Pages

14 January 2018

THOÁT VÒNG SỐNG CHẾT - PHẦN 3



Nghiệp duyên của người chết nếu sẽ sanh vào Địa-ngục thì bấy giờ họ bỗng nghe có những khúc ca hết sức bi ai buồn bã. Nếu họ đi tìm vào trong cảnh ấy, thì thân không được tự do, hoặc bị xua đuổi mà không có cách gì ngăn cản được. Trong hoàn cảnh ấy (Địa-ngục) mịt mù tối tăm, nhà cửa hoặc đen hoặc trắng...




SINH VÀO CẢNH TỘI ÁC

Người chết thường vì nghiệp duyên nên gặp phải rất nhiều cảnh tượng nguy hiểm như: tối tăm, bão táp, sấm sét, sương mù v.v... Bấy giờ vì khiếp sợ quá đỗi nên phải tìm phương trốn tránh, ruồng bỏ thân mạng mà tuôn chạy, rồi lại thấy ở trước mắt mình nào là núi, đèo, hang hố, cây cối và bụi rừng...
Cũng vì muốn vội vàng tránh thoát cho mau, nên họ không rảnh rang, không đủ thì giờ để lựa chọn, chỉ biết đã núp vào một chỗ nào thì không muốn ra khỏi chỗ ấy nữa. Vì họ sợ rằng nếu ra khỏi chỗ ấy tức là họ bị khổ trở lại. Chỉ vì lánh nạn nên không muốn ra, nên rốt cuộc họ không ngờ rằng mình đã trở lại thọ cái thân hèn hạ và chịu rất nhiều đau khổ.
Bây giờ tôi xin lược thuật cái tình trạng của người chết khi đã trở vào trong cảnh tội ác như sau:
Nếu thần thức của kẻ chết nếu sắp sanh vào cảnh giới A-tu-la, thì họ sẽ thấy: có những vườn cây khả ái và những vầng lửa lăn lộn chuyển xoay. Nếu thấy những cảnh tượng ấy mà sanh lòng vui vẻ đi đến đó, tức là người chết đầu thai vào chủng loại A-tu-la.
Nếu nghiệp duyên của kẻ chết sắp sanh vào cảnh giới Súc-sanh, thì họ sẽ thấy có những núi rừng, hang hố, hoặc có những vực sâu hiện ra trước mắt. Nếu người chết muốn đi vào cảnh ấy, tức là họ phải đầu thai vào chủng loại Súc-sanh.
Nếu nghiệp duyên của kẻ chết sắp sanh vào cảnh giới Ngạ-quỷ, thì họ sẽ thấy có một bãi sa mạc không cây cối, hoặc có những hang hố, cỏ cây đều khô héo... đấy là cảnh tượng của Ngạ-quỷ. Nếu ai sanh vào trong đó, thì thường bị đói khát khổ sở.
Chủng loại của Quỷ có rất nhiều, ta không thể kể xiết được. Nhưng đại khái ta có thể chia làm hai loại là: Quỷ có oai đức và Quỷ không có oai đức.
Quỷ có oai đức cũng gọi là Quỷ có thế lực: vì chúng đã có thần thông lại giàu của cải. Tuy ở trong loài Quỷ nhưng không chúng bị sự đói khát. Như Quỷ Dạ-xoa, Quỷ Cưu-bàn-trà chẳng hạn.
Loài Quỷ không có oai đức thì đại khái chia làm ba loại:
a/ Loại đói ít, như Quỷ Hy-tự (mong được thờ cúng), Quỷ Hy-khi (mong được đồ vất bỏ).
b/ Loại đói nhiều, như Quỷ Châm-mao (lông như kim), Quỷ Xú-mao (lông hôi thối), Quỷ Đại-anh (thân đầy lở lói).
c/ Loại hoàn toàn đói như Quỷ Cự-khẩu (miệng phun lửa), Quỷ Châm-yết (cổ như lỗ kim), Quỷ Xú-khẩu (miệng hôi thối). 

Đến như loài Quỷ có oai đức, vì đời trước họ có làm việc bố thí cho nên khi chết cảm được đón rước long trọng và hưởng thọ được nhiều cảnh vui. Như khi sống ở đời được làm quan tước, thường hay áp bức nhân dân, trị dân không đúng phép, nhưng biết đem của cải mà bố thí, người ấy chết rồi đọa vào loài quỷ và làm Quỷ Cưu-bàn-trà. Loài Quỷ nầy có thể tự tạo nên cảnh giới ngũ trần vui sướng để hưởng thọ. Còn những kẻ tính tình hay oán hận, say đắm theo rượu thịt, nhưng lúc còn sống hay làm việc bố thí, người ấy sau khi chết rồi đọa vào loài Quỷ Địa-hành dạ-xoa (chân đi sát đất), thường được thưởng thức những âm nhạc vui vẻ và được ăn uống. Như trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ đã nói rõ, ở đây tôi không thể chép hết được. 

Nghiệp duyên của người chết nếu sẽ sanh vào Địa-ngục thì bấy giờ họ bỗng nghe có những khúc ca hết sức bi ai buồn bã. Nếu họ đi tìm vào trong cảnh ấy, thì thân không được tự do, hoặc bị xua đuổi mà không có cách gì ngăn cản được. Trong hoàn cảnh ấy (Địa-ngục) mịt mù tối tăm, nhà cửa hoặc đen hoặc trắng. Dưới đất thì có hang hố sâu thẳm, đường xá mịt mờ quanh co. Tội nhân hoặc là bị lửa hồng nung đốt, hoặc bị giá lạnh ngâm thân; có vô số điều khổ sở. Ai đã chịu khổ ở trong hoàn cảnh ấy cũng phải trải qua cũng nhiều kiếp nhiều đời, chẳng biết đến bao giờ được ra khỏi.
Nếu nghiệp duyên của người chết sẽ đọa vào Địa-ngục Đại-nhiệt, thì họ cảm thấy trong thân mình như bị luồng gió lạnh lùng áp bức. Đồng thời họ lại thấy có những ngọn lửa bồng bột của Địa-ngục Đại-nhiệt bốc lên, vì ưa sự ấm áp nên vội đi vào trong đó. Nếu kẻ chết sẽ đọa vào Địa-ngục Đại-hàn, thì họ cảm thấy trong thân mình như bị chạm phải luồng gió nóng, hoặc bị lửa hồng nung đốt. Thế nên khi hơi mát trong Địa-ngục Đại-hàn bốc lên, thì họ lại cảm thấy sảng khoái dễ chịu. Vì ưa mát mẻ nên vội vàng đi vào trong cảnh ấy, tức là họ sẽ bị bó buộc mãi, không thể nào tránh thoát được nữa.
Lại nữa, nếu lúc đang sống còn, mỗi khi gây nghiệp, thường có bạn bè giúp đỡ, thì khi lâm chung sẽ thấy bạn bè đồng nghiệp với mình ngày trước hiện ra trước mắt. Bấy giờ vì xúc động đến sự hứng thú của ngày xưa nên vội vàng chạy đến trong cảnh đó. Nhưng khi họ đến rồi thì cảnh ấy hoàn toàn thay đổi và phải chịu mọi điều đau khổ.
"Trong khi thấy những cảnh tượng như trên, ngươi phải tự giữ vững tâm trí, chớ nên vội vàng đi đến đó. Ngươi cần phải nên chăm lòng cung kính Đức Phật A Di Đà bên thế giới Cực Lạc để cầu Ngài đến cứu độ cho mình là hơn".
Thiện hữu phải nên theo như trên mà chỉ giáo bảy phen, để cho họ được vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Bởi vì thân Trung ấm có được một đặc tính ghi nhớ phi thường, so với lúc sống còn có thể mạnh hơn gấp mười. Tuy khi đang sống còn chỉ là tầm thường ngu độn, nhưng khi đi vào trong giai đoạn Trung ấm thì nhờ nghiệp duyên mà có cái sáng suốt phi thường. Cho nên Thiện hữu hãy nên theo đúng như những lời trên mà chỉ giáo, quyết định sẽ có công hiệu bất ngờ. Đôi khi, hoặc thời họ chưa có đủ tín, nguyện để xu hướng về thế giới Cực Lạc, song nhờ ở sức cố gắng niệm Phật, cũng có thể cải tạo được nghiệp duyên mà được sanh lên cõi Người hay cõi Trời (Nhân đạo hay Thiên đạo). Cho nên công đức niệm Phật là chắc chắn quyết không luống uổng.

SINH VÀO LOÀI SÚC SINH

Nghiệp duyên của kẻ chết nếu sẽ sanh vào Bàng-sanh (Súc-sinh) thì đại khái có thể chia ra bốn loài là: Thai, noãn, thấp và hóa.
1. Thai sinh và noãn sinh.
Nếu người nào lòng xan tham và tật đố nặng nề, thì sẽ đầu thai làm thân các loài như chó đói (thuộc thai sinh) chẳng hạn. Còn ai có lòng sân hận quá nặng, thì sẽ phải đọa làm các loài rắn rít, bò cạp (trong các loài này hoặc thai sinh hoặc noãn sinh không nhất định)... Còn người nào lòng dâm dục nặng nề, thì sẽ đọa làm các loài như uyên ương, chim tước, chim các (vì những loài này dục tình rất nặng)... Còn người nào tính tình hay ưa chơi bời lung lạc, thì sẽ đọa làm các loài như vượn, khỉ (thuộc thai sinh) v.v...
Tóm lại, cội gốc của các tội lỗi đều là do lòng ngu si của ta mà gây tạo cả.
Lại nữa, đôi khi những chỗ mà mình sẽ được thọ sanh bất ngờ thấy có những loài chúng sinh đồng loại rất vừa ý, cho nên vội vàng chạy đến chỗ ấy. Trong các loài này tuy cũng nương theo nhơn duyên hòa hợp mà thành, do sự bất hòa hợp của cha mẹ mà đầu thai, nhưng những điều kiện câu thúc thì được giản dị hơn Nhân loại cho nên người chết thường rất dễ đọa vào các loài này.

2. Thấp sinh. 

Trong loài thấp sinh (là nương vào chỗ ẩm thấp mà tạo được sanh thân) thì có khi vì ngửi được hương vị của chỗ mình sắp đến thọ sanh mà sanh lòng ưa đắm, rồi vội vàng liền đến nương vào đó để thọ sanh. (Đại khái như chỗ ẩm thấp, bùn lầy nhơ nhớp, chúng lấy các vật đó làm tự thể. Trong đó không có tinh huyết của cha mẹ hòa hợp). Hoặc đi đến nương vào chỗ ẩm thấp để thọ sanh hoặc là bám vào vật gì mục nát, hoặc đồ phân bón v.v... Tất cả đều tùy theo nghiệp duyên của chúng mà đến gần gũi để thọ sanh.
3. Hóa sinh.
Chẳng hạn như loài Rồng và loài chim Kim-sí, cũng là gốc trong bốn loài: thai, noãn, thấp, hóa mà ra; nhưng chúng là loài hóa sinh đặc biệt, nên hưởng thọ của chúng cũng sung sướng như các cõi Trời.
Nếu thân Trung ấm mà được thọ sanh trong loài này, thì sẽ được cảm thọ cảnh giới sung sướng, đồng như cõi trời không khác. Nhưng các loài này còn thuộc về Súc-sanh, chúng là một trong ba thứ ác đạo. Cũng vẫn chưa tránh khỏi sanh tử luân hồi và chịu nhiều sự khổ não khác.

ĐIỀU KIỆN CĂN BẢN

Cứ như trong Mật giáo (các kinh điển về Mật tông) để nói, thì thành tựu Bồ-đề có thể chia ra ba bực:
A- Thượng căn: Hạng này cao nhất, có thể thành Phật rất mau chóng.
B- Trung căn: Hạng này hơi kém, sau khi chết rồi mới được siêu thăng giải thoát.
C- Hạ căn: Hạng này quá thấp thỏi, chết rồi họ phải đi vào giai đoạn Trung ấm mới được thành tựu. Như vậy, nếu thân thuộc biết vì họ mà làm mọi việc công đức, thì chắc chắn có nhiều công hiệu, nhưng phải lấy niệm Phật làm phần chủ chốt. Bởi vì thân Trung ấm có đủ thần thông hữu lậu, cho nên sau khi đã trải qua nhiều cảnh tượng hãi hùng hăm dọa, áp bức; lòng họ sẽ tự nghĩ rằng: "Có những pháp lành gì để cứu ta được ra khỏi?". Bởi thế, nếu lúc đó mà có ai chỉ bảo cho họ niệm Phật để cầu siêu thăng giải thoát, thì họ sẽ hết lòng vâng lãnh vui thích ưa nghe, và sẽ được hiệu quả không thể tưởng tượng.
Muốn có kết quả tốt, ta cần phải giữ đúng ba điều kiện như sau:
1-Trai giới.
Tronh gia đình ai nấy đều phải nhất luật giữ trọn trai giới. Dù có khách khứa ta cũng không nên thiết đãi rượu thịt; Ngoài ra các thứ ô uế khác, ai nấy đều phải dè dặt, giữ gìn cẩn thận.

2- Thành khẩn.

Đối với người chết ta phải hết lòng thành kính, nghĩ nhớ để cầu sự cảm thông. Ta không nên chuộng trang sức bề ngoài mà thôi, và cũng không nên giao phó công việc ấy cho kẻ khác làm. Theo như trong bộ bút ký của ông Trường Khanh đời Tống có chép: "Ở Thông Châu có ông Tư Mã Dưỡng Khiêm, đã từng vì vong phu nhân (tức người vợ chính đã chết) mà làm rất nhiều Phật sự. Nhưng vài năm sau người tiểu thiếp của ông, một hôm bỗng chết, cách một đêm mới tỉnh lại, mà than khóc bảo với Tư Mã rằng: "Thiếp chết đi vào nơi Âm phủ, thấy vong phu nhân bị giam cầm trong một ngục tối". Phu nhân có nói với thiếp rằng: "Ở đây khổ sở lắm không thể nói được. Vậy xin gấp gấp vì tôi mà làm việc công đức để cứu độ". Thiếp hỏi: "Vậy sau khi phu nhân đã chết rồi, Tướng công đã từng vì phu nhân làm nhiều Phật sự, đều là vô ích cả sao?". Phu nhân đáp: "Đúng thế. Bở vì việc tụng Kinh bái Sám thì phải chọn những nhà Sư hữu đạo, gia chủ phải trai giới chí thành thì mới mong có thể diệt tội thêm phước được. Nhưng đây thì ngược lại, trước kia thầy Sa-môn tụng kinh ở nhà trên, mà Tướng công thì lại đánh cờ ở nhà dưới, thử hỏi như vậy thì có lợi ích gì?". Tư Mã nghe nói cảm động cũng khóc òa lên. Và sau đó mới chọn những danh Sư có giới đức, sửa sang rất chỉnh đốn, và làm một đạo tràng luôn ba đêm ngày".
Đấy là những việc mà Trường Khanh đã được mục kích. Mà cũng là điều của những kẻ con hiền cháu thảo phải nên biết rõ vậy.

3- Tuyển trạch.
 
Còn về vấn đề Pháp sư, ta phải chọn những bậc đạo hạnh chơn chính mà cầu thỉnh, ngoài ra những hạng phóng đãng phá giới hoặc chỉ biết nhìn đến tài lợi mà thôi, thì đều không nên cầu thỉnh họ làm gì.
Những hạng Pháp sư đối với Giới luật đạo hạnh còn thiếu phạm, hoặc thất tín, hoặc hoài nghi không đứng đắn và ngông cuồng... Vì thân Trung ấm có đủ thần thông nên họ biết đó là lừa gạt họ, thế là họ sẽ thất vọng mà sanh ra hối hận. Vì hối hận nên họ sanh ra tức giận rồi phải đọa vào cảnh khổ. Cho nên Thiện hữu phải dùng những lời như sau đây mà chỉ giáo:
"Ngươi nên biết rằng thân thể của bậc Tăng-già tên... tức là thân của Phật. Ngươi phải khởi ý tưởng rằng chỉ nương theo đạo pháp chứ không nương theo người. Mặc dù người tác pháp đó có lầm lỗi thế nào, cũng là do cái lỗi của ý thức nơi ta chưa được trong sạch đó thôi. Tỷ như người soi gương kia, vì mặt mình không sạch, nên cái bóng trong gương cũng nhơ bẩn. Vậy thì nên hiểu rằng: Sở dĩ khi tác pháp có sai lầm, đều do tâm niệm của ngươi chưa trong sạch vậy. Ngươi nên khởi tưởng như thế và phải hết lòng cung kính ái mộ vị Pháp sư kia , chắc chắn một việc làm phước gì cũng đều biến thành Phật sự thanh tịnh, và vẫn không mất phần ích lợi của chính mình".
Trong gia quyến nếu muốn rước Pháp sư để làm Phật sự, thì nên đối trước bàn linh mà chỉ giáo bảy phen như thế. Về sau, thì dù trong khi làm Phật sự có đôi chút sai lầm, cũng vẫn được lợi ích như thường.


VÃNG SANH TỊNH ĐỘ

Những người đã từng tu tập theo nghiệp nhân thanh Tịnh, thì khi lâm chung họ liền đi đến chỗ họ muốn đến, nghĩa là vãng sanh Tịnh độ. Họ không còn phải trải qua những cảnh giới như trước đã nói. Nhưng trong khoảng 49 ngày, nếu ta biết vì họ mà niệm Phật giúp, thì cũng có thể làm tăng thêm phẩm vị không đến nỗi uổng công.
Vấn đề vãng sanh Tịnh độ, ta nên hiểu rằng Tịnh độ trong mười phương đều đáng cho ta cầu vãng sanh. Nhưng chỉ có thế giới Cực Lạc là có cơ duyên đặc biệt với chúng sanh, cho nên xưa nay số người được vãng sanh về cõi ấy ta không thể kể xiết được.
Trong khi sắp được vãng sanh, thì người chết sẽ cảm thấy có nhiều cảnh tượng. Nay, nương theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà chia làm chín phẩm, để thuật lại như sau:

A- Thượng phẩm thượng sanh. 

Lên đến cấp nầy, người chết sẽ cảm thấy có Tam thánh là Di Đà, Quán Âm, và Thế Chí. Lại có vô số vị hóa Phật, trăm ngàn đại chúng Tỳ-kheo và vô số chư Thiên cùng cung điện thất bảo hiện ra trước mắt, dùng đài Kim-cang điện đem đến để tiếp rước. Khi đó, họ liền sanh về Cực Lạc, được nghe Phật thuyết pháp, chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Sau đó, tùy theo ý mình mà đi khắp mười phương Phật độ và theo thứ tự lần lượt được Chư Phật thọ ký.
B- Thượng phẩm trung sanh.
Đến cấp bực nầy, người chết cũng cảm thấy có Tam thánh và vô số đại chúng làm quyến thuộc đoanh vây, dùng đài Tử-kim đến đón rước họ.
Thấy rồi họ liền được sanh về trong hồ Thất bảo bên cõi ấy; trải qua một đêm thì hoa mới nở và mới được thấy Phật.

C- Thượng phẩm hạ sanh. 

Ở cấp bực nầy, người chết cũng cảm thấy có Tam thánh và các vị Bồ-tát, tay nắm hoa sen vàng chung cùng với các vị hóa Phật đi đến đón rước họ. Thấy rồi họ liền được sanh về trong hồ Thất bảo bên cõi kia; trải qua một ngày đêm hoa sen mới nở và phải trải qua thời hạn bảy ngày mới được thấy Phật.
D- Trung phẩm thượng sanh.
Về cấp bực nầy, người chết cũng được cảm thấy có Phật A Di Đà và các vị Tỳ-kheo đoanh vây phóng ra hào quang sắc vàng, hiện ra trước mặt người đó để tỏ lời khen ngợi. Người ấy sẽ ngồi trên đài Liên-hoa mà sanh về nước Cực Lạc. Đến rồi hoa sen liền nở, họ được nghe Pháp âm nhiệm mầu, chứng được quả vị A-la-hán (A-la-hán là một địa vị Thánh nhân không còn luân hồi trong sanh tử - Bất sanh).

E- Trung phẩm trung sanh. 

Ở bực nầy, người chết cũng thấy có Phật A Di Đà cùng đi với đại chúng, phóng ra hào quang sắc vàng, tay nắm hoa sen Thất bảo đi đến đón rước họ. Người chết thấy rồi liền sanh về trong hồ Thất bảo bên cõi ấy; trải qua bảy ngày hoa sen mới nở, khi đó họ khen ngợi Đức Di Đà Thế Tôn, nghe Pháp sanh lòng vui vẻ và chứng được đạo quả Tu-đà-hoàn (Tu-đà-hoàn là một bực tu hành đã được dự vào đã được vào hạng Thánh - Nhập lưu).

G- Trung phẩm hạ sanh.

Người ở cấp bực nầy, do căn cơ của hạng này rất kém, chỉ nhờ nghe lời Thiện tri thức chỉ giáo, mà vui vẻ tin và thực hành. Cho nên khi lâm chung họ chỉ nhờ nguyện lực mà thôi, chứ không thấy được một thứ cảnh tượng gì. Nhưng khi đã sanh về cõi ấy rồi, trải qua bảy ngày họ mới được gặp hai vị Bồ-tát là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, được nghe Pháp âm, rồi cũng chứng được đạo quả Tu-đà-hoàn.

H- Hạ phẩm thượng sanh. 

Về cấp bực nầy, người chết cảm thấy được hóa thân của Phật, và hóa thân của Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến rước mà thôi. Nhưng họ cũng được nương trên hoa sen Thất bảo, đi theo hóa thân mà sanh về trong hồ Thất bảo bên cõi ấy. Trải qua 49 ngày, hoa sen mới nở và được hai vị Bồ-tát ấy thuyết Pháp cho nghe. (Hóa thân tức là hình ảnh hóa hiện của Đức Phật; Đấy là một trong ba thứ thân thể của Phật).
I- Hạ phẩm trung sanh.
Người sanh vào cấp bực nầy, thì trước hết thấy có lửa dữ của Địa-ngục bốc lên, sau lại bỗng hóa thành luồng gió mát để nâng đưa Liên-hoa. Trên hoa ấy có hóa Phật và Bồ tát đi đến đón rước người ấy. Khi đã sanh về trong hồ Thất bảo bên cõi ấy rồi, phải trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở, mới thấy hai vị Bồ-tát nói Pháp cho nghe để giáo hóa. (Kiếp, nói cho đủ là kiếp-ba; 6 kiếp tức là 6 thời gian dài).

K- Hạ phẩm hạ sanh 

Ai sanh vào cấp bực nầy, thì sẽ thấy có hoa vàng như vầng mặt nhật hiện ra trước mắt, tức thì họ liền được vãng sanh. Sau khi Sanh rồi phải ở trong hoa sen 12 kiếp, bấy giờ hoa mới nở và được nghe hai vị Bồ-tát thuyết Pháp cho nghe.
Ba hạng vừa nói trên đây (trong phạm vi hạ phẩm) đều có Thiện hữu chỉ giáo mà phát tâm niệm Phật, rồi tự mình biết sám hối tội lỗi mà cảm được vậy.
Tóm lại, như trên là tùy theo trình độ và năng lực tu hành của Đức Phật mà chia ra có chín phẩm cao thấp không đồng. Nhưng khi đã được sanh về Tịnh độ, chúng ta đều được thoát khỏi sanh tử luân hồi và hoặc chậm hoặc mau đều thành Phật quả vậy.



(còn tiếp)

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites