Thực sự, nếu người tham thiền đầy đủ
nghị lực, khi chết họ sẽ cười. Chỉ có người chưa đủ nghị lực mới sợ. Cũng như
người niệm Phật khi đến chỗ nhất tâm bất loạn rồi, thì khi chết sẽ vui tươi, vì
thấy mình đầy đủ công đức, nhắm mắt là được Phật rước
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần 6
Chánh
Văn:
“Tài tương giác sát, tiện
ngôn ngã thị sơn Tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo.
Như tư chi kiến, cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẩm nhiễm nhân
gian toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học
tư tuân vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết bất thiệp điển chương. Hoặc bị
khinh ngôn, tiện trách hậu sanh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân”.
Dịch:
Vừa mới được người cảnh giác
liền xưng: Ta là “Sơn Tăng”. Chưa nghe lời Phật dạy để hành trì, cứ một bề giữ
tánh thô tháo. Sở dĩ thấy biết như vậy, chỉ vì tâm ban đầu biếng nhác và theo
thói ham ăn mê ngủ. Dần dà theo đời hóa thành thô kệch. Chẳng hay lóng cóng yếu
già, gặp việc xây mặt vào vách. Hậu học thưa hỏi không biết lời chi hướng dẫn.
Dẫu có giảng nói cũng không hợp với kinh điển. Nếu bi khinh chê liền trách hậu
sanh vô lễ. Tâm sân nổi dậy, lớn tiệng nạt người.
Giảng:
“Tài tương giác sát, tiện ngôn
ngã thị sơn Tăng”. Ở Trung Hoa tăng sĩ có hai thành phần. Một là những vị sư ở
kinh đô vì gần Vua và dân chúng đông đảo nên giữ oai nghi nghiêm chỉnh. Hai là
những vị sư ở núi vì ít người lai vãng nên tự do, không giữ gìn oai nghi. Vừa
được người nhắc nhở liền xưng “Ta là Sơn Tăng” mà không chịu nhận lỗi để sửa.
Đó là lỗi chồng thêm lỗi.
“Vị văn Phật giáo
hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo”. Bởi chưa từng nghe lời Phật dạy để tu
hành nên trong lòng còn giữ một bề thô tháo. Chỉ tính toán chuyện thế gian, tuy
xuất gia mà chẳng hợp đạo tí nào.
“Như tư chi kiến,
cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần”. Sở dĩ có thấy biết như vậy chỉ
vì ban đầu lười biếng, không chịu học luật, học giáo lý, chẳng biết tu hành mà chỉ
lo ăn, ngủ. Thật là tệ hại!
“Nhẫm nhiễm nhân
gian toại thành sơ dã”. Nghĩa là dần dà theo đời, hóa thành quê kệch. Hai câu
này nếu dịch thoát văn một chút thì tôi nói là xách dù đi lang thang, chuyên
đến những nhà thế tục bèn thành kẻ quê mùa. Vì mãi đi lang thang xóm này, làng
nọ thì giờ đâu mà học hỏi giáo lý, thì giờ đâu mà thúc liễm thân tâm? Nói đến
đạo lý thì mù tịt, không phải quê mùa dốt nát là gì?
“Bất giác lủng
chủng lão hủ, xúc sự diện tường”. Bất chợt cái già lụm cụm đến, gặp việc liền
xây mặt ngó vào vách.
“Hậu học tư tuân
vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết bất thiệp điển chương”. Hậu học thưa hỏi
không có lời gì tiếp dẫn. Nếu có nói ra cũng không hợp với kinh điển. Vì ở chùa
lâu được tôn xưng là Thượng tọa, Sư bà. Bấy giờ được người thưa hỏi thì không
biết lời gì để giải đáp. Đôi khi túng quá, không nói, sợ nó cười, nên nói đại
nói càn chẳng hợp với kinh điển. Thế mà:
“Hoặc bị khinh
ngôn, tiện trách hậu sanh vô lễ. Sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân”. Hoặc bị
khinh chê liền trách hậu sanh vô lễ. Tâm sân nổi dậy, lớn tiếng át người. Kẻ
hậu sanh vì thấy hàng tu lâu là thông suốt nên đến hỏi, chẳng ngờ mình nói bậy,
nó biết nên nói : “Thầy nói vậy e lầm chăng?”. Vừa nghe thế liền nổi giận trách
liền: “Hậu sanh vô lễ”. Đã“Sân tâm phẫn khởi” thì “ngôn ngữ cai nhân” là mắng
nạt đuổi đi. Đoạn này Tổ nhằm vào cái khuyết điểm của người xuất gia không lo
tu học mà quở trách. Đây, Tổ nói tiếp hậu quả của người không tu học.
Chánh
Văn:
“Nhất triêu ngọa tật tại
sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thổn tâm lý hồi hoàng. Tiền
lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ trihối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi”.
Dịch:
Một mai bịnh nằm trên giường,
mọi thứ đau đớn doanh vây bức bách. Sớm tối lo nghĩ, trong lòng lo sợ bồi hồi.
Đường trước mịt mờ chưa biết về đâu. Bấy giờ mới biết hối hận ăn năn, đợi khát
đào giếng sao kịp?
Giảng:
Đến đây Tổ dùng lời trách thật
thống thiết. Một hôm đau nặng nằm liệt giường, lúc ấy các khổ dồn đến ép ngặt:
thân thể đau nhức, cổ họng tắt nghẽn… chừng ấy mới suy nghĩ lại mấy chục năm
nay mình đã làm những gì? Tu tiến thế nào? Có lợi ích gì cho ai? Thì chỉ thấy
mình là con số không. Bấy giờ trong tâm hoảng sợ, đường trước mịt mờ nào biết
về đâu? Thật là khổ! Chừng ấy mới biết ăn năn nhưng đã muộn rồi, đợi đến khát
nước mới lo đào giếng thì sao cho kịp? Vì thế bây giờ còn trẻ có duyên tốt xuất
gia, lại may mắn gặp những nơi giảng kinh dạy đạo thì phải ráng nỗ lực học hỏi
tu hành, khả dĩ mới tránh khỏi lỗi lầm này.
Chánh Văn:
“Tự hận tảo bất dự tu,
niên vãng đa chư quá cựu. Lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên
tước phi thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên. Tâm tự
đa đoan, trọng xứ thiên trụy”.
Dịch:
Hận mình sớm chẳng lo tu, đến
lúc tuổi già nhiều điều tội lỗi. Khi sắp rời bỏ cuộc đời sự sống tan rã nhanh
chóng, trong lòng khiếp sợ kinh hoàng. (Giống như) lụa thủng chim bay, (cũng
vậy) tâm thức theo nghiệp. Như kẻ mắc nợ, ai mạnh kéo trước, trong tâm nhiều
mối, nặng đâu sa đó.
Giảng:
Đến đây tôi giải thích kỹ cho
toàn thể quí vị nghe và nhận được yếu chỉ tu hành, để đến phút chót mình cố tự chủ.
Đối với người thường không biết tu hành chỉ lo chạy theo danh lợi, khi sắp chết
họ tự kiểm điểm thấy mình không có phước đức, nên tâm hoảng sợ không biết mình
sẽ ra sao? Đi về chỗ nào? Tâm hãi hùng tay chân co rút, không làm chủ được
mình. Khi ấy nếu tắt thở, thì thần thức nơi thân liền xuất ra.
Chữ “Hộc xuyên” Phật ví dụ như
cái hủ ngoài có tấm lụa bịt miệng, trong hủ có con chim. Nếu tấm lụa thủng thì con
chim sẽ bay ra chỗ nào nó thích. Cái hủ bịt miệng ấy dụ cho thân tứ đại của
chúng ta, khi thân sắc uẩn hư hoại. Tâm thức liền tùy nghiệp mà đi, nghiệp nào
nặng thì lôi mình đi trước. Thế thì thái độ của người tu khi chết phải làm thế
nào? Trong kinh Phật dạy: khi sắp chết phải được tự chủ.Nếu tu về pháp môn niệm
Phật thì nhớ niệm Phật, tu pháp môn trì chú thì nhớ câu chú. Còn chúng ta tu
thiền thì sao? Lúc ấy không nhớ gì hết phải không? Nếu không nhờ phương tiện gì
cả thì lúc ấy hoảng hốt làm sao tự chủ? Thực sự, nếu người tham thiền đầy đủ
nghị lực, khi chết họ sẽ cười. Chỉ có người chưa đủ nghị lực mới sợ. Cũng như
người niệm Phật khi đến chỗ nhất tâm bất loạn rồi, thì khi chết sẽ vui tươi, vì
thấy mình đầy đủ công đức, nhắm mắt là được Phật rước. Người tham thiền cũng
thế, khi thấy được tánh, đạt được đạo thì có gì mà sợ hãi? Như Ngài Tuệ Trung
Thượng Sĩ khi có người hỏi:
- Đối với vấn đề sanh tử Ngài
nghĩ sao?
Ngài đáp:
“Trường không túng sử song phi
cốc
Cự hải hà phòng nhất điểm âu?”
Dịch:
“Giữa trời phỏng có đôi vành
chuyễn
Biển cả ngại gì hòn bọt con”.
Với hư không vô cùng tận thì
hai vành xe trong ấy nào có nghĩa gì? Một hòn bọt nào có đáng gì với biển cả
mênh mông! Hai vành xe dụ cho sanh tử, khi chúng ta đã đạt được pháp thân thì
vấn đề sanh tử trở thành vô nghĩa. Lại nữa, pháp thân chẳng khác nào biển cả,
còn sắc thân huyễn hóa này chẳng khác nào hòn bọt. Bọt tan trở về biển nào có lo
gì? Vậy thì có gì sợ hãi? Chỉ ngại chúng ta biết bọt mà không biết biển thì mới
lo sợ. Vì thế mà đa số Thiền sư ngộ đạo rồi, đối với vấn để sanh tử các Ngài
xem như trò chơi. “Ư chư sanh tử bất quan hoài”, đối với vấn đề sống chết chẳng
còn để lòng nữa. Lúc đó là xong, cần gì phải nghĩ mình đi đâu. Đây là chủ yếu
của Thiền Tông. Tổ Qui Sơn khi sắp tịch, có người hỏi:
- Hòa
Thượng sau khi tịch về đâu? Ngài đáp:
- Ta
sẽ làm con trâu dưới núi, trên lưng có đề 4 chữ “QUI SƠN LINH HỰU”. Khi ấy gọi
Qui Sơn là phải, hay gọi con trâu là phải?
Quí vị chưa thông
hiểu thiền lý, nghe chuyện này ắt hoảng hốt sanh nghi. Ông già tu hành bao năm
đã được tôn làm Tổ, mà chết làm trâu thì nguy quá, tu hành như mình chẳng biết
sẽ ra sao? Thông thường chúng ta quan niệm người tu chết thì phải về cõi Phật
hoặc thành Thánh mới được, ai ngờ Ngài nói sẽ làm con trâu Ngài Nam-Tuyền cũng
nói tương tự như vậy. Chúng ta lúc nào cũng thấy trên là Thánh dưới là phàm, muốn
bỏ phàm theo Thánh, mà còn thấy Thánh là còn thấy hai. Sự thật thì không hai,
đấy chỉ là phương tiện giả lập trong vòng tương đối mà thôi. Vì thế đối với
những vị đạt đạo thấy Phàm Thánh không hai thì nói thế nào? Thôi, làm con trâu
vui vậy. Nhưng nói thế chớ các Ngài có làm trâu đâu, chỉ cốt để phá cái chấp
phàm Thánh của chúng ta thôi. Bọt tan về biển, chớ hỏi về đâu? Vừa khởi nghĩ hỏi
là đã sai rồi. Nếu còn có chỗ về tức là còn hòn bọt, bởi vì bọt mới trôi giạt
Đông Tây, chứ khi bọt tan đồng với biển cả thì ai thấy được chỗ về? Nếu thực
tình chúng ta đã gột sạch bản ngã, dứt được tâm phàm Thánh thì có lo gì, chỉ
ngại chúng ta không dứt được mà thôi. Chẳng những Thiền sư nói bọt tan về biển
mà chính đức Phật đã từng giải thích về điều này: Có một vị Tỳ Kheo chứng
A-La-Hán, khi vị này tịch, một Tỳ Kheo khác hỏi Phật:
-Bạch
Thế-Tôn, vị Tỳ Kheo này sau khi tịch sẽ đi về đâu?
Phật đáp:
-Vị
này sau khi tịch chẳng khác nào như củi hết lửa tắt.
Thật đơn giản. Chính chỗ củi hết
lửa tắt này khiến lắm người không hiểu và đâm hoảng, nghĩ rằng đến đây rồi chẳng
còn gì nữa. Thật sự, ở đây củi là dụ cho nghiệp, lửa dụ cho sanh tử.Nếu nghiệp đã
hết thì sanh tử đâu còn. Bậc đã chứng A-La-Hán, dứt sạch nghiệp thì đâu còn
sanh tử, đó là giải thoát, nên nói: như củi hết lửa tắt. Chính đức Phật khi còn
tại thế có người đặt câu hỏi: “Bạch Thế-Tôn, sau khi tịch rồi, Ngài còn hay
không còn?”. Phật không đáp mà gác qua một bên cho rằng câu hỏi vô lý. Tại sao
vô lý? Vì theo quan niệm của thế gian thì hoặc là có hoặc là không. Nếu có thì
phải có hình tướng, nếu không thì là không ngơ. Cho nên Phật không đáp còn hay
không, vì nếu đáp còn thì người ta sẽ nghĩ đến hình tướng thế nay thế nọ, mà
Phật là đấng đã giác ngộ thoát khỏi vòng luân hồi sanh diệt thì đâu có hình
tướng. Còn nếu đáp không, thì họ sẽ tưởng là không ngơ, cả hai đều là bịnh,
bịnh chấp “thường”, chấp “đoạn” chúng sanh luôn thấy có hai, còn bậc giác ngộ
thì không còn thấy có hai nữa. Đối với hàng Thánh giả mà hỏi sau khi tịch đi về
đâu là điều vô lý. Vì một khi thể nhập pháp thân rồi thì tràn đầy pháp giới, tùy
duyên ứng hóa, đâu hạn cuộc chỗ nơi nào, không thấy đi cũng không thấy có chỗ
để đi, đây mới thật là giải thoát. Chỉ những người còn lẩn quẩn trong vòng sanh
tử, thì Phật mới thọ ký cho họ sau khi chết sẽ về chỗ nào đó trong lục đạo, tùy
theo nghiệp của mỗi người. Nếu còn chỗ đi ấy là còn luân hồi. Nay quí vị hỏi:
Tu Thiền chết đi về đâu? Nếu tôi nói chết đi về đâu tức tôi chỉ quí vị luân
hồi. Mà ở đây tôi muốn quí vị làm sao thể nhập được pháp thân, tùy duyên ứng
hóa. Điểm thiết yếu của người tu là cốt được vô sanh, vô sanh tức nhập Niết-bàn.
Niết-bàn thì không có hình tướng, nhưng đừng nghĩ là nó không ngơ, nói không
ngơ là rơi vào đoạn mà nói có tướng tức lạc vào thường. Cả hai đều là bịnh. Chỉ
có người thể hội được mới rõ, chứ không thể giải thích theo lối chấp hai của
thế gian mà hiểu được.
Ở đây tôi giải thích thêm một
điểm ngờ vực nữa của người thế gian. Người thế gian cho rằng mọi người đều
riêng có một linh hồn là cái tính linh khôn ngoan sáng suốt, mà đã khôn ngoan
thì sao lại chịu vào nơi khổ? Ai cũng nghĩ rằng sau khi chết linh hồn mình sẽ
sinh ra làm người nữa và chấp chặt cho linh hồn đó là mình. Đạo Phật thì gọi đó
là tâm thức. Cái tâm thức này tùy theo chỗ huân tập thiện ác mà đến, chứ không
cố định. Vì không cố định nên nó không phải là cái khôn ngoan biết lựa chọn, mà
chỉ tùy nghiệp mà thôi. Tâm thức khác linh hồn ở chỗ đó. Nếu nói chúng ta có
linh hồn thì sẽ tưởng như đó là một tinh thần duy nhất, nếu là duy nhất cố định
thì thiện ác, mãi mãi không thay đổi. Nhưng, tâm thức chúng ta luôn luôn biến
chuyển, gần người lành thì hấp thụ điều lành, gần kẻ ác thì hấp thụ điều ác.
Như vậy, tâm thức là một dòng thiện ác, sinh diệt, chính dòng thiện ác đó sẽ
đưa chúng ta đến chỗ lành hay dữ, nghiệp nào nặng sẽ lôi mình trước, đó là ý
nghĩa “trọng xứ thiên trụy”.
Tóm lại, Tổ chỉ cho chúng ta
thấy người tu nếu không tu đến nơi đến chốn, mà một bề chạy theo danh lợi, khi
lâm chung thần thức vừa ra khỏi thân liền bị nghiệp lôi, nghiệp nào nặng thì sẽ
lôi mình trước. Nếu thiện mạnh thì sẽ lôi mình đến chỗ lành, nhưng hưởng phước
lành hết thì sẽ rơi vào chỗ dữ. Nếu ác mạnh sẽ lôi đến chỗ dữ trước, trả hết
nghiệp ác rồi mới tới chỗ lành, đấy là tuần tự mà trả nợ, nhưng tùy chủ nợ mạnh
yếu mà lôi kéo chúng ta đến trước hay sau. Đây là chỗ chúng ta cần lưu ý.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment