộ trì
hành giả, ma bất năng nhiễu” (Nhưng pháp môn Niệm Phật cùng với
Mật pháp là Tha Lực Môn, thuộc về Quả giáo. Hành
nhân phát tâm niệm Phật, nương vào bổn nguyện
và oai thần của Phật Di Đà gia bị, hộ trì
hành giả, ma chẳng thể quấy nhiễu). Cụ Niệm
Tổ bảo: Pháp môn này và Mật Tông rất giống nhau,
thuộc loại Quả giáo, thuộc loại Tha Lực Môn,
nhất định phải được Phật gia trì. Tám
vạn bốn ngàn pháp môn có được đức Phật
gia trì hay không? Có chứ! Chẳng thể nói không có gia trì,
đều có gia trì; nhưng pháp môn này được Phật
gia trì đặc biệt thù thắng, khác hẳn những
pháp môn thông thường! Vì thế, cổ đại đức
gọi pháp môn này là “môn dư
đại đạo”, những pháp môn kia là tám vạn bốn
ngàn pháp môn, [pháp môn này] chính là một hành môn đặc biệt
ở ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, nên gọi là “môn dư đại đạo”;
quả thật nó giống như Mật pháp. Lần trước,
tôi đã thưa với quý vị, Phật pháp thật sự
là vô lượng pháp môn, do căn tánh của hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới khác biệt,
nhằm thích ứng hết thảy chúng sanh, đức Phật
lập ra vô lượng pháp môn làm phương tiện tiếp
dẫn; nhưng hết thảy các pháp môn tới cuối cùng
chỉ còn ba môn là “giác, chánh, tịnh”; trong lần trước
tôi đã thưa với quý vị, ba môn này cũng gọi là
Tam Bảo. Quý vị thấy học Phật, nhập môn bèn
trước hết truyền trao Tam Quy, Tam Quy có ý nghĩa gì?
Tức là truyền trao cho quý vị ba cửa ngõ để
nhập Phật môn. Đối với ba môn ấy, từ bất
cứ môn nào để tiến vào đều như nhau, tiến
vào bằng cửa ngõ khác nhau, nhưng đã vào trong thì đều
giống như nhau. Ví như một căn nhà có ba cửa,
bất luận từ cửa nào tiến vào cũng đều
chẳng khác nhau, đó là “pháp
môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”.
Nhưng ba
môn này, đích xác có tiêu chuẩn khác nhau. Giác môn dành cho người
thượng thượng căn. Trong tám tông phái Đại
Thừa của Trung Quốc, chỉ có Thiền Tông và Tánh Tông
thuộc hành môn này. Môn này được gọi là “nhất bộ đăng thiên”
(một bước lên trời), là Đốn Giáo, chẳng
phải Tiệm Giáo. Nó là Đốn Giáo, đốn xả,
đốn chứng, đốn siêu. Quý vị thấy người
ấy (người tu tập hành môn này) có năng lực buông
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống
cùng một lúc, buông xuống đồng thời. Điều
này nói dễ, làm chẳng dễ! Hễ buông xuống sẽ
thành Phật. Do vậy, nói theo lý luận, phàm phu thành Phật
tốn bao nhiêu thời gian? Một niệm! Phàm phu chúng ta
nghĩ không ra “một niệm” này, một niệm là gì vậy?
Một niệm chừng bao lâu? Một sát-na? Không phải vậy!
Chẳng phải là một sát-na, nó còn ngắn hơn một
sát-na. Di Lặc Bồ Tát giảng: Trong một khảy ngón
tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm; “một niệm”
là như vậy đó. Nay chúng ta tính toán bằng giây, trong một
giây, đại khái là khảy thật nhanh, có người khảy
nhanh hơn ta, ắt phải trong một giây có thể khảy
năm lần, thường thì ta khảy bốn lần! Nếu
là bốn lần, trong một giây có bao nhiêu niệm? Có một
ngàn hai trăm tám mươi triệu; nếu khảy
năm lần, sẽ là một ngàn sáu trăm triệu. Quý vị
nói có phải là niệm quá vi tế hay chăng? Chúng ta chẳng
có cách nào, chẳng có cách gì nghĩ tưởng, do khi vừa
mới nghĩ tới, đã có bao nhiêu niệm khởi lên? Tuyệt
đối chẳng phải là một niệm, chữ “nhất niệm” chỉ điều
này!
Đoạn
được nhất niệm ấy, liền thành Phật;
vì vậy, vẫn phải dùng tỷ dụ để nói. Thí
dụ như trong hiện tại, chúng ta quen thuộc nhất,
có ấn tượng sâu đậm nhất chính là điện
ảnh. Hiện tại, điện ảnh dùng [kỹ thuật]
“số mã” (digitalized), lại khác hẳn, trước đây
dùng phim nhựa. Dùng phim nhựa thì mỗi tấm phim là một
tấm ảnh có thể chiếu sáng, từng tấm phim một.
Phim được quay bằng máy quay phim tạo thành dương
bản (postive film, chánh phiến), cuộn phim gồm nhiều
bức hình chụp liên tiếp. Bỏ vào máy chiếu phim, mở
máy chiếu phim lên, tấm phim này [trong cuộn phim] được
rọi lên màn bạc, ống kính [của máy chiếu phim] đóng
lại rồi lại mở ra để chiếu tấm kế
tiếp, tức là đổi sang tấm khác, trong một giây
thay đổi hai mươi bốn tấm [khác nhau], khiến
mắt chúng ta bị lừa, chúng ta thấy phim ảnh giống
như thật. Thật ra, những hình ảnh ấy chẳng
thật, từng tấm khác nhau, đó là một thứ “tương tự tương tục
tướng” (hình tướng gần như tồn tại
liên tục), “tương tự”, tuyệt đối chẳng
phải là tương đồng! Ở đây, chúng ta có một
bộ phim, một giây là hai mươi bốn tấm, mỗi
tấm khác nhau, chẳng có tấm nào giống nhau. Nay chúng
ta dùng chuyện này làm tỷ dụ, trong điện ảnh
là một giây [máy chiếu phim chiếu qua] hai mươi bốn
tấm; đức Phật bảo trong vũ trụ này,
trong một giây, vũ trụ chiếu bao nhiêu tấm? Tôi vừa
mới nói đấy thôi, nếu một giây khảy ngón tay
bốn lần, sẽ là một ngàn hai trăm tám
mươi triệu, chúng ta làm sao biết hình tượng được
hiện là giả? Ai thấy được? Kinh thường
nói Bát Địa Bồ Tát do công phu định lực sẽ
trông thấy. Nếu nói một giây khảy ngón tay năm lần
thì sẽ là một ngàn sáu trăm triệu. [Do vậy, tướng
được biến hiện trong vũ trụ là] giả,
chẳng thật! Khi đã đoạn được niệm,
quý vị sẽ thấy Thật Tướng của vũ
trụ, thứ gì cũng đều không có. Thứ gì cũng
chẳng có, sẽ xuất hiện điều gì? Cái hiện
ra sẽ được gọi là Thường Tịch
Quang, đây là tầng cấp cao nhất trong Tịnh Độ.
Trong Thường Tịch Quang, không có hiện tượng
vật chất, mà cũng không có hiện tượng tinh thần,
nhưng quý vị chẳng thể nói là nó không có!
Đức
Thế Tôn minh tâm kiến tánh, nói ra một bộ Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, nói rất nhiều,
chúng ta chẳng nắm được cương lãnh. Nói
đơn giản, rốt cuộc kinh nói những gì? Kiến
tánh, tánh là như thế nào? Nhưng Huệ Năng đại
sư đã kiến tánh, Ngài đã nêu ra một tổng cương
lãnh, gồm năm câu, hai mươi chữ. Hai mươi chữ
ấy giảng về Thường Tịch Quang, Thường
Tịch Quang là như thế đó. Quý vị phải hiểu:
Thường Tịch là nói về tự tánh của chính mình,
Thường Tịch là cái Ngã thật sự, trong Thiền
Tông nó được gọi là “phụ
mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục” (mặt
mũi vốn có trước khi được cha mẹ
sanh ra). Diện mục ấy mọi người đều
giống nhau! Huệ Năng đại sư cho chúng ta biết,
câu đầu tiên là “bổn tự
thanh tịnh” (vốn tự thanh tịnh), cũng có nghĩa
là nói: Trong tự tánh chẳng có mảy may ô nhiễm nào! Hiện
thời nó có ô nhiễm hay không? Không có! Chắc chắn không
có ô nhiễm. Hiện tại, đức Phật thường
nói lục đạo mười pháp giới là ô nhiễm, nhưng
tự tánh chẳng ô nhiễm. Cái bị ô nhiễm là gì? A Lại
Da bị ô nhiễm! Tự tánh là chân tâm, A Lại Da là vọng
tâm. Vọng tâm có ô nhiễm, chứ chân tâm chẳng bị ô
nhiễm. Chúng ta dùng điện ảnh hay dùng máy TV [để
làm tỷ dụ thì] cũng giống như vậy. Lấy
nó làm tỷ dụ thì có thể thấy các sắc tướng
hiện ra trên màn hình là ô nhiễm, mở trúng một băng
tần thì sắc tướng là ô nhiễm. Vì sao? Màn hình vốn
thanh sạch, bất luận quý vị là thiện hay ác, đều
là ô nhiễm. Nếu chúng ta hỏi màn hình có thật sự bị
ô nhiễm hay không? Sau khi tắt TV, màn hình chẳng có chút ô
nhiễm nào! Chuyện này rất gần giống chân tướng
sự thật, xác thực là không có ô nhiễm. Do vậy, ô
nhiễm là vọng tâm, vọng tâm chẳng phải là chân
tâm, chẳng liên can gì đến tự tánh, là chuyện khác
hẳn! Do vậy, A Lại Da có ô nhiễm, tự tánh chẳng
ô nhiễm. A Lại Da có sanh diệt, những tướng được
hiện bởi nó, bất luận là hiện tượng vật
chất, hay hiện tượng tinh thần, đều có sanh
diệt, là pháp duyên sanh (pháp sanh bởi các duyên). “Nhân duyên
sanh pháp” (pháp sanh bởi nhân duyên) sẽ có sanh diệt. Tự
tánh chẳng sanh bởi nhân duyên, nó vốn sẵn có, cho nên
nó “không có sanh diệt”, “vốn
tự trọn đủ”. Tuy nó chẳng có bất cứ
hiện tượng vật chất hay tinh thần gì, nhưng
nó có thể hiện hết thảy các tướng. Điều
này cũng rất khó hiểu, cái gì cũng chẳng có, cớ
sao nó có thể hiện? Vì sao hiện ra vô lượng, vô số,
vô tận, cớ sao hiện nhiều ngần ấy? Biến
huyễn vô cùng! Tôi học kinh Hoa Nghiêm, suy nghĩ thật
lâu mà chẳng nghĩ ra: Thứ gì đều không có thì nó biến
bằng cách nào? Biến ra nhiều ngần ấy! Rồi tôi
nghĩ đến lúc nhỏ chơi kính vạn hoa, tôi nghĩ
tới món đồ chơi ấy. Kính vạn hoa rất
đơn giản, mọi người đều biết,
tôi vừa nhắc tới, khá nhiều người tặng
kính vạn hoa cho tôi, tặng cả mười mấy cái!
Ba miếng thủy tinh, bên trong bất quá là mấy mảnh
vụn có màu sắc khác nhau, quý vị xoay chuyển ống
kính, xoay suốt ngày từ sáng đến tối, nó sẽ
hiện ra vô số mô thức sắp xếp (pattern), chẳng
có cái nào giống nhau! Tôi liền nghĩ “vốn tự trọn đủ, có thể sanh vạn
pháp” có cùng một đạo lý với kính vạn hoa, thật
đấy, chẳng giả đâu! Dẫu hiện nhiều
đến mấy, quý vị chẳng thể nói nó là có; khi
nó chẳng hiện, chẳng thể nói nó không có. Có và Không là
tương đối, có và Không là nhị biên, trong tự tánh
chẳng có đối lập, phải hiểu rõ đạo
lý này! Chúng ta muốn trở về tự tánh, mà có ý niệm
đối lập, sẽ trở về không được,
điều ấy rất nghiêm trọng!
Vì vậy,
học Phật dẫu học thật giỏi, nói đến
nỗi hoa trời rơi loạn xạ, mà vẫn đối
lập với người khác, đối lập với sự,
đối lập với vạn vật, thì kẻ ấy là
lục đạo phàm phu chính cống, chẳng thoát khỏi
lục đạo luân hồi, mà cũng chẳng thể vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tuy Cực
Lạc thế giới nói “đới nghiệp vãng sanh”, chẳng
thể mang theo [nghiệp chướng] hiện hành, có thể
mang theo cựu nghiệp, [tức là] có thể mang theo nghiệp
trong quá khứ, chẳng thể mang theo nghiệp hiện tiền.
Ta oán một ai, đến lúc lâm chung, lúc thở hắt ra hơi
cuối cùng, còn oán hay chăng? Còn oán thì chẳng có hy vọng
chi hết, quý vị chẳng vãng sanh được! Trong hơi
thở cuối cùng, ta chẳng oán hờn, A Di Đà Phật
mới có thể đón quý vị đi. Công phu này phải luyện
trong lúc bình thường, kẻ đối với ta có thâm
cừu đại hận như thế nào đi nữa cũng
chẳng ghim trong lòng. Ghim trong lòng sẽ chẳng đến
được thế giới Cực Lạc, chẳng thể
thấy A Di Đà Phật, phải buông xuống! Người
khác oán hận ta, chẳng sao cả! Tâm ta thanh tịnh, chẳng
nhiễm mảy trần; người khác có oán hận tức
là kẻ ấy chẳng thanh tịnh, có ô nhiễm. Do vậy,
phải nhớ: Kinh Vô Lượng Thọ dạy ba tiêu chuẩn
tu hành là “thanh tịnh, bình đẳng,
giác”. Phải biết do ba chuyện này sẽ vãng sanh ba cõi
Tịnh Độ khác nhau trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Thật sự đoạn, chẳng còn chấp
trước, sẽ sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Chẳng
còn phân biệt, đoạn vô minh rồi, sanh vào cõi Thật
Báo Trang Nghiêm; hễ bình đẳng bèn sanh vào cõi Thật Báo
Trang Nghiêm. Nếu đã giác thì sao? Đại triệt đại
ngộ, giác rồi thì sao? Giác rồi bèn trở về cõi Thường
Tịch Quang. Vì vậy, chúng ta đới nghiệp, nói thật
thà là “thứ gì cũng chưa thể đoạn”, nhưng
đới nghiệp là mang theo nghiệp quá khứ, chẳng
mang theo nghiệp hiện hành! Nay chúng ta phải hóa giải
tất cả hết thảy những đối lập,
mâu thuẫn, xung đột với người khác, buông xuống
từ nội tâm, đừng nên so đo nữa, mong cho tâm
mình đạt đến thanh tịnh. Tâm thanh tịnh hiện
tiền, chắc chắn quý vị được vãng sanh, điều
này trọng yếu lắm! Đừng để ngoại cảnh
quấy nhiễu khiến cho cơ hội lần này lại
bị chướng ngại, [nếu để bị chướng
ngại] tức là sai lầm quá đỗi to lớn!
Ba môn
“giác, chánh, tịnh”, giác bèn sanh vào Thường Tịch Quang,
bình đẳng bèn sanh vào cõi Thật Báo, thanh tịnh sanh vào
cõi Phương Tiện. Ở đây, đức Phật dạy
chúng ta: Cõi Phương Tiện là tứ thánh pháp giới
trong mười pháp giới của Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Tây Phương thù thắng, chẳng
giống các cõi nước khác. Cõi ấy chẳng có lục
đạo, tuy cũng có cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng
cõi Phàm Thánh Đồng Cư chẳng phải là lục
đạo, chỉ có hai đường nhân thiên, chẳng
có Tu La đạo, mà cũng chẳng có tam ác đạo. Đây
là chỗ khác biệt! Trong ba môn, hành theo
môn nào cũng đều được. Nếu hành theo Giác
môn, chắc chắn sanh vào cõi Thật Báo, giác, chánh, tịnh.
Chánh môn thì tùy thuộc công phu sâu hay cạn, chẳng nhất
định. Công phu cao, sanh vào cõi Phương Tiện;
kém hơn thì vẫn sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Hành
theo Tịnh môn khác hẳn. Đối với Tịnh môn, nếu
niệm đến Lý nhất tâm bất loạn sẽ là cõi
Thật Báo, Sự nhất tâm bất loạn là cõi Phương
Tiện; công phu thành phiến là cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Vì vậy, thấp nhất là công phu thành phiến. “Thành phiến”
là gì? Chưa đoạn phiền não, nhưng trong tâm có Phật,
có A Di Đà Phật, trừ Phật ra, ý niệm gì cũng đều
có thể chế ngự, chẳng cho nó khởi tác dụng,
khuất phục phiền não, chứ chưa đoạn phiền
não. Đoạn phiền não bèn chuyển thức thành trí, người
ấy chưa đoạn. Công phu niệm Phật nhằm
chế ngự phiền não, nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối, đè nén phiền não. Đó là điều
kiện phải có đủ để vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới; không hội đủ
điều kiện này sẽ chẳng thể vãng sanh. Chúng
ta hiểu đạo lý này, liễu giải
chân tướng sự thật này, biết trong cuộc
đời này phải nên làm chuyện gì, điều gì trọng
yếu nhất đối với chúng ta. Thanh tịnh, bình
đẳng, giác là trọng yếu, phải dốc toàn lực
tìm lại. Chính mình vốn sẵn có giác, chánh, tịnh. Trong
Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã nói: “Bổn giác vốn có, bất giác
vốn không”. Đây là bổn giác, tìm lại nó thì tìm từ
cái tâm thanh tịnh, tu gì trong hết thảy hoàn cảnh? Tu tâm
thanh tịnh, tu không bị ô nhiễm, không bị quấy
nhiễu, đó là tu hành thật sự.
Mười
tông phái đều hành theo ba môn này, tôi vừa mới nói: Tánh
Tông và Thiền Tông hành giác môn, những tông khác là Giáo Hạ,
như Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tam Luận và Pháp Tướng Duy Thức
đều hành theo Chánh môn, chánh tri, chánh kiến. Loại thứ
ba là hành theo Tịnh môn, gồm hai tông phái là Tịnh Độ
Tông tu tâm thanh tịnh, Mật Tông cũng tu tâm thanh tịnh;
nhưng Hiển và Mật khác nhau, công phu của Mật Tông
đúng là cao hơn Tịnh Tông. Tịnh Tông tu cái tâm thanh tịnh
như thế nào? Viễn ly hết thảy nhiễm pháp, viễn
ly hết thảy ô nhiễm, tu tâm thanh tịnh dễ dàng! Còn
trong Mật pháp là chẳng lìa cảnh giới để tu tâm
thanh tịnh, khó lắm! Đó chẳng phải là chuyện
dễ dàng. Tịnh của họ (Mật Tông) là chân tịnh,
còn chúng ta là tách lìa, thanh tịnh, sau khi tiếp xúc chưa chắc
đã thanh tịnh. Vì vậy, người ta là thanh tịnh
thật sự. Mật là pháp thượng thượng thừa
trong Phật pháp, chẳng học pháp môn ấy sẽ chẳng
thể thành Phật. Chẳng thể không tu [Mật pháp], nhưng
tu lúc nào? Từ Sơ Địa trở lên. Nói cách khác, Bồ
Tát thuộc địa vị Tam Hiền tu Hiển Giáo.
Trong trường học, vị ấy học lớp Tiến
Sĩ, quý vị đã tốt nghiệp Thạc Sĩ mới
có thể tu theo ban Tiến Sĩ. Nếu quý vị chưa
phải là trình độ này mà tu Mật sẽ rắc rối
to, cuối cùng sẽ đến đâu? Vào A Tỳ địa
ngục! Trong quá khứ, Chương Gia đại sư bảo
tôi: Trong thế gian chúng ta, trình độ
thấp nhất [để có đủ tư cách học] Mật
Tông là Sơ Trụ trong Viên Giáo, cũng có nghĩa là thật
sự đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh. Quý vị tiếp xúc bất luận cảnh giới gì
đều chẳng bị lay động, cũng sẽ
không bị quấy nhiễu, giống như Thiện Tài
đồng tử tham học năm mươi ba lần.
Vì sao thầy
chúng tôi hạn chế rất nghiêm, thứ gì cũng không cho
phép đọc, cũng chẳng cho phép nghe, mà cũng chẳng
cho phép học, sợ gì? Sợ bị quấy nhiễu. Quý
vị chưa có định tánh, “gần son sẽ đỏ,
gần mực sẽ đen” thì làm sao được? Son và
mực bày ra trước mặt, quý vị hết sức tiếp
cận, chẳng tiêm nhiễm mảy may! Có công phu ấy thì
mới có thể học, mới có thể đi ra ngoài tham
học. Vì vậy, tham học là có điều kiện, chẳng
phải tùy tiện ai cũng đều có thể đi tham
học, không thể nào! Quý vị thấy Thiện Tài đồng
tử tham học, Ngài đã minh tâm kiến tánh trong hội
Văn Thù Bồ Tát, đắc Căn Bản Trí, đó là kiến
tánh, là đại triệt đại ngộ. Kinh Bát Nhã nói:
“Bát Nhã vô tri”, Căn Bản
Trí là vô tri, từ vô tri khởi tác dụng là Hậu Đắc
Trí. Ngài tham học nhằm thành tựu Hậu Đắc Trí.
Hậu Đắc Trí là không gì chẳng biết. Khi chính quý
vị đã đạt đến vô tri thì mới có thể
đi tham học, mới thành tựu Hậu Đắc Trí.
Chúng ta chưa đắc Căn Bản Trí mà ta đi tham học,
có được hay không? Quý vị muốn đi thì Phật
cũng chẳng có cách nào! “Ông cứ đi đi! Ông có thể
học được gì hay chăng? Hết thảy những
gì ông học được đều là tri kiến sai lầm,
chẳng có gì là tri kiến chính xác hay chánh tri chánh kiến cả!”
Chúng tôi dám nói như thế này: “Toàn là học sai trật!”
Phải đến khi trong tâm thanh tịnh chẳng sanh một
niệm thì lúc quý vị tiếp
xúc mới là trí huệ chân thật, là Phật tri Phật kiến.
Quý vị chưa đạt tới trình độ này, mà ra
bên ngoài, bất luận đến tham học nơi đâu,
toàn là học được tà tri tà kiến! Vì sao? Do tâm quý
vị tà, trong tâm khởi tâm động niệm, phân biệt,
chấp trước. Do đó, chánh pháp đều biến
thành tà pháp. Người đắc Căn Bản Trí là như
thế nào? Người ấy không có tri kiến. Chẳng có
tri kiến bèn gọi là chánh tri chánh kiến, chẳng có tà
kiến, chẳng mê. Do vậy, khi người ấy tiếp
xúc, sẽ hoàn toàn tương ứng với tự tánh, khi ấy
mới có tư cách đi ra ngoài tham học.
Vừa tiếp
xúc bèn hiểu rõ, mắt thấy bèn hiểu rõ, tai vừa
nghe bèn hiểu rõ, giống như Huệ Năng đại
sư đã thị hiện, chúng ta hãy nghĩ có đúng như
thế hay không? Người ta chưa từng học kinh
Pháp Hoa, chưa hề nghe nói. Thiền sư Pháp Đạt
niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa; kinh Pháp Hoa rất dài, mỗi
ngày tối đa niệm được một bộ, niệm
ba ngàn bộ phải mất mười năm. Niệm
mười năm chẳng khai ngộ, có tập khí ngạo
mạn, cảm thấy mình ghê gớm lắm, rất đáng
kiêu ngạo. Sư đã niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa,
kinh Pháp Hoa đã niệm thuộc làu làu. Tới chỗ Huệ
Năng đại sư thỉnh giáo, gặp mặt, [sư
Pháp Đạt nghĩ] gã này là hậu học, đảnh lễ
thầy ba lạy. Thầy thấy rất rõ ràng, lúc Sư lạy
đầu chẳng sát đất, đó là gì? Tập khí ngạo
mạn, lễ bái đầu chẳng sát đất. Khi Sư
đứng lên, Tổ bèn hỏi: “Ông có gì đáng để
kiêu ngạo?” Sư thưa đã đọc ba ngàn bộ
kinh Pháp Hoa. Huệ Năng đại sư bèn hỏi: “Kinh Pháp
Hoa nói những gì?” Sư chẳng thưa được,
quay lại thỉnh giáo Huệ Năng đại sư. Huệ
Năng đại sư bảo: “Kinh này ta chưa từng
nghe, ta cũng chẳng biết chữ. Nếu ông đã niệm
đến ba ngàn bộ, hãy niệm cho ta nghe”. Kinh Pháp Hoa có
hai mươi tám phẩm, Sư đọc đến phẩm
thứ hai, tức là đọc đến phẩm Phương
Tiện, Huệ Năng đại sư nói: “Được
rồi! Không cần niệm nữa! Ta đã hiểu toàn bộ”.
Người có bản lãnh ấy mới có thể tham học!
Tổ giảng cho Sư nghe, Sư khai ngộ, lại lạy,
đầu dập sát đất, chẳng nói năng gì! Tham
học phải có bản lãnh này mới được; thiếu
bản lãnh này sẽ chẳng thể tham học, quý vị
tham cái gì đây? Quý vị là phàm phu!
Vì vậy,
trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đã biểu
diễn điều kiện tham học, chúng ta liền biết:
Chưa kiến tánh, chẳng thể rời khỏi thầy!
Rời thầy sẽ có vấn đề liền! Quý vị
sẽ bị ô nhiễm, biến thành tà tri tà kiến, bị
đọa lạc! Do đó, thầy có ý tốt chẳng cho
quý vị đi ra ngoài, phải ở quanh thầy. Ai mới
có cơ hội khai ngộ? Người thật thà, theo chắc
thầy, thầy chẳng hại ta. Kẻ tự cậy
thông minh, không nghe lời, cảm thấy vị thầy này
khá lắm, nhưng còn có vị thầy khác cao minh hơn thầy,
mà thầy chẳng chấp thuận cho tôi học, ở bên
kia người ta học rộng nghe nhiều! Có đấy!
Xưa nay trong ngoài nước đều có loại người
này. Hắn rời khỏi vị thầy này, lại đi
tìm vị thầy khác, xong rồi! Đời này xong luôn rồi!
Thiện tri thức quả thật khó cầu, trong thời
đại hiện tại này chẳng có, tìm không được!
Chỉ có một phương pháp là tìm cổ nhân, cổ
nhân đáng tin cậy. Cổ nhân là kinh giáo, chúng ta học kinh
Hoa Nghiêm bèn kiếm Thanh Lương đại sư, kiếm
Lý Trưởng Giả, các Ngài đã chú giải kinh Hoaa
Nghiêm tỉ mỉ. Chúng ta đọc kinh chẳng hiểu,
xem chú giải là nghe các Ngài chỉ dạy. Đọc một
lần không hiểu, xem mười lần, mười lần
không hiểu, xem trăm lần! Nếu quý vị có thể đọc
Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao một trăm lần, có thể khai
ngộ hay chăng? Hết sức có thể! Một trăm
lần, tâm quý vị định rồi. Do vậy, trước
hết đắc tam-muội, đạt được tâm
thanh tịnh. Đọc cho đến mức tập khí phiền
não, tập khí tri kiến thảy đều mất sạch,
tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm thanh tịnh sẽ sanh trí
huệ. Trí huệ là có thể khai ngộ, chuyện này là thật,
chẳng gạt người đâu nhé!
Vì vậy,
cương lãnh rốt cục, tột cùng trong giáo học Phật
pháp là ba món: “Nhân Giới sanh Định,
nhân Định khai Huệ”. Giới là quy củ, quý vị
vâng giữ quy củ. Dạy quý vị thâm nhập một môn,
đó là quy củ. Thật sự thâm nhập sẽ đắc
định, đắc định bèn khai ngộ. Đối
với điều này, cổ thánh tiên hiền Trung Quốc,
chứ không riêng gì Phật pháp dạy người như vậy,
mà Nho và Đạo cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Vào
thời cổ, trong trường tư thục, thầy dạy
học trò, chú ý tới điều trọng yếu nhất
là ngộ tánh của học trò, giúp nó khai ngộ. Sau khi khai
ngộ, hễ tiếp xúc gì cũng đều thông hiểu,
người ấy cũng rất thông minh, hễ tiếp
xúc bèn có thể hiểu rõ. Vì sao? Hết thảy các pháp chẳng
lìa tự tánh, chỉ cần kiến tánh thì vấn đề
gì cũng đều giải quyết! Nay chúng ta học kinh
Vô Lượng Thọ, tìm bản chú giải này của cụ
Hoàng Niệm Tổ là được rồi. Vì sao? Kinh do thầy
cụ là lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập từ
năm bản dịch gốc, nay chúng ta thấy bản chú
giải này của cụ Hoàng đã tổng hợp toàn bộ
những lời chú giải kinh Vô Lượng Thọ của
các vị đại đức xưa nay, trong ngoài nước,
hoàn toàn tổng hợp lại. Quý vị đọc bản
chú giải của cụ Hoàng tức là đã xem bao nhiêu
kinh? Trong phần sau, cụ đã dẫn chứng hơn hai
trăm thứ. Quý vị được đọc toàn bộ,
tổng hợp toàn bộ mà! Khi chúng ta muốn xem nhiều
như vậy, phải tốn bao nhiêu thời gian? Cụ
đã chỉnh lý kỹ lưỡng. Trong quá khứ, những
bản chú giải xưa gồm có mấy thứ chúng tôi
đã từng xem qua, ở đây cụ cũng đều sao
lục đầy đủ, sao toàn bộ trong tác phẩm
này! Do vậy, bộ Kinh Giải này là tổng hợp hoàn chỉnh
của các kinh luận chú sớ trong Tịnh Độ; chúng
ta phải nhận biết tác phẩm quý giá này! Trong hết
thảy các kinh, kinh điển Tịnh Tông là quý báu. Trong các
sách vở Tịnh Tông, nay bày ra trước mặt chúng ta,
bản chú giải này là món báu! Không có tác phẩm nào siêu thắng
hơn tác phẩm này, chẳng có! Chúng ta phải quý trọng,
phải nghiêm túc học tập. Với phân lượng của
sách này, với kích thước như vậy, nếu chúng ta
thâm nhập một môn học tập từ đầu
đến cuối, học tập năm năm hay mười
năm, sẽ đắc Niệm Phật tam-muội, chẳng
còn vọng niệm nữa! Thời gian, tinh thần, tinh lực
của chúng ta đều tập trung vào đây, lẽ đâu
chẳng đắc định? Tam-muội ấy gọi là
Niệm Phật tam-muội. Đắc Niệm Phật tam-muội
sẽ có thể đắc Sự nhất
tâm bất loạn và Lý nhất tâm bất loạn. Lý nhất
tâm bất loạn là kiến tánh. Chúng ta mong sớm có ngày
thành tựu, sớm có ngày thành tựu thì phải thật sự
buông xuống, bộ kinh điển này dạy chúng ta buông xuống,
thảy đều buông xuống.
Đối
với tổng cương lãnh, đức Phật nói ba câu,
tức là tam nghiệp thanh tịnh. Ngài xếp khẩu nghiệp
đầu tiên, chẳng giống những kinh khác. Các kinh nói
“thân, khẩu, ý”, kinh này nói “khẩu, thân, ý”: “Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha
quá” (khéo giữ khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi
lầm của người khác), thật sự làm. Chúng ta còn
phê phán người khác hay chăng? Hữu ý hay vô tình phê bình
người khác, quý vị đều vi phạm. Nếu thật
sự học, phải thời thời khắc khắc cảnh
giác, chẳng chê bai lỗi lầm của người khác. Đừng
nên ghi nhớ khuyết điểm của kẻ khác, càng chớ
nên nói ra. Quý vị làm được điều này, sẽ
có thể học Phổ Hiền Bồ Tát thập nguyện
“lễ kính chư Phật, xưng
tán Như Lai, quảng tu cúng dường”, xử sự,
đãi người, tiếp vật đều phải như
vậy thì mới được, mới giống Bồ
Tát. Bồ Tát chẳng có oán gia đối đầu. Tổ
tiên chúng ta dạy: “Nhân giả
vô địch” (người có lòng nhân không có kẻ đối
địch). Trong Phật môn, “nhân
giả” được gọi là Bồ Tát; đối với
Bồ Tát thường gọi họ là “nhân giả”, tức là bậc nhân từ. Bồ Tát
là người nhân từ, không ai đối địch, trong
tâm Ngài chẳng có địch thủ. Nếu còn phân biệt,
còn chấp trước, còn có đối lập, kẻ ấy
chẳng phải là Bồ Tát, kẻ ấy là gã bất nhân!
Bất nhân là chẳng có tâm từ bi, “nhân giả” là đại từ đại bi. Còn
oán hận thì làm sao có thể coi là bậc nhân từ? Kẻ
ấy có lỗi với ta, hủy báng ta, lăng nhục ta,
hãm hại ta, nếu quý vị là người có lòng nhân, kẻ
ấy dùng thủ đoạn gì để đối phó quý
vị, trong tâm quý vị đều chẳng vướng mắc.
Không chỉ chẳng vướng mắc, mà còn rất cảm
kích kẻ ấy. Vì lẽ gì cảm kích kẻ ấy? Kẻ
ấy tới khảo nghiệm xem quý vị có phải là học
Phật hay chăng? Rốt cuộc có công phu gì hay chăng? Chửi
quý vị mấy câu để coi có nổi quạu hay chăng?
Hễ nổi quạu là xong rồi! Quý vị thấy đó,
kẻ ấy đến khảo nghiệm quý vị!
Từ kinh
điển, quý vị thấy kinh Kim Cang có nhắc đến
chuyện vua Ca Lợi vương cắt chặt thân thể
[của Nhẫn Nhục tiên nhân]. Nguyên văn câu chuyện này
được kinh Đại Niết Bàn kể rất tỉ
mỉ, kinh Kim Cang chỉ nói đại lược! Đó
là khi Thích Ca Mâu Ni Phật chưa thành Phật, Ngài tu Nhẫn
Nhục Ba La Mật, người ta gọi Ngài là Nhẫn Nhục
tiên nhân. Gặp phải vua Ca Lợi xem Ngài có thể nhẫn
hay không? Vua Ca Lợi đem Ngài lăng trì xử tử, dùng
đao cắt thịt Ngài, lóc lấy từng miếng, xẻo
cho đến chết để coi Ngài có thể nhẫn
hay không? Ngươi vẫn có thể chẳng tức giận,
vẫn có thể chẳng oán hờn ta ư? Nhẫn Nhục
bảo vua: “Ta chẳng có mảy may oán hận!” Đã thế,
còn đối trước vua phát nguyện: “Trong tương lai ta thành Phật, người đầu
tiên ta hóa độ sẽ là nhà vua”. Thích Ca Mâu Ni Phật thành
Phật, người đầu tiên đắc độ
thành A La Hán là tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả
chính là vua Ca Lợi thuở ấy. Hứa sao làm vậy! Vua
Ca Lợi thành tựu cho Ngài, nên Nhẫn Nhục tiên nhân cảm
ơn, chẳng oán hận. Thành tựu Ngài như thế nào?
Giúp Ngài sớm thành Phật. Trong một ngàn vị Phật thuộc
Hiền Kiếp, vị Phật thứ tư là Di Lặc Phật,
[lẽ ra], Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật sau Di Lặc Phật,
là vị Phật thứ năm; nhưng quý vị thấy nay
Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật trước. Di Lặc Phật
biến thành hậu bổ Phật của Phật Thích Ca,
do nguyên nhân nào? Do Nhẫn Nhục Ba La Mật nên sớm thành
tựu, quý vị nói đó là chuyện tốt hay xấu?
Tổ
tiên dạy chúng ta: “Thua thiệt
là phước”, quý vị chẳng chịu thua thiệt,
tức là chẳng cần phước báo! Nhẫn Nhục
tiên nhân biết “thua thiệt là phước”, hoàn toàn tiếp
nhận, nên phước báo hiện tiền, Ngài sớm
thành Phật. Sự thị hiện này nhằm dạy bảo
chúng ta, nạn lớn ngần ấy, nhưng Ngài luôn coi như
chẳng có chuyện gì, nghịch cảnh xảy đến
bèn vâng chịu. Nay chúng ta gặp một tí thử thách vặt
vãnh đã chịu không nổi, làm sao có thể vãng sanh? Vì vậy,
người tu hành dẫu bị thua thiệt quá mức, dẫu
bị lừa gạt quá mức, vẫn coi như chẳng
có chuyện ấy! Phải luôn nhớ một câu trong kinh Kim
Cang: “Phàm những gì có hình
tướng đều là hư vọng”, phải buông
chuyện ấy xuống, trong tâm chẳng có dấu vết
gì, chẳng oán hận mảy may, thường sanh lòng hoan hỷ.
Đối với những oán thân trái chủ, cảm
ơn, cảm tạ! Nếu trong quá khứ, tôi thiếu nợ
họ, đáng phải đền trả, vui vẻ. Nếu
trong quá khứ, tôi chẳng thiếu nợ họ, chẳng
cần đến, sau khi họ đoạt lấy, chẳng
cần họ phải trả! Họ trả thì tôi phải
trở lại thế gian làm người lần nữa hòng
nhận nợ của họ, rắc rối to! Không cần
nữa! Quý vị nói xem có phải là tự tại lắm
không! Đây là chân tướng sự thật, có thể chịu
thua thiệt, thua thiệt sao cũng được, luôn hoan
hỷ.
Vì vậy,
đối với Mật, chúng ta tôn trọng, tán thán, nhưng
chẳng học. Vì sao? Biết chúng ta thiếu năng lực
để học. Chúng ta chẳng ăn thịt hết thảy
chúng sanh nhằm tiêu nghiệp chướng của chính mình.
Người học Mật có thể ăn thịt hết
thảy chúng sanh, vì sao? Khi người ấy ăn thịt
chúng nó, có thể siêu độ chúng nó, có bản lãnh đó.
Nay chúng ta ăn thịt chúng sanh, có bản lãnh siêu độ
nó hay chăng? Đừng nói siêu độ gì khác, chúng ta ăn
một con gà, có thể khiến con gà ấy sanh lên trời,
nó bèn có thể hưởng phước trời, có năng
lực ấy hay chăng? Không có năng lực ấy thì ngàn
vạn phần chớ nên [ăn thịt chúng sanh], vì sao? Quý
vị kết oán cừu với chúng. Mật chẳng phải
là đùa bỡn được! Trong Mật Tông không có con đường
chính giữa. Nói cách khác, một là thành Phật, hai là đọa
A Tỳ địa ngục. Nếu quý vị chẳng thành
Phật, sẽ đi vào A Tỳ địa ngục, quyết
định chẳng thể đùa bỡn được!
Thượng Sư Mật Tông kết duyên với các tín đồ
thông thường, quán đảnh cho quý vị, truyền
cho quý vị một câu chú. Quá nửa là truyền bài chú Lục
Tự Đại Minh của Quán Thế Âm Bồ Tát: “Úm ma-ni bát-mê hồng”, rất
nhiều người đều biết niệm. Chương
Gia đại sư cũng truyền bài chú này cho tôi, bảo
tôi thường niệm. Tôi hỏi Ngài bài chú ấy có nghĩa
là gì? Ngài giảng: “Úm” (Aum) là
tiếng Phạn, có nghĩa là Thân, hiểu là Pháp Thân cũng
được, mà Báo Thân cũng được, [Úm là] thân
thể. Trong kinh Đại Thừa, Ma-ni rất nhiều, hoa
sen đấy. “Ma-ni” (Mani) là
hoa sen; “Bát-mê” (padme) là gìn giữ.
“Hồng” (Hum) là ý, ý niệm.
Theo ngữ pháp của họ, quý vị thấy, [câu chú ấy
có nghĩa] là “thân, hoa sen, gìn giữ, ý”. Theo ngữ pháp của
người Hoa, [có nghĩa là] “gìn
giữ thân tâm (ý là tâm) như hoa sen”, ý nghĩa này hay lắm!
Do vậy, trì chú phải tam mật tương ứng, tay kết
ấn, miệng niệm chú, trong tâm quán tưởng. Quán
tưởng gì? Thời thời khắc khắc giữ cho
thân tâm của chính mình giống như hoa sen, mọc lên từ
bùn lầy mà chẳng nhuốm bẩn, ý nghĩa này thật
hay! Hiện thời rất nhiều người niệm [chú
này], nhưng chẳng biết ý nghĩa, do không biết nên
chẳng sanh ra hiệu quả. Do trong giáo pháp Đại Thừa,
đức Phật bảo: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, quý vị chẳng
quán tưởng, chỉ niệm suông, chỉ kết ấn
suông, chẳng quán tưởng thì không được rồi,
chẳng đạt được lợi ích chân thật! Vì
vậy, trong Tam Mật, quán tưởng trọng yếu nhất,
còn quan trọng hơn trì chú và kết ấn. Tôi theo Chương
Gia đại sư ba năm, Ngài chẳng truyền Mật
pháp cho tôi, Ngài nói tôi chẳng đủ trình độ: “Anh còn
thiếu trình độ rất xa!” Đó là nói thật, chẳng
giả! Vì vậy, tôi hết sức cảm kích vị lão
nhân này. Cơ sở Phật pháp của tôi được
Ngài thiết lập trong ba năm, nên sau này mới có một
chút thành tựu như vậy!
Trong đoạn
này, [cụ Hoàng có ý nói hành nhân] thật sự được
oai thần từ bốn mươi tám nguyện của A
Di Đà Phật gia trì. Do vậy, pháp này thuộc Tha Lực
Môn, thuộc về Quả giáo, A Di Đà Phật dùng quả
đức gia trì chúng ta. “Hành
nhân phát tâm niệm Phật, trượng Di Đà bổn
nguyện nhiếp thọ, oai thần gia bị, hộ trì
hành giả” (hành nhân phát tâm niệm Phật, nương
vào bổn nguyện và oai thần của Phật Di Đà
nhiếp thọ, gia bị, hộ trì hành giả). Quý vị
thật sự y giáo phụng hành, sẽ chẳng bị ma dựa.
Quý vị thật sự y giáo phụng hành, người có công
năng đặc dị sẽ trông thấy. Đó là: Quý vị
thật sự có công phu ấy, thân thể tỏa ánh sáng, ma
chẳng thể đến gần. Huống hồ lại quy
y A Di Đà Phật, thật sự có hai mươi lăm vị
thần hộ pháp hộ vệ. Vì sao rất nhiều
người tu hành lại đổ bệnh? Đó chính là
như trong phần trước đã nói: “Hành nhân sảo hữu chấp trước”, tức
là có một tí chấp trước như thế, “tiện thất chánh kiến, tức
nhập ma đồ” (liền mất chánh kiến, thuộc
vào đường ma), phiền phức liền! Toàn bộ
oán thân trái chủ của quý vị tìm tới cửa. Tâm này
phải trụ nơi đạo, làm thế nào để
trụ nơi đạo? Thời thời khắc khắc
niệm Phật. Chẳng niệm Phật, bèn nghĩ đến
những đạo lý được giảng trong kinh
điển. Đại Thế Chí Bồ Tát chỉ dạy
chúng ta: “Ức Phật, niệm
Phật, hiện tiền, đương lai, tất định
kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật, hiện
tại, tương lai, nhất định thấy Phật).
Ức Phật là gì? Thường xuyên tưởng Phật,
Phật ở đâu? Những điều kinh đã giảng
đều là Phật.
Kinh Hoa Nghiêm càng giảng cặn kẽ
hơn. Trong quá khứ, chúng ta học kinh Hoa Nghiêm lâu ngần
ấy, đã hơn bốn ngàn giờ. Vì thời gian dài
như thế, chúng tôi mới đem ghép bộ Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán vào, đó là cương lãnh tu học, là tinh hoa
của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Bài luận văn ấy chẳng
dài, cả bài văn chỉ có sáu đoạn; tiên sinh Phương
Đông Mỹ nói ba đoạn đầu là Triết Học
tối cao, ba đoạn sau là khoa học
tối cao. Đây là triết học và khoa học trong giáo
pháp Đại Thừa đều được giảng
đến tột đỉnh, rốt ráo viên mãn, giảng
rõ ràng duyên khởi của vũ trụ, duyên khởi của
vạn vật, duyên khởi của sanh mạng, ta từ
đâu đến, duyên khởi của bản thân chúng ta, đều
nói ra hết, quá ư là khó có! So với những thứ triết
học và khoa học tột đỉnh trong cả thế
giới hiện thời, trọn chẳng thua kém. Chúng tôi
cũng dùng hơn hai trăm giờ để giảng. Bộ
DVD này có thể nghe nhiều lần, nghe không hiểu
chẳng sao cả! Cứ nghe từng lần một, nghe rồi
sẽ khai ngộ. Nghe xong, dẫu chẳng khai ngộ, chắc
chắn cũng giúp quý vị buông xuống, lợi ích ấy
cũng rất lớn.
Tiếp đó,
cụ dẫn một đoạn trong kinh Thập Vãng Sanh: “Phật ngôn: Nhược hữu
chúng sanh niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sanh giả,
bỉ Phật tức khiển nhị thập ngũ Bồ
Tát ủng hộ hành giả. Nhược hành, nhược
tọa, nhược trụ, nhược ngọa, nhược
trú, nhược dạ, nhất thiết thời, nhất
thiết xứ, bất linh ác quỷ, ác thần đắc
kỳ tiện dã” (Đức Phật dạy: “Nếu có
chúng sanh niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sanh, đức
Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ
Tát ủng hộ hành giả. Dù đi, hay ngồi, dù đứng,
hay nằm, dù ngày, hay đêm, trong hết
thảy thời, hết thảy chỗ, chẳng để
cho ác quỷ, ác thần có cơ hội thuận tiện [quấy
nhiễu hành giả]”). Quý vị có tin điều này hay
không? “Bỉ Phật” là A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật phái hai mươi lăm vị
Bồ Tát. Khi Tam Quy Y bèn có ba mươi sáu vị thần hộ
pháp, “hai mươi lăm”
là nói đến Ngũ Giới. Quý vị thật sự thọ
trì Ngũ Giới, sẽ có hai mươi lăm vị thần
hộ giới. Do vậy, kiếp trước, kiếp này,
oán thân trái chủ cũng không thể tìm đến quấy
phá. Quý vị thật sự học Phật, dù họ có cừu
hận quý vị, cũng chẳng có cách nào báo thù! Họ thấy
quý vị thật sự tu hành, biết quý vị có thành tựu,
khi quý vị thành tựu, nhất định họ sẽ
được lợi ích, nhất định siêu độ
họ, nhất định giúp đỡ họ. Oán
thân trái chủ tới kiếm người tu hành gây chuyện
là vì nguyên nhân nào? Quý vị tu hành giả dối, chẳng chân
thật. Căn bản là họ coi thường quý vị, nên
tới kiếm chuyện, chuyện là như vậy đó! Quý
vị tu được, sẽ khiến họ bội phục,
lẽ đâu họ quấy rối quý vị? Quý vị trách
ai? Chẳng thể trách ai khác, phải tự trách mình. Nếu
chính mình thật sự đúng pháp, oán thân trái chủ đều
cung kính, họ biết họ sẽ được giải
thoát, họ có duyên với quý vị, Phật độ kẻ
hữu duyên mà! Duyên ấy, bất luận là thiện duyên
hay ác duyên, nói chung, hễ có duyên bèn có thể đắc
độ. Chúng ta là người học Phật, mỗi ngày
trong Niệm Phật Đường của chính mình hãy thờ
một bài vị oán thân trái chủ, chẳng quên họ, chẳng
quan tâm họ có biết hay là không, trong đời này có lẽ
có thể nhớ, nhưng đời quá khứ chẳng thể
nhớ được, chúng ta thờ bài vị đời
trước kiếp này, thảy đều có. Thật sự
tu hành, họ sẽ thật sự bội phục, thật
sự sanh tâm hoan hỷ, chẳng tìm đến làm phiền,
mà tới hộ trì quý vị, mong mỏi quý vị thành tựu
sớm ngày nào, họ sẽ sớm đắc độ ngày
ấy. Vì vậy, con người có cùng cái tâm này, tâm có cùng lý
này, lời Phật đã giảng trong kinh chắc chắn chẳng
phải là vọng ngữ.
Lại
xem đoạn tiếp theo: “Hựu
Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm
Phật Viên Thông Chương vân: ‘Kim ư thử giới,
nhiếp niệm Phật nhân, quy ư Tịnh Độ”
(Lại nữa, trong chương Đại Thế Chí Bồ
Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Thủ Lăng Nghiêm
có nói: “Nay ở trong cõi này, nhiếp thọ người niệm
Phật về Tịnh Độ”), đây là lời Đại
Thế Chí Bồ Tát đã nói trong kinh Lăng Nghiêm. Chương
này kinh văn chẳng dài, tổng cộng chỉ có hai
trăm bốn mươi bốn chữ, đây là một đoạn
trong Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông
Chương. Đối với đoạn này, Ấn Quang
đại sư, tôi nghĩ hiện thời rất nhiều
đồng học đều biết: Ấn Quang đại
sư là Tây Phương Đại Thế Chí Bồ Tát tái
lai. Trong đời quá khứ, trước khi thành Phật,
Quán Âm và Thế Chí đều là người trong thế giới
Sa Bà, cũng có thể nói [các Ngài] là đồng hương
của chúng ta. Các Ngài sanh về thế
giới Cực Lạc, nay họ giống như lớp
trưởng của các vị Bồ Tát, lãnh đạo các
vị Bồ Tát giúp A Di Đà Phật giáo hóa chúng sanh. Thế
giới Sa Bà là quê hương của các Ngài, nên cũng
đặc biệt chiếu cố; vì vậy, Ngài thường
đến thế giới này, thật vậy, giống
như trong phần trước đã nói: Hết thảy thời,
hết thảy chỗ, quý vị niệm Ngài, Ngài bèn
hiện tiền. Ngài dạy chúng ta phương pháp Niệm
Phật chính xác nhất, đơn giản nhất, ổn
thỏa nhất, đáng tin cậy nhất. Phương
pháp là “nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối”, tám chữ! “Ức Phật, niệm Phật,
hiện tiền, đương lai, tất định kiến
Phật”, câu này khẳng định như vậy, chẳng
có mảy may hoài nghi nào! Trong tâm thường tưởng Phật,
miệng thường niệm Phật, trong hiện tại,
quý vị đã có thể thấy Phật. Hết thảy các
pháp sanh từ tâm tưởng mà! Tương lai, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, mỗi ngày ở
cùng một chỗ với A Di Đà Phật và chư Phật
Như Lai, cùng học tập với các đại Bồ
Tát, đến nơi đâu tìm được hoàn cảnh này?
Tây Phương Cực Lạc thế giới giống như
một trường đại học Phật giáo, hết
thảy chư Phật đem toàn bộ
những chúng sanh thuộc ba căn tánh thượng trung hạ
trong khu vực giáo hóa của các Ngài đưa sang học bên
Tây Phương Cực Lạc thế giới, Thích Ca Mâu Ni Phật
cũng không ra ngoài lệ ấy! Chỉ có các vị thượng
thượng căn là sang thế giới Hoa Tạng. Do vậy,
thế giới Cực Lạc vô cùng thù thắng trang
nghiêm, chúng ta phải tin tưởng, chớ nên có mảy
may hoài nghi nào!
Kinh giáo Đại
Thừa quả thật rất hấp dẫn con người,
khiến cho quý vị sau khi xem xong chẳng muốn buông xuống!
Nếu chúng ta không cầm lòng nổi, thứ gì cũng đều
muốn học, sẽ là vấn đề nghiêm trọng. Vì
sao? Tâm lực của chúng ta phân tán, chẳng thể tập
trung. Học tập phân tán thì quý vị chỉ có thể đạt
được kiến thức Phật học thông thường;
nói theo thuật ngữ của giới học thuật hiện
thời là quý vị chỉ có thể thành tựu trong Phật
học. Trước kia, thầy Lý thường nói: “Trong thế gian này, quý vị có thể
trở thành một nhà Phật học (chuyên gia nghiên cứu
Phật giáo) hay là một học giả về Phật học,
chứ đối với liễu sanh tử, thoát tam giới
chẳng liên quan chi hết!” Quý vị biến đại
pháp xuất thế gian thành một thứ học thuật thế
gian, biến chất rồi! Tuy biến chất,
đương nhiên vẫn là kết pháp duyên với Phật,
trong A Lại Da đã gieo chủng tử Phật pháp, đời
kế tiếp hay đời sau, khi duyên chín muồi, vẫn
có thể thành tựu; nhưng trong đời này, chắc
chắn quý vị chẳng thể tránh khỏi nỗi khổ
luân hồi, thời gian luân hồi rất dài. Do vậy, thầy
Lý nói: “Quý vị không thể tránh khỏi nỗi khổ luân
hồi nhiều kiếp dài lâu!” Thật sự giác ngộ, buông
xuống vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ.
Những kinh giáo ta ưa thích, muốn học, đến thế
giới Cực Lạc sẽ học, hiện thời, trước
hết phải giữ lấy Tịnh Độ, đến
thế giới Cực Lạc, vô lượng thọ, hoàn cảnh
tu học tốt đẹp, chẳng trễ nãi gì! Hiện
tại, nếu thứ gì cũng đều muốn học,
sẽ lỡ làng chuyện này, quý vị có thể sanh về
thế giới Cực Lạc hay không, vẫn phải đánh
rất nhiều dấu hỏi vì quý vị chưa nắm vững!
Chớ nên không hiểu đạo lý này. Sau khi đã hiểu,
chớ nên không làm, hãy thật sự làm!
Hơn
hai mươi năm trước, tôi đã nghĩ buông bỏ
kinh giáo, chẳng làm nữa! Lần trước, giảng Kinh
Hoa Nghiêm được một nửa thì ngừng, không giảng
nữa! Quý vị thấy tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ
mười lượt, lần này là lần thứ mười
một. Lúc ấy, tôi nghĩ: Suốt đời này, chuyên
giảng kinh Vô Lượng Thọ. cứ giảng từng
lượt một, mỗi lượt khác nhau! Nhân duyên giảng
kinh Hoa Nghiêm lần này, tôi cũng đã trình bày cùng quý vị,
rất bất đắc dĩ, nhưng cũng là có lý. Pháp
sư Khai Tâm ở Đài Loan, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
và Hàn Quán Trưởng, ba người thỉnh cầu, mong
giảng kinh ấy một lần làm thành CD/DVD để giữ
lại cho người đời sau tham khảo, nhằm mục
đích này! Nếu đối với bản thân tôi, một
bộ kinh Vô Lượng Thọ này là đủ rồi! Con
đường này ổn thỏa, đơn giản, dễ
dàng hơn nhiều lắm! Một môn thâm nhập. Bản chú
giải này hay dường ấy, quá khó được, quá
hy hữu. Ở nơi đây, tôi phát tâm, hướng dẫn
mọi người cùng nhau học tập; nếu không hướng
dẫn, có lẽ hứng thú học tập chẳng quá nồng
đậm! Học tập bản chú giải này nhằm khẳng
định, kết duyên phận thật sâu với thế
giới Cực Lạc, thật sự phát nguyện, không ai
chẳng vãng sanh!
Đặc
biệt là trong thế gian hiện thời, chúng sanh khổ
lắm! Bất luận là giàu, nghèo, sang, hèn, các nghề nghiệp,
không nương tựa vào đâu được! So với
bất cứ thời đại nào trong quá khứ đều
là đáng thương xót hơn! Trong xã hội thời quá
khứ, con người sống trong thế gian này, họ có
nơi nương tựa, nơi nương tựa là gia đình.
Bất luận gặp chuyện khó khăn gì, gia đình sẽ
là người ủng hộ, quý vị chắc chắn chẳng
hoài nghi gia đình. Sau thời chiến tranh Trung Nhật,
trong tám năm ấy, gia đình chẳng còn nữa, không nhìn
thấy nữa. Người Trung Quốc đáng thương, không có nhà để về, cửa
nát nhà tan. Vì vậy, chúng ta cảm ơn Phật, Bồ Tát
vô tận, Phật, Bồ Tát bảo chúng ta có nhà, thế giới
Cực Lạc là nhà của chúng ta, A Di Đà Phật, Tây
Phương tam thánh là nơi nương tựa. Đúng
vậy, tuyệt đối chẳng giả! Vấn đề
là quý vị có thể tin tưởng hay không? Nay chúng ta có lý
do tin tưởng, vì sao? Trong Hoàn Nguyên Quán đã giảng rõ
ràng, chúng ta và A Di Đà Phật có mối quan hệ, chẳng
phải là không có, quan hệ hết sức thân mật. Di
Đà là tự tánh Di Đà, Tịnh Độ là duy tâm Tịnh
Độ. Di Đà, Tịnh Độ, có quan hệ gì với
ta? Nhất thể, chẳng kém mối quan hệ với cha
mẹ, mà còn thân thiết hơn quan hệ với cha mẹ
nữa! Chúng ta thật sự hiểu rõ quan hệ này, hiểu
rõ rồi, quý vị còn hoài nghi hay chăng? Chẳng hề hoài
nghi nữa! Giống như cư sĩ Lưu Tố Vân đã
làm gương: Nhất tâm nhất ý nương tựa A Di
Đà Phật, bị bệnh nặng ngần ấy, bác sĩ
trong thế gian chẳng trị được, chẳng cần
quý vị chữa trị! A Di Đà Phật là đại y
vương, chắc chắn có thể trị cho tôi lành bệnh.
Mỗi ngày niệm Phật, niệm đến nỗi lành bệnh,
điều này chẳng giả! Bà ta đã giảng cho chúng
ta nghe ở đây mười mấy giờ. Phật, Bồ
Tát có lòng tin đối với chúng ta, vấn đề hiện
thời là chúng ta có lòng tin đối với Phật, Bồ
Tát hay chăng? Nếu có lòng tin, sẽ tâm tâm tương ấn!
Chúng ta xem
đoạn tiếp theo. Quý vị thấy cụ Hoàng trích dẫn
Tịnh Tu Tiệp Yếu, đây là một nghi thức tu
hành do lão cư sĩ Hạ Liên Cư biên soạn. Trong ấy
có viết: “Đại Thế
Chí Bồ Tát, hiện cư thử giới, tác đại lợi
lạc. Ư niệm Phật nhân, nhiếp thủ bất xả,
linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực” (Đại
Thế Chí Bồ Tát nay đang ở trong cõi này, tạo đại
lợi lạc. Ngài nhiếp thủ chẳng bỏ người
niệm Phật, khiến họ lìa tam đồ, đắc
vô thượng lực). Chúng tôi nghĩ khi cụ Hạ tại
thế, cụ nói Đại Thế Chí Bồ Tát là Ấn
Quang đại sư. Cụ chẳng nêu đích danh, nhưng
trên thực tế thì sao? Trên thực tế, chẳng giả
tí nào! “Hiện đang ở
trong cõi này, thật sự tạo đại lợi lạc”.
Đại lợi lạc là gì? Giáo dục nhân quả. Tổ
Ấn Quang suốt đời cực lực đề
xướng giáo dục nhân quả. Chúng ta thấy xã hội
hiện tiền, có thể chữa trị căn bệnh nặng
nề của đại chúng trong xã hội này, đích thực
là giáo dục nhân quả. Thuở ấy, Ngài đã thấy
rõ ràng, thấy xã hội hiện tiền của chúng ta, dùng
luân lý chẳng trị được! Đạo đức
cũng chẳng trị được, chỉ có giáo dục
nhân quả. Phải giảng thấu triệt, giảng rõ
ràng, những chuyện nhân quả quá nhiều. Nếu sưu
tập những câu chuyện gần đây nhất thì nhật
báo, tạp chí, phương tiện truyền thông đã báo
cáo, hễ quý vị nói [nhân quả], người ta đều
có ấn tượng, chẳng giả tí nào! Thiện có thiện
quả, ác có ác báo. Hiện thời, trong thế gian này, trên
bất cứ con đường nào tại Hương Cảng
đều có nhà hàng hải sản, quả báo do ăn hải
sản rất nhiều, đều là nhãn tiền. Đó là
quả báo do sát sanh, quả báo do ăn thịt. Còn có một
chuyện nghiêm trọng là thiếu nữ phá thai; nghe nói hiện
thời độ tuổi [phá thai] là từ mười tuổi
cho đến ba mươi tuổi, thật là đáng sợ!
Người có công năng đặc dị hiện thời
thấy bao nhiêu trẻ gái bên thân có rất nhiều tiểu
quỷ bám theo. Ở nơi đâu? Ở ngay trên thân họ,
cho nên khắp thân họ là bệnh, bệnh chẳng thể
chữa lành. Tới bệnh viện khám nghiệm, kiếm
không ra bệnh, nhưng khắp thân dã dượi, vì những
loài oán quỷ đến kiếm họ. Nếu họ thật
sự hiểu chuyện này, có chịu làm chuyện xấu
hay chăng? Chẳng chịu làm! Vì vậy, [đối với
họ] giềng mối luân lý đạo đức chẳng
đủ, họ không thể chống nổi dụ dỗ,
mê hoặc; nhưng do nhân quả đáng sợ, người
hiểu nhân quả sẽ chẳng dám. Vì vậy, đối
cả thế giới hiện thời, nhân quả có đại
lợi lạc.
“Đặc biệt nhiếp thủ
chẳng bỏ người niệm Phật”, Phật, Bồ
Tát âm thầm gia trì người niệm Phật, [đó là nói]
người thật sự niệm Phật, thật sự
muốn vãng sanh, Phật lực gia trì, nhiếp thủ quý vị
vãng sanh thế giới Cực Lạc. Vì sao chẳng nhanh hơn
một tí? Trên thế giới có tai nạn,
cũng có thể là Phật, Bồ Tát trao cho quý vị sứ
mạng, quý vị hãy khéo tu, để nêu gương tốt
cho đại chúng trong xã hội, thực hiện luân lý,
đạo đức, nhân quả cho người khác thấy,
thật sự phổ độ chúng sanh. Nếu thực hiện,
nếu tuyên dương bằng phương tiện truyền
thông, sẽ có ảnh hưởng to lớn. Ông Hồ Tiểu
Lâm là một thí dụ, không hề lừa gạt khách hàng,
cũng chẳng cần phải cạnh tranh với đối
thủ, cứ theo đúng quy củ, tuân theo giáo huấn
trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc để
kinh doanh mà một mực có lời. Chính ông ta đã báo cáo bao
nhiêu lần, tiền kiếm được quang minh, lỗi
lạc, yên tâm, thoải mái kiếm tiền, ông ta tự tại
lắm, chẳng thiếu tiền. Vì vậy, ai nấy hiểu
nhân quả, người người đều theo quy củ,
bất luận quý vị làm nghề gì, sẽ được
đại tự tại, sẽ thật sự hạnh phúc.
“Phật thị môn trung, hữu
cầu tất ứng” (trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng), cầu phú quý, đắc phú quý, ngay cả cầu
làm Phật, làm Bồ Tát đều cầu được,
phú quý thế gian trong Phật pháp là chuyện nhỏ nhoi, chẳng
thứ gì chẳng cầu được. Vẫn là phải
hiểu rõ ràng, minh bạch nhân quả.
“Hựu A Di Đà kinh vân: - Nhược
thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị kinh, thọ
trì giả, cập văn chư Phật danh giả” (lại
nữa, kinh A Di Đà dạy: “Nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân, nghe kinh này, thọ trì và nghe danh hiệu
chư Phật), chữ “chư
Phật” ở đây chỉ A Di Đà Phật, “thị chư thiện nam tử,
thiện nữ nhân, giai vi nhất thiết chư Phật
chi sở hộ niệm”. Ở đây, chữ quan trọng
nhất là chữ “thiện”,
thiện nam tử, thiện nữ nhân. Tiêu chuẩn của
thiện là gì? Là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Hiện
tại, chúng ta học tập, phải nên gộp cả Đệ
Tử Quy và Cảm Ứng Thiên vào đó. Vì sao? Vì lẽ nào
chúng ta học Thập Thiện Nghiệp Đạo chẳng
tốt đẹp? Nói thật ra, vào thời cổ, không cần
nói quá xa, người sống vào đầu thời Dân Quốc,
tức thế hệ trước chúng tôi, như thầy Lý,
cụ Hạ Liên Cư, họ thuộc thế hệ trước,
đã thực hiện đúng tiêu chuẩn “thiện nam tử, thiện nữ nhân”. Vì sao họ
làm được? Họ được hưởng thụ
sự giáo dục tốt đẹp từ gia đình. Người
sống vào đầu thời Dân Quốc, gia đình vẫn
còn, gia học (sự giáo học trong gia đình hoặc trong
gia tộc) còn hưng thịnh. Những người có học
cũng chẳng học từ đại học nào như
hiện thời, đều là do học trong các tư thục
mà thành tựu rồi sau đấy đi thi. Thầy Lý còn
chưa bao giờ đến trường, thế hệ trước
thầy Lý, tức thân phụ của thầy còn chưa hề
đến trường, đời Thanh không có trường
học; khi đó, không có trường học, mà toàn là tư
thục, là gia học[6].
Dạy dỗ
trong gia học rất nghiêm, thầy nghiêm khắc mới có
trò giỏi! Thầy Lý học rất khổ sở, chúng ta
có nằm mộng cũng chẳng ngờ tới! Cụ kể
cho biết: Bị phạt quỳ, chẳng phải quỳ
trên đất, mà quỳ trên đống gạch, khổ cực
lắm! Lão nhân gia dạy chúng tôi học, chỉ bảo chúng
tôi, bất luận là Phật học hay Nho học, dẫn chứng
kinh điển cứ thuận miệng đọc ra, chẳng
cần phải tra cứu tài liệu, chúng tôi thấy vậy
rất bội phục. Cụ bảo tôi: “Các anh có biết
do đâu mà được vậy hay chăng?” “Con chẳng
biết?” “Do quỳ trên gạch đấy. Các anh chưa hề
quỳ trên gạch, cho nên chẳng được vậy!”
Do đó, Trung Quốc vào thời cổ, trẻ nhỏ đúng
là khổ sở, được giáo dục rất nghiêm ngặt,
chẳng giống như Tây Phương. Người Tây
Phương quan niệm: Thuở nhỏ là thiên đường,
cuộc sống của nhi đồng là thiên đường,
sung sướng, chẳng bị trói buộc gì! Trẻ nhỏ
Trung Quốc khổ sở, mười một, mười
hai tuổi đi ra ngoài, [giữ gìn oai nghi] giống như
một người đã trưởng thành thu nhỏ, quy củ,
quan niệm khác nhau! Thuở thơ ấu, phải hoàn thành
những thứ cần phải học trong một đời.
Sau khi đỗ đạt, theo đuổi bất cứ
nghề nghiệp gì, tuổi thanh xuân cống hiến xã hội,
tạo phước cho gia đình, vì gia đình tạo phước.
Cả đời người ấy có mục tiêu, ta sống
vì lẽ gì? Ta vì gia đình mà sống. Suốt đời nghĩ
tưởng cho gia đình, làm cho tổ tông được vinh
diệu, gia tộc được vẻ vang. Vì vậy, người
ấy có chỗ để nương dựa, tâm bèn định.
Dẫu suốt đời sống ở nơi xa xôi, đến
cuối cùng lá rụng về cội, lúc tuổi già về
hưu, nhất định trở về quê hương, vì
sao? Dưỡng lão tại quê nhà. Vì vậy, đời người
sung sướng nhất, hạnh phúc nhất. Nói đến
lúc hưởng thụ nhất sẽ là khi nào? Tuổi già! Tuổi
già hưởng lạc. Thuở nhỏ vun bồi căn cội
cho sâu chắc, vững bền, vun bồi rất nhọc nhằn,
“căn cội” ấy chính là luân lý, đạo đức, giáo
dục nhân quả. Vì vậy, với nền giáo dục ấy,
ai nấy đều là người tốt, mọi chuyện
đều tốt lành, xã hội an định. Khi trẻ
khỏe, vì xã hội, vì quốc gia, vì gia đình tạo phước,
lúc tuổi già hưởng phước. Điều này khác
với ngoại quốc, ngoại quốc đến tuổi
xế chiều rất đáng thương, đối với
Trung Quốc thì tuổi già là lúc hạnh phúc nhất, hưởng
phước từ sáu mươi tuổi trở đi. Trước
kia làm quan, làm quan đến bảy mươi tuổi bèn về
hưu. Quan lại đến khi bảy mươi tuổi
bèn cáo lão hồi hương, trở về nhà dưỡng
lão, hưởng phước.
Vì vậy,
chữ “thiện” này trọng
yếu lắm, thiện nam tử, thiện nữ nhân. “Giai vị nhất thiết chư
Phật chi sở hộ niệm” (đều được
hết thảy chư Phật hộ niệm), dẫn kinh điển
nhiều như thế cho quý vị thấy: Chẳng phải
chỉ có một bộ kinh này nói như vậy, mà đức
Thế Tôn thường nói như thế. Tiếp theo đó,
sách viết: “Hựu niệm Phật
chi nhân hữu tứ thập lý quang minh chúc thân, ma bất
năng phạm” (Lại nữa, người niệm Phật
thân có quang minh chiếu xa bốn mươi dặm, ma chẳng
thể xâm phạm). Nhất tâm chuyên niệm, trong kinh Đại
Thừa đã dạy: “Phát Bồ
Đề tâm, nhất tâm chuyên niệm”, Bồ Đề
tâm là tâm giác ngộ thật sự. Quang minh bốn
mươi dặm: Trong Phật pháp gọi bốn mươi
dặm là một do-tuần, quang minh này là gì? Quang minh này là tự
tánh quang minh, cũng là “thiện” được nói trong phần
trước, thiện tâm, thiện nguyện, thiện hạnh.
Quang minh như trong kinh Phật nói được con người
hiện tại gọi là “từ
trường”. Người ấy (người niệm Phật)
ở lại nơi đây, từ trường trong vòng bốn
mươi dặm sẽ khác hẳn. Một người tu
hành chân chánh ở nơi này, hoặc là trong một đạo
tràng nhỏ, nếu không có đạo tràng nhỏ, thì hoàn cảnh
nơi người ấy sống, chúng tôi tin là cả nhà người
ấy đều học Phật. Trong nhà ấy, thông
thường có nhân số khoảng ba trăm người, người
già trong nhà học Phật sẽ dẫn dắt mọi người
cùng nhau học Phật. Vì vậy, chúng ta có thể tin tưởng
là một trang viên[7],
một thôn xóm, một tiểu trấn ấy chắc chắn
đều bị cảm hóa. Mấy năm trước đây,
tại tiểu trấn Thang Trì, chúng tôi chỉ là làm thí nghiệm,
chỉ dùng Đệ Tử Quy để dạy học, khiến
cho bốn vạn tám ngàn cư dân trong tiểu trấn ấy,
nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề cùng học, đại
khái là trong thời gian ba bốn tháng, lòng người bèn chuyển
biến, từ trường hoàn toàn khác hẳn. Do vậy,
chuyện này là thật, chúng ta có thể tin “ma chẳng thể
phạm”. Nay chúng tôi nói những lời này, có ai tin tưởng
hay không? Người ta bảo đó là chuyện thần thoại,
chẳng thể nào có! Nói thật ra, đấy chẳng phải
là Phật không linh, cũng chẳng phải pháp không linh, hiện
thời chẳng có hiệu quả thì phải nên biết toàn
là do bản thân chúng ta tuy học Phật nhưng tâm bất
chánh! “Bất chánh” là không chịu
buông tà mê xuống, bị tự tư tự lợi, tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần
từ ngoại cảnh dụ dỗ, mê hoặc, thời thời
khắc khắc động tâm, bị hoàn cảnh bên ngoài xoay
chuyển, nay chúng ta niệm Phật, nguyên nhân khiến cho hoàn
cảnh của chúng ta khác với hoàn cảnh được
nói trong kinh là ở chỗ này.
Tiếp
theo đó, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ dùng một đoạn
ngắn để kết luận, “Do thượng khả kiến, niệm Phật chi
nhân, hữu Di Đà sở khiển chi nhập ngũ Bồ
Tát, ư nhất thiết thời xứ, ủng hộ gia
trì, hựu hữu Đại Thế Chí Bồ Tát đẳng,
oai đức nhiếp thọ, phục vi nhất thiết
chư Phật chi sở hộ niệm” (do những điều
trên đây có thể thấy người niệm Phật
được hai mươi lăm vị Bồ Tát do Phật
Di Đà sai đến ủng hộ gia trì trong hết thảy
lúc, hết thảy nơi, lại có những vị như Đại
Thế Chí Bồ Tát v.v... oai đức nhiếp thọ, lại
được hết thảy chư Phật hộ niệm).
Phước báo này to nhiều, là phước báo bậc nhất!
Chư vị phải biết: Thật sự tu tập thì mới
được [ủng hộ, gia trì như thế]. “Cố đắc viễn ly ma nạn,
an ổn tu trì. Trượng tha lực cố, hóa hiểm vi
di, xưng vi dị hành đạo” (Cho nên được
xa lìa ma nạn, an ổn tu trì; do cậy vào tha lực nên hóa
hiểm thành lành, [do đó pháp này] được gọi là đạo
dễ hành). Cư sĩ Lưu Tố Vân là một tấm gương
tốt cho chúng ta, bà ta là người hết sức thật
thà, hết sức hướng nội, cả đời chỉ
sợ danh lợi, trọn chẳng tiêm nhiễm danh lợi.
Do bị bệnh, niệm Phật được lành bệnh,
cảm động bao nhiêu người. Giới truyền
thông tới phỏng vấn bà ta, sau khi đĩa DVD được
phát hành đã cảm động vô số người. Đúng
là ban cho chúng ta một gương tốt về đạo
dễ hành: Hết sức đơn giản là vạn duyên
buông xuống, nhất tâm nhất ý nương cậy A Di
Đà Phật. Do bà ta chẳng sợ chết, nên bệnh nặng
như vậy, hoàn toàn chẳng lo lắng. Bác sĩ bảo
bà ta có thể chết bất cứ lúc nào, bảo bà hãy chuẩn
bị tâm lý. Bà ta nói: “Tôi chẳng bận tâm đến điều
ấy, lúc nào tôi cũng mong mỏi A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn tôi, thế giới Cực Lạc là quê cũ
của tôi”. Chẳng có chút cảm giác hoảng sợ gì, tâm
bình khí hòa. Đó là điều khiến cho bác sĩ và y tá
trong bệnh viện hết sức bội phục. Cớ
sao bà ta an tường dường ấy, chẳng sợ hãi
tí nào, chẳng lo buồn chút nào, do nguyên nhân gì vậy? Về
sau, họ biết bà ta là người học Phật, niệm
Phật. Do đó, phong khí niệm Phật lan truyền, người
niệm Phật ở chỗ bà ta sống trở nên đông
hơn, kẻ không tin cũng tin tưởng, kẻ chẳng
niệm Phật cũng niệm Phật. Hiện thời tiếng
tăm lan truyền, mọi người đều biết
tới, các nơi đều mời mọc bà ta. Tôi nói: “Tốt
lắm!” Bà ta cũng rất vui vẻ, rất nghe lời, tôi
bảo: “Đây là A Di Đà Phật trao sứ mạng cho bà,
bà phải đi nhiều, gặp gỡ nhiều, trao đổi
nhiều, khiến cho càng nhiều người hiểu rõ, giác
ngộ”. Chuyện này chẳng giả, bà ta hiện thân thuyết
pháp, có đạo lý to lớn trong ấy!
Tiếp
theo đó, cụ Hoàng nêu ra một vấn đề, vấn
đề này rất có thể xảy ra. Có những kẻ học
Phật: “Hoặc dĩ đàm tha
lực vi trước tướng” (Chắc cũng kẻ
bảo tha lực là chấp tướng), kẻ nào thế?
Kẻ học Thiền Tông, họ chê quý vị chấp tướng.
Chấp tướng được thôi! Chúng ta chấp tướng,
nhưng chấp tướng để cầu vãng sanh. “Ưng tri tha lực, diệc thị
tự tâm, tự tha bất nhị” (Nên biết tha lực
cũng là tự tâm, tự và tha chẳng hai), trong Tịnh Tông
thường nói “tự tánh Di
Đà, duy tâm Tịnh Độ”, tự tha là một, tự
tha bất nhị, “tự tha uyển
nhiên” (tự tha rành rành). Tự và tha có hay chăng? Có, nói
theo Lý, cùng một tự tánh; nói theo Sự, cùng do một tự
tánh sanh ra, tự tánh có thể sanh ra vạn pháp. “Nhân tha lực nhi hiển tự
tâm, tùng hữu niệm dĩ nhập vô niệm, chánh thị
bổn pháp thâm diệu xứ” (Do tha lực mà hiển lộ
tự tâm, từ hữu niệm mà nhập vô niệm, đấy
chính là chỗ sâu mầu của pháp này). Nếu chúng ta gặp
phải kẻ phê phán chúng ta, quý vị hãy nên liễu giải:
Có thể đáp, [tức là] nếu hiểu đạo lý
này thì có thể nói với kẻ ấy. Nếu chẳng hiểu
bèn cười trừ, niệm A Di Đà Phật là được
rồi: “Mặc kệ ông nói như thế nào, tôi vẫn một
câu A Di Đà Phật. Tôi cung kính ông, pháp môn của ông hay lắm,
tôi tán thán. Pháp môn này của tôi chẳng bằng, căn tánh
của tôi kém hơn ông. Coi thử trong tương lai hai người
chúng ta, ai sẽ thành công?” Chẳng cần phải kèn cựa
trong hiện tại, nhìn vào sự thành tựu sau này để
chứng thực!
“Thị cố Di Đà Yếu Giải
vân: Thử chi pháp môn, toàn tại liễu Tha tức Tự. Nhược
húy ngôn Tha Phật, tắc thị Tha Kiến vị vong”
(Vì thế, sách Di Đà Yếu Giải viết: “Pháp môn này
chú trọng hiểu rõ Tha chính là Tự. Nếu kiêng nói đến
Phật khác, tức là Tha Kiến chưa hết”). Kẻ ấy
vẫn còn phân biệt, vẫn đang chấp trước.
“Nhược thiên trọng Tự
Phật, khước thành Ngã Kiến điên đảo”
(Nếu khăng khăng coi trọng Tự Phật, sẽ
thành Ngã Kiến điên đảo). Ngẫu Ích đại
sư nói hay quá! Do Ngẫu Ích đại sư sống vào cuối
đời Minh, phong khí Thiền học rất thịnh, Thiền
xem thường Tịnh Độ. Do vậy, Liên Trì đại
sư thiện xảo phương tiện, chú giải kinh
A Di Đà dùng “thập môn khai khải”
của kinh Hoa Nghiêm để nâng kinh Di Đà lên cảnh giới
giống hệt như Hoa Nghiêm. Đây là phương tiện
thiện xảo và dụng tâm của lão nhân gia. Trong thời
đại ấy, phong khí Thiền học cực thịnh,
làm thế nào để khiến người ta tin tưởng
Tịnh Độ. Những năm xưa kia, tôi ở Đài
Loan, lúc ấy vừa mới có một đạo tràng nhỏ
là Hoa Tạng Đồ Thư Quán. Khéo sao có một du học
sinh người Mỹ du học tại Đài Loan để
học Phật pháp, học chương trình nghiên cứu
sinh tại Đài Loan. Cô ta tìm đến tôi, ở lại Đồ
Thư Quán. Cô nói tiếng Hoa khá sõi, rất khó có, cô gái ấy
hai mươi mấy tuổi. Tôi hỏi cô học tiếng
Hoa ở đâu? Cô ta học tại Nữu Ước ba
năm. Chúng tôi rất bội phục, học chỉ ba
năm mà nói tiếng Hoa rất lưu loát, có thể đọc
hiểu cổ văn Trung Quốc, quá khó có! Cô ta nghe tôi giảng
kinh Di Đà, mong tôi sang Mỹ hoằng pháp. Cô ta nói: “Thưa
pháp sư! Thầy đến Mỹ thì mới có thể chấn
hưng Tịnh Độ Tông”. Cô ta ở chỗ tôi bốn
tháng. Đây cũng là một nhân duyên khiến tôi sang Mỹ,
vì lúc ấy, nước Mỹ chỉ có Thiền Tông và Mật
Tông. Thiền Tông từ Nhật Bản truyền sang. Mật
Tông từ Tây Tạng truyền đến. Pháp sư Trung Quốc
rất nhiều, nhưng ở bên ấy chẳng dễ gì
truyền thừa Đại Thừa Phật pháp Trung Quốc.
Đã hết thời gian rồi, ngày mai tôi sẽ lại giảng
đoạn này cho mọi người nghe.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
Phần 7 hết
[1] Quân phiệt cát cứ: Đây là thời
kỳ các tướng lãnh địa phương nổi
lên xưng hùng xưng bá chia nhỏ Trung Hoa thành từng vùng
kể từ năm 1916 đến năm 1928. Tuy trên danh
nghĩa, họ vẫn tuân phục chính
quyền Trung Hoa Dân Quốc, nhưng các tướng lãnh quân
phiệt hầu như có chính quyền, quân đội riêng
biệt, và chánh quyền Trung Ương phải điều
đình, mua chuộc, dựa dẫm họ. Thời kỳ
quân phiệt nổ ra sau cái chết của Viên Thế Khải
vào năm 1926 và chấm dứt sau cuộc Bắc Phạt,
quân phiệt cát cứ vẫn tồn tại cho đến
khi Mao Trạch Đông đánh bại phe Quốc Dân Đảng
mới chấm dứt. Nguyên nhân xa là do triều đình nhà
Thanh không có hệ thống quân đội trung ương,
quân lực được tổ chức thành các tỉnh,
các kỳ, do các quan Đoàn Luyện chỉ huy tại mỗi
tỉnh. Mạnh nhất là quân đoàn Bắc Dương của
Viên Thế Khải. Sau khi lật đổ nhà Thanh, chính quyền
Nam Kinh của Tôn Dật Tiên phải liên kết với Viên
Thế Khải để thống nhất Trung Hoa, và đổi
lại, Viên Thế Khải trở thành đại tổng
thống, thành lập chính quyền Bắc Dương. Mọi
âm mưu chống đối bị họ Viên đè nát, và
khi họ Viên tuyên bố lên ngôi hoàng đế, các tỉnh
miền Nam chống đối, hình thành mặt trận
Vệ Quốc, dẫn đến sự xuất hiện
đông đảo các tướng lãnh quân phiệt. Trung Hoa
bị tách thành hai chính quyền song hành: chính quyền Bắc
Dương và chính quyền Nam Kinh. Những tướng
quân phiệt nổi tiếng thời ấy là Trương
Tác Lâm, Phùng Quốc Chương, Đoàn Kỳ Thụy, Lê
Nguyên Hồng, Trương Huân, Tào Khôn, Đường Kế
Nghiêu, Diêm Tích Sơn v.v...
[2] Kinh, sử, tử, tập là cách phân chia
truyền thống các sách vở của Trung Hoa, Tứ Khố
Toàn Thư cũng được phân loại nội dung
theo cách này.
1. Kinh bao gồm những tác phẩm giảng
giải về chính trị, luân lý, đạo đức, chủ
yếu là những tác phẩm truyền
thống kinh điển của Nho gia như Tứ Thư,
Ngũ Kinh, Xuân Thu Công Dương Truyện, Xuân Thu Cốc
Lương Truyện, Nhĩ Nhã v.v...
2. Sử là những tác phẩm
ghi chép sự kiện lịch sự, điển
chương, chế độ, địa lý, lại
được chia thành nhiều tiểu loại như
chánh sử, biên niên, bổn sự,
kỷ sự bổn mạt, biệt sử, tạp sử,
chiếu lệnh, tấu nghi, sử ký v.v... Kể cả những
tác phẩm đánh giá, bình luận sự kiện lịch sử.
3. Tử bao gồm các trước tác của
bá gia chư tử, Nho gia, Phật, Đạo gia, chia thành
các tiểu loại như Nho gia, binh gia, nông gia, pháp gia, y
gia, thiên văn, toán pháp, thuật số, nghệ thuật,
ký lục, tạp gia, số thư (sách bói toán), tiểu thuyết
gia v.v...
4. Tập bao gồm các tác phẩm trước
tác của các danh sĩ các đời như tản văn,
biền văn, thơ, từ, ca khúc, bình luận văn học,
bút ký v.v...
[3] Ngài Nguyên Hiểu (617-685) là một vị
cao tăng Đại Hàn, tục danh Tiết Tư (Seolsa),
thụy hiệu Hòa Tịnh Quốc Sư, biệt hiệu
Tây Cốc Sa Di, quê ở Khánh Sơn (Gyeongsan), sống vào thời
đại Tân La (Syalla). Sư là bạn thân của sư
Nghĩa Tương (Uisang) sáng tổ tông Hoa Nghiêm của
Đại Hàn. Ngài Nguyên Hiểu trước tác vô cùng phong
phú, chú giải cả trăm loại kinh luận khác nhau (có
sách nói Ngài biên soạn đến 240 bộ chú giải), nên
có mỹ hiệu là Bách Bộ Luận Chủ. Sư
được coi là sơ tổ của Hải Đông
Tông, tức tông phái chuyên nghiên cứu về Pháp Tướng
tại Đại Hàn. Sư đặc biệt có ảnh
hưởng lớn lao đến sự nghiên cứu các
giáo nghĩa Hoa Nghiêm, Duy Thức và Như Lai Tạng trong Phật
giáo Đại Hàn. Do quá lỗi lạc, vua Tân La là Vũ Liệt
Vương đã ép Ngài phải lấy công chúa Dao Thạch
làm vợ, sinh hạ một trai là Tiết Thông (Seol Chong). Tiết
Thông cũng là một nhà nghiên cứu Nho học lỗi lạc
thời ấy.
[4] Đạt Lai Lạt Ma (ta thường
gọi là Đại Lai Lạt Ma) là danh hiệu ghép bởi
từ ngữ Dalai (biển cả) trong tiếng Ấn
Độ và chữ Lama của tiếng Tây Tạng, dịch
nghĩa chữ Guru (trong tiếng Ấn). Đạt Lai vừa
là người lãnh đạo nhất của dòng tu Gelugpa vừa
là quốc vương Tây Tạng. Tương truyền,
danh hiệu Dalai được vua Mông Cổ Altan Khan ban cho
Sonam Gyatso vào năm 1578; đổi lại, Sonam Gyatso công nhận
Altan Khan là Phạm Vương của dân Mông Cổ. Tuy thế,
đây chỉ là truyền thuyết, vì theo chính vị Đạt
Lai Lạt Ma hiện tại, từ ngữ Dalai chỉ là dịch
nghĩa danh hiệu Gyatso (biển cả) trong tiếng Tây Tạng,
Sonam Gyatso (1543-1558) là trưởng tu viện Drepung đã cảm
hóa được tù trưởng hung bạo nhất của
Mông Cổ thời ấy là Altan Khan. Dưới sự giúp
sức của Altan Khan và con trai của Altan là Sengge Dureng,
Sonam Gyatso đã chuyển Mông Cổ thành quốc gia theo Mật
Tông Tây Tạng. Theo truyền thống, Sonam Gyatso được
coi là hóa thân của Gendun Drup (đại đệ tử của
đại sư Tsongkhapa) đã tôn xưng hai vị Lạt-ma
“tiền thân” của mình đều là Đạt Lai Lạt
Ma, và tự nhận mình là hóa thân của Phagpa (vị cao
tăng chế ra chữ Tây Tạng). Đến đời
Đạt Lai Lạt Ma thứ năm, Ngawang Lobsang Gyatso
(1617-1682), với sự giúp sức của vua Mông Cổ là
Gushi Khan đã đánh bại các tông phái đối lập,
trở thành quốc vương, và chính ông ta tự nhận
mình là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Chính Đạt
Lai Lạt Ma đã tôn xưng thầy mình là Lobsang Chokyi
Gyaltsen là Panchen Lama (Ban Thiền Lạt Ma) và tuyên bố Ban
Thiền là hóa thân của A Di Đà Phật. Trước
đó, Lobsang Chokyi Gyaltsen được coi là hóa thân đời
thứ tư của Khedrup Je (một trong các đại
đệ tử của đại sư Tsongkhapa).
Vị Jebtsundamba đời thứ nhất
là Undur Geghen Zanabazar (dịch âm chữ Jnanavajra, Trí Kim Cang)
được Ban Thiền và Đạt Lai công nhận là
Phật sống vào năm 1640 và trở thành pháp vương
của toàn thể giáo đồ Phật giáo tại vùng Ngoại
Mông. Vị này đã đóng góp rất nhiều vào văn hóa
Mông Cổ cũng như là người đầu tiên
đã chế ra văn tự Soyombo cho Mông Cổ.
Tsongkhapa (1357-1419), pháp hiệu Lobsang Drakpa
(Thiện Huệ) là giáo tổ sáng lập tông phái Gelugpa (dòng
đức hạnh hay còn gọi là phái Mũ Vàng). Vị này
kế thừa giáo nghĩa của tôn giả Atiśa
Dipankara Shrijnana, đã tổng hợp nhiều giáo nghĩa Mật
giáo đã có từ trước tại Tây Tạng, nhấn
mạnh đến hành trì giới luật (do giới luật
trong các tông phái Cổ Mật thường rất lỏng lẻo,
nên tổ Tông Khách Ba phế trừ những hành vi tính dục
nhằm đạt đến giác ngộ trong Mật Tông
trước đó). Ngài được coi là một nhà cải
cách, chấn hưng tôn giáo của Tây Tạng, có công hệ
thống giáo nghĩa Mật Tông Tây Tạng.
[5] “Linh đồng” (xubilgan) là những
đứa trẻ được coi là hóa thân của các lạt-ma
đã mất. Dựa trên những huyền ký hoặc dự
ngôn của vị lạt-ma đã mất, các môn đệ
đi tìm đứa trẻ ấy đem về, trắc
nghiệm chứng thực rồi tấn phong đứa trẻ
ấy vào ngôi vị của vị lạt-ma đã mất. Sở
dĩ Chương Gia đại sư nói “ba đời đầu tiên là thật, từ đời
thứ tư trở đi, không dám chắc” vì trong quá khứ
đã có trường hợp do tranh chấp quyền lực
giữa các phe phái, không thể công nhận ai mới là vị
lạt-ma hóa thân kế tiếp, phải dùng cách rút thăm
quyết định từ chiếc bình vàng do vua Càn Long ban
vào năm 1792. Các đời Đạt Lai Lạt Ma 10, 11 và
12 được chọn theo cách này.
[6] Gia học là cách dạy học trong gia tộc,
hoặc gia đình khá giả mời thầy về dạy
dỗ cho con, hoặc trong làng, mời những người
có học thức, đạo đức làm thầy dạy
cho trẻ nhỏ; đôi khi do chính cha, anh, chú, bác, người
trong họ dạy nhau. Nói chung, không chỉ là dạy chữ
mà còn kèm cặp, uốn nắn tính tình. Do lớp học
không đông, nên thầy theo dõi trò rất sát.
[7] Một trang viên là một đơn vị
kinh tế độc lập trực thuộc quyền sở
hữu của một quý tộc hoặc một danh gia vọng
tộc hay một kẻ giàu có thời cổ, tương tự
như các lãnh địa của các lãnh chúa tại Âu Châu.
Trang viên thường có ruộng đất riêng, có tường
vây bao bọc, hay hàng rào phòng vệ, có quy củ, luật lệ
riêng, theo mô hình kinh tế tự cung, tự cấp. Trong những
trang viên lớn thường có xưởng chế biến
thực phẩm, quần áo, vật dụng, kho dự trữ,
hoặc các công xưởng chế tạo vật dụng.
Tại Trung Quốc, trang viên đã có từ thời Nam Bắc
Triều, nhất là do tình hình loạn lạc thường
xuyên, các thủ lãnh, phú hào địa phương càng ngày
càng có khuynh hướng chiếm đoạt, sát nhập
đất đai vào lãnh địa của mình để
tăng cường oai thế. Trang viên còn được gọi
là điền trang, trang điền, trang trạch, trang viện,
sơn trang.
0 Kommentare:
Post a Comment